Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

ĐỀ TÀI: Hoạt động xuất khẩu gỗ va sản phẩm sang thi trường EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.92 KB, 61 trang )

1
Luận văn
Hoạt động xuất khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ sang thị trường EU của
Tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam-
Thực trạng và giải pháp
2
MỤC LỤC
Mở đầu……………………………………………………………………….2
Phần nội dung…………………………………………………………………3
Chương 1: Tổng quan về hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt
Nam sang thị trường EU……………………………………………………. 3
1.1. Xuất khẩu và vấn đề xuất khẩu gỗ của Việt Nam…………………….3
1.2. Thị trường gỗ và sản phẩm gỗ tại EU…………………………… 10
Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Vinafor
vào EU……………………………………………………………………….18
2.1. Nhiệm vụ, mục tiêu kinh doanh chủ yếu của Vinafor ………………18
2.2. Giới thiệu về Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam………………….19
2.3. Tình hình xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Vinafor sang EU…… 28
2.4. Đánh giá hoạt động xuất khẩu gỗ vào EU của Vinafor ……………… 36
Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gỗ và các
sản phẩm từ gỗ vào
EU…………………………………………………………….…45
3.1. Giải pháp về vốn……………………………………………………… 45
3.2. Triển khai áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001:2000 taị các
dơn vị thành viên…………………………………………………………….48
3.3.
3.4.
Giải pháp thâm nhập kênh phân phối của EU……………………… 49
Giải pháp về liên kết các doanh nghiệp…………………………… 54
Kết luận……………………………………………………………………60


3
MỞ ĐẦU
Người Việt Nam từ lâu đã rất tự hào với tài nguyên “ Rừng vàng, biển
bạc”. Nguồn tài nguyên rừng hiện nay đã và đang được sử dụng và tái tạo
ngày càng hợp lý. Bên cạnh các sản phẩm gỗ thô mộc, các sản phẩm đồ gỗ
của Việt Nam dần trở thành một thế mạnh được thế giới biết đến. Trong 120
nước và vùng lãnh thổ mà sản phẩm gỗ Việt Nam có mặt, thị trường EU là thị
trường lớn nhất.
Tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam là một trong những công ty đầu
ngành của Việt Nam. Trong 6 năm vừa qua, kim ngạch xuất khẩu gỗ vào thị
trường EU của Tổng công ty tăng không ngừng. Em xin làm báo cáo thực tập
tốt nghiệp về đề tài Hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang thị
trường EU của Tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam- Thực trạng và giải
pháp.
4
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
:
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
GỖ VÀ SẢN PHẨM GỖ
CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU
1.1. Xuất khẩu và vấn đề xuất khẩu gỗ của Việt Nam:
Hoạt động xuất khẩu gỗ của Việt Nam không ngừng tăng trưởng qua các
năm nhưng còn gặp rất nhiều hạn chế. Sự nỗ lực của Hiệp hội, của các tổng
công ty, của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đem đến cho Việt Nam một vị
thế mới, chỗ đứng mới trên thị trường thế giới.
Bảng 1: Giá trị kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của các doanh
nghiệp Việt Nam qua các năm:
Đơn vị: Triệu USD
( Nguồn: VietnamNet.com)

Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Kim ngạch 219 365 507 972 1235 1570 2100
5
Trong khoảng thời gian từ 2000-2006, kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ
đã tăng hơn 10 lần. Khởi đầu vào năm 2000, kim ngạch mới chỉ dừng lại ở
219 triệu USD thì tới cuối năm 2005, con số này đã đạt mức 1,57 tỷ USD
chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ của nhành gỗ Việt Nam. So với năm 2000,
năm 2001 đánh dấu bước phát triển với mức tăng trưởng 40%/năm. Năm
2002, mức tăng trưởng chỉ đạt mức 28,07% thì đến năm 2003, mức tăng
trưởng lại tăng trở lại với giá trị là 91,7%. Năm 2004 và 2005, sự tăng trưởng
khá ổn định dù có chậm lại nhưng đánh dấu những bước phát triển vững chắc
cùng chiến lược lâu dài, tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
ngành. Và tới năm 2006, Kim ngạch xuất khẩu đạt mức 2,1USD đã đưa Việt
Nam đứng hàng thứ tư trong khu vực về xuất khẩu gỗ ( sau Indonexia,
Malaixia và Thái Lan). Việc đạt mức tăng trưởng bình quân 40%/năm trong
suốt một thời kì dài khiến không ít các nhà xuất khẩu và hoạch định chính
sách vô cùng lạc quan. Chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu của mặt hàng này đến
năm 2010 đạt giá trị 5,5 tỷ USD, tăng bình quân 28,9%/năm. Các sản phẩm
đồ gỗ của chúng ta đã được xuất đến 120 nước và vùng lãnh thổ trên thế
giới, trong đó Mỹ chiếm 20%, EU 28% và Nhật chiếm tỷ trọng 24% trong
tổng kim ngạch xuất khẩu. Số lượng các thị trường dành cho sản phẩm gỗ của
chúng ta không ngừng tăng qua các năm thể hiện sự naưng động tìm hiểu và
thâm nhập thị trường. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường này
lại thường không ổn định. Như thị trường Thuỵ Điển là một điển hình. Năm
2002, thị trường Thuỵ Điển được đánh giá là bước khởi đầu khá thuận lợi
trong chién dịch thâm nhập thị trường EU cùng với Đức. Hai quốc gia này
đều đạt mức kim ngạch xuất khẩu trên 1 triệu USD. Tuy nhiên, tới năm 2003,
thị trường Đức đạt mức tăng trưởng là 371% thì Thuỵ Điển chỉ là 53%, sang
năm 2004 thì kim ngạch xuất khẩu sang Thuỵ Điển chỉ bằng 1/9 lấn so với
năm 2003 trong khi nước Đức nổi lên là nước dẫn đầu về tăng trưởng là

6
572%. Có thể nhu cầu tại mỗi thị trường là khác nhau nhưng với hai nước có
cùng một xuất phát điểm, việc một quốc gia trở thành bạn hàng quen thuộc
còn Thuỵ Điển chúng ta lại đang mất dần thị trưòng thì các doanh nghiệp cần
xem xét lại sự cân đối trong việc theo dõi, tìm hiểu thị trường, cần có sự đầu
tư hơn nữa trong công tác nghiên cứu thị trường và hoàn thiện sản phẩm.
Vấn đề thật sự đặt ra là làm thế nào để duy trì được tốc độ phát triển
tối thiểu 20%/năm trong xu thế hội nhập, cạnh tranh ngày càng gay gắt?
Các doanh nghiệp xuất khẩu nhiều nhưng nhỏ
Theo ông Nguyễn Tôn Quyền- phó chủ tịch hiệp hội gỗ và chế biến lâm
sản Việt Nam (Vifores) cho biết “Số doanh nghiệp xuất khẩu các sản phẩm gỗ
và lâm sản của Việt Nam hiện nay là hơn 300 nhưng hầu hết là nhỏ và vừa.
Số doanh nghiệp có thể xuất khẩu trên 100 container/ tháng hay có diện tích
khai thác rừng trên 10 ha là rất hiếm. Với thực trạng như vậy chúng ta không
thể cạnh tranh với các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ của các nước trong khu
vực.”
Theo ông Nguyễn Tấn Bình, phó tổng giám đốc công ty sản xuất- đầu tư-
xuất nhập khẩu Bình Định thì với phương thức làm ăn đơn lẻ, việc đáp ứng
các hợp đồng lớn hàng chục, hàng trăm thậm chí hàng ngàn mét khối là không
thực hiện được. Chúng ta đã tự để cơ hội tuột khỏi tay nếu không liên kết lại
với nhau. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gỗ đã tiếc: “Giá như, các doanh
nghiệp biết bắt tay với nhau thì kim ngạch xuất khẩu đã tăng hơn rất nhiều.”
Như vậy, các khó khăn doanh nghiệp xuất khẩu gỗ của Việt Nam gặp phải
không chỉ là các cản trở từ bên ngoài mà do chính các doanh nghiệp đã và
đang tự hạ thấp vị thế của xuất khẩu gỗ và đồ gỗ Việt Nam.
- Doanh nghiệp xuất khẩu gỗ rất nhiều nhưng chưa doanh nghiệp nào đủ
lớn, đủ tạo sức mạnh trên thị trường. Sự nhỏ lẻ của thị trường không
làm nổi bật được thế mạnh của ngành gỗ Việt Nam khiến các doanh
7
nghiệp không được bạn hàng các nước đánh giá đúng mức. Ngành gỗ

không có doanh nghiệp nào thực sự nổi bật dẫn đầu, định hướng cho
tương lai phát triển của ngành. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp Việt
Nam trên thế giới chưa tạo được một dấu ấn rõ nét nào cả. Tự các
doanh nghiệp Việt Nam đẩy giá thành xuống thấp do cạnh tranh với
nhau mà bỏ quên mất đối thủ lớn nhất nhất là Trung Quốc. Lợi thế lớn
nhất của các doanh nghiệp Việt Nam là giá nhân công rẻ, nhưng không
thể hạ liên tục giá nhân công để giảm giá thành. Cuối cùng, cạnh tranh
về giá với các quốc gia bằng cánh cắt giảm lợi nhuận của chính mình
còn các khoản chi phi giành hợp đồng lại vẫn đẩy giá lên ngang bằng
với Trung Quốc. Giá thấp, các doanh nghiệp không được hưởng mà
người hưởng lợi lại chính là các nhà nhập khẩu trung gian. Giá càng hạ,
các nhà nhập khẩu hưởng lợi càng nhiều trong khi giá sản phẩm đến tay
người tiêu dùng thế giới vẫn không hề thay đổi. Các sản phẩm của
chúng ta thường bị chi phối bởi các kênh phân phối nước ngoài, dán
nhãn mác của các nhà nhập khẩu trung gian các doanh nghiệp Việt
Nam luôn bị động về giá, đôi khi việc hạ giá xuất phát từ thành ý mang
sản phẩm giá rử hơn để cạnh tranh nhưng không thể thực hiện do phía
đối tác không hạ giá vì mục đích lợi nhuận.
- Sự nhỏ lẻ của mỗi doanh nghiệp không đủ khả năng đáp ứng được các
đơn đặt hàng lớn, phía các công ty nước ngoài rất trọng chữ tín và giữ
khách, nếu không đáp ứng được một lần, không chỉ mất một hợp đồng
mà có thể mát cả một khách hàng tiềm năng. Ngoài một vài công ty đầu
ngành trong nước có khả năng dáp ứng được một số hợp đồng lớn còn
lại hầu hết các doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện được các hợp đồng
nhỏ. Các hợp đồng lớn sẽ mang lại lợi nhuận lớn theo quy mô thì
không dám nhận, trong khi đó các hợp đồng nhỏ lợi nhuận rất thấp thì
8
các doanh nghiệp lại ra sức cạnh tranh giành giật với nhau để được
nhận. Sự nhỏ lẻ, rời rác của các doanh nghiệp khiến Việt Nam các bạnn
hàng lớn trên thế giới dần dần mất lòng tin vào các doanh nghiệp, lâu dì

chúng ta sẽ làm mất đi thị trường bạn hàng lớn thật sự giúp các doanh
nghiệp phát triển.
Giá nguyên liệu nhập khẩu và cước tăng tới 13%
Sự cạnh tranh để mua nguyên liệu khi nguyên liệu khan hiếm là một
nguyên nhân đẩy giá nguyên liệu lên cao. Trong khi các nước ntgày càng
thắt chặt việc xuất khẩu hàng thô, đẩy mạnh xuất khẩu hàng tinh chế thì
việc nhập nguyên liệu trở nên vô cùng khó khăn. Đặc biệt khi các bạn
hàng quen thuộc như Lào, Indonexia nguồn nguyên liệu xuất khẩu ngày
một cạn kiệt. Nếu các doanh nghiệp đủ tỉnh táo để đưa giá nguyên liệu trở
lại bằng cách kết hợp với nhau để cùng chia sẻ nguồn đầu vào theo khả
năng chúng ta sẽ gặp phải ít khó khăn hơn.
Theo ông Đào Văn Trang, Tổng giám đốc công ty Khải Vy đã nói: “
Xuất khẩu gỗ của Việt Nam đang gặp một nghịch lý là kim ngạch xuất
khẩu tăng cao nhưng hiệu quả kinh tế lại giảm”. Mặc dù giá các sản phẩm
gỗ và lâm sản tăng 2% trong năm nhưng giá cước vận tải tăng tới 5%, giá
nguyên liệu thì tăng mạnh nên các công ty lợi nhuận ngày càng giảm. Như
công ty Khải Vy, trong 9 tháng đầu năm 2006, doanh nghiệp này đã xuất
khẩu được 13 triệu USD, tăng 13% so với năm 2005 nhưng lợi nhuận thì
chỉ bằng nửa so với năm trước.
Còn ông Nguyễn Chiến Thắng, giám đốc điều hành Scansia Pacific
co.ltd cho biết hiện gỗ thông nguyên liệu nhập từ Braxin, New Zealand…
về tới cảng Sài Gòn giá đã tới 230USD/khối, tăng tới 8% so với năm
trước. Mõi năm công ty ông nhập khẩu tới 20.000m
2
trị giá 4,6 triệu USD,
với mức giá tăng cao như vậy chi phí cho sản xuất mỗi năm tăng là
9
380.000USD. Trong khi đó, giá sản phẩm đầu ra không tăng đã hạn chế sự
tăng trưởng và lợi nhuận rất nhiều.
Các doanh nghiệp không ngừng than phiền về việc lợi nhuận giảm,

nnhưng thực tế cho rằng nếu các doanh nghiệp biết linh hoạt dử dụng và
thay đổi phương thức kinh doanh thì không phải doanh nghiệp nào cũng có
hiện tượng Kim ngạch tăng mà lợi nhuận giảm. Các doanh nghiệp vẫn
chưa chủ động được trong khâu nguyên liệu đầu vào. Việc khan hiếm
nguyên liệu dự trữ khi có đơn đặt hàng sẽ bị các nhà xuất khẩu bắt bí. Bên
cạnh đó, việc linh hoạt trong thiết kế các sản phẩm thay thế còn yếu. Các
sản phẩm gỗ ép, gỗ công nghiệp tái chế giá rẻ, nhẹ và tiện dụng dễ cạnh
tranh và tiêu thụ vẫn chưa được đầu tư đúng mức do chưa có… vốn và
công nghệ.
Vậy thiếu nguyên liệu trầm trọng là nguyên nhân sâu xa mà các
doanh nghiệp đang đổ lỗi?
Đây đúng là nguyên nhân chính của các doanh nghiệp gây nên tình
trạng giá nguyên liệu gỗ bấp bênh trong thời gian qua. Mỗi năm, nguyên
liệu gỗ phục vụ cho sản xuất chủ yếu là nhập khẩu chiếm tới 80% gây ra
áp lực lớn cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ còn biết cắt giảm
lương nhân công, lợi nhuận của mình khi mà nguyên liệu chiếm tới 60%
giá thành. Như vậy, trong hơn 2 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu thì có tới
hơn 1 tỷ tiền nguyên liệu, không tính được vào đâu trong khoản này đâu là
chi phí ảo hay lãng phí. Trên thực tế, thực trạng yếu kém này đã khiến Việt
Nam trở thành nước gia công cho các nhãn hàng trên thế giới, hiệu quả
kinh tế rất thấp.
Lãnh đạo Vifores cho rằg quy hoạch rừng của Việt Nam còn quá nhiều
bất cập trong khi trồng rừng chưa được quan tâm một cách hợp lý. Hàng
ngày qua các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta nghe rất nhiều tin
10
về việc gười dân tự ý đốt rừng của mình do hiệu quả kinh tế quá thấp. Vậy
ở đây nghịch lý là gì?
- Người dân chưa ý thức được những ích lợi to lớn trong việc trồng rừng.
Họ không đủ kiên nhẫn khi phải đợi đến 10 năm mới được thu hoạch
thành quả trong khi trồng các cây lúa và hoa mầu khác họ có thể thu

tiền về ngay. Họ nhẩm tính về lợi nhuận trước mắt nhưng họ chưa tính
được lợi nhuận thực sự của giá gỗ trong vòng 10 năm tới. Có những
rừng cây trồng đã hơn 5 năm gần đến ngày hưởng lợi, nhưng họ vẫn
đốt đêể nhanh chóng đuợc chuyển hướng nhanh hơn. Nếu có một bài
nhẩm tính, chắc rằng họ sẽ thấy chi phí cơ hội đã mất đi quá lớn. Tại
sao các quốc gia khác không ngừng hưởng lợi trong hoạt động trồng
rừng mà hoạt động trồng rừng tại Việt Nam lại quá ì ạch như vậy?
- Các doanh nghiệp gỗ trong cả nước sẵn sàng chi ra hàng trăm ngàn
USD để giành giật được các hợp đồng nhập gỗ nguyên liệu lại bỏ phí đi
nguồn lực trước mắt. Chỉ cần các doanh nghiệp dùng một phần số tiền
đó để hỗ trợ, bao tiêu cho nguời dân trồng rừng thì không chỉ tự chủ
được trong hoạt động nhập khẩu, giảm giá nhập khẩu mà còn giảm các
khoản cước vận chuyển và thuế rất nhiều.
Nước ta hiện nay có khoảng 16 triệu Ha đẩt trống và đồi núi trọc, trong
đó có 8 triệu Ha dự tính trồng rừng để sản xuất. Thực tế rất tốt khi giải
quyết được vấn đề của địa phương về việc làm và hoạt động xã hội, môi
trường nhưng thực tế, các địa phương và nông dân chưa đủ kinh nghiệm
và kinh phí để quản lý rừng, đặc biệt với một diện tích lớn tại mỗi địa
phương như vậy. Hiện nay, có một số các doanh ghiệp có khả năng và
tiềm lực mong muốn đầu tư vào hoạt động trồng rừng thì lại gặp quá nhiều
rào cản pháp lý hay chưa được quan tâm đúng mức.
11
Thêm vào đó, mạng lưới các cơ sở chế biến gỗ trong cả nước chưa có sự
đồng bộ trong hoạt động. Sự xuất hiện ồ ạt của các cơ sở chế biến gỗ băm
dăm (gỗ tươi) làm cho nguồn nguyên liệu trong nước lại càng thêm khan
hiếm. Một nghịch lý đang diễn ra là một số doanh nghiệp đang xuất khẩu
gỗ tươi, trong khi đó đại đa số các doanh nghiệp lại phải nhập khẩu cả gỗ
bột.
Gia nhập WTO không chỉ là cơ hội mà vô cùng nhiều thách thức.
Các doanh nghiệp của các nước đã trong WTO hoạt động đã lâu, chúng ta

gia nhập cũng chỉ được hưởng các quyền lợi như họ nên như các Ban
ngành đánh giá, thách thức nhiều hơn cơ hội. Giờ đây, các sản phẩm gôc
của nước ngoài khi nhập khẩu vào Việt Nam chỉ còn hai mặt hàng bị đánh
thuế là gỗ ván và gỗ mộc tinh chế. Các doanh nghiệp không chỉ còn tập
trung đối phó với thị trường bên ngoài mà thị trường trong nước lại càng
cần mất công gìn giữ. Cánh cửa WTO rộng mở, cùng với nó là các hàng
rào kĩ thuật bị siết chặt hơn, vấn đề chất lượng được đặt ra cấp thiết hơn
lúc nào hết.
1.2. Thị trường gỗ và sản phẩm gỗ tại EU:
(1) Đặc điểm:
Thị trường EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Thị trường
EU có các đặc điểm lớn sau:
- Thị trường rộng lớn: Với 25 nước thành viên, các đặc điểm kinh tế xã
hội khá giống nhau nên đây là một thị trường tiềm năng dễ tìm hiểu và
khai thác. Trên thế giới, không chỉ mặt hàng đồ gỗ và các sản phẩm gỗ
coi EU là thị trường mục tiêu số một mà hầu hết các nước, các ngành
hàng khi xuất khẩu một mặt hàng đều có mục đích hướng tới thị trường
này. Sự tiện lợi không chỉ đây là thị trường lớn nhất trên thế giới mà
12
còn vì các chính sách ưu đãi trong khu vực. Việc thâm nhập vào một thị
trường mục tiêu trong khối sẽ tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho chiến
lược mở rộng thị trường trong toàn khối sau này.
- EU coi Việt Nam là một “ nước có nền kinh tế thị trường ” các doanh
nghiệp Việt Nam nên tranh thủ để cạnh tranh, tạo sự bình đẳng với các
nước khác cùng xuất khẩu vào thị trường này. Vấn đề lớn nhất khi xuất
khẩu là phải cạnh tranh với các bạn hàng. Việc cạnh tranh về mầu mã,
giá cả là một quá trình rất gian nan khi mà ngành gỗ của chúng ta còn
chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức. Các chính sách bất bình đẳng
làm cản trở khiến các doanh nghiệp Việt Nam có xuất phát điểm thấp
hơn đã làm một số ngành xuất khẩu của chúng ta gặp các bất lợi chồng

chéo. Vì vậy chúng ta cần tận dụng chính sách này của EU.
- EU là một thị trường có khả năng chi tiêu và mua sắm rất lớn: Thu nhập
bình quân đầu người của EU được coi là lớn nhất trên thế giới. Sở thích mua
sắm biến EU thành thị trường béo bở cho nhiều nhà xuất khẩu. Vấn đề là
làm sao để trở thành mặt hàng tiêu dùng yêu thích tại khu vực này. Các nhà
kinh tế thường tìm kiếm các khách hàng đích thực là những người không chỉ
muốn mà còn có thể mua hàng của họ. Vấn đề thu nhập, khả năng mua sắm
cho mỗi mặt hàng là bài toán đau đầu cho mỗi doanh nghiệp khi có ý định
thâm nhập vào một thị trường nào đó. Liệu thị trường đó có đủ lượng người
tiêu dùng đảm bảo cho thành công của họ không? Liệu các sản phẩm của họ
có trở thành sản phẩm tốt, được đông dảo người dân muốn sở hữu nhưng tất
cả những gì mà họ làm được là chỉ nhìn qua cánh cửa kính khi mà thu nhập
không cho phép họ sở hữu chúng? Và cũng liệu sản phẩm của họ bị coi là
các sản phẩm giá rẻ, không xứng tầm với khả năng tiêu dùng của thị trường
đó nên không được ai ngó ngàng tới? Đấy là nỗi lo của các doanh nghiệp
13
và thị trường EU có thể giải bài toán đó khá rõ ràng: Thị trường có thu nhập
cao, yêu thích các sản phẩm hợp thời và không quá nặng về vấn đề giá cả.
- Tính thẩm mỹ và các quan niệm thẩm mỹ: EU là một thị trường khá
đồng nhất nên các doanh nghiệp có thể dễ dàng tạo ra được một mẫu
mã thu hút cho toàn khối. Tuy nhiên, 25 nước cũng có rất nhiều điểm
văn hoá khác biệt. Sản phẩm có thể dễ dàng được ưa chuộng tại thị
trường này nhưng khi xâm nhập vào thị trường khác lại khó khăn hơn.
Tất nhiên, sự khó khăn này không phải là quá lớn vì nó chỉ đòi hỏi các
doanh nghiệp điều chỉnh đôi chút khi các đặc điểm lớn nhất lại hầu hết
là tương đồng. Các doanh nghiệp có thể tận dụng lợi thế này trong việc
xuất khẩu hàng vào một nước trong khối, sau đó đưa các sản phẩm có
tính đồng nhất cao sang các nước khác của EU. Tại các nước này, việc
chế tác các khâu cuối cùng cho phù hợp với đặc điểm của từng nước
được hoàn thiện, sau đó sản phẩm được đưa ra thị trường.

- Yêu cầu cao về chất lượng: Do có đặc điểm là đời sống của người dân
trong khu vực là rất cao nên họ thường đòi hỏi các sản phẩm tiêu dùng
phải tương xứng về chất lượng. Hàng rào kĩ thuật tại EU được cho là
phức tạp và thách thức nhiều nhất cho các doanh nghiệp không chỉ của
Viẹt Nam mà toàn thế giới. Đảm bảo chất lượng đi đôi với mẫu mã
hình thức đẹp đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải đầu tư không
chỉ máy móc trang thiết bị hiện đại mà cả nguồn nhân lực có kĩ năng
tốt.
- Các đòi hỏi về môi trường: Thách thức cho các doanh nghiệp Việt
Nam là việc xây dựng các chứng chỉ rừng FSC và COC còn thiếu và
yếu. Các cuộc vận động cách mạng xanh và vì môi trường mạnh nhất
tại EU. Tại một số nước như Hà Lan và Đan Mạch, họ tẩy vhay tất cả
các mặt hàng không có chứng chỉ này.
14
Vậy đặc điểm chung của EU là gì? Đó là sự đồng nhất về văn hoá và thu
nhập, có khả năng chi tiêu và mua sắm rât lớn. Tuy nhiên đòi hỏi về chất
luợng và môi trường lại rát cao thách thức không ít các doanh nghiệp.
(2) Dung lượng:
Với dân số hơn 500 triệu người, diện tích 4 triệu km
2
, GDP là 12,18 tỷ
USD, GDP bình quân đầu người là 28.100 USD ( theo báo cáo năm 2005)
thì EU là một thị trường lớn có sở thích mua sắm và thu nhập ổn định. Có
thể nói rằng thị trường EU là mầu mỡ với tất cả các doanh nghiệp trên thế
giới. Khả năng sẵn sàng chi trả cho các đồ dùng xa xỉ, tính khá đồng nhất
của thị trường khiến dung lượng cua thị trường này trở nên rất lớn.
Tất nhiên thu nhập và nhu cầu tiêu dùng cao thì thường đòi hỏi sự đáp
ứng phù hơp, các sản phẩm và dịch vụ tương xứng. Các doanh nghiệp của
Việt Nam không thể quá ỷ lại vào thị trường rộng lớn mà đưa các sản
phẩm có chất lượng không ổn định hay quá chênh lệch nhằm mục đích

thâm nhập các đoạn thị trường khác nhau được. Có hai lý do:
- Thứ nhất, các nước EU có thói quen tiêu dùng khá giống nhau nên các
sản phẩm giữa các nước thường đòi hỏi chất lượng, mẫu mã tương tự
nhau. Như tại thị trường Đức, Tây Ban Nha và Phần lan, các sản p-hẩm
gỗ đước ưa chuộng là các loại gỗ nhẹ, phù hợp với khí hậu lạnh và kiểu
dáng đều khá đơn giản. Chúng ta thường đánh giá Đức là quốc gia thực
dụng khi chỉ đòi hỏi các sản phẩm đơn giản, hữu hiệu nhưng theo đánh
giá của công ty Khải Vy, hầu hết các nước trong khối liên minh EU đều
ưa chuộng các sản phẩm như vậy.
- Thứ hai, thu nhập khá ngang bằng tại mức cao và ổn định nên các sản
phẩm xuất khẩu sang đây thường yêu cầu có thương hiệu đồng nhất khá
cao.
15
Đây chính là điểm mạnh của thị trường EU. Dung lượng lớn cùng
với rất ít sự khác biệt là một thuận lợi rất lớn với các doanh nghiệp làm ăn
có nguyên tắc, đảm bảo các tiêu chuẩn thị trường có thể thâm nhập vào
đây. Thâm nhập được vào một trong 25 nước thành viên tức chúng ta đã
có thể đặt một bước tiến lâu dài cho sự phát triển lâu dài tại tiàn bộ thị
trường EU.
Sự khó tính của thị trường này có lẽ chỉ thách thức các doanh nghiệp
khi tìm kiếm các giải pháp để hoàn thiện các chiến dịch thâm nhập của
mình hơn chứ không hề cản bước tiến vào thị trường. Theo đánh giá, thị
trường EU rất khó tính trong việc lựa chọn các sản phẩm có mẫu mã hợp
thời, đẳng cấp chất lượng cao. Chính vì vậy, việc thay đổi thưòng xuyên
các sản phẩm gỗ dùng trong gia đình cùng với lượng tiền lớn đổ vào cho
hoạt động mua sắm đứng đầu thế giới cùng với thị trường Mỹ khiến thị
trường EU trở nên không bao giờ bão hoà, một miền đất hứa cho các
doanh nghiệp biết “ chiều khách”.
Thách thức là không nhỏ nhưng những gì đạt được tại thị trường có
quá nhiều khách hàng tiềm năng và vô cùng rộng lớn này sẽ chẳng thể

khiến số lượng nhà xuất khẩu giảm đi. Điều này chúng ta sẽ nghiên cứu kĩ
hơn ở phần cạnh tranh.
(3) Cạnh tranh:
- Số lượng các nhà xuất khẩu trong ngành tại EU là gần 2 triệu
doanh nghiệp. Một con số không hề nhỏ khi mà ngày ngày khi bật
máy tính, vào các trang về xuất khẩu đồ gỗ vào EU, con số các nhà
doanh nghiệp được Google thống kê kéo dài từ trang này sang trang
khác. Trong khi các doanh nghiệp trong chính EU có lợi thế về hiểu
biết nhu càu, thị hiếu và mẫu mã thị trường thì các doanh nghiệp ngoài
khối chủ yếu đến từ Châu Á và Châu Mỹ lại tung ra các cạnh tranh về
16
giá. Các doanh nghiệp Việt Nam là người đi sau nhưng lại khá lúng
túng trong việc đặt ra các lợi thế cạnh tranh của mình. Với tư cách là
doanh nghiệp đi sau, các doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng tiệt để
được lợi thế khắc phục những khuyết điểm của các nước đi trước mà
chính sự non kém làm chúng ta bị thua thiệt rất nhiều. Sự cạnh tranh
đến từ không chỉ các doanh nghiệp nước ngoài mà từ cả các doanh
nghiệp trong nước. Đó là do sự hạn chế trong liên kết của hiệp hội. Các
doanh nghiệp còn thiếu sự chủ động khi còn phụ thuộc nhiều vào sự
tìm hiểu thị trường từ cấp trên. Khi thị trường Ý được đánh giá là thành
công với một doanh nghiệp thì ngay lập tức, hầu hết các doanh nghiệp
sẽ quay sang xâu xé thị trường này. Lỗ hổng của các doanh nghiệp là
quá để ý đến nhau mà quên đi rằng đối thủ lớn nhất không phải là các
doanh nghiệp trong nước mà là từ nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt
Nam xuất khẩu vào EU mới chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong miếng
bánh thị phần và lợi nhuận khổng lồ từ EU. Cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong nước chỉ khiến thu hẹp thị phần dành cho Viẹt Nam, mở
rộng hơn nữa cơ hội cho các doanh nghiệp nước ngoài.
- Sự yếu thế trong việc thiết lập các kênh phân phối hàng hoá khiến
cho sản phẩm Vifores bị chèn ép, mất dần nhãn hiệu và khả năng cạnh

tranh. Cũng nhu Nhật Bản, các kênh phân phối của EU có các mối quan
hệ lâu đời cả về tài chính và mặt xã hội. Nếu các doanh nghiệp không
mạnh thực sự thì mãi mãi các sản phẩm của mình muốn được nằm
trong kênh phân phối này phải mang các thương hiệu của chính các
kênh phân phối này dán vào. Vấn đề thật sự là người dân EU yêu thích
các sản phẩm có tên tuổi vì theo họ nó thể hiện đẳng cấp và là dấu hiệu
đảm bảo tốt nhất; vì vậy nếu không phải là tên tuổi lớn thì dù sản phẩm
có tốt thì cũng không được đánh giá cao. Trong khi đó, tên tuổi của các
17
doanh nghiệp Việt Nam lại rất ít được để ý, thậm chí với một số người
hàng Việt Nam đi đôi với hàng giá rẻ và chất lượng thấp. Nếu nđặt giá
quá cao lại bị coi là chưa xứng tầm. Qua đó, các doanh nghiệp không
còn cơ hội và khả năng thâm nhập trực tiếp vào EU.
- Cạnh tranh về mẫu mã, nhãn hiệu là vô cùng khốc liệt. Phải công
nhận rằng đây là điểm yếu của chúng ta. Các sản phẩm của Việt Nam
đang xuất hiện và có thể cạnh tranh lại không mang nhãn hiệu xuất xứ
từ trong nước mà phải mang nhãn mác của các nhà nhập khẩu trung
gian. Sau khi giao sản phẩm cho các nhà nhập khẩu trung gian, sản
phẩm của chúng ta được đặt dưới một cái tên khác và giá cả tăng lên
gấp nhiều lần. Trong khi đó sản phẩm khi được đặt hàng tại các doanh
nghiệp trong nước bị ép giá, lợi nhuận trên giá thành khi xuất có khi chỉ
được 1 USD. Do yếu thế nên hầu hết các doanh nghiệp đều cam chịu để
duy trì tồn tại với hi vọng môi trường kinh doanh được cải thiện.
Nhưng đây chính là vòng luẩn quẩn khi xuất với giá bèo bọt như vậy,
lợi nhuận sau thuế không đủ để các doanh nghiệp này nâng cấp và cải
thiện dây chuyền sản xuất, đầu tư vốn cho hoạt động thâm nhpậ và
cạnh tranh thị trường. Không gây được tiếng vang trên tị trường tì sản
phẩm khó có thể cạnh tranh xuất khẩu và phân phối trực tiếp thành
công tới người tiêu dùng EU. Sản phẩm do chúng ta thiết kế còn quá
đơn điệu, trong nước không có trường lớp đào tạo chính quy bài bản.

Các sản phẩm của Vinafor, của Hàng Anh Gia Lai, của Khải Vy không
có tính đột phá và hàu hết đều có điểm tương đồng. Do đó, các sản
phẩm của chúng ta hầu hết theo các đơn đặt hàng từ nước ngoài với
kiểu dáng định trước hay ăn trộm kiểu dáng nước ngoài. Trong khi đó,
giá trị của các thiết kế kiểu dáng có thể chiếm tới 30% giá thành nhưng
chúng ta không biết tận dụng nên đã để các đơn vị đựt hàng hưởng lợi
18
vì chính sự yếu kém của chúng ta. Chúng ta chưa chủ động và mạnh
dạn trong việc tiết kế mẫu mã. Phần vì lo không phù hợp với gu thẩm
mỹ, phần vì lo bị đánh giá thấp nên sản phẩm làm ra luôn bị nđặt ở mức
lợi nhuận “ tồn tại được”. Thách thức lớn là khi không có đơn đặt hàng
hay bị kiện, khả năng cạnh tranh sẽ giảm hẳn. Khoản lợi nhuận nhỏ
không đủ để đáp ứng các khoản yêu cầu đòi bồi thường. Trong tình thế
khó khăn hàng bị trả lại, các doanh nghiệp thà để lại hàng còn hơn chịu
các chi phí khi mang hàng về. Thêm một khoản chi phí tức cắt giảm đi
một khoản lợi nhuận dẩy công ty vào tình cảnh thiếu vốn xoay vòng.
- Chúng ta hầu như không có khả năng cạnh tranh về giá khi không
chủ động được khâu phân phối. Khâu nguyên liệu và thiết kế kiếu dáng
chiếm một phần lớn giá thành sản phẩm thì lại thuộc về các nước thứ
ba nhập khẩu hàng của chúng ta đưa sang EU. Các doanh nghiệp của
chúng ta chỉ biết nhận các đơn đặt hàng từ nước ngoài với giá cả thoả
thuận, nếu biét tính toán và sử dụng hợp lý thì lợi nhuận sẽ được cải
thiện trong khi không biết được sản phẩm của mình làm ra mang sang
EU, được đóng nhãn dán mác sẽ được định giá là bao nhiêu.
Có thể nói là khả năng cạnh tranh của chúng ta còn vô cùng yếu kém, cần
phải cải thiện bằng chính nỗ lực bản thân.
19
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
GỖ VÀ CÁC SẢN PHẨM GỖ CỦA VINAFOR

VÀO THỊ TRƯỜNG EU
2.1. NHI
ỆM VỤ, MỤC TIÊU KINH DOANH CHỦ YẾU CỦA
VINAFOR
(1) Tham gia xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành nghề; công
nghiệp khai thác, chế biến lâm sản, cơ khí lâm nghiệp, xây dựng công trình
lâm nghiệp, kinh doanh lâm sản trong nước, xuất nhập khẩu lâm sản, trồng
rừng nguyên liệu công nghiệp.
(2) Trực tiếp tổ chức sản xuất và kinh doanh các ngành nghề sau đây:
-Trồng rừng nguyên liệu công nghiệp.
- Khai thác, vận tải lâm sản.
- Chế biến gỗ và nông-lâm sản.
-Kinh doanh và xuất nhập khẩu lâm-nông sản, kể cả động vật, chim thú, cây
cảnh…
- Chế tạo, sửa chữa co khí bao gồm: máy lâm nghiệp, thiết bị nâng hạ, lắp ráp
ô tô, xe máy và thiết bị điện theo sự phân công của Nhà nước.
-Xây dựng công trình công nghiệp và dân dụng, sản xuất và kinh doanh vật
liệu xây dựng.
- Du lịch lâm nghiệp bao gồm: khách sạn, lữ hành quốc tế và nội địa, vận
chuyển khách du lịch và dịch vụ du lịch.
20
Việc tận dụng năng lực hiện có của Tổng công ty để kinh doanh nhiều ngành
nghề pahỉ theo đúng quy định của pháp luật, trên cơ sở bảo đảm phát triển các
ngành khai thác, chế biến lâm sản, trồng rrừng nguyên liệu công nghiệp, chế
tạo, sửa chữa máy lâm nghiệp, xây dựng công trình lâm nghiệp.
(3) Thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học và công nghệ về những ngành
nghề có lien quan đến kinh doanh sản xuất của Tổng công ty.
(4) Đào tạo công nhân kỹ thuật theo kế hoạch nhà nước giao.
(5) Liên doanh, lien kết với các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước để phát
triển các ngành nghề được giao kinh doanh

2.2. GIỚI THIỆU VỀ TỔNG CÔNG TY LÂM NGHIỆP VIỆT NAM
Tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam (TCTLNVN) có tên giao dịch quốc tế là:
VIETNAM FOREST PRODUCTS CORPORATION
Tên viết tắt:VINAFOR
Quy mô vốn: 1.036.364 triệu đồng
Tổng số lao động: 11.163 lao động
Trụ sở chính của Tổng công ty đặt tại:
127 Lò Đúc, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
Chi nhánh văn phòng đại diện của tổng công ty đặt tại 3 thành phố:
1. Thành phố Đà Nẵng, Tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng.
2. Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định.
3. Thành phố Hồ Chí Minh.
Có tài khoản Ngân hang đặt tại 4 ngân hang thương mại chính của Việt Nam.
Tài khoản chính số:
Nam(Vietcombank)
001.100.0018506 tại ngân hàng Ngoại thương Việt
Webside:
Điện thoại:
Fax:

(84.4)8219081
(84.4)8219087
21
2.2.1. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA VINAFOR:
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy vá các đơn vị thành viên
Chủ tịch Hội đồng Quản trị
Hội đồng Quản trị
Tổng Giám Đốc
Các Phó Tổng Giám Đốc
Văn

phòng
Tổng
công
ty
Phòng
tổ
chức
lao
động
Phòng
kế
hoạch
Phòng
lâm
nghiệp
Phòng
kỹ
thuật,
hợp
tác
Phòng
kinh
doanh,
XNK
Phòng
kế
toán,
tài
chính
Phòng

kiểm
toán

thanh
Phòng
đầu tư
xây
dựng
cơbản
Các đơn vị
hạch toán
độc lập
Các công ty liên
doanh
Các văn
phòng đại diện
Các đơn vị hạch
toán
phụ thuộc
(Nguồn:phòng kế hoạch)
22
Hiện nay Tổng công ty có 54 đơn vị thành viên, trong đó có 47 đơn vị
hạch toán độc lập, 7 đơn vị hạch toán phụ thuộc.
2.2.2. HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
2.2.2.1. SẢN PHẨM CHỦ YẾU CỦA VINAFOR:
2.2.2.1.1. Đồ mộc từ ván nhân tạo và vật liệu tổng hợp:
Do những đặc tính cơ lý ưu việt của ván nhân tạo (ván sợi MDF, ván
dăm PB, ván ghép thanh) nên đồ mộc làm từ loại ván này rất thích hợp với
nội thất hiện đại. Kiểu dáng, màu sắc phong phú, độ bền cao, dễ lắp đặt là ưu
điểm lớn của đồ mộc loại này.

Ván dăm(PB) là ván nhân tạo được sản xuất từ nguyên liệu gỗ rừng
trồng có độ bền cơ lý cao, lích thước bề mặt rộng và có nhiều loại chiều dày
khác nhau. Mặt ván có thể dán phủ bằng nhiều loại vật liệu trang trí khác
nhau như Melamine, gỗ lạng… Nhà máy ván dăm Thái Nguyên với công suất
16.500 m3 sản phẩm/năm được áp dụng hệ thống quản lý chất lưọng ISO
9001-2000 trang bị công nghệ tiên tiến đã sản xuất ván dăm đạt các tiêu
chuẩn kỹ thuật thiết kế có kích thước 1.220×2.440 mm( dày 8-32 mm). Công
nghệ dán phủ mặt và cạnh ván thỏa mãn cho nhiều kích thước và biên dạng
của sản phẩm.
Ván sợi có đặc tính cơ ly cao, kích thước lớn, phù hợp với công nghệ
sản xuất nội thất vùng nhiệt đới. Nhà máy MDFF Gia Lai của Vinafor có
công suất 54.000 m3 sản phẩm/năm sử dụng công nghệ dây chuyền hiện đại
Vhâu Âu theo hệ thống quản lý chất kượng ISO 9001-2000. Quy cách
1830×2440 mm dầy 6-30 mm.
Nguyên liệu chính của ván ghép thanh là gỗ rừng trồng. Ván được tọ ra
bởi các thanh gỗ nhỏ đã qua sử lý hấp sấy. Trên dây chuyền công nghệ tiên
tiến, thiết bị hiện đại, gỗ được cưa, bào, phay, ép, chà và sơn phủ trang trí.
23
Các sản phẩm đồ mộc nội thất của VINAFOR: bàn ghế, giường tủ, tủ
bếp, vách ngăn,sàn nhà, ốp tường, ốp trần… làm từ ván nhân tạo, thích hợp
cho nội thất gia đình, công sở, trường học, nhà hang, khách sạn, nhà văn hóa,
cung thể thao…
2.2.2.1. 2.Đồ mộc nội và ngoại thất từ gỗ tự nhiên:
Nguồn gỗ được khai thác từ rừng tự nhiên là nguyên liệu quý dung
trong công nghiệp sản xuất đồ mộc. Đồ mộc giả cổ, cửa, khuôn cửa, đồ mộc
nội thất là những mặt hang của Vinafor được thị trường trong và ngoài nước
ưa chuộng.
Nhờ đầu tư cải thiện công nghệ xử lý đồ gỗ và nâng cao trình độ tay
nghề nên các xí nghiệp sản xuất đồ mộc của Vinafor không chỉ sử dụng gỗ từ
các nhóm quý hiếm mà còn sử dụng từ các nhóm gỗ thông dụng hơn: gỗ điều,

gỗ cao su, gỗ bạch đàn, gỗ xà cừ…
Với mục tiêu đa dạng hóa sản phẩm và tiết kiệm gỗ, Vinafor đã sản
xuất các loại sản phẩm kết hợp từ gỗ tự nhiên với các chất liệu khác như chất
dẻo , kim loại, nhựa tổng hợp.
2.2.2.1.3. Các sản phẩm mỹ nghệ từ gỗ, đá, mây, tre:
Sản phẩm mỹ nghệ từ các vật liệu rừng nhiệt đới: song, mây, tre, guột
là mặt hang truyền thống của Vinafor được thị trường Âu, Mỹ và khu vực ưa
chuộng.
Trình độ tay nghề khéo léo trong việc kết hợp với các vật liệu truyền
thống như: sơn mài, gỗ, đá, sành sứ… dã tạo ra những sản phẩm đạt tính thẩm
mỹ cao, đa dạng kiểu dáng phù họp cho mọi loại hình nội thất.
2.2.2.1.4.Lâm đặc sản:
Kết hợp với trồng rừng nguyên liệu, Vinafor cũng chú trọng trồng các
loại cây khác để tạo nguồn , khai thác các đặc sản rừng: dầu thông,cánh kiến,
xa nhân,quế, hồi… nhằm mục đích xuất khẩu cho các ngành kinh tế khác
24
như: hóa mỹ phẩm, hóa dược, công nghệ sơn phủ, vecni, sơn cách điện, công
nghệ điện tử viễn thong. Vinafor có tiềm lực tạo nguồn cây cảnh (Bonsai) và
chăn nuôi chim thú rừng nhiệt đới.
2.2.2.1.5. Trồng rừng:
Vinafor hiện nay đang quản ký 150.000 ha rừng và đất rừng đựoc phân
bổ trên nhiều tỉnh thành khắp cả nước từ miền Bắc, miền Duyên Hải, miền
Trung, Tây Nguyên tới miền Nam, bao gồm các tỉnh: Lạng Sơn, Quảng Ninh,
Bắc Giang, Thái Nguyên, Hòa Bình, Hà Tĩnh, Quảng Trị… Bên cạnh việc
trồng rừng tại các lâm trường trực thuộc, Vinafor còn hợp tác với hơn 20 đơn
vị trồng rừng địa phương và hang ngàn hộ dân dưới hình thức kí hợp đồng
đầu tư vốn trồng r
ừng
và bao tiêu sản phẩm.
Công tác trồng rừng của Vinafor luôn hướng tới mục tiêu: kinh tế-xã

hội-môi trường, góp phần thực hiện chủ trương định canh định cư, xóa đói
giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc miền núi.
Diện tích rừng trồng của Vinafor ngày càng mở rộng có chất lượng, sản
lượng cây trồng cao, đang cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất ván
nhân tạo, đồ mộc, dăm gỗ xuất khẩu, gỗ trụ mỏ và các nhu cầu sử dụng gỗ
khác của xã hội.
2.2.2.1.6. Tạo giống cây trồng:
Để đạt hiệu quả kinh tế cao trong trồng rừng, Vinfor đã áp dụng công
nghệ lâm sinh tiên tiến, trọng tâm là công nghệ tạo giống cây. Hiện Vinafor
đã đầu tư xây dựng 3 trung tâm nuôi cấy mô tại các tỉnh Hòa Bình, Bắc
Giang, Gia Lai và hang chục cơ sở có vườn ưon giâm hom để cung cấp cây
trồng cho các hộ dân và lâm trường trồng rừng.
Nhờ áp dụng công nghệ tạo giống bằng nuôi cấy mô, nên cây sinh
trưởng tốt, phất triển đồng đều, cho năng suất cao và khả năng thu hồi vốn
nhanh.
25
2.2.2.1.7. Xuất nhập khẩu:
(1) Xuất khẩu:
- Ván nhân tạo.
- Đồ mộc nội ngoại thất.
- Lâm đặc sản.
- Hàng mỹ nghệ.
- Chim thú, cây cảnh.
- Nông sản, thủy sản.
- Gỗ rừng trồng và bán thành phẩm.
- Lao động đã qua đào tạo nghề và ngôn ngữ giao tiếp.
(2) Nhập khẩu:
- Công nghệ và thiết bị tiên tiến.
- Vật tư kỹ thuật.
- Gỗ nghuyên liệu.

2.2.2.1.8. Du lịch khách sạn và dịch vụ:
Thông qua các loại hình dịch vụ, Vinafor đã phát huy được thế mạnh và
tính ưu việt của rừng.
Du lịch lâm nghiệp là 1 trong những lĩnh vực hoạt động kinh doanh của
Vinafor. Du lịch lâm nghiệp bao gồm:
- Du lịch sinh thái.
- Du lịch mạo hiểm.
- Lữ hành.
- Kinh doanh khách sạn và dịch vụ du lịch.

×