Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận môn học Nợ Nước Ngoài : TỔNG QUAN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.35 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI 1
1.1.2. Sự hình thành nợ nước ngoài 1
1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài 2
1.1.4. Phân loại nợ nước ngoài 3
1.1.5. Tác động của nợ nước ngoài 4
PHẦN 2: NGUYÊN NHÂN THỜI GIAN QUA VIỆN TRỢ CHƯA HẲN ĐƯỢC ƯU TIÊN
CHO NHỮNG NƯỚC CÓ TRÌNH ĐỘ QUẢN LÝ TỐT 13
2.1. Một số khái niệm 13
2.2. Tại sao thời gian qua, viện trợ chưa hẳn được ưu tiên cho những nước có trình độ quản lý tốt 14
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI
1.1. Nợ nước ngoài
1.1.1. Khái niệm
Nợ nước ngoài của một quốc gia tại một thời điểm nhất định là số dư thực tế (không
phải bất thường) của khoản vay mà người không cư trú cấp cho người cư trú và yêu cầu
phải hoàn trả gốc và/hoặc lãi vào một thời điểm trong tương lai.
Và theo định nghĩa của IMF thì nợ nước ngoài chính là khoản nợ của người cư trú đối
với người không cư trú.
1.1.2. Sự hình thành nợ nước ngoài
1.1.2.1. Đối với những nước kém phát triển:
Các nước kém phát triển vay nợ nước ngoài nhằm phục vụ một số mục đích nhất định:
1
- Nhu cầu vay để tiêu dùng
- Nhu cầu để đầu tư công nghiệp, vốn để phát triển
- Do khả năng quản lý của các nước kém phát triển còn thấp nên có 2 sự lựa chọn: thứ
nhất là phát hành tiền, tuy nhiên, cách này không được phổ biến do có thể gây ra lạm phát
và ảnh hưởng tới nền kinh tế của quốc gia đó; thứ hai là đi vay nước ngoài
- Do những thảm họa như song thần, lũ lụt … thì nguồn vay nợ nước ngoài sẽ giúp các
nước này khắc phục được những hậu quả trước mắt
1.1.2.2 Đối với các nước phát triển


Không chỉ có nước kém phát triển mới phải vay nợ nước ngoài, mà các nước phát triển
cũng đi vay nợ nước ngoài. Chúng ta có thể kể đển Mỹ là một nước phát triển ở trình độ
bậc nhất trên thể giới, là nước xuất khẩu vốn số 1 thế giới, tuy nhiên, Mỹ cũng là một con
nợ lớn của thế giới.
Các nước này thường vay nợ nước ngoài là để:
- Khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên
- Định hướng chính sách phát triển
1.1.2.3 Mối quan hệ lợi ích giữa các nước
- Nước kém phát triển có thu nhập thấp, nguồn vốn khan hiếm nhưng tồn tại nhiều cơ hội
đầu tư trong nước, có tiềm năng thu lợi nhuận cao. Ngoài ra, do tỷ lệ vốn so với nhân
công thấp làm cho hiệu quả tư bản sẽ cao
- Các nước phát triển có thu nhập cao, thị trường vốn phát triển, trong khi đó tỷ lệ vốn so
với nhân công lại quá cao làm cho hiệu quả biên của tư bản thấp, dẫn đến hạn chế các cơ
cấu đầu tư trong nước có khả năng sinh lời cao.
- Thấy được lợi ích từ việc đầu tư cho vay nợ, các nước phát triển tăng dần khoản nợ cho
các nước kém phát triển vì họ cho rằng có thể được tận dụng được nguồn nguyên liệu từ
các nước kém phát triển để hỗ trợ tái thiết và tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển.
1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài
Tổng nợ nước ngoài so với GDP
Tổng nợ nước ngoài so với tổng kim ngạch xuất khẩu
Trả nợ hàng năm
+ Phải trả hàng năm với nguồn thu xuất khẩu
+ Tổng nợ phải trả hàng năm với GDP
2
Nghĩa vụ trả lãi hàng năm so với kim ngạch xuất khẩu
1.1.4. Phân loại nợ nước ngoài
• Phân loại theo chủ thể đi vay:
+ Nợ nước ngoài của khu vực công
+ Nợ nước ngoài của khu vực tư nhân
• Phân loại theo loại hình vay

+ Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
+ Vay thương mại
+ Phát hành trái phiếu
• Theo thời gian: Vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
• Các mức độ nợ nước ngoài
+ MIMICs: Các nước thu nhập trung bình mắc nợ vừa phải
+ SIMICs: Các nước thu nhập trung bình mắc nợ nghiêm trọng
+ MILICs: Các nước thu nhập thấp mắc nợ vừa phải
+ SILICs: Các nước thu nhập thấp mắc nợ nghiêm trọng
Tuy nhiên sự quan tâm chủ yếu là MILICs và SILICs
3
1.1.5. Tác động của nợ nước ngoài
Bên cạnh những lợi ích hiển nhiên to lớn của nợ nước ngoài như bổ sung vốn đầu tư
và gia tăng nguồn động lực mới, tích cực và mạnh mẽ hơn cho phát triển của đất nước, cải
thiện cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế, công nghệ, thị trường, đội ngũ lao động và
quản lý… vẫn cần tỉnh táo nhận diện những tác động mặt trái của chúng để có các giải
pháp thích ứng.
Dù là nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA) có điều kiện ưu đãi cao nhất, cho đến các
khoản vốn vay thương mại thông thường trên thị trường tài chính quốc tế thì nghĩa vụ nợ
(bao gồm trả lãi và nợ gốc) cũng luôn luôn đặt ra cho người vay. Một cơ cấu nợ mà chiếm
tỷ trọng lớn nhất là những khoản vay thương mại “nóng”, lãi cao, và bằng những ngoại tệ
không ổn định theo xu hướng “đắt” lên sẽ chứa đựng những xung lực lạm phát mạnh.
Những xung lực này càng mạnh hơn nếu vốn vay không được quản lý tốt và sử dụng có
hiệu quả, buộc con nợ phải tiếp tục tìm kiếm các khoản vay mới, với những điều kiện có
thể ngặt nghèo hơn - chiếc bẫy nợ sập lại, con nợ rơi vào vòng xoáy mới: Nợ - vay nợ
mới - tăng nợ - tăng vay… Vòng xoáy này sẽ dẫn con nợ đến sự vỡ nợ hoặc vòng xoáy
lạm phát: Nợ - tăng nghĩa vụ nợ - tăng thâm hụt ngân sách - tăng lạm phát. Lúc này dịch
vụ nợ sẽ ngốn hết những khoản chi ngân sách cho phát triển và ổn định xã hội, làm căng
thẳng thêm trạng thái khát vốn và hỗn loạn xã hội. Hơn nữa, việc “thắt lưng buộc bụng”
trả nợ khiến nước nợ phải hạn chế nhập và tăng xuất, trong đó có hàng tiêu dùng mà trong

nước còn thiếu hụt, do đó làm tăng mất cân đối hàng tiền, tăng giá, tăng lạm phát.
Nợ nước ngoài có thể làm sụp đổ cả một chính phủ, nhất là ở những nơi tình trạng
tham nhũng và vô trách nhiệm là phổ biến của giới cầm quyền, đi kèm với việc thiếu
những giải pháp xử lý mềm dẻo khôn ngoan với nợ (đàm phán gia hạn nợ, đổi nợ thành
đầu tư, đổi cơ cấu và điều kiện nợ, xin xoá nợ từng phần…). Do vậy, sự chủ động và tỉnh
táo khống chế nợ ở mức độ an toàn, theo những dự án đầu tư cụ thể, được luận chứng
kinh tế - kỹ thuật đầy đủ, và chấp nhận sự kiểm tra, giám sát của chủ nợ để tránh hao hụt
do tham nhũng hay sử dụng nợ sai mục đích là những nguyên tắc hàng đầu cần được tuân
thủ trong quá trình vay nợ nước ngoài.
1.2. Quản lý nợ nước ngoài
1.2.1. Khái niệm
Theo nghĩa hẹp, quản lý nợ bao hàm việc khống chế mức gia tăng nợ trong quan hệ tỷ lệ
với năng lực tăng trưởng GDP và tăng trưởng xuất khẩu của đất nước, hay nói cách khác,
giữa mức nợ nước ngoài tương ứng với năng lực trả nợ của một nước. Cụ thể hơn là giảm
mức nợ gốc, nợ lãi phải trả cho tương xứng khả năng kinh tế của nước vay nợ và tránh nợ
chồng chất vượt quá mức vay nợ thận trọng của quốc gia, đảm bảo khả năng thanh toán
của quốc gia.
4
Xét theo nghĩa rộng, việc quản lý nợ nước ngoài hàm chứa trong nó hệ thống điều hành vĩ
mô sao cho vốn nước ngoài được sử dụng có hiệu quả và không gia tăng đến mức vượt
quá khả năng thanh toán để không làm tích lũy nợ. Hay nói cách khác, quản lý nợ nước
ngoài là bảo đảm một cơ cấu vốn vay thích hợp với các yêu cầu phát triển của nền kinh tế,
thực hiện phân bố vốn một cách hợp lý và kiểm soát động thái nợ và sự vận hành vốn
vay.
Theo cách hiểu chung của cộng đồng tài chính quốc tế “quản lý nợ nước ngoài là một
phần của công tác quản lý nền kinh tế vĩ mô. Nó bao gồm việc hoạch định, triển khai, duy
trì và từ bỏ các khoản nợ nước ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường kinh tế,
giảm tình trạng đói nghèo và tiếp tục duy trì sự phát triển mà không tạo ra những khó
khăn trong thanh toán”.
Như vậy, quản lý nợ nước ngoài không tách rời khỏi quản lý chính sách vĩ mô, với quản

lý ngân sách Nhà nước, dự trữ quốc tế và cán cân thanh toán. Quản lý nợ nước ngoài hiệu
quả đòi hỏi cả chính sách tốt và thể chế mạnh nhằm điều hành và phối hợp các hoạt động
vay mượn. Quản lý nợ nước ngoài không đơn thuần là vay và trả mà phải là vay và trả sao
cho đảm bảo nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế, duy trì ổn định trong phát triển kinh tế
và tương xứng với khả năng thanh toán của nền kinh tế.
1.2.2. Sự cần thiết của quản lý nợ nước ngoài
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nợ nước ngoài
đóng vai trò tạo sự đột phá cho bước nhảy vọt cũng như tạo cơ sở vững chắc cho việc đạt
mục tiêu tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Tuy nhiên, ngoài những ảnh hưởng
tích cực đối với nền kinh tế như: nợ nước ngoài thường kèm theo những điều kiện, ràng
buộc mang tính chất chính trị và là gánh nặng của người dân trong tương lai. Những ảnh
hưởng tiêu cực này không chỉ xuất phát từ sự phát triển kinh tế mà còn là hậu quả của
việc quản lý và sử dụng các món nợ đó thông qua các chiến lược vay nợ, cơ chế quản
lý…. Vì vậy, việc quản lý nợ nước ngoài có một vai trò hết sức quan trọng và cần thiết
không chỉ đối với các nước đang phát triển mà còn đối với tất cả các quốc gia.
1.2.3. Nội dung quản lý nợ nước ngoài
Quản lý nợ bao gồm khía cạnh kỹ thuật và khía cạnh thể chế. Khía cạnh kỹ thuật tập trung
vào định mức nợ nước ngoài cần thiết và đảm bảo các điều khoản và điều kiện vay mượn
sao cho phù hợp với khả năng trả nợ trong tương lai. Khía cạnh kỹ thuật gồm hai phần
chính: quản lý quy mô, cơ cấu nợ và giám sát, duy trì thông tin nợ. Khía cạnh thể chế liên
quan đến khía cạnh luật pháp, sắp xếp thể chế, chức năng nhiệm vụ mà các cơ quan quản
lý nợ phải đảm nhiệm.
1.2.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả quản lý nợ nước ngoài
5
Điều 5 theo Thông tư số 56/2011/TT-BTC ngày 29/4/2011 có quy định các chỉ tiêu giám
sát nợ nước ngoài bao gồm:
- Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP: phản ánh tương quan giá trị dư nợ nước
ngoài của quốc gia so với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm
31/12 hàng năm.
- Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài (gốc, lãi, phí) của quốc gia hàng năm so với kim ngạch

xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ: phản ánh khả năng hoàn trả nợ nước ngoài từ nguồn thu
xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, qua đó phản ánh tính thanh khoản của nợ nước ngoài và
được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
1.2.3.2. Mục tiêu giám sát quản lý nợ nước ngoài
- Đảm bảo mục tiêu an toàn nợ, duy trì một danh mục nợ hợp lý trong giới hạn an
toàn về nợ, đảm ảo sự bền vững nợ về mặt dài hạn, an ninh tài chính và tiền tệ quốc gia.
- Xác định sớm các rủi ro tiềm ẩn đối với danh mục nợ và những tồn tại liên quan
trong công tác quản lý nợ trong mối tương quan với môi trường kinh tế trong và ngoài
nước.
- Làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách, mục tiêu, định hướng huy động, sử
dụng vốn vay và quản lý nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia trong từng giai đoạn,
phù hợp với các định hướng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước.
- Tăng cường minh bạch tài chính, tăng cường quản lý các nghĩa vụ dự phòng.
- Nâng cao hiệu quả công tác phân tích, dự báo tài chính, góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý và hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ.
1.2.3.3. Nguyên tắc quản lý nợ nước ngoài
Chính phủ thống nhất nguyên tắc quản lý toàn diện nợ nước ngoài của quốc gia, từ việc
huy động, tiếp nhận, phân bổ sử dụng, quản lý, theo dõi và giám sát bằng các công cụ sau:
- Hiệu quả của chương trình, dự án sử dụng vốn vay là tiêu chí quan trọng hàng đầu
trong việc quyết định vay vốn nước ngoài.
- Đảm bảo cân đối giữa vay và khả năng trả nợ, cân đối ngoại tệ và các cân đối vĩ
mô khác của nền kinh tế về dài hạn.
- Việc ký kết các thỏa thuận vay nước ngoài của Chính phủ được thực hiện theo quy
định của pháp luật về ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế. Trường hợp thỏa
thuận với người vay có quy định khác thì thực hiện theo thỏa thuận với người cho vay.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nợ nước ngoài của quốc gia
1.2.4.1. Các nhân tố chủ quan
Nhóm các nhân tố chủ quan tác động đến hiệu quả quản lý nợ bắt nguồn từ chính bản thân
nền kinh tế của quốc gia đi vay.
- Môi trường kinh tế vĩ mô: Môi trường kinh tế vĩ mô thể hiện tốc độ tăng giảm thu

nhập thực tế, tích lũy tiết kiệm của người dân và khả năng đi vay của một quốc gia. Do
vậy, sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô luôn là điều kiện tiên quyết của mọi ý
định và hành vi đầu tư cũng như các hành vi viện trợ và cho vay.
6
- Cơ cấu bộ máy quản lý nợ của một quốc gia: quyết định hiệu quả của công tác
quản lý. Mặt khác chính cơ quan quản lý này còn quyết định chiến lược sử dụng và
triển vọng phát triển kinh tế của đất nước.
- Hệ thống văn bản pháp luật: một hệ thống văn bản pháp luật về quản lý nợ đầy
đủ và chặt chẽ sẽ đảm bảo được hoạt động quản lý có hiệu quả.
1.2.4.2. Các nhân tố khách quan
Hiệu quả của quá trình quản lý nợ không chỉ chịu tác động của các nhân tố chủ quan mà
còn chịu tác động của các nhân tố khách quan như: lãi suất, tỷ giá, cơ cấu vay nợ và viện
trợ đối với nước đi vay.
Rõ ràng việc vay nợ nước ngoài có tầm quan trọng nhất định đến sự phát triển của
các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên một yếu tố có tính quyết định đến việc sử dụng
nợ có hiệu quả hay không chính là chi phí sử dụng nợ. Chi phí sử dụng là cái giá mà một
quốc gia phải trả cho việc sử dụng vốn vay. Cái giá phải trả này ngoài tiền lãi phải trả
định kỳ, quốc gia còn phải trả chi phí môi giới, chi phí phát hành nợ (nếu là phát hành trái
phiếu), hoặc những chi phí vô hình là những ràng buộc của quốc gia cho vay (nếu là nợ
vay ưu đãi). Thêm vào đó là những khoản có thể mất đi do những quan chức Nhà nước có
tật tham ô. Chi phí sử dụng nợ có thể gia tăng do những biến động của kinh tế thế giới
cũng như sự thiếu linh hoạt của cơ quan điều hành vĩ mô trong các chính sách tài chính
tiền tệ; bởi vì xét về vay nợ, thời gian là yếu tố quan trọng dẫn đến gia tăng rủi ro của
khoản vay đó, trong suốt khoảng thời gian đi vay có thể xảy ra những biến cố có lợi hoặc
bất lợi đến các khoản vay, nhất là nợ vay nước ngoài. Những yếu tố đó là rủi ro về tỷ giá
hối đoái, lãi suất thị trường, lạm phát và những rủi ro quốc gia khác.
- Tỷ giá hối đoái
Trong mô hình đầu tư tiết kiệm, tỷ giá hối đoái giữ vai trò quan trọng trong việc
giải thích các biến động trong tài khoản vãng lai. Nếu người ta dự đoán được rằng có sự
sụt giá thực sự của đồng nội tệ thì các hộ gia đình có thể rủ nhau đi mua hàng nhập khẩu

có thể dự trữ được lâu, điều này làm cho mức tiết kiệm có thể giảm đi. Còn nếu đồng nội
tệ tăng giá tạm thời có thể làm đánh giá sai lệch về tỷ suất sinh lời thực của nhà đầu tư.
Tỷ giá hối đoái thực tế còn quyết định cả mức dự trữ vốn mong muốn bằng cách tác
động vào chi phí điều chỉnh, việc định giá tỷgiá quá cao không phù hợp với tỷ lệ lãi suất,
sẽ có ý nghĩa như một trợ cấp đầu tư. Do đó, nếu có sự giảm giá thực tế so với dự tính có
thể làm mức đầu tư tăng lên và ngược lại.
Đối với nợ vay nước ngoài, các khoản đi vay thường được tính bằng ngoại tệ. Đối
với các quốc gia vay nợ, thường các nước chậm phát triển, có đồng tiền yếu, vì thế tại thời
điểm đi vay, mức giá của đồng nội tệ thường cao hơn tại thời điểm trả nợ. Điều này gây
nên một lãi suất thực cao hơn nhiều so với lãi suất danh nghĩa. Việc đầu tư trong nước
bằng nội tệ sau khi chuyển sang ngoại tệ có thểlàm cho tỷ suất sinh lời giảm đi rất nhiều.
7
Vì thế các quốc gia cần phải có một chính sách quản lý tỷ giá rất linh hoạt và cân nhắc kĩ
lưỡng khi vay nợ dài hạn với lãi suất cao. Thực hiện mua bán quyền chọn để bảo hiểm tỷ
giá cũng là một giải pháp tuy nhiên nghiệp vụ này chỉ thực hiện được trong ngắn hạn, do
đó chỉ phù hợp với những khoản vay thương mại cho xuất nhập khẩu.
- Lãi suất thị trường thế giới
Lãi của các khoản vay được xác định dựa trên lãi suất của thị trường thế giới như LIBOR,
SIBOR… Đối với các khoản vay có lãi suất cố định, sự thay đổi của lãi suất thị trường sẽ
làm thay đổi lãi suất thực của khoản đi vay, do đó người đi vay sẽ gặp lúng túng trong
phương án trả nợ của mình. Thông thường nợ vay quốc tế là những hợp đồng vay với lãi
suất thả nổi, lãi suất vay bằng đô la của các nước đang phát triển gắn chặt với lãi suất cho
vay giữa các ngân hàng ở London (LIBOR).
- Rủi ro quốc gia
Rủi ro quốc gia là những biến cố có thể xảy ra đối với quốc gia đó như chính trị, chiến
tranh, tình hình an ninh xã hội… Điều này được lượng hóa thông qua hệ số tín nhiệm của
các quốc gia này. Hiện nay hầu hết các quốc gia đều thành lập cho mình một tổ chức để
xếp hạng rủi ro doanh nghiệp và rủi ro quốc gia. Hai tổ chức lớn nhất và có uy tín nhất về
vấn đề này trên thế giới là Moody’s và Standard & Poor’s. Thang điểm xếp hạng tín
nhiệm của họ được đưa ra như sau:

Bảng 1: Thang điểm xếp hạng tín nhiệm
HẠNG ĐẦU TƯ HẠNG ĐẦU CƠ
Chất lượng
cao
Chất lượng
trung bình
Chất lượng
thấp
Chất lượng rất thấp
S&P AAA AA A BBB BB B CCC CC C D
Moody’s Aaa Aa A Baa Ba B Caa Ca C D
Hạng BB hay Ba vừa mang tính chất đầu tư vừa mang tính chất đầu cơ vì nó tuy ít khả
năng vỡ nợ như B nhưng khả năng thanh toán nợ gốc và lãi thấp, thể hiện tính bấp bênh
về tài chính của chủ thểvay nợ. Quốc gia nào có hệ số tín nhiệm càng cao thì mức lãi suất
đòi hỏi của chủ nợ đối với quốc gia đó càng thấp và ngược lại. Hiện nay hệ số tín nhiệm
8
của khu vực Châu Á vẫn còn khá thấp chỉ ở mức trung bình trở xuống cho thấy mức rủi
ro của chúng ta khá cao.
1.3. Kinh nghiệm quản lý nợ nước ngoài của một số nước
1.3.1. Nước thất bại trong việc quản lý nợ nước ngoài
Trong quá khứ, nhiều cuộc khủng hoảng nợ đã từng diễn ra. Điển hình là khủng
hoảng nợ tại Mexico vào năm 1982 do tác động của cố định tỷ giá và suy thoái kinh tế
thếgiới bắt nguồn từ cú sốc giá dầu; tại Argentina vào năm 2001 do cố định tỷ giá; và yếu
kém trong năng lực quản lý nợ tại Philippines vào năm 1985. Dựa vào những điểm tương
đồng về bối cảnh kinh tế- chính trị- xã hội và khu vực địa lý, đề tài chọn Philippine làm
nghiên cứu điển hình.
Philippines là một quốc gia nợ nần cao không chỉ trong quá khứ mà còn ở hiện tại,
được xem như một hình mẫu về quản lý nợ không thành công trong thập niên 80. Năm
2003, Philippines đứng trước nguy cơ khủng hoảng tài chính vì tỷ lệ nợ của nước này
đang ở mức cao, năm 2003 nợ của khu vực công bằng 125% tổng sản phẩm quốc nội

(GDP); thanh toán lãi suất và nợ đang là một gánh nặng lớn đối với nền kinh tế nước này
chiếm đến 68% chi tiêu của Chính phủ trong năm 2004. Bên cạnh đó, trong những năm
qua hệ số tín nhiệm của Philippines bị hạ thấp trong bảng xếp hạng của các tổ chức đánh
giá hệsố tín nhiệm quốc tế, điển hình là dòng FDI vào nước này càng giảm dần.
Hình 1: Nợ nước ngoài của Philippines năm 1981-2013
9
Trước khủng hoảng 1983 - 1984, tình hình kinh tế vĩ mô vô cùng ảm đạm các nguồn
thu để trả nợ gần như cạn kiệt. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm từ 5,15% năm 1980
xuống còn 1,87% năm 1983 và lao đột ngột xuống - 7,32% năm 1984 . Tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu cũng giảm dần, thậm chí mang giá trị âm trong giai đoạn 1982 - 1985.
Dự trữ ngoại tệ quá mỏng, vào hai năm trước khủng hoảng năm 1982 chỉ có hơn 7 tuần
nhập khẩu.
Tình trạng nợ nần cũng không có gì khả quan. Từ một nước không có nợ quá hạn
trước năm 1975, Philippines bắt đầu xuất hiện nợ quá hạn năm 1976 và nợ quá hạn tăng
với tốc độ chóng mặt từ 1 triệu đô la trong những năm 1976 - 1982 lên đến 762 triệu đô la
năm 1985 và đẩy Philippines rơi vào khủng hoảng nợ.
Vào cuối thập niên 70, lãi suất thế giới tăng cao và cơn sốc dầu mỏ lần thứ hai đã
đẩy chi phí vay vốn lên cao; sự suy thoái của các quốc gia công nghiệp và do vậy giảm
nguồn cung cấp vốn từ bên ngoài. Lãi suất thời kỳ này còn cao hơn tốc độ tăng xuất khẩu
và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các khoản vay mượn vốn rẻ trước khi có cơn sốt dầu mỏ
đến thời hạn trả nợ làm luồng vốn chảy ra bên ngoài càng ngày càng tăng.
Thâm hụt ngân sách triền miên do chương trình mở rộng đầu tư và quốc phòng đầy
tham vọng của chính quyền Marcos. Chi ngân sách tăng nhanh chóng, lên đến cực điểm
trong chiến lược vận động tranh cử hoang phí trong lịch sử Philippines từ1969; chênh
lệch giữa tỷ lệ tích lũy và tỷ lệ đầu tư khiến cho nợ của Philippines tích lũy ngày càng
cao. Cơ cấu đầu tư không hợp lý, Philippines thời điểm này đang theo đuổi một chiến
lược xuất khẩu đa dạng hóa, tập trung vào lĩnh vực sản xất hàng công nghiệp với các
ngành công nghiệp non trẻ được bảo hộ với quy mô sản xuất lớn trong khi đó Philippines
lại là một nước nông nghiệp thâm dụng lao động. Chính việc phân bố nguồn lực không
10

dựa trên lợi thế so sánh này chẳng những đã không tạo được nguồn thu ngoại tệ để trả nợ
mà còn làm gia tăng gánh nặng nợ do việc nhập khẩu tư liệu sản xuất và gia tăng tính kém
hiệu quả của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, hệ thống tài chính yếu kém tác động mạnh mẽ lên nền kinh tế vĩ mô
nói chung, lên tính thanh khoản và khả năng trả nợ nước ngoài nói riêng. Hậu quả là nợ
nước ngoài gia tăng, tiết kiệm tài chính thấp và dễ bị tổn thương. Thứ nhất, hệ thống ngân
hàng thiếu tính cạnh tranh, phân khúc và mang nặng cách quản lý của ngành độc quyền.
Hệ thống ngân hàng Philippines bị phân khúc thành hai phần, một phân khúc thuộc về thị
trường tài chính không chính thức và phân khúc còn lại thuộc về hệ thống ngân hàng
chính thức. Hệ thống ngân hàng chính thức chủ yếu là các ngân hàng thuộc sở hữu Nhà
nước được đánh giá bằng các tiêu chuẩn khác hẳn ngân hàng tư nhân, tập trung cho vay
một số ít doanh nghiệp lớn thuộc các ngành sản xuất công nghiệp và điện tử. Các doanh
nghiệp vừa và nhỏ và hộ sản xuất không tiếp cận được với nguồn vốn chính thức phải vay
thị trường phi chính thức với lãi suất cao. Thứ hai, hệ thống tài chính yếu kém không thu
hút được nguồn vốn trong nước và cho vay với hạn mức tín dụng đã giới hạn số khách
hàng vay mượn và đặt hệ thống tài chính phải đối mặt với nhiều rủi ro và dễ bị tổn
thương. Các ngân hàng không ngừng vay mượn nước ngoài khi nguồn vốn thế giới dồi
dào và không ngừng mở rộng bảo lãnh cho các doanh nghiệp. Thứ ba, hệ thống giám sát
yếu kém khiến cho các luật lệ của Ngân hàng Trung ương kém hiệu quả. Thứ tư, trong khi
hệ thống tài chính yếu kém không kiểm soát được tỷ giá hối đoái lại thực hiện tự do hóa
luồng vốn khá sớm, dẫn đến hiện tượng chảy máu vốn tăng cao. Việc cố định tỷ giá buộc
Ngân hàng Trung ương phải thường xuyên sử dụng nghiệp vụ trung hòa hóa để giữ tỷgiá
cố định làm tăng tích tụ nợ và giảm cơ hội sử dụng ngoại tệ dự trữ để đầu tư; việc cố định
tỷ giá cũng làm cho sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu giảm làm giảm nguồn thu
ngoại tệ trả nợ.
Những lý do trên khiến Philippines luôn lâm vào trạng thái thiếu khả năng trả nợ và
dẫn đến dễ tổn thương trước những cú sốc từ bên ngoài và khi các doanh nghiệp lớn rơi
vào tình trạng khó khăn tài chính khi lãi suất thế giới tăng cao do cơn sốt dầu mỏ lần
thứhai. Số liệu cho thấy tỷ lệ Nợ/ GNI và tỷ lệ Nợ/ Xuất khẩu tăng quá nhanh làm khả
năng trả nợ của Philippines giảm thấp.

1.3.2. Nước thành công trong quản lý nợ nước ngoài
Trong khủng hoảng tài chính Châu Á, Malaysia là nước từ chối hỗ trợ tài chính của
IMF và đã khôi phục nền kinh tế chỉ sau ba năm khủng hoảng. Tại sao Malaysia làm được
điều đó trong khi các nước trong khu vực lâm vào khủng hoảng trầm trọng như Thái Lan,
Indonesia, Philippines. Đó chính là nhờ vào việc quản lý nợ tốt và ứng xử linh hoạt của
Chính phủ Malaysia.
11
Malaysia có luật quy định việc vay mượn. Cụ thể, hiến pháp Malaysia cho phép Chính
phủ vay nợ trong nước hoặc nước ngoài. Quốc hội ấn định bằng luật giới hạn mức tối đa
vay nợ của Chính phủ. Malaysia xây dựng chiến lược quản lý nợ nước ngoài với hai mục
tiêu rõ ràng: đảm bảo cân đối giữa tổng nguồn tài trợ và tổng nhu cầu, đồng thời vẫn duy
trì một nguồn tiền thanh toán nợ nước ngoài phù hợp với khả năng trả nợ của nền kinh tế.
Nhằm giữ nợ ở mức mong muốn, Chính phủ kiên quyết giảm bội chi ngân sách và thâm
hụt cán cân thanh toán. Đồng thời, lựa chọn các biện pháp thích hợp để giảm nợ như vay
bắc cầu, thanh toán trả trước các khoản đang nợ để giảm bớt chi phí tiền lãi và kéo dài
thời hạn vay.
Malaysia có một cơ quan quản lý nợ thống nhất là Ủy Ban Quản lý Nguồn thu từ
Nước Ngoài. Đây là cơ quan phối hợp để quản lý nợ nước ngoài do Tổng Giám đốc Kho
bạc làm Chủ tịch và có sự tham gia của cán bộ Cục Kho Bạc, Cục Kế Toán, và Ngân hàng
Trung ương Malaysia, Negara. Trong đó Kho Bạc liên bang có trách nhiệm quản lý chính
đối với nợ nước ngoài của khu vực Nhà nước; Cục kế toán giữ các tài khoản của Chính
phủ về nợ của khu vực Nhà nước và cũng thực hiện tất cả các giao dịch thanh toán nợ cho
các cơ quan thanh toán bằng tiền của ngân sách liên bang; Ngân hàng Trung ương giám
sát mọi nguồn ngoại hối vì đó là cơ quan thay mặt Chính phủ Malaysia thực hiện việc
chuyển ngoại tệ thanh toán cho phía cho vay nước ngoài; Cơ quan kế hoạch hóa trực tiếp,
tuy không trực tiếp liên quan đến việc quản lý nợ nhưng là cơ quan có liên quan trong quá
trình xây dựng kế hoạch ngân sách ngoại hối của Malaysia; Cục Kho bạc và Ngân hàng
Negara (Ngân hàng Trung ương Malaysia) đều lắp đặt và sử dụng hệ thống máy tính
trong công tác thu thập, duy trì, xử lý và phổ biến thông tin liên quan đến vấn đề nợ, cơ
cấu nợ, nghĩa vụ thanh toán nợ, duy trì nợ ở mức tối đa cho phép. Ủy ban này cố vấn cho

Chính phủ về mức vay nợ thích hợp để giảm bớt gánh nặng về khả năng trả nợ; xem xét
các điều khoản và thời hạn của các khoản vay khu vực Nhà nước.
Malaysia linh hoạt trong việc vận dụng các biện pháp xử lý nợ để giảm nợ.
Malaysia có thể quản lý cơ cấu tiền tệ dựa vào thị trường tài chính, Chính phủ có quyền
lựa chọn và phát hành các dạng trái phiếu Samurai, trái phiếu Yankee bằng đô la, trái
phiếu Bulldog bằng bảng Anh, các khoản vay đa tiền tệ.
Malaysia linh hoạt trong phản ứng đối phó với khủng hoảng nợ. Trước khủng
hoảng Malaysia đã xây dựng được một thị trường vốn tự do và mở cửa hơn, thị trường
chứng khoán mạnh hơn các nước khủng hoảng nợ như Indonesia và Thái Lan; duy trì nợ
ngắn hạn nhỏ hơn nhiều so với các quốc gia khác; hệ thống ngân hàng có tỷ lệ nợ không
sinh lãi thấp hơn; dự trữ ngoại tệ khá lớn hơn; nguồn ngoại tệ tập trung vào một cơ quan
duy nhất là ngân hàng Trung ương chứ không phân tán rải rác trong Bộ Tài chính và các
cơ quan khác nên nền tài chính Malaysia đã không bị chao đảo quá mức khi đồng Ringgit
bị mất giá. Chính vì vậy mà nền kinh tế Malaysia ít bị tổn thương trong khủng hoảng. Khi
12
khủng hoảng xảy ra Chính phủ đã phản ứng linh hoạt như bỏ ra 2 tỷ đô la để hỗ trợ cho
đồng Ringgit; ban hành quy định chỉ thực hiện các giao dịch phi thương mại trong giới
hạn 2 triệu đô la để chống lại tình trạng đầu cơ đồng Ringgit.
PHẦN 2: NGUYÊN NHÂN THỜI GIAN QUA VIỆN TRỢ CHƯA HẲN ĐƯỢC ƯU
TIÊN CHO NHỮNG NƯỚC CÓ TRÌNH ĐỘ QUẢN LÝ TỐT
2.1. Một số khái niệm
Theo chương trình phát triển của Liên Hợp quốc: ODA là viện trợ không hoàn lại
hoặc cho vay ưu đãi của các tổ chức nước ngoài, với phần viện trợ không hoàn lại chiếm
ít nhất 25% giá trị của khoản vốn vay.
ODA có một số đặc điểm chính: Do Chính phủ của một nước hoặc các tổ chức
quốc tế cấp cho các cơ quan chính thức của một nước; không cấp cho các chương trình,
dự án mang tính chất thương mại. ODA chỉ nhằm mục đích nhân đạo, giúp phát triển kinh
tế, khắc phục khó khăn về tài chính hoặc nâng cao lợi ích kinh tế - xã hội của nước nhận
viện trợ; tính ưu đãi chiếm đến 25% giá trị của khoản vốn vay.
Quá trình cung cấp ODA đem lại lợi ích cho cả hai phía: các nước đang và kém

phát triển có thêm khối lượng vốn đầu tư từ bên ngoài để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh
tế trong quy mô nền kinh tế nhỏ bé của mình. Phía còn lại cũng đạt được lợi ích trong các
điều kiện bắt buộc kèm them các khoản viện trợ, đồng thời gián tiếp tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động của các công ty của mình thực hiện đầu tư trực tiếp tại các nước nhận
viện trợ.
Mặt khác, ODA mang tính nhân đạo, thể hiện nghĩa vụ đồng thời là sự quan tâm
giúp đỡ của các nước giàu đối với các nước nghèo, giữa các tổ chức quốc tế với các quốc
gia.
Các hình thức của ODA được chia làm 3 loại chính, trong mỗi loại lại được chia
thành nhiều loại nhỏ.
- Phân loại theo phương thức hoàn trả có:
+ Viện trợ không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận không
phải hoàn lại) để bên nhận thực hiện các chương trình, dự án theo sự thoả thuận giữa các
bên;
+ Viện trợ có hoàn lại (tín dụng ưu đãi): nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một
khoản tiền( tùy theo quy mô va mục đich đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi va thời gian trả
nợ thich hợp;
+ ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không hoàn
lại và một phần tin dụng thương mại theo các điều kiện của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và
13
Phát triển, thậm chí có loại ODA vốn vay kết hợp tới 3 loại hình gồm một phần ODA
không hoàn lại, một phần ưu đãi và một phần tin dụng thương mại.
- Phân loại theo nguồn cung cấp có:
+ ODA song phương: là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia
(nước phát triển viện trợ cho nước đang va kém phát triển) thông qua hiệp định được ký
kết giữa hai chính phủ;
+ ODA đa phương: là viện trợ phat triển chính thức của một tổ chức quốc tế, hay
tổ chức khu vực hoặc của chính một nước dành cho Chính phủ một nước nào đó, nhưng
có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như UNDP (Chương trình phát
triển Liên Hợp quốc)… có thể các khoản viện trợ của các tổ chức tài chính quốc tế được

chuyển trực tiếp cho bên nhận viện trợ.
- Phân loại theo mục tiêu sử dụng có: Hỗ trợ cán cân thanh toán; tín dụng thương
nghiệp; viện trợ chương trình; viện trợ dự án.
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán là các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân sách của
Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao tiền tệ trực tiếp cho
nước nhận ODA và Hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hóa);
+ Tín dụng thương nghiệp: tương tự như viện trợ hàng hóa nhưng có kèm theo các
điều kiện ràng buộc. Chẳng hạn nước cung cấp ODA yêu cầu nước nhận phải dùng phần
lớn hoặc hầu hết vốn viện trợ để mua hàng ở nước cung cấp;
+ Viện trợ dự án: chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA. Điều
kiện để được nhận viện trợ dự án là phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng mục sẽ sử
dụng ODA;
+ Viện trợ chương trình: nước viện trợ và nước nhận viện trợ ký hiệp định cho một
mục đich tổng quát mà không cần xác định chính xác khoản viện trợ sẽ được sử dụng như
thế nào.
2.2. Tại sao thời gian qua, viện trợ chưa hẳn được ưu tiên cho những nước có trình
độ quản lý tốt
Để trả lời câu hỏi này phải xuất phát từ động cơ của viện trợ. Điều gì xác định việc
các nhà tài trợ cung cấp viện trợ cho ai và cung cấp bao nhiêu? Các nhà tài trợ có nhiều
động cơ khi cung cấp viện trợ, chỉ một số trong đó trực tiếp liên quan đến phát triển kinh
tế.
Nguyên nhân thứ nhất: Các mục tiêu chính sách nước ngoài và các liên minh
chính trị
Gần như người ta không lạ gì việc chính sách nước ngoài và các mối quan hệ chính
trị là những yếu tố then chốt xác định các dòng viện trợ. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh,
cả Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết đều sử dụng viện trợ để tranh giành sự ủng hộ của các
14
nước đang phát triển trên thế giới. Hoa Kỳ cung cấp lượng viện trợ lớn cho những nước
chống lại sự mở rộng chủ nghĩa cộng sản mà không quan tâm xem thử viện trợ có được
sử dụng để phát triển hay không, bao gồm miền nam Việt Nam vào thập niên 60;

Indonesia, Philippines, và Zaire vào thập niên 70 và 80; và một số nước ở Trung Mỹ vào
thập niên 80. Liên bang Xô Viết đua tranh bằng viện trợ dành cho Bắc Hàn, Cuba và các
nước Đông Âu. Cả hai bên đều tranh giành sự ủng hộ của các nước mới độc lập ở châu
Phi và sử dụng viện trợ nhằm đạt được sự ủng hộ biểu quyết quan trọng ở Liên hiệp quốc
hay các tổ chức thế giới khác. Hoa Kỳ và Liên Xô không phải là những quốc gia duy nhất
từng sử dụng viện trợ trong kiểu cạnh tranh này. Đài Loan và Trung Quốc từng sử dụng
viện trợ (cùng với các công cụ chính sách khác) để ra sức tranh thủ sự ủng hộ và công
nhận đối với chính phủ nước họ từ các nước trên thế giới.
Nhiều nước cung cấp viện trợ lớn cho các thuộc địa trước kia của họ như một
phương tiện để duy trì ít nhiều ảnh hưởng chính trị. Quá khứ thuộc địa giúp các nước gia
tăng lợi ích của việc nhận viện trợ hơn. Từ năm 1970 đến 1994, có đến 99,6 % viện trợ
của Bồ Đào Nha là dành cho các thuộc địa trước đây của họ, trong khi 78 % viện trợ từ
Anh và 50-60 % viện trợ từ Úc, Bỉ, và Pháp được chuyển đến các thuộc địa cũ của những
nước này.
Đối với Hoa Kỳ, mối quan ngại địa chính trị quan trọng nhất ngoài cuộc Chiến
tranh lạnh là Trung Đông. Từ năm 1980, hai nước nhận viện trợ nước ngoài nhiều nhất
của Hoa Kỳ (kể cả OA và ODA) là Israel và Ai Cập khi nước Mỹ hỗ trợ tài chính để yểm
trợ hiệp định hoà bình trại David được ký kết bởi hai nước này vào tháng 11/1979. Gần
đây hơn, những nước nhận viện trợ Hoa Kỳ nhiều nhất là những nước quan trọng trong
cuộc chiến chống khủng bố, như Afghanistan, Pakistan, và Jordan. Bắt đầu vào năm
2002, Iraq trở thành nước nhận viện trợ nhiều nhất của Hoa Kỳ (và nước nhận viện trợ
nhiều nhất trên thế giới), và công cuộc tái thiết đất nước này có thể trở thành chương trình
viện trợ nước ngoài riêng lẻ lớn nhất từng được ghi nhận.
Nguyên nhân thứ 2: Mức thu nhập và đói nghèo
Thu nhập và đói nghèo là những cân nhắc quan trọng trong việc phân bổ viện trợ,
chí ít đối với một số nước viện trợ, cho dù không phải nhiều như là đôi khi người ta vẫn
giả định. Đối với nhiều người ở các nước giàu, cơ sở lý luận chính của viện trợ là giúp đỡ
những người cần đến viện trợ nhất tại các nước nghèo nhất. Mức thu nhập và đói nghèo
ảnh hưởng đến cả lượng viện trợ mà các nước tài trợ cung cấp và mức độ ưu đãi của nó.
Nói chung, các nước viện trợ cung cấp viện trợ ưu đãi nhiều nhất cho những nước nghèo

nhất và dành ít trợ cấp cũng như ít khoản cho vay ưu đãi hơn cho những nước thu nhập
cao hơn. Một số chương trình viện trợ được thiết kế công khai vì mục tiêu này. Chương
trình IDA của Ngân hàng Thế giới có một mức trần thu nhập (cũng như các chương trình
ưu đãi của các ngân hàng phát triển khu vực). Một khi các nước đạt được mức trần (965
USD đầu người vào năm 2004), trong hầu hết các trường hợp, họ cũng “tốt nghiệp” hay
15
“hoàn tất chương trình” của IDA để tiến tới các khoản vay không ưu đãi của IBRD. Các
chương trình khác có ít qui tắc hoàn tất chính thức hơn nhưng cũng có xu hướng cung cấp
ít viện trợ hơn khi thu nhập gia tăng.
Khi thu nhập của những nước nghèo nhất gia tăng, thành phần của các dòng vốn
vào đất nước họ có xu hướng thay đổi; dòng viện trợ giảm dần và dòng vốn tư nhân tăng
lên. Cũng có những ngoại lệ cho cả hai diễn tiến này. Ấn Độ nhận viện trợ tương đối ít
(tính theo đầu người cũng như theo tỷ lệ % GDP), so với những nước khác có thu nhập
tương tự; Israel, French Polynesia, và Ba Lan nhận được giá trị viện trợ tương đối lớn,
cho dù họ vốn có thu nhập trên đầu người tương đối cao. Botswana nhận dòng viện trợ
tương đương 15 % GDP vào đầu thập niên 70, khi thu nhập bình quân không đến 800
USD trên đầu người, nhưng với thu nhập bình quân hiện nay hơn 4000 USD, dòng viện
trợ đã giảm xuống dưới 1 % GDP.
Nhìn chung, việc chuyển từ nhận viện trợ nhiều sang ít phải qua nhiều năm. Ta hãy
xem một quốc gia như Mozambique, với thu nhập đầu người năm 2004 là 250 USD. Thu
nhập của họ sẽ phải tăng gần gấp bốn lần thì mới đạt được 965 USD và “hoàn tất chương
trình” viện trợ của IDA, rồi (thông thường) bắt đầu chuyển từ ODA sang việc nhận tài trợ
không ưu đãi. Nếu thu nhập đầu người của họ tăng với tỷ lệ nhanh chóng 5 % một năm,
thì Mozambique sẽ phải mất 27 năm mới đạt được thu nhập 965 USD đầu người. Với tỷ
lệ tăng trưởng khiêm tốn hơn nhưng vẫn nhanh là 3 % đầu người một năm, sự chuyển đổi
này phải mất 46 năm. Một nghiên cứu gần đây tính toán rằng, đối với những nước thành
công nhất, “nửa đời” của viện trợ là vào khoảng 12 năm, nghĩa là viện trợ sẽ giảm xuống
còn khoảng 50 % so với mức độ đỉnh điểm sau 12 năm và giảm còn 25 % so với đỉnh
điểm sau khoảng 24 năm. Như vậy, đối với nhiều nước nghèo nhất, sự chuyển đổi nhanh
sang các dòng vốn tư nhân xem ra là không thể.

Nguyên nhân thứ ba: Qui mô đất nước
Các nhà tài trợ cung cấp nhiều viện trợ hơn (tính theo tỷ lệ % GDP hay theo giá trị
đầu người) cho những nước nhỏ hơn so với những nước lớn. Nếu các nhà tài trợ quan tâm
nghiêm ngặt đến việc phân bổ viện trợ đến nơi nào có đông người nghèo sinh sống nhất,
thì sẽ có nhiều viện trợ hơn đến với Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh và
Pakistan. Tuy nhiên, chính qui mô của một số nước này đôi khi lại làm nản lòng các nước
viện trợ. Họ thích cung cấp viện trợ cho những nước nhỏ hơn, nơi có thể tạo ra sự khác
biệt dễ nhận thấy hơn. Viện trợ 50 triệu USD có thể làm nên sự khác biệt to lớn ở
Gambia, nhưng sẽ chẳng thấm vào đâu ở Ấn Độ. Vì những lý do chính trị, các nước viện
trợ nói chung muốn ảnh hưởng đến càng nhiều quốc gia càng tốt; điều này có xu hướng
dẫn đến một số lượng viện trợ mất cân xứng dành cho những nước nhỏ. Một lá phiếu ở
Đại hội đồng Liên hiệp quốc xuất phát từ một nước nhỏ hay từ một nước lớn thì cũng như
nhau, vì thế các nước viện trợ cố gắng ảnh hưởng đến càng nhiều nước nhỏ càng tốt.
Nguyên nhân thứ tư: Các ràng buộc thương mại
16
Viện trợ song phương thường được thiết kế ít nhất một phần nhằm hỗ trợ lợi ích
kinh tế của những doanh nghiệp nhất định hay những khu vực cụ thể ở nước viện trợ.Viện
trợ đa phương ít chịu những áp lực này hơn, cho dù không có nghĩa là được miễn trừ.
Nhiều nhà phân tích kết luận rằng các ràng buộc thương mại là một yếu tố quan trọng xác
định viện trợ của Nhật Bản. Viện trợ lương thực giúp hỗ trợ cho những nhà nông sản xuất
ra lương thực này ở Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu. Nhiều nước viện trợ “ràng buộc” một
tỷ phần viện trợ của họ phải dành để mua hàng hoá ở nước viện trợ. Trong hầu hết các
trường hợp, ô tô, vé máy bay, và dịch vụ tư vấn được tài trợ bằng viện trợ nước ngoài của
Hoa Kỳ phải được mua từ các công ty Hoa Kỳ. Ràng buộc viện trợ có một lịch sử lâu đời:
Phần lớn máy móc và thiết bị cho Kế hoạch Marshall được mua từ các công ty Hoa Kỳ,
và tất cả phải được vận chuyển qua Đại Tây Dương trên các tàu buôn của Hoa Kỳ. Việc
ràng buộc viện trợ có lẽ giúp củng cố sự ủng hộ chính trị đối với các chương trình viện trợ
trong nội bộ các nước viện trợ, nhưng nó làm tăng thêm chi phí của các chương trình viện
trợ và làm cho những chương trình này trở nên kém hữu hiệu hơn. Một nghiên cứu nhận
thấy rằng ràng buộc viện trợ làm tăng thêm 15-20 % chi phí, có nghĩa là người nhận viện

trợ sẽ nhận được ít lợi ích hơn từ khoản viện trợ được cho là dành cho nước họ.
Nguyên nhân thứ năm: Dân chủ
Về mặt lịch sử, các nhà tài trợ cung cấp viện trợ nước ngoài gần như không quan
tâm đến việc chính phủ nước nhận viện trợ là chuyên quyền hay dân chủ. Điều này đặc
biệt xảy ra trong thời Chiến tranh lạnh, nhưng từ khi Liên Xô giải tán, các nước viện trợ
có xu hướng gia tăng viện trợ cho những nước đã trở thành những nền dân chủ. Nhiều
viện trợ hơn dành cho mục đích củng cố các nền dân chủ mong manh, hỗ trợ sự chuyển
đổi từ phi dân chủ sang dân chủ, hay xây dựng các thể chế dân chủ, bao gồm tài trợ cho
quốc hội, các hệ thống giám sát bầu cử, và các nhóm ủng hộ dân quyền và tự do ngôn
luận. Alberto Alesina và David Dollar, trong một nghiên cứu cho giai đoạn từ năm 1970
đến 1994, nhận thấy rằng viện trợ dành cho một quốc gia điển hình tăng lên 50 % sau khi
chuyển đổi thành một đất nước dân chủ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
17
1. TS. Lê Quốc Lý & TS Lê Huy Trọng (2003), “Nợ nước ngoài: Những vấn đề lý
luận và thực tiễn quản lý ở Việt Nam”, Nxb Tài Chính.
2. PGS. TS. Ngô Thắng Lợi (2012), Giáo trình kinh tế phát triển, Nxb Đại học kinh tế
quốc dân.
3.
4.
5.
18

×