Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

nghiên cứu cơ chế viêm của cá giò (rachycentron canadum) sau khi tiêm vắc xin phòng bệnh vi khuẩn bằng phương pháp mô bệnh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.99 MB, 69 trang )

10
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HUYỀN
NGHIÊN CỨU CƠ CHẾ VIÊM CỦA CÁ GIÒ (RACHYCENTRON
CANADUM) SAU KHI TIÊM VẮC XIN PHÒNG BỆNH VI KHUẨN
BẰNG PHƯƠNG PHÁP MÔ BỆNH HỌC
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Quảng Ninh, tháng 11 năm 2014
11
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HUYỀN
NGHIÊN CỨU CƠ CHẾ VIÊM CỦA CÁ GIÒ (RACHYCENTRON
CANADUM) SAU KHI TIÊM VẮC XIN PHÒNG BỆNH VI KHUẨN
BẰNG PHƯƠNG PHÁP MÔ BỆNH HỌC
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Ngành: Nuôi trồng Thủy sản
Mã số: 60620301

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Vân
Quảng Ninh, tháng 11 năm 2014
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin thích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Quảng Ninh,25 tháng 11 năm 2014
Tác giả



Nguyễn Thị Phương Huyền
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
thầy cô , gia đình và bạn bè. Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến thầy cô trường
Đại học Nha Trang, Ban lãnh đạo Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1, Trung
tâm Nghiên cứu Quan trắc và Cảnh báo môi trường dịch bệnh Thủy sản khu vực
miền Bắc - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1 đã hướng dẫn và tạo điều kiện
thuận lợi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ts. Phan Thị Vân, Ths. Võ Anh Tú,
Ths.Cung Thị Lý đã tận tình hướng dẫn, hỗ trợ và giúp đỡ tôi bố trí thí nghiệm, thu
mẫu và xử lý mẫu trong suốt quá trình tôi thực tập tốt nghiệp và hoàn thành bài khóa
luận.
Cuối cùng, lời cảm ơn chân thành nhất xin được gửi tới gia đình và tập thể lớp
và các anh chị đồng nghiệp đã luôn bên cạnh động viên, đóng góp cho sự thành công
của luận văn.
Trong thời gian thực hiện đề tài tốt nghiệp, mặc dù đã có nhiều cố gắng, tuy
nhiên thời gian và kiến thức còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót nhất
định. Tôi rất mong được sự quan tâm, góp ý của của Hội đồng khoa học, quí thầy cô
và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Quảng Ninh, 25 tháng 11 năm
2014
Học viên thực hiện


Nguyễn Thị Phương Huyền
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i

LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC HÌNH v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vi
MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3. Nội dung nghiên cứu 2
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1 Sơ lược tình hình nuôi cá giò trên thế giới 3
1.2. Tình hình nuôi cá giò ở Việt Nam 4
1.3. Tình hình bệnh Vibriosis trên cá giò 5
1.3.1. Tình hình bệnh Vibriosis ở cá giò trên thế giới 5
1.3.2. Tình hình bệnh Vibriosis ở cá giò tại Việt Nam 6
1.4. Sử dụng vắc xin trong nuôi trồng thủy sản 7
1.4.1. Tình hình sử dụng vắc xin trong NTTS trên thế giới 7
1.4.2. Tình hình và triển vọng sử dụng vắc xin trong NTTS ở Việt Nam 10
1.4.3 Vắc xin bất hoạt có sử dụng chất bổ trợ 11
1.5. Biến đổi mô tế bào tại vùng tiêm vắc xin 12
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 15
2.2. Đối tượng nghiên cứu 15
2.3. Phương pháp nghiên cứu 16
2.3.1. Các nội dung thực hiện 16
2.3.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm 16
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu mô học 17
2.3.4. Phương pháp xác định các loại tế bào 19
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 22
iv
3.1. Kết quả nghiên cứu 22

3.1.1. Đặc điểm mô học cơ cá giò khỏe 22
3.1.2. Mô cơ cá giò 7 ngày sau khi tiêm các loại vắc xin và nhũ dầu 23
3.1.3. Mô cơ cá giò 14 ngày sau khi tiêm các loại vắc xin và nhũ dầu 34
3.1.4. Mô cơ cá giò 21 ngày sau khi tiêm các loại vắc xin và nhũ dầu 44
3.2. Thảo luận 53
3.2.1. Quá trình viêm 53
3.2.2. Bước đầu đánh giá hiệu quả của các loại vắc xin nhũ dầu 54
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 56
4.1. Kết luận 56
4.2. Kiến nghị 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO 57
Tài liệu tiếng Việt 57
Tài liệu tiếng Anh 58
Tài liệu Internet 60
v
DANH MỤC CÁC HÌNH
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC HÌNH v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vi
MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3. Nội dung nghiên cứu 2
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1 Sơ lược tình hình nuôi cá giò trên thế giới 3
1.2. Tình hình nuôi cá giò ở Việt Nam 4
1.3. Tình hình bệnh Vibriosis trên cá giò 5
1.3.1. Tình hình bệnh Vibriosis ở cá giò trên thế giới 5

1.3.2. Tình hình bệnh Vibriosis ở cá giò tại Việt Nam 6
1.4. Sử dụng vắc xin trong nuôi trồng thủy sản 7
1.4.1. Tình hình sử dụng vắc xin trong NTTS trên thế giới 7
1.4.2. Tình hình và triển vọng sử dụng vắc xin trong NTTS ở Việt Nam 10
1.4.3 Vắc xin bất hoạt có sử dụng chất bổ trợ 11
1.5. Biến đổi mô tế bào tại vùng tiêm vắc xin 12
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 15
2.2. Đối tượng nghiên cứu 15
2.3. Phương pháp nghiên cứu 16
2.3.1. Các nội dung thực hiện 16
2.3.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm 16
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu mô học 17
2.3.4. Phương pháp xác định các loại tế bào 19
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 22
vi
3.1. Kết quả nghiên cứu 22
3.1.1. Đặc điểm mô học cơ cá giò khỏe 22
3.1.2. Mô cơ cá giò 7 ngày sau khi tiêm các loại vắc xin và nhũ dầu 23
3.1.3. Mô cơ cá giò 14 ngày sau khi tiêm các loại vắc xin và nhũ dầu 34
3.1.4. Mô cơ cá giò 21 ngày sau khi tiêm các loại vắc xin và nhũ dầu 44
3.2. Thảo luận 53
3.2.1. Quá trình viêm 53
3.2.2. Bước đầu đánh giá hiệu quả của các loại vắc xin nhũ dầu 54
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 56
4.1. Kết luận 56
4.2. Kiến nghị 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO 57
Tài liệu tiếng Việt 57
Tài liệu tiếng Anh 58

Tài liệu Internet 60
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BKD Bệnh vi khuẩn ở thận (Bacteria Kiney Disease)
BSA
Anbumin huyết thanh bò (Bovine Serum Anbumin)
CFA Chất bổ trợ hoàn chỉnh (Complete Freund’s Adjuvant)
E Tế bào hồng cầu (Erythrocyte)
ERM Bệnh xuất huyết đường tiêu hóa (Enteric Redmouth)
FAO Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (Food and Agriculture
Organization)
H&E Hematocylin và Eosin
L Lympho bào
M Đại thực bào (Macrophage)
NTTS Nuôi trồng thủy sản
vii
O Giọt dầu (Drop oil)
SRBC Hồng cầu cừu (Sheep Red Blood Cells)
WBC Tế bào bạch cầu (White blood cell)
1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cá giò (Rachycentron canadum) là loài cá dữ, ăn thịt động vật và có tốc
độ sinh trưởng rất nhanh. Trong tự nhiên, cá giò sống ở vùng nước mặn, nước lợ
ven biển, rặng san hô cho đến vùng biển khơi thuộc các vùng biển nhiệt đới, cận
nhiệt đới và vùng nước ấm của biển ôn đới (Shaffer, 1989). Do có tốc độ sinh
trưởng nhanh (có thể đạt 6-8 kg sau 1 năm nuôi), chất lượng thịt cá ngon và có
tiềm năng về sản lượng lớn, giá trị cao trên thị trường nên cá giò hiện đang được
nuôi phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam (Su và ctv,
2000). Tại Việt Nam, cá giò được nuôi lồng trên biển ở các tỉnh thành như Hải
Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An, Khánh Hòa và Vũng Tàu (Svennevig và Nguyễn

Quang Huy, 2005). Dịch bệnh là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn tới sự
sụt giảm năng suất của các loài nuôi thủy sản, trong đó có cá giò. Đối với cá giò,
nếu như vi rút là tác nhân gây tỷ lệ chết cao ở giai đoạn cá giống thì vi khuẩn
Vibrio (gây bệnh Vibriosis) lại là tác nhân gây bệnh chủ yếu ở giai đoạn cá
thương phẩm (Lopez và ctv, 2002). Cá giò bị bệnh Vibriosis thường có tỷ lệ chết
trên 80% (Liu và ctv, 2004) trong đó cá dưới 4 tháng tuổi, <500 gam được cho là
nhạy cảm nhất với bệnh này với tỷ lệ chết cao lên đến 100% (Lin và ctv, 2005).
Khi cá bị bệnh do vi khuẩn, trong đó có bệnh Vibriosis trên cá giò, người
nuôi dùng kháng sinh để trị bệnh. Tuy nhiên điều này dẫn đến ô nhiễm môi
trường và không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính vì vậy, liệu pháp
phòng bệnh bằng vắc xin trong nuôi trồng thủy sản đang là hướng đi mới của các
nhà khoa học trong và ngoài nước. Hiện nay, các loại vắc xin thương mại cho cá
trên thế giới thường ở dạng tiêm, mặc dầu các loại vắc xin khác như ngâm, phun
và trộn vào thức ăn cũng đang được nghiên cứu. Sau khi tiêm vắc xin ở cơ lưng
xảy ra biến đổi mô học tại vùng tiêm, sự biến đổi này được gọi là phản ứng
viêm. Vùng xảy ra phản ứng viêm được gọi là vùng viêm và trong vùng này có
sự hiện diện của các ổ viêm khác nhau. Đối với loại vắc xin tiêm thì việc nghiên
cứu sự biến đổi mô cũng như sự có mặt của các tế bào miễn dịch tại vùng tiêm
vắc xin trên cá là hết sức cần thiết để có thể đánh giá được hiệu quả của vắc xin.
2
Chính vì vậy luận văn tốt nghiệp với tiêu đề: “nghiên cứu cơ chế viêm của cá
giò (Rachycentron canadum) sau khi tiêm vắc xin phòng bệnh vi khuẩn bằng
phương pháp mô bệnh học” được thực hiện và là một phần của đề tài nghiên
cứu cấp nhà nước nói trên.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
 Nghiên cứu sự biến đổi mô học tại vùng tiêm vắc xin.
 Bước đầu nghiên cứu khả năng gây đáp ứng miễn dịch của các loại vắc
xin khác nhau.
1.3. Nội dung nghiên cứu
 So sánh sự biến đổi mô cơ cá giò tại vị trí tiêm ở 7, 14, 21 ngày sau khi

tiêm các loại vắc xin.
 Xác định sự xuất hiện các loại tế bào miễn dịch theo thời gian sau khi
tiêm các loại vắc xin.
3
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Sơ lược tình hình nuôi cá giò trên thế giới
Cá giò (Rachycentron canadum) là loài sống ven biển, các loài cá di cư
phân bố rộng trong vùng biển nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới (Shaffer và
Nakamura 1989). Cá giò là một đối tượng nuôi mới đầy tiềm năng, đã được
nhiều nước trên thế giới từ Bắc Mỹ tới Châu Á tiến hành nghiên cứu và đưa vào
sản xuất. Ở khu vực Bắc Mỹ đã cho sinh sản nhân tạo thành công bằng cách tiêm
hoocmon sinh dục cho cá bố mẹ thu ngoài tự nhiên và tiến hành nuôi thương
phẩm cá giò (Arnold, 2002; Lê Xân và Nguyễn Quang Huy, 2005).
Do tốc độ tăng trưởng nhanh, giá trị thị trường cao và thành công lớn
trong việc sản xuất cá giò giống nên cá giò ngày càng được nuôi phổ biến ở khu
vực Đông Nam Á. Cá giò nuôi lồng có thể đạt được 6kg trong vòng một năm
(Chou và ctv, 2001; Nguyễn Quang Huy, 2002; Chou và ctv, 2004; Wang và ctv,
2005). Cá giò là thực phẩm rất được ưa chuộng của người dân châu Á, đặc biệt
là Đài Loan và Nhật Bản. Cá giò được đánh giá là có giá trị dinh dưỡng rất cao
(giàu vitamin E, protein, axit béo và DHA) và thường được dùng làm nguyên
liệu cho các nhà hàng (Miao và ctv, 2009).
Sản lượng cá giò nuôi gia tăng nhanh chóng từ năm 2002, đạt khoảng
30.000 tấn trong năm 2007. Ba nước sản xuất chính cá giò trong năm 2007 là
Trung Quốc (26.000 tấn), Đài Loan (4000 tấn) và Việt Nam (1.500 tấn) (Như
Văn Cẩn và ctv, 2010).
Ngoài ra cá giò cũng được báo cáo đang sản xuất giống và nuôi tại các
nước: Hoa Kỳ, Puerto Rico, Bahamas, Martinique, Belize, Brazil và Panama
(Bennetti và ctv, 2008). Vào tháng 3 năm 2010 Ấn Độ đã tiến hành sinh sản
nhân tạo 2,1 triệu trứng cá giò với tỷ lệ thụ tinh 90% (1,9 triệu trứng được thụ
tinh) và tỷ lệ nở 80% thu được 1.5 triệu ấu trùng cá giò (Gopakumar, G; Rao,

G.S; Nazar, A.K.A; Kalidas, C; Tamilmani, G; Sakthivel, M; Maharshi, V.A.
and Rao, K.S, 2011).
4
Năm 2011 công ty sản xuất cá giò Antillana của Colombia đã sản xuất
được 140 tấn cá giò nuôi lồng, Mỹ là thị trường chính của loại cá này. Cá giò
được coi là hướng đi chủ chốt cho sự phát triển của các doanh nghiệp thủy sản
tại Châu Mỹ La Tinh, nhằm cạnh tranh với các nước Châu Á và áp đảo trên thị
trường thế giới trong những năm qua. Theo thống kê của FAO, Đài Loan là nước
sản xuất cá giò lớn nhất thế giới với sản lượng hàng năm khoảng 4000 tấn.
1.2. Tình hình nuôi cá giò ở Việt Nam
Nuôi cá biển đang là hướng phát triển mới của nghề nuôi trồng thủy sản
tại Việt Nam với mục tiêu đến năm 2015 đạt sản lượng là 1 triệu tấn cá biển (Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2006). Cá giò là một trong những loài cá
biển nuôi phổ biến ở nước ta và đã được xác định là đối tượng nuôi chủ lực của
nghề nuôi biển do nhu cầu của thị trường cao và đặc biệt là đã chủ động được
việc sản xuất giống nhân tạo. Việt Nam sản xuất giống cá giò thành công vào
năm 1999 (Nguyễn Quang Huy, 2002, 2003). Cá giò được nuôi tại Việt Nam
bằng quy mô trang trại hộ gia đình (khoảng 1.000 tấn, chủ yếu là cho tiêu thụ
trong nước) cũng như trang trại hợp tác xã (khoảng 1.600 tấn / năm, chủ yếu là
để xuất khẩu) (Nguyễn Quang Huy, 2008; Như Văn Cẩn và ctv, 2010).
Hiện nay cá giò đang được nuôi ở nhiều tỉnh ven biển như Quảng Ninh,
Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Phú Yên, Khánh Hoà, Vũng
Tàu, Kiên Giang. Ở miền Nam và miền Trung Việt Nam, sản lượng cá giò thu
được chủ yếu được xuất khẩu sang Đài Loan và Nhật Bản, là nơi đầu mối đầu tư
kinh doanh của các nhà sản xuất chính (Svennevig và Nguyễn Quang Huy,
2005). Đặc biệt, hiện nay đã có 3 công ty 100% vốn nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam chỉ để nuôi cá giò phục vụ xuất khẩu.
Việt Nam được xem là nước đứng “hàng thứ 3” trên thế giới về sản xuất
giống và nuôi cá giò (Niels Svennevig, 2001). Công nghệ nuôi chủ yếu là nuôi
theo lồng, bè với hai kiểu lồng cơ bản là lồng kiểu Nauy và lồng chi phí thấp,

chịu được sóng gió. Hình thức nuôi bè chủ yếu tập trung ở Quảng Ninh, Hải
5
Phòng (Niels Sevenning, 2005).Việt Nam đã được ước tính về sản lượng cá giò
trong năm 2009 là 2.600 tấn (Như Văn Cẩn và ctv 2010).
Các yếu tố chính hạn chế phát triển cá giò tại Việt Nam là: thiếu chất
lượng giống, mặc dù sản xuất giống sản xuất tại Việt Nam đang gia tăng với một
tốc độ nhah, ví dụ như Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1 sản xuất 400.000
giống trong năm 2007 và 900.000 vào năm 2008 (Như Văn Cẩn và ctv,
2010); Ngành công nghiệp nuôi cá giò vẫn dựa trên nhập khẩu giống từ Đài
Loan và Trung Quốc (Hải Nam) (Nguyễn Quang Huy, 2008); Hạn chế khác bao
gồm dịch bệnh và thiếu thức ăn. Cá giò thường được cho ăn thức ăn giá trị thấp
(cá tạp), mặc dù một lượng nhỏ khẩu phần ăn được bổ sung thức ăn viên. Các
quy mô nuôi cá giò lớn hơn sử dụng ăn viên (Như Văn Cẩn và ctv, 2010).
1.3. Tình hình bệnh Vibriosis trên cá giò
1.3.1. Tình hình bệnh Vibriosis ở cá giò trên thế giới
Một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với ngành nuôi trồng thủy sản là
dịch bệnh. Tác nhân gây bệnh có thể được phân chia thành ba nhóm chính: vi rút, vi
khuẩn và ký sinh trùng. Cá giò nhạy cảm với cả ba nhóm tác nhân gây bệnh
trên. Có nhiều báo cáo về bệnh do vi khuẩn trên cá giò như: bệnh Mycobacteriosis
(do tác nhân gây bệnh thuộc giống Mycobacterium gây ra), bệnh Vibriosis (do tác
nhân gây bệnh thuộc giống Vibrio gây ra) và bệnh Streptococcosis (do tác nhân gây
bệnh thuộc giống Streptococcus gây ra) (Liao và ctv, 2004; Lowery và Smith,
2006). Các bệnh vi rút Lymphocystis và bệnh ký sinh Myxosporidosis cũng có thể
ảnh hưởng đến cá giò (Kaiser và Holt, 2005).
Vibriosis là một trong những bệnh do vi khuẩn nghiêm trọng nhất đối với
cá biển nuôi trên toàn thế giới trong đó có cá giò (Egidius, 1987; Hjeltnes &
Roberts, 1993; Lee, 1995; Ishimaru & ctv, 1996; Austin, 1999; Lee & ctv, 2002;
Alcaide, 2003). Cá giò bị bệnh Vibriosis thường có dấu hiệu bệnh lý như chướng
bụng, hỏng mắt, da bị loét và có màu tối sẫm. Cá giò nuôi nhiễm bệnh thường có
tỷ lệ chết cao trên 80% (Reed và Francis-Floyd, 2002; Liu và ctv, 2004). Cá dưới

6
4 tháng tuổi, <500 gam dường như nhạy cảm nhất với tỷ lệ chết cao nhất do các
tác nhân gây bệnh thuộc giống Vibrio gây ra (Lin và ctv, 2006).
Vibrio anguillarum là một tác nhân chính gây bệnh Vibriosis trên cá
giò. Bệnh thường bùng phát thành dịch vào cuối mùa hè ở vùng biển gần bờ khi
nhiệt độ tăng. Vibriosis ảnh hưởng đến gần 50 loài cá biển và cá nước ngọt (Woo
và Bruno, 1999). Cá giò bị nhiễm V.anguillarum thường có những biểu hiện như:
xuất huyết ở mắt, vây, ở bề mặt bụng và nội tạng (Toranzo và ctv, 2003).
Năm 2001, lần đầu tiên cá giò nuôi tại Đài Loan bị bệnh Vibriosis. Bệnh
này có thể xảy ra trên cá giò ở các kích cỡ khác nhau. V.alginolyticus đã thấy
xuất hiện trên cá giò ở kích thước 100-120gam và 8-12gam nuôi tại Đài Loan. V.
alginolyticus được báo cáo là một tác nhân gây bệnh chủ yếu cho cá giò nuôi ở
Đài Loan (Liu và ctv, 2004). Cá giò nhiễm V. alginolyticus thường có biểu hiện:
bơi lờ đờ, da tối và một số cá mắt bị hỏng.
Tác nhân gây bệnh Vibriosis là V.alginolyticus và V.parahaemolyticus
xuất hiện trên cá giò nuôi tại Đài Loan gây chết nghiêm trọng với tỷ lệ sống dưới
20% (Lin, Chen, Yang và ctv, 2005). Vào tháng 8 nẳm 2001 tại Đài Loan xác
định được V.harveyi (V.carchariae) là tác nhân gây ra viêm dạ dày và ruột ở cá
giò nuôi. V.harveyi được phân lập từ đợt bùng phát dịch bệnh nghiêm trọng trên
cá giò (Lee, Lin, Liu, 2003).
Vibrio vulnificus cũng đã được xác định là một tác nhân gây bệnh cho cá
giò nuôi. Khi cá bị nhiễm V. vulnificus thường biểu hiện dấu hiệu bệnh lý xuất
huyết bên ngoài mang, đầu, bụng và các gốc vây, đặc biệt là các vây ngực cùng
với xuất huyết trong gan và ruột. Triệu chứng đôi khi có thể là viêm loét vây
lưng và cơ bụng (Li và ctv, 2006).
1.3.2. Tình hình bệnh Vibriosis ở cá giò tại Việt Nam
Cá giò là đối tượng đang được nuôi phổ biến ở vùng ven biển, đặc biệt ở
Hải Phòng, Quảng Ninh và Khánh Hòa. Do môi trường nuôi ngày càng ô nhiễm
nên dịch bệnh thường xuyên xảy ra, làm giảm năng suất cá nuôi.
7

Ở nước ta mùa vụ dịch bệnh của cá giò khá rõ ràng, xuất hiện vào các
tháng 11 và 12 trong năm. Tỷ lệ chết cao 50% - 60%, nhất là vào thời điểm cuối
năm gắn với thời tiết lạnh và thường chết vào gần sáng. Cá chết ở kích cỡ nhỏ
hơn 0.6kg chiếm tới 65% (30.90% với cá kích cỡ nhỏ hơn 0.4kg và 35,95% với
cá kích cỡ từ 0.4 đến 0.6kg). Tỷ lệ chết giảm dần theo kích cỡ cá từ nhỏ đến lớn,
điều này có thể cho thấy cá nhỏ nhạy cảm với tác nhân gây bệnh hơn. Đối với
bệnh Vibriosis đã phân lập được một số loài thuộc giống Vibrio sau: Vibrio
alginolyticus, V.vulnificus, V.cholene, V.parahaemolyticus, V.anguillarum.
Nhóm vi khuẩn Vibrio spp luôn tồn tại trong nước biển, khi điều kiện môi trường
thay đổi xấu làm cá yếu, vi khuẩn sẽ xâm nhập và gây thành bệnh (Phan Thị Vân
và ctv, 2006).
Theo Đỗ Thị Hòa và ctv (2008), bệnh Vibriosis đã được phát hiện trên cá giò
nuôi tại trang trại ở Khánh Hòa. Cá bệnh xuất hiện các vết thương tổn trên bề mặt
cở thể, tróc vẩy và xuất huyết dưới da, nặng hơn có các vết loét sâu trên bề mặt cơ
thể. Cá bệnh bơi lờ đờ trên mặt nước, kém ăn hoặc bỏ ăn, chết lác đác và mọi kích
thước cá đều có thể nhiễm bệnh. Bệnh Vibriosis có tỷ lệ gặp cao ở cá nuôi lồng
(100%), cá nuôi ao gặp thấp hơn (58,3%). Một số loài vi khuẩn Vibrio đã phân lập
được từ nội tạng cá bệnh, trong đó Vibrio anguillarum đã gây bệnh trong điều kiện
nhân tạo (60-80%) với liều tiêm 0,3ml huyền dịch có mật độ vi khuẩn 4.10
6
- 4.10
7
tb/ml sau 3 ngày tiêm.
1.4. Sử dụng vắc xin trong nuôi trồng thủy sản
1.4.1. Tình hình sử dụng vắc xin trong NTTS trên thế giới
Vắc xin là một chế phẩm có tính kháng nguyên từ toàn bộ hoặc một phần
chiết xuất từ sinh vật gây bệnh, được sử dụng để tăng cường phản ứng miễn dịch
đặc trưng của vật chủ mẫn cảm. Vắc xin phòng bệnh trong NTTS được bắt đầu
nghiên cứu và phát triển từ năm 1973, đến cuối những năm 1987 thì được đưa
vào sử dụng (Newman và ctv, 1993). Tính đến tháng 7 năm 2005, đã có 35 loại

vắc xin phòng bệnh vi khuẩn và 2 loại vắc xin phòng bệnh vi rút được đăng ký
bản quyền và sử dụng cho 6 đối tượng nuôi phổ biến trên 41 quốc gia trên thế
8
giới bao gồm cá hồi, cá chẽm châu Âu, cá chẽm châu Á, cá rô phi và cá Bơn
đuôi vàng. Tại Na Uy, việc sử dụng vắc xin phòng bệnh do vi khuẩn rất có hiệu
quả. Những nghiên cứu trước đây cho thấy phòng bệnh cho cá bằng vắc xin ở
quy mô thương mại đã được thực hiện rất hiệu quả trong nghề nuôi cá hồi nhằm
phòng ngừa các bệnh do vi khuẩn: bệnh do Vibrio (Vibriosis), bệnh do Vibrio
mùa lạnh (cold water Vibriosis), bệnh xuất huyết đường tiêu hóa (enteric
redmouth-ERM), bệnh lở loét (furunculosis) (Ellis 1997; Gudding và ctv, 1997).
Hiện nay, có nhiều phương pháp sử dụng vắc xin trong NTTS khác nhau
như: tiêm, cho ăn, ngâm, tắm, phun…Tuy nhiên, phương pháp tiêm được áp
dụng khá phổ biến nhất là trong nghề nuôi cá hồi Đại Tây Dương (Salmo salar).
Tiêm vắc xin có thể tiêm xoang bụng hoặc tiêm cơ. Nhiều tác giả thông báo rằng
việc tiêm kháng nguyên vào cơ tạo nên lượng kháng thể lớn hơn so với tiêm vào
xoang bụng (Rijkers và ctv, 1980). Cá giống được tiêm vắc xin vào xoang bụng
nhiều tháng trước khi đưa cá ra nuôi lồng ở biển. Đây là phương pháp có hiệu
quả nhất để kích thích sản xuất kháng thể toàn thân cũng như tạo được hiệu quả
bảo vệ tốt nhất. Phương pháp này cũng cho phép việc sử dụng chất bổ trợ nhằm
gia tăng đáp ứng miễn dịch. Ví dụ như: Tiêm SRBC (sheep red blood cell) vào
cơ cá chép tạo nên lượng kháng thể cao hơn so với tiêm vào tĩnh mạch (Rijkers
& ctv, 1980). Ngoài ra còn phải kể đến các nhân tố khác tác động tới hiệu quả sử
dụng vắc xin ở cá như tuổi cá, mùa vụ, nhiệt độ (Đỗ Thị Hòa và ctv, 2004).
Chất bổ trợ là chất làm tăng đáp ứng miễn dịch, bao gồm nhiều chất khác
nhau, cơ chế tác dụng của chúng rất đa dạng và nhiều trường hợp vẫn chưa được
làm rõ. Trong đáp ứng miễn dịch dịch thể, đặc biệt với kháng nguyên phụ thuộc
tuyến ức, có thể được tăng cường khi kết hợp kháng nguyên với chất bổ trợ như
trường hợp vắc xin phòng bệnh Aeromonas (Paterson và ctv, 1981) hoặc BKD
(Klonz và ctv, 1983). Trong các trường hợp này có lẽ có vai trò tăng cường đáp
ứng miễn dịch của kháng nguyên hoặc có tác dụng kích hoạt đáp ứng miễn dịch

không đặc hiệu hoặc cả hai vai trò này. Do hiệu quả bảo vệ khi sử dụng chất bổ
trợ mang lại trong các loại vắc xin hiện hành mà mọi thử nghiệm đánh giá hiệu
quả vắc xin hiện hành đều sử dụng kết hợp với chất bổ trợ. Tuy nhiên, một số
9
chất bổ trợ mang lại hiệu quả bảo vệ cao trong thử nghiệm vẫn chưa được sử
dụng trong các sản phẩm thương mại do các chất này gây nên phản ứng viêm cục
bộ tại vị trí dẫn truyền kháng nguyên và gây ra các tác dụng phụ khác. Nhìn
chung kháng nguyên hòa tan cần phải được sử dụng phối hợp với chất bổ trợ
mới có thể tạo nên đáp ứng miễn dịch dịch thể (Đỗ Thị Hòa và ctv, 2004).
Theo FAO, 2006 nghề nuôi cá hồi mới phát triển từ đầu năm 1980 nhưng
đến năm 2003 sản lượng cá hồi trên thế giới đạt khoảng 700.000 tấn. Tuy nhiên
bệnh do vi khuẩn là một trở ngại chính cho ngành công nghiệp này. Lượng sử
dụng thuốc kháng sinh trong nghề nuôi cá hồi tăng dần từ 0,3kg/1tấn cá đến
0,9kg/1tấn cá năm 1987, sau đó lượng kháng sinh sử dụng giảm dần từ khi xuất
hiện các loại vắc xin có hiệu quả trong phòng bệnh vi khuẩn gây ra trên đối
tượng này. Từ những năm 90 của thế kỷ trước và cho đến nay thì hầu như không
còn sử dụng kháng sinh trong nuôi cá hồi thương phẩm (Phạm Văn Thư, 2006).
Việc sử dụng vắc xin không chỉ thay thế thuốc kháng sinh trong nghề nuôi
cá hồi mà chúng còn giảm chi phí sản xuất cá hồi trên thế giới. Theo số liệu
thống kê của FAO, 2006 chi phí sản xuất ra 1 kg cá hồi từ năm 1987 là gần 7
euro thì đến năm 2003 đã giảm xuống dưới 2 euro/kg. Có nhiều nguyên nhân
giúp cho chi phí sản xuất cá hồi giảm trên 30% từ năm 1987 đến 2003 như cải
thiện công nghệ nuôi, hoàn thiện thức ăn công nghiệp và đặc biệt là tăng tỷ lệ
sống của cá nhờ vào việc sử dụng các loại vắc xin phòng bệnh vi khuẩn trên đối
tượng này. Theo kết quả thống kê của FAO, 2006 thì cho đến năm 2005 có đến
95% tổng số cá được tiêm vắc xin trước khi đưa vào nuôi thương phẩm và tỷ lệ
sống của cá nuôi thương phẩm đạt trên 90%. Chính vì vậy, sử dụng vắc xin đóng
vai trò quan trọng cho sự phát triển NTTS bởi vì:
- Trong nuôi trồng thủy sản, phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh” cần
được áp dụng triệt để vì việc trị bệnh cho đối tượng thủy sản khó khăn hơn rất

nhiều so với động vật trên cạn.
- Tăng lợi nhuận nhờ tăng tỷ lệ sống và giảm hệ số thức ăn nhờ nâng cao được
sức khỏe cá.
10
- Giảm thiểu lượng thuốc, hóa chất, đặc biệt là kháng sinh sử dụng trong quá
trình nuôi do đó giảm giá thành sản phẩm.
- Thân thiện với môi trường.
- Nâng cao chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm cho cá thu hoạch, đảm bảo an
toàn cho người tiêu dùng trong và ngoài nước.
- Cải thiện được thương hiệu của sản phẩm thủy sản trên thị trường thế giới và
góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu thủy sản do các doanh nghiệp xuất và nhập
khẩu yên tâm vì chất lượng sản phẩm từ nuôi trồng thủy sản ở các nước trên thế
giới được đảm bảo.
- Góp phần quan trọng trong sự phát triển nuôi lồng bè một cách bền vững
(Phạm Văn Thư, 2006).
1.4.2. Tình hình và triển vọng sử dụng vắc xin trong NTTS ở Việt Nam
Ngày 03/3/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 332/QĐ-TTg
phê duyệt đề án phát triển nuôi trồng thủy sản đến năm 2020 với mục tiêu đến
năm 2020 sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt trên 4,5 triệu tấn, giá trị kim ngạch
xuất khẩu từ nuôi trồng thủy sản đạt 5 - 5,5 tỷ USD, giải quyết việc làm cho
khoảng 3,5 triệu người. Để đạt được mục tiêu như trên thì việc phát triển cần có
quy họach cụ thể, trong đó quản lý dịch bệnh cho các đối tượng nuôi thủy sản
được đặt lên hàng đầu. Nhiều giải pháp để quản lý dịch bệnh đã và đang được áp
dụng như cải tạo ao kỹ, chọn giống tốt sạch bệnh, quản lý tốt môi trường, quan
tâm đến dinh dưỡng, quản lý việc sử dụng thuốc và hóa chất nhưng hiệu quả vẫn
chưa cao (Bùi Thị Bích Hằng, 2010). Trong số các bệnh của thuỷ sản thì nguyên
nhân chủ yếu là do vi khuẩn gây ra với những ổ dịch có qui mô lớn. Thông
thường, người ta sử dụng thuốc kháng sinh để kiểm soát các vi khuẩn gây bệnh.
Do việc sử dụng không đúng cách và quá nhiều các loại thuốc kháng sinh nên đã
gây ra hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc (antibiotic resistence) và tích tụ dư

lượng thuốc kháng sinh trong cơ thể động vật thuỷ sản. Một nguyên nhân khác
gây ra hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc là việc sử dụng các loại kháng sinh với
hàm lượng nhỏ trong thức ăn của thuỷ sản như một chất kích thích sinh trưởng.
11
Vì vậy, việc sản xuất và sử dụng vắc xin trong nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam
để quản lý dịch bệnh có ý nghĩa rất lớn (Trần Đăng Ninh, 2006).
Hiện tại đã có một số công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng vắc
xin vào nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam. Đề tài sản xuất vắc xin Bộ Thủy Sản
năm 2006: ”Nghiên cứu sản xuất vắc xin phòng bệnh nhiễm khuẩn cho cá tra,
basa, cá giò, cá Hồng Mỹ nuôi công nghiệp”. Từ đầu năm 2006,
PHARMAQ- công ty dược phẩm thủy sản hàng đầu thế giới của Na Uy đã chọn
cá tra Việt Nam là đối tượng đầu tiên để nghiên cứu sản xuất vắc xin phòng bệnh
gan thận mủ (do vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây ra) cho cá tra. Từ cuối năm
2009, bước đầu thử nghiệm tiêm vắc xin phòng bệnh gan thận mủ trên cá tra
nuôi do Đại học Cần Thơ tiến hành ở 3 điểm thí nghiệm thuộc các tỉnh Đồng
Tháp, An Giang và Bến Tre đã đạt kết quả rất hứa hẹn, cho phép hy vọng ứng
dụng thực tiễn rộng rãi trong thời gian không xa, giúp ngăn ngừa dịch bệnh,
giảm tổn thất cho người nuôi, loại trừ việc sử dụng các loại kháng sinh trong
nuôi cá và ngăn chặn nguy cơ ảnh hưởng xấu đến môi trường, bảo đảm sự phát
triển bền vững ngành sản xuất loài thủy sản chiến lược này của Việt Nam
(Thương mại thủy sản – Số 127/ tháng 7/ 2010).
Với những kết quả đạt được như trên, hy vọng trong tương lai việc ứng
dụng vắc xin phòng bệnh cho cá nuôi sẽ được triển khai rộng rãi và đây là một
công cụ quản lý sức khỏe hữu hiệu cho các đối tượng nuôi thủy sản.
1.4.3 Vắc xin bất hoạt có sử dụng chất bổ trợ
Là vắc xin được sản xuất trực tiếp từ chủng vi khuẩn gây bệnh, sau khi
nuôi cấy tăng sinh và diệt vi khuẩn bằng nhiệt hoặc hóa chất (formalin,
glutaraldehyde). Loại vắc xin này rẻ, công nghệ sản xuất đơn giản và có thể sản
xuất với quy mô lớn, phù hợp với điều kiện Việt Nam ( Phạm Văn Thư, 2006).
Chất bỗ trợ là những hợp chất hóa học được them vào trong vắc xin nhằm

làm tăng khả năng kích thích miễn dịch và tăng hiệu lực của vắc xin. Bao gồm:
chất bổ trợ vô cơ, hữu cơ (nhũ dầu) và sinh vật (xác vi khuẩn, nội độc tố của vi
khuẩn). Tác dụng của chất bỗ trợ:
12
- Kích thích miễn dịch do bản thân chất bổ trợ gây phản ứng viêm nhẹ, kéo
theo hay tăng sinh các đại thực bào và các tế bào có thẩm quyền miễn dịch khác.
- Hấp thụ kháng nguyên, khoanh vùng kháng nguyên, làm chậm quá trình giải
phóng kháng nguyên tại vị trí tiêm, do đó kháng nguyên tồn tại lâu trong cơ thể,
kéo dài sự trình diện kháng nguyên.
- Kích thích sự hoạt động của tế bào tình diện kháng nguyên cho cơ quan
Lympho để quá trình phân tích trình diện kháng nguyên đạt hiệu quả.
- Chất bổ trợ sinh vật có tác dụng kích thích tế bào miễn dịch (Phạm Văn Tý,
2001).
1.5. Biến đổi mô tế bào tại vùng tiêm vắc xin
Khi tiêm vắc xin, tại vùng tiêm sẽ xảy ra biến đổi mô tế bào rõ rệt. Đặc
trưng của biến đổi mô này chính là phản ứng viêm. Viêm là hiện tượng xảy ra ở
tổ chức tế bào, là phản ứng phòng vệ của sinh vật trước sự tấn công hay kích
thích từ bên ngoài lên cơ thể thông qua phản xạ của hệ thống thần kinh. Đây là
một quá trình bệnh lý cơ bản, bao gồm một số quá trình nhỏ sau:
• Biến đổi về chất của tổ chức tế bào tại vùng tiêm vắc xin
Khi tác nhân lạ xâm nhập vào cơ thể sẽ xảy ra đáp ứng miễn dịch, biến
đổi mô tế bào và phản ứng viêm bắt đầu. Biến đổi về chất của tế bào ưu tiên
chính giữa ổ viêm, còn xung quanh biến đổi về chất không rõ ràng. Nguyên nhân
làm biến đổi chất của mô tế bào do trao đổi chất bị rối loạn, thiếu dinh dưỡng
cung cấp đến do kích thích cơ học và hóa học của tác nhân lạ xâm nhập khi tiêm
vắc xin. Mặt khác hệ thống tuần hoàn bị rối loạn, làm tế bào bị hoại tử. Kết quả
của quá trình này là tạo ra các chất phân giải như protein và các axit hữu cơ
(Sinh lý học, 2006).
• Tăng cường sự thẩm thấu của các tế bào máu và dịch thể
Khi cơ thể sinh vật có phản ứng viêm, dịch thể và các tế bào máu thẩm

thấu qua thành mạch máu, đi vào tổ chức tế bào đang bị viêm. Tại ổ viêm, đầu
tiên mạch máu có sự thay đổi, do kích thích, động mạch nhỏ co lại, thời gian co
rất ngắn sau đó giãn ra, các mao quản trong vùng viêm cũng giãn ra, lúc này một
13
lượng máu lớn hơn bình thường được đưa đến mạch máu gần ổ viêm. Tính thẩm
thấu qua vách mạch máu cũng tăng lên, đặc biệt khi ổ viêm nặng. Nhiều thành
phần máu được thẩm thấu gồm: globulin miễn dịch, hồng cầu thẩm thấu qua
thành mạch máu một cách bị động, các loại bạch cầu thẩm thấu một cách chủ
động. Tại tổ chức tế bào bị viêm, bạch cầu tiêu diệt tác nhân và các loại tế bào
chết bằng cách bao vây và tiết men để tiêu hóa, đây là hiện tượng thực bào. Các
thể Globulin miễn dịch có nhiệm vụ kết hợp với các kháng nguyên trung hòa độc
tố. Như vậy, kết quả của quá trình thẩm thấu qua thành mạch máu là tiêu diệt tác
nhân, trung hòa độc tố và làm sạch vết thương (Sinh lý học, 2006).
• Tăng sinh tế bào
Cùng với hiện tượng tăng quá trình thẩm thấu của các thành phần máu qua
vách mạch máu, tới ổ viêm, các tế bào xung quanh ổ viêm có hiện tượng tăng
sinh tế bào, với mục đích phục hồi lại các tế bào đã chết của tổ chức, bao vây cô
lập tác nhân.
Bất kỳ một chứng viêm nào của cơ thể sinh vật cũng xảy ra 3 quá trình
nêu trên và có quan hệ mật thiết với nhau. Đây cũng là một trong nhiều bản năng
tự vệ của cơ thể trước sự xâm nhập của tác nhân lạ.
Đến nay, trên thế giới đã có một số nghiên cứu về biến đổi mô học của cá
sau khi tiêm vắc xin nhằm nâng cao hiệu quả của vắc xin trong phòng bệnh. Đặc
trưng của biến đổi mô học sau khi tiêm vắc xin chính là phản ứng viêm của cơ
thể khi có tác nhân lạ xâm nhập vào. Cơ chế hình thành phản ứng viêm ở cá,
nhìn chung tương tự như ở động vật có vú. Ngoại trừ điểm khác biệt là cá không
có histamine, chức năng xúc tác của histamine được thay thế bởi 5-
hydroxytryptamin (serotonin) (Nilsson và Holmgren, 1992). Đáp ứng tế bào
trong phản ứng viêm trải qua 2 giai đoạn, thoạt đầu là sự gia tăng số lượng bạch
cầu trung tính từ máu chuyển đến, tiếp sau là sự xuất hiện của đại thực bào và

Lympho bào tại ổ viêm. Bạch cầu trung tính tập trung khoảng 1 giờ sau khi tiêm
tác nhân gây viêm và số lượng sẽ đạt cực đại sau 48 giờ (Afonso và ctv,1998).
Phản ứng viêm được kích ứng và kiểm soát bởi một số yếu tố, bao gồm các amin
gây giãn mạch, các bổ thể, eicosanoid và cytokine được giải phóng trong đáp
14
ứng đối với tổn thương mô hoặc sản phẩm của các tác nhân gây bệnh. Các amin
gây giãn mạch (5-hydroxytryptamin) là các nhân tố tiền phát, phản ứng nhanh.
Sau đó các yếu tố mới được tổng hợp như eicosanoid và cytokine sẽ thu hút và
hoạt hóa các bạch cầu. Sau khi tới ổ viêm, bạch cầu sẽ giải phóng các yếu tố
nhằm điều hòa phản ứng viêm (Secombes, 1996) (Đỗ Thị Hòa và ctv, 2004).
Theo Phạm Văn Tý (2001), tế bào Đại thực bào có tác dụng bắt giữ, tiêu
kháng nguyên lạ thành mảnh peptid để tiến hành trình diện kháng nguyên. Việc
xuất hiện của Đại thực bào nhiều sẽ làm cho việc trình diện kháng nguyên có
hiệu quả. Vài trò của tế bào Lympho là thực hiện đáp ứng miễn dịch . Việc tăng
tế bào Lympho sẽ tăng khả năng sinh kháng thể.
15
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Thời gian thực hiện từ tháng 2 năm 2014 tới tháng 8 năm 2014
- Địa điểm:
+ Tiến hành bố trí thí nghiệm và thu mẫu tại Cam Ranh - Khánh Hòa.
+ Tiến hành phân tích và xử lý mẫu tại: Phòng Bệnh cá - Trung tâm Nghiên cứu
Quan trắc cảnh báo môi trường và Phòng ngừa dịch bệnh thủy sản khu vực miền
Bắc - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1 (Đình Bảng - Từ Sơn - Bắc Ninh).
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Perciformes
Họ: Rachycentridae
Giống: Rachycentron (Kaup, 1826)

Loài: Rachycentron canadum (Linnaeus, 1766).
Hình 2.1. Cá Giò (Rachycentron canadum) (dpi.qld.gov.au)
Tên tiếng Việt: Cá Giò, cá Bớp, cá Bóp.
Tên tiếng Anh: Cobia, Black Kingfish, lemonfish.
16
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Các nội dung thực hiện
Hình 2.2. Sơ đồ các nội dung thực hiện của đề tài
2.3.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Hình 2.3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm
- Cá giò với khối lượng 15 – 25g, tiêm 0,1ml vắc xin vào cơ lưng. Mỗi
vắc xin tiêm cho 5 con.
Cá giò 15-25gam
Tiêm 0,1ml vắc xin vào cơ lưng.
Cá giò 15-25gam
Tiêm 0,1ml vắc xin vào cơ lưng.
V
1
Thu mẫu mô ở ngày thứ 7, 14, 21 sau khi tiêm
V
6
V
4-1
V
4-2
ĐC
Vắc xin thử nghiệm phòng bệnh Vibriosis
Tiêm 0,1ml vắc xin vào cơ lưng cá giò
(15-25gam)
Xử lý mẫu mô

Thu mẫu mô ở 7, 14, 21 ngày sau khi tiêm
Đọc kết quả
Kết luận và đề xuất ý kiến

×