Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.87 KB, 32 trang )

µ
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÀI TIỂU LUẬN
CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
GV hướng dẫn: TSHoàng Trọng Sao
Niên khóa:2009-2010
Lớp học phần: 210704003
Nhóm :1
Thành phố Hồ Chí Minh,tháng 2 năm 2010
DANH SÁCH NHÓM
Họ và tên Mã số sinh viên
Lê Trần Thuỷ Tiên 09085701
Nguyễn Thị Huỳnh Như 09124081
Nguyễn Thị Nhan 09083621
Đỗ Hùng Hoàng 09113901
Nguyễn Tuấn Cường 09170651
Ung Nguyên Huy 09073651
Lê Chí Trung 09191841
Đinh Đăng Khôi 09070961
Tạ Vũ Linh 09211421
2
MỤC LỤC
Lời Mở Đầu..........................................................................................4
Nội Dung..............................................................................................6
I/Khái niệm..................................................................................6
II/Các Loại Hình Doanh Nghiệp................................................6
1Tiêu chí phân loại hình doanh nghiệp................................6
1.1.Tiêu chí về sở hữu.....................................................6
1.2.Tiêu chí về sự tách bạch...........................................9
1.3.Tiêu chí về kinh tế...................................................14


2.Các loại hình doanh nghiệp tại nước ta...........................16
Sau 1975
Doanh nghiệp quốc doanh...........................................16
Hợp tác xã.....................................................................17
Sau 1986
Doanh nghiệp quốc doanh...........................................18
Doanh nghiệp tập thể...................................................20
Doanh nghiệp tư nhân..................................................27
Kết Bài................................................................................................31
3
Lời Mở Đầu
Thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là thời kì cải biến cách
mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để về mọi mặt. Từ xã hội cũ sang xã hội mới
xã hội chủ nghĩa. Thời kì đó bắt đầu từ khi giai cấp vô sản lên nắm chính
quyền. Cách mạng vô sản thành công vang dội và kết thúc khi đã xây dựng
xong cơ sở kinh tế chính trị tư tưởng của xã hội mới.
Song sau ngày đất nước thống nhất 30/4/1975 Đảng và Nhà Nước ta đã
nhận thức và tiến hành công nghiệp hoá theo mô hình nền kinh tế khép kín,
hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng; chủ yếu dựa vào lợi thế về
lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ từ các nứơc xã hội chủ nghĩa,
chủ lực thực hiện công nghiệp hoá là Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước,
việc phân bổ nguồn lực chủ yếu dựa vào cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
trong một nền kinh tế phi thị trường. Nhưng do chúng ta tiến hành công
nghiệp hoá từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu lại mắc những sai lầm
nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất, bố trí cơ
cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư đã làm cho nền kinh tế Việt Nam vẫn trong tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển và rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã
hội.
Nhưng với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thất, đánh giá đúng sự thật, nói rõ
sự thật” tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1986) đã

nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp
hoá và đã quyết định đổi mới phá triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa bằng con đường phát triển kinh tế nhiều thành phần.Theo đó nước ta sẽ
4
có nhiều thành phần kinh tế và được tự do buôn bán , cơ cấu kinh tế có thể tự
do linh hoạt hoạt động mà không phải chịu sự chi phối của nhà nước nhưng
vẫn phải tuân theo pháp luật. Từ đó mà nhà nước ta đã hình thành nhiều loại
hình quản lý nhà nước , giúp nước ta cải thiện được phần nào tình hình kinh
tế - xã hội lúc bấy giờ.
Vậy để hiều rõ hơn về nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều loại hình
doanh nghiệp khác nhau, chúng ta hãy cùng nhau nghiên cứu qua bài tiểu luận
của nhóm với đề tài: “các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam
5
NỘI DUNG
I/ KHÁI NIỆM:
Doanh nghiệp là những tổ chức được thành lập một cách hợp pháp để
hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Kinh doanh là việc thực hiện một hoặc một số hay tất cả toàn bộ các
công đoạn của quá trình đầu tư, từ nghiên cứu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Khái niệm kinh doanh theo định nghĩa trên tương đồng với định nghĩa
hành vi thương mại ở các nước khác.
II/ CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP:
1. Các tiêu chí phân loại doanh nghiệp:
Mỗi cách phân loại gắn kết với một mục tiêu cụ thể, phục vụ mục đích
quản lý hoặc thể hiện một quan niệm nào đó. Có ba câu hỏi được nhấn mạnh
khi bàn về các tiêu chí được xây dựng để xác định các loại hình doanh nghiệp:
(1) Quan tâm đến doanh nghiệp của ai? (nghiêng về sở hữu); (2) Quan tâm
đến hình thức tổ chức doanh nghiệp như thế nào?; (3) Quan tâm đến quản lý
và hỗ trợ doanh nghiệp như thế nào để có hiệu quả nhất?

1.1. Tiêu chí về sở hữu
Một khi đặt nặng vấn đề sở hữu, khung pháp luật sẽ thể hiện mức phân
vùng theo các thành phần kinh tế. Các loại hình doanh nghiệp tương ứng với
một thành phần kinh tế sẽ có những điều chỉnh đặc thù. Theo đó, khung pháp
luật thường có khuynh hướng phân tán, khó tìm được tiếng nói chung giữa các
loại hình doanh nghiệp. Đối với những nước thuộc khối kinh tế xã hội chủ
6
nghĩa ngày trước, khung pháp luật hướng tới bảo vệ sở hữu toàn dân, thể hiện
qua vai trò độc tôn của doanh nghiệp nhà nước và sự kỳ thị kinh tế tư nhân.
Tiêu chí sở hữu được xây dựng để phân loại doanh nghiệp bắt nguồn từ
việc nhấn mạnh vai trò của các doanh nghiệp nhà nước. Thật vậy, đối với nền
tảng tư hữu đã có gốc rễ từ lâu đời, các loại hình doanh nghiệp chỉ tập trung
tìm kiếm những mô thức quản trị hiệu quả. Tuy nhiên, sau thế chiến thứ hai,
bên cạnh sự phát triển của hệ thống kinh tế mệnh lệnh, nhu cầu cần có sự tập
trung lớn các nguồn tài nguyên để tái kiến thiết đất nước đã mở rộng vai trò
của các công ty nhà nước tại những nước Tây Âu. Trong hệ thống kinh tế xã
hội chủ nghĩa, sự can thiệp toàn diện của nhà nước đòi hỏi những thể hiện
tương ứng trong hệ thống pháp luật doanh nghiệp, trong đó phải có sự phân
chia theo tính chất sở hữu để phục vụ cho vai trò “quản lý xí nghiệp” và sự
vận hành độc tôn của kinh tế quốc doanh. Như vậy, phân loại doanh nghiệp
theo tiêu chí sở hữu không tuân theo sự vận động, phát triển của các loại hình
doanh nghiệp mà hướng tới các đặc thù có tính lịch sử của các hình thức sở
hữu, một dạng “phát triển theo sự thuận tiện”. Một khi quan tâm đến tính chất
sở hữu, khuynh hướng chung của khung pháp luật về doanh nghiệp là sự phân
vùng thành các tiểu hệ thống biệt lập. Vấn đề sở hữu, tự bản thân nó, hàm
chứa khả năng tự cô lập trong sự khẳng định vai trò của các chủ thể. Việc
tuyên bố nhận diện về cái chúng ta có thường ngầm ẩn ý chống đối với cái
người khác đang có. Sự vận động, phát triển của các tiểu hệ thống thường
“lệch pha”, làm việc vận hành chung của khung pháp luật không đồng bộ và
kém hiệu quả. Định hình doanh nghiệp theo sở hữu, vì vậy, khó có sự kết nối

chung giữa các tiểu hệ thống nhằm tạo lập tính đồng bộ của khung pháp luật.
Các yếu tố khác như mô thức quản trị hiệu quả, sự tách bạch tài sản, kiểm soát
nội bộ, các thể thức điều hành… phải “biến dạng” theo các tiểu hệ thống trước
7
khi đóng vai trò thúc đẩy hiệu quả và tính đồng bộ của khung pháp luật. Sự
biến dạng đó tất yếu dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, không bình
đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đi theo tiêu thức sở hữu
sẽ gặp nhiều khó khăn trong du nhập và đón nhận các loại hình doanh nghiệp
mới vì nếu không tuân theo những xác lập định sẵn về sở hữu, cái mới sẽ trở
thành “dị biệt”, toàn bộ hệ thống sẽ khập khiễng. Ngay cả khi định vị được
các loại hình mới, chi phí tạo các mối liên kết, san lấp các cách biệt sẽ rất lớn,
chưa kể đến việc “cộng dồn” những biệt lệ hay này theo thời gian sẽ khiến
khung pháp luật về doanh nghiệp càng thêm rối rắm.
Khi việc phân loại doanh nghiệp dựa trên tính chất sở hữu, tiêu chí sở
hữu sẽ xác lập các loại hình doanh nghiệp phổ biến. Ở nước ta, khung pháp
luật về doanh nghiệp phân hóa theo tính chất sở hữu, tạo thành bốn vùng
chính sau: doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, doanh nghiệp thuộc sở hữu
tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các hợp tác xã đại diện
cho kinh tế tập thể. Nguồn gốc sự phân loại này bắt nguồn từ vai trò độc tôn
của các xí nghiệp quốc doanh. Khi chuyển sang cơ chế mới, sự thừa nhận ban
đầu các hình thức tổ chức doanh nghiệp bắt buộc phải dựa trên những quan
niệm mới về sở hữu. Điều này đã tạo nên “lối mòn” trong phân loại các doanh
nghiệp nước ta theo tính chất về sở hữu. Không chấp nhận liệu pháp “sốc”,
khung pháp luật về doanh nghiệp biến đổi bằng cách “lai ghép” từ từ để tạo sự
đột biến, không đào bới gốc rễ. Với điều kiện, đặc điểm nước ta, hướng đi
thận trọng tỏ ra hợp lý và có thể biện giải được. Tuy nhiên, đã đến lúc phải
xem xét tính đồng bộ của khung pháp luật về doanh nghiệp, chuẩn bị cho
những thay đổi căn bản hơn.
8
1.2. Tiêu chí về sự tách bạch:

Tiêu chí về sự tách bạch, được đúc kết từ lịch sử lâu dài của các sáng
kiến về thương mại cũng như về pháp lý, là nền tảng của luật về tổ chức doanh
nghiệp.
Về cơ bản, tiêu chí này hướng tới phân loại doanh nghiệp dựa trên mức
độ tách bạch giữa doanh nghiệp và các chủ sở hữu doanh nghiệp. Trong lịch
sử hình thành tiêu chí về sự tách bạch, các sáng kiến bắt đầu từ thời La mã cổ.
Tiêu chí về sự tách bạch xuyên suốt lịch sử phát triển các loại hình
doanh nghiệp. Sự tách bạch phát triển cùng nền kinh tế thị trường, với sự ra
đời của các loại hình doanh nghiệp có khả năng mở rộng về quy mô thu hút
vốn đầu tư. Chế độ trách nhiệm hữu hạn, được đặt ra nhằm nhằm giải quyết
yêu cầu đối với các khoản nợ của doanh nghiệp, phải đặt nền tảng trên sự tách
bạch. Dạng trách nhiệm theo phần đã bắt đầu từ rất sớm. Nhưng chỉ khi việc
tách bạch trở nên vững chắc, chế độ trách nhiệm hữu hạn mới trở thành sáng
kiến trong tổ chức doanh nghiệp. Cũng cần thấy rằng, “đặc tính trách nhiệm
vô hạn hay trách nhiệm hữu hạn chỉ xuất hiện và chỉ được đề cập tới khi một
chủ thể của luật dân sự :Kinh tế bị vỡ nợ mà đối với các doanh nghiệp được
gọi là phá sản”. Các loại hình doanh nghiệp tiến hóa xoay quanh tiêu chí về sự
tách bạch, vấn đề pháp nhân hay thể nhân, trách nhiệm hữu hạn hay trách
nhiệm vô hạn đóng vai trò như những hệ quả phát sinh. Vì vậy, đề cập đến
tiêu chí tách bạch không có nghĩa đồng nhất với vấn đề trách nhiệm hữu hạn
hay ngược lại. Việc xem sự tách bạch là sản phẩm riêng có của những loại
hình doanh nghiệp theo chế độ trách nhiệm hữu hạn thường là một nhầm lẫn
thường thấy.
Sự tách bạch có hai chiều chủ yếu sau:
9
- Thứ nhất, tách bạch tài sản giữa các chủ sở hữu doanh nghiệp với bản
thân doanh nghiệp, gọi là nguyên tắc tự vệ. Tài sản các chủ sở hữu độc lập và
được bảo vệ trước các khoản nợ của doanh nghiệp.
- Thứ hai, tách bạch tài sản giữa doanh nghiệp với các chủ sở hữu
doanh nghiệp đó, gọi là nguyên tắc khẳng định. Tài sản của doanh nghiệp độc

lập và được bảo vệ trước những khoản nợ của các chủ sở hữu.Các trường phái
cổ điển đều cho rằng, sự tách bạch doanh nghiệp với người sáng lập ra nó
nhằm bảo vệ nhà đầu tư trước những rủi ro, bất trắc trong kinh doanh.
Sự tách bạch tập trung ở một số nội dung chính sau:
- Tách bạch trừu tượng. Một doanh nghiệp khi khởi lập, đã có sự tách
bạch tương đối với những người sáng lập ra nó. Như vậy, đã có một ranh giới
mờ nhạt giữa nhà đầu tư với thực thể kinh doanh, tuy có liên hệ mật thiết,
không phải là chính anh ta. Doanh nghiệp tư nhân ABC, công ty hợp danh
XYZ…, tuy không có chế độ trách nhiệm hữu hạn, vẫn có sự tách bạch tương
đối (ít nhất về tên gọi) với các chủ sở hữu. Ở các nước có quy định về phá sản
cá nhân, vấn đề này sẽ được đặt ra khi có sự tranh chấp giữa các chủ nợ: chủ
nợ của doanh nghiệp và chủ nợ riêng của các cá nhân.
- Tách bạch về tài sản. Tài sản luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu khi
thiết lập việc tách bạch. Từ hình thái sơ khai của các peculium, các commenda
đến các loại hình công ty cổ phần hiện đại, tất cả đều xuất phát từ nhu cầu bảo
vệ khối tài sản của doanh nghiệp và khối tài sản riêng của các nhà đầu tư. Có
nhiều cách thể hiện tách bạch về tài sản như: tuyên bố về khối tài sản tách
bạch; chuyển quyền sở hữu sang một thực thể pháp lý độc lập, tách rời với các
chủ thể sáng lập; chế độ trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn góp;
quyền ưu tiên của các chủ nợ… Vì chế định hợp đồng không thể điều chỉnh
nổi vấn đề này nên xuất hiện vai trò của các luật về tổ chức doanh nghiệp.
10
Theo Hansmann, nguyên tắc khẳng định trong tách bạch tài sản đòi hỏi xác
lập khung pháp lý và khả năng phân định ranh giới thực tiễn giữa tài sản
doanh nghiệp với tài sản của các thành viên doanh nghiệp. Nếu việc tách bạch
tài sản ở mức thấp, ý chí đơn lẻ của một thành viên có thể phá hỏng cấu trúc
doanh nghiệp.
- Tách bạch về việc đại diện. Một khi có sự tách bạch tương đối giữa
doanh nghiệp và các nhà đầu tư, vấn đề được đặt ra là: ai sẽ là người được
doanh nghiệp ủy quyền đại diện cho ý chí của doanh nghiệp trong các quan hệ

đối nội và đối ngoại.Ở mức tách bạch thấp, các chủ sỡ hữu cùng nhau đại
diện, chi phối và quản lý doanh nghiệp theo một cơ chế khép kín. Ơ mức cao
hơn, việc điều hành, đại diện, quản lý doanh nghiệp được tách biệt khỏi đa số
các thành viên hay cổ đông của doanh nghiệp. Như một thực thể độc lập,
doanh nghiệp có thể tập trung vào việc làm tăng giá trị, bỏ qua việc chia lời lãi
cho các thành viên. Bản thân các thành viên không có chuyên môn và hứng
thú đối với việc kinh doanh cũng sẵn sàng đánh đổi các khoản chia cố định
hàng năm lấy phần giá trị tăng thêm trên thị trường chuyển nhượng. Tuy
nhiên, việc tách bạch sẽ bị phá hỏng nếu những nhân vật đại diện cho doanh
nghiệp có quyền lực quá lớn và không có cơ chế hữu hiệu để tách biệt ý chí
của doanh nghiệp (như một thực thể độc lập) với ý chí của họ. Một số yếu tố
có thể kể ra như: số lượng thành viên quá ít, vốn tập trung vào một số ít các cổ
đông, kiểu quản trị dựa trên gia tộc và các mối quan hệ thân hữu, sự can thiệp
quá đáng của các cơ quan hành chính nhà nước…
- Tách bạch về quyền kiểm soát. Khi doanh nghiệp trở thành một thực
thể pháp lý tách biệt, người bỏ vốn sáng lập ra nó trở thành người “thay mặt”,
đảm nhận công việc được doanh nghiệp ủy thác. Cơ chế kiểm soát được thiết
lập để doanh nghiệp thực hiện sự kiểm soát đối với hoạt động của những
11
người nhân danh mình. Các thành viên cũng không thể thực hiện quyền kiểm
soát trực tiếp đối với đồng vốn mình đã bỏ ra. Quyền kiểm soát của doanh
nghiệp được thực hiện thông qua thiết lập các cơ chế, phương thức quản lý nội
bộ. Trong khi đó, quyền kiểm soát của các thành viên chủ yếu thông qua các
kênh thông tin và việc bầu bán trong các cuộc họp thường niên.Sự kết hợp các
nội dung trên của việc tách bạch sẽ ấn định đặc trưng của loại hình tổ chức
doanh nghiệp. Trong mỗi nội dung của sự tách bạch sẽ có nhiều mức độ khác
nhau từ cao, thấp đến các cấp trung gian, tương ứng với nhiều phương thức,
biện pháp thể hiện khác nhau. Đây cũng là cơ sở cho sự phát triển và hình
thành các loại hình doanh nghiệp mới. Một khuynh hướng chung là, sự tách
bạch ở mức cao thường gắn với mẫu hình doanh nghiệp hiện đại, đặc trưng

cho nền kinh tế thị trường.
Theo tiêu chí về sự tách bạch, doanh nghiệp được phân loại như sau:
- Loại hình doanh nghiệp có sự tách bạch yếu :Các nội dung tách bạch
được kết hợp ở mức yếu nhất, đặc biệt về khối tài sản của doanh nghiệp với
khối tài sản của các thành viên. Một khi không có sự tách bạch về tài sản, các
yếu tố khác sẽ ở mức rất thấp.
- Loại hình doanh nghiệp có sự tách bạch ở mức trung bình :Tuy đã có
sự tách bạch tương đối, các yếu tố vẫn ở mức trung bình. Các phương thức thể
hiện sự tách bạch còn nặng về hình thức, xoay quanh các thành viên, không
hẳn xoay quanh doanh nghiệp như một thực thể độc lập. Khả năng “đánh
đồng” thường xảy ra ở loại hình này.
- Loại hình doanh nghiệp có sự tách bạch ở mức cao: Đây là loại hình
tách bạch rõ ràng nhất đối với các chủ thể góp vốn tạo dựng doanh nghiệp.
Các nội dung tách bạch được thể hiện bằng những phương thức, cơ chế hiệu
quả và thực tiễn.Tiêu chí về sự tách bạch phụ thuộc vào điều kiện phát triển
12

×