Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở việt nam giai đoạn gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.76 KB, 36 trang )

Nguyễn Trà Mi
Mục lục
1
1
Nguyễn Trà Mi
PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện tại nước ta đang sống trong một thế giới mà xu thế toàn cầu
hoá đang phát triển, gia tăng mạnh mẽ về quy mô và phạm vi giao dịch
hàng hoá…. công nghệ, kỹ thuật truyền bá nhanh chóng và rộng rãi. Cục
diện ấy vừa tạo ra những khả năng mới để mở rộng thị trường, thu hút
vốn, công nghệ, vừa đặt ra những thách thức mới và nguy cơ tụt hậu ngày
càng xa và sự cạnh tranh rất gay gắt.
Nền kinh tế nước ta là một bộ phận không thể tách rời nền kinh tế
thế giới, nên không thể tính đến những xu thế của thế giới tận dụng
những cơ hội do chúng đem lại, đồng thời đối phó với những thách thức
do xu thế phát triển của của kinh tế thế giới.
Bởi vậy, Đảng và Nhà nước ta cần chú trọng: "Thực trạng và giải
pháp nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở Việt Nam giai đoạn gần
đây"
Bài viết được chia làm 3 chương
Chương 1: Lý luận chung về kinh tế đối ngoại
Chương 2: Thực trạng kinh tế đối ngoại ở Việt Nam
Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của
kinh tế đối ngoại của nước ta hiện nay.
2
2
Nguyễn Trà Mi
Bài viết còn nhiều thiếu sót và hạn chế mong được sự góp ý của
thầy cô và các bạn. Em chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy
cô giúp em hoàn thành đề án này.
3


3
Nguyễn Trà Mi
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
I. Khái niệm và vai trò của kinh tế đối ngoại
1. Khái niệm
Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là 1 bộ phận của kinh tế quốc
tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật công nghệ của một
quốc gia nhất định với các quốc gia khác còn lại hoặc với các tổ chức
kinh tế quốc tế khác, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và
phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao
động quốc tế.
Mặc dù kinh tế đối ngoại và kinh tế quốc tế là 2 khái niệm có mối
quan hệ với nhau, song không nên đồng nhất chúng với nhau. Kinh tế đối
ngoại là quan hệ kinh tế mà chủ thể của nó là một quốc gia với bên ngoài
với nước khác hoặc với các tổ chức quốc tế khác. Còn kinh tế quốc tế là
mối quan hệ kinh tế với nhau giữa hai hoặc nhiều nước là tổng thể quan
hệ kinh tế của cộng đồng quốc tế.
2. Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại.
Kinh tế đối ngoại gồm nhiều hình thức như: Hợp tác sản xuất nhận
gia công, xây dựng xí nghiệp chung, khu công nghiệp khu kỹ thuật cao,
hợp tác khoa học - công nghệ trong đó có hình thức đưa lao động và
4
4
Nguyễn Trà Mi
chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài; ngoại thương, hợp tác tín dụng quốc
tế, các hoạt động dịch vụ như du lịch quốc tế, giao thông vận tải, thông
tin liên lạc quốc tế, dịch vụ thu đổi chuyển ngoại tệ… đầu tư quốc tế…
Trong các hình thức kinh tế đối ngoại, ngoại thương, đầu tư quốc tế
và dịch vụ thu ngoại tệ là hình thức chủ yếu và có hiệu quả nhất cần được

coi trọng.
5
5
Nguyễn Trà Mi
a. Ngoại thương
Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế, là tự trao đổi
hàng hóa, dịch vụ hàng hóa hữu hình và vô hình, giữa các quốc gia thông
qua xuất nhập khẩu.
Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại giữ vị trí trung tâm và có tác
dụng to lớn. Tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người lao
động nhất là trong các ngành xuất khẩu.
Nội dung của ngoại thương bao gồm: xuất khẩu và nhập khẩu hàng
hóa, thuê nước ngoài ra công tác xuất khẩu, trong đó xuất khẩu là hướng
ưu tiên và là một trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại ở các nước
nói chung và ở nước ta nói riêng.
b. Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất
Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công, xây dựng xí
nghiệp chung, chuyên môn hóa và hợp tác hóa sản xuất quốc tế.
c. Hợp tác khoa học - kỹ thuật
Hợp tác khoa học kỹ thuật được thực hiện dưới nhiều hình thức,
như trao đổi những tài liệu - kỹ thuật và thiết kế, mua bán giấy phép trao
đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa học
kỹ thuật, hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân…
d. Đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là 1 hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại.
Nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng
6
6
Nguyễn Trà Mi
góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục

đích sinh lợi).
Có hai loại hình đầu tư quốc tế. Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử
dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có
vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý, và điều hành dự
án đầu tư chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi
nhuận.
Đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời
quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có vốn không trực tiếp tham gia
vào việc tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi dưới nhiều hình thức lợi tức
cho vay (nếu là vốn cho vay) hoặc lợi tức cổ phần (nếu là vốn cổ phần),
hoặc có thể không thu lợi trực tiếp (nếu cho vay ưu đãi).
e. Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ du lịch quốc tế
Các dịch vụ thu ngoại tệ là 1 bộ phận quan trọng của kinh tế đối
ngoại. Xu thế hiện nay là tỷ trọng các hoạt động dịch vụ tăng lên so với
hàng hóa khác trên thị trường thế giới.
Với Việt Nam việc đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ là
giải pháp cần thiết, thiết thực để phát huy lợi thế của đất nước.
3. Vai trò của kinh tế đối ngoại
7
7
Nguyễn Trà Mi
Có thể khái quát vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại qua các mặt
sau đây:
- Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và
trao đổi quốc tế; nối liền thị trường trong nước với thị trường thế giới và
khu vực.
- Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp
(FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc

tế (ODA), thu hút khoa học, kỹ thuật, công nghệ, khai thác và ứng dụng
những kinh nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta.
- Góp phần tích lũy vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lên nước
công nghiệp tiên tiến hiện đại.
- Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc
làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống
nhân dân theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ
văn minh.
Tất nhiên, những vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại chỉ đạt được
khi hoạt động kinh tế đối ngoại vượt qua được những thách thức (mặt
trái) của toàn cầu hóa và giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
II. KINH TẾ ĐỐI NGOẠI TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH
Ở VIỆT NAM
8
8
Nguyễn Trà Mi
1. Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng các quan hệ kinh tế
quốc tế.
Những đặc điểm của tình hình thế giới hiện nay có liên quan đến
KTQT.
Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển với trình độ ngày càng
cao, các nước đều đứng trước các cơ hội để phát triển, nhưng do ưu thế
thuộc về các nước tư bản phát triển cho nên các nước chậm phát triển
đứng trước những thách thức to lớn
Cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toán cầu, cần
có sự hợp tác đa phương
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động và
tiếp tục phát triển nhưng tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định.
Hoà bình ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi

hỏi bức xúc của các dân tộc, quốc gia.
Hợp tác và liên kết ngày càng tăng nhưng rất gay gắt.
Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường
Cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã
hội ngày càng mở rộng
Quá trình quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội diễn ra ngày
càng mạnh mẽ
Các nước vừa hợp tác vừađấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình
9
9
Nguyễn Trà Mi
Tính tất yếu khách quan.
Mở rộng quan hệ quốc tế là xu hướng tất yếu của sự phát triển của
lực lượng sản xuất trong thời đại hiện nay.
Trong những phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản, các
đơnvị kinh tế có thể tồn tại hàng thế kỷ mà không hề thay đổi tính chất và
phạm vị, không vượt ra ngoài giới hạn của xóm làng hay các chợ lân cận
nhỏ bé dành cho những thợ thủ công và những tiểu chủ. Trái lại, sản xuất
tư bản chủ nghĩa đã vượt ra ngoài giới hạn của làng xã, của chợ địa
phương, của từng vùng, rồi vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hoà nhập
vào thị trường quốc tế.
Vì thế, dưới chủ nghiã tư bản đã diễn ra xu hướng quốc tế hoá đời
sống kinh tế và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Đây là một yêu cầu đặc
biệt quan trọng để phát triển nền kinh tế của CNTB. Đó cũng là xu hướng
tiến bộ của sự phát triển lực lượng sản xuất, nó làm cho các dân tộc xích
lại gần nhau. Nhưng do tác động quả quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa,
phân công lao động quốc tế đã biến một bộ phận của trái đất thành khu
vực lạc hậu, chủ yếu sản xuất nông nghiệp và khai khoáng cho một bộ
phận khác của trái đất là khu vực chủ yếu sản xuất công nghiệp. Vì vậy,
hiệu quả của phân côn lao động quốc tế chủ yếu là phục vụ cho lợi ích

của các công ty tư bản lớn và một số nước tư bản chủ nghĩa. Đó là
nguyên nhân dẫn đến cuộc đấu tranh đòi lại trật tự kinh tế quốc tế mới.
10
10
Nguyễn Trà Mi
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới phát triển như
vũ bão càng thúc đẩy mạnh mẽ xu hướng mở rộng quan hệ quốc tế kinh
tế ở tất cả các nước nhằm ứng dụng những thành tựu khoa học - công
nghệ hiện đại để xây dựng những xí nghiệp chuyên môn hoá sản xuất.
Hiện nay sản xuất hàng hoá ngày càng phong phú, đa dạng và đổi
mới nhanh. Bất cứ nước nào, dù là nước có tài nguyên phong phú và trình
độ khoa học - công nghệ cao, cũng không thể tự sản xuất tất cả các mặt
hàng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Vì vậy, tuỳ theo lợi thế của mình, mỗi nước
có thể lựa chọn những ngành sản xuất tối ưu để tham gia vào phân công
lao động quốc tế một cách hiệu quả nhất.
Cách mạng khao học và công nghệ phát triển với tốc độ rất nhanh
và diễn ra trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Nó đòi hỏi công tác nghiên
cứu và ứng dụng phải hết sức khẩn trương. Do đó, xuất hiện mâu thuẫn
giữa đi nhanh và mở rộng phạm vi nghiên cứu. Chỉ có thể giải quyết mâu
thuẫn đó bằng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. Mỗi nước tập trung
nguồn vốn, đầu tư cán bộ và phương tiện vào những đề tài mà mình có ưu
thế, sau đó trao đổi kết quả nghiên cứu với những nước khác. Điều đó đòi
hỏi phải không ngừng mrơ rộng quan hệ quốc tế để tạo điều kiện phát
triển lực lượng sản xuất của mỗi nước.
Dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, trình độ xã
hội hoá sản xuất ngày càng mở rộng và xu hướng quốc tế hoá đời sống
kinh tế đã phát triển lên một tầm cao mới, hình thành liên kết kinh tế quốc
11
11
Nguyễn Trà Mi

tế. Liên kết kinh tế quốc tế đánh dấu trình độ cao của phân công lao động
và hợp tác quốc tế.
Như vậy, ngày nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khao học và công nghệ, quá trình quốc tế háo được thúc đẩy hết sức mạnh
mẽ. Quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá đã và đang diễn ra với tốc độ
cao, càng đòi hỏi mạnh mẽ việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế của mỗi
quốc gia và chỉ có bằng cách đó mối quan hệ mới có thể khai thác có hiệu
quả nguồn lực quốc tế. Đồng thời, quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế,
toàn cầu hoá và khu vực hoá càng đẩy mạnh thì càng tạo ra những cơ hội
và thách thức mới mà chỉ có sự phối hợp quốc tế mới có thể tranh thủ
được những cơ hội đó cũng như đối phó có hiệu quả với những thách
thức lớn. Thực tế lịch sử cũng đã khẳng định rằng, ngày nay không một
quốc gia nào có thể phát triển được nếu không thiết lập quan hệ kinh tế
với các nước khác, và do vậy không có một quốc gia nào lại không thực
hiện việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là điều kiện quan trọng để
ổn định tình hình kinh tế - xã hội và xã hội cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội ở nước ta
- Các quan hệ kinh tế đối ngoại là một nhân tố không thể thiếu để thực hiện
tái sản xuất mở rộng ở nước ta.
Trong hoàn cảnh quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng,
quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá được thúc đẩy mạnh mẽ, các quan hệ
12
12
Nguyễn Trà Mi
kinh tế đối ngoại trở thành một nhân tố không thể thiếu để thực hiện tái
sản xuất mở rộng ở mỗi nước, nhất là những nước mà kinh tế còn lạc hậu.
Đối với nước ta, điều đó càng quan trọng. Thông qua các quan hệ
kinh tế đối ngoại, chúng ta có thể thay đổi cơ cấu tổng sản phẩm xã hội cả
về mặt hiện vật lẫn về mặt giá trị. Trong cơ cấu nhập khẩu của nước ta, tư

liệu sản xuất chiếm tuyệt đại bộ phận; còn trong cơ cấu xuất khẩu thì
nông, lâm, thuỷ sản, hàng thủ công mỹ nghẹ và hàng công nghiệp nhẹ
chiếm ưu thế. Như vậy, thông qua xuất - nhập khẩu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế đã đổi nông, lâm, thủy sản và hàng tiêu dùng lấy thiết bị, máy
móc, nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư chu ryếu như xăng, dầu, phân bón,
bông làm thay đổi quan hệ tỷ lệ giữa khu vực I và khu vực II có lợi cho
tái sản xuất mở rộng. Nhờ đó, tận dụng được lợi thế so sánh về lao động
và tài nguyên sẵn có trong nước để đẩy mạnh sản xuất, tăng nhanh thu
nhập quốc dân, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
- Tranh thủ nguồn vốn nước ngoài và thành tựu khoa học -
côngnghệ của thế giới để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội.
Trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
mức thu nhập tính theo đầu người của nước ta rất thấp, do đó tích lũy
cũng vô cùng thấp vì phần lớn thu nhập dùng vào sinh hoạt. Bởi vậy, xuất
hiện khoảng cách lớn giữa nhu cầu đầu tư và tích luỹ vốn.
13
13
Nguyễn Trà Mi
Hàng xuất khẩu của nước ta hầu hết là nguyên liệu cơ chế hoặc
hàng thủ công giá thấp. Còn hàng nhập khẩu chủ yếu là các loại máy
móc, thiết bị có giá trị cao. Kết quả là cán cân buôn bán thường xuyên bị
thiếu hụt, cán cân thanh toán quốc tế bị mất cân đối. Chỉ có trah thủ thu
hút vốn đầu tư nước ngoài mới giải quyết được khó khăn nói trên.
Thông qua các quan hệ kinh tế quốc tế mới có thể thực hiện được
chủ trương cải tạo, đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của các cơ sở
sản xuất hiện có, cải tiến, hiện đại hoá công nghệ truyền thống; xây dựng
có trọng điểm một số hướng công nghệ hiện đại: điện tử và tin học, công
nghệ sinh học, côngnghệ vật liệu mới, các dạng năng lượng mới, công
nghệ chế biến tên tiến; hình thành một số ngành công nghiệp và dịch vụ

có trình độ công nghệ cao. Nhờ đó, sẽ xây dựng thành công cơ sở vật chất
- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, khi mở rộng quan hệ quốc tế chúng ta mới có thể sử
dụng được lợi thế so sánh, khai thác được các nguồn lực quốc tế, trước
hết về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý đó là những nhân tố rất cần
thiết để thực hiện công nghiệp hoá đất nước mà chúng ta còn thiếu thốn
một cách gay gắt.
2. Những hình thức kinh tế đối ngoại chủ yếu hiện nay
Kinh tế đối ngoại gồm nhiều hình thức như: hợp tác sản xuất (nhận
gia công, xây dựng xí nghiệp chung, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu
kỹ thuật cao); hợp tác khoa học - công nghệ (trong đó hình thức đưa lao
14
14
Nguyễn Trà Mi
động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài); ngoại thương; hợp tác tín
dụng quốc tế; các hoạt động dịch vụ như du lịch quốc tế, giao thông vận
tải, thông tin liên lạc,dịch vụ thu, đổi và chuyển giao ngoại tệ đầu tư
quốc tế.
- Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất
Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công, xây dựng xí
nghiệp chung, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất quốc tế
+ Nhận gia công
Hiện nay nước ta có trên 30 triệu người có khả năng lao động trong
độ tuổi lao động, trong đó mấy triệu người chưa có việc làm (không kể
những người chưa đủ việc làm). Năm 2000 có khoảng 43,75 triệu người
có khả năng lao động, trong đó 12,7 triệu người cần giải quyết việc làm.
Do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do thiếu thị trường, thiếu vốn, thiếu tư
liệu sản xuất nên chúng ta chưa khai thác được vốn quý báu đó. Nhận gia
công cho nước ngoài là một hình thức rất tốt, giúp tận dụng nguồn dự trữ
lao động, tạo nhiều việc làm và tận dụng công suất máy móc hiện có. Rất

nhiều nước trên thế giới chăm lo đẩy mạnh hình thức này, kể cả các nước
và vùng lãnh thổ "công nghiệp mới" (NICs) như Hàn Quốc, Đài Loan
Đối với nước ta, trong những năm trước mắt, tăng cường việc nhận gia
công là một phương hướng đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược để mở rộng
quan hệ kinh tế với nước ngoài, ổn định tình hình kinh tế - xã hội trong
nước.
15
15
Nguyễn Trà Mi
- Xây dựng những xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ từ
nước ngoài.
Xí nghiệp chung hay hỗn hợp là kiểu tổ chức xí nghiệp công
nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ và tổ chức tài chính - tín dụng Hiện nay,
những xí nghiệp loại này đang tồn tại một cách phổ biến ở nhiều nước.
Về mặt pháp lý, xí nghiệp chung thường được tổ chức dưới hình thức
công ty cổ phần với trách nhiệm hữu hạn tương ứng với số vốn đóng góp
của các thành viên. Các xí nghiệp này thường được ưu tiên xây dựng ở
những ngành kinh tế quốc dân hướng vào xuất khẩu hay thay thế hàng
nhập khẩu và trở thành nguồn thu ngoại tệ chuyển đổi hay tạo điều kiện
cho Nhà nước tiết kiệm ngoại tệ. Ở nước ta hiện nay, hình thức này đóng
vai trò rất quan trọng
- Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá
Hợp tác sản xuất quốc tế có thể diễn ra một cách tự giác theo
những hiệp định hay hợp đồng giữa các bên tham gia, cũng có thể hình
thành một cách tự phát do kết quả cạnh tranh, do đầu tư và lập các chi
nhánh của các công ty xuyên quốc gia tại các nước.
Chuyên môn hoá bao gồm chuyên môn hoá những ngành khách
nhau và chuyên môn hoá trong cùng một ngành (chuyên môn hoá theo
sản phẩm, theo bộ phận sản phẩm hay chi tiết và theo công nghệ). Hình
thức hợp tác này làm cho cơ cấu kinh tế ngành của các nước tham gia đan

kết vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
16
16
Nguyễn Trà Mi
- Hợp tác khoa học - kỹ thuật
Hợp tác khoa học - kỹ thuật được thực hiện dưới nhiều hình thức,
như trao đổi những tài liệu - kỹ thuật và thiết kế, mua - bán giấy phép,
trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa
học - kỹ thuật, hợp tác đào tạo với bồi dưỡng cán bộ và công nhân
17
17
Nguyễn Trà Mi
- Ngoại thương
Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá,
dịch vụ (hàng hoá hữu hình và vô hình) giữa các quốc gia. Đối với mỗi quốc gia,
đặc biệt là đối với những quốc gia đang phát triển như nước ta, ngoại thương có tác
dụng rất lớn.
Nội dung của ngoại thương bao gồm: xuất khẩu và nhập khẩu hàng
hoá hữu hình và vô hình, gia công tái xuất khẩu, xuất khẩu tại chỗ (bán
hàng thu ngoại tệ trong nước) Trong đó, xuất khẩu là hướng ưu tiên và
là trọng điểm của hoạt động ngoại thương ở các nước nói chung và ở nướ
ta nói riêng.
- Đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế.
Nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng
góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư nhằm đưa lại lợi ích
cho tất cả các bên tham gia. Yếu tố quốc tế của đầu tư quốc tế thể hiện sự
khác nhau về quốc tịch của các bên tham gia đầu tư, nhưng mọi hoạt
động đầu tư quốc tế đều nhằm mục đích sinh lợi
Có hai loại hình đầu tư quốc tế: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp

Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử
dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có
vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức quản lý và điều hành dự án
18
18
Nguyễn Trà Mi
đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi
nhuận.
Đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời
quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có vốn không trực tiếp tham gia
vào việc tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi nhuận dưới hình thức lợi tức
cho vay (nếu là vốn cho vay) hoặc lợi tức cổ phàan (nếu là vốn cổ phần,
hoặc có thể không thu lợi trực tiếp (nếu cho vay ưu đãi). Sự khác nhau rõ
nhất giữa đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp là người đầu tư trực tiếp có
quyền khống chế xí nghiệp đầu tư, còn người đầu tư gián tiếp không có
quyền khống chế xí nghiệp đầu tư mà chỉ có thể thu lợi tức trái phiếu, cổ
phiếu và tiền lãi
- Tín dụng quốc tế
Đây là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội,
các cá nhân ở trong nước với các chính phủ, các tổ chức (gồm cả tổ chức
phi chính phủ) và cá nhân ở nước ngoài, trong đó với các tổ chức ngân
hàng thế giới và ngân hàng khu vực là chủ yếu.
Tín dụng quốc tế được thể hiện dưới nhiều hình thức vay nợ: bằng
tiền tệ, vàng, công nghệ, hàng hoá, có thể qua hình thức đầu tư trực tiếp
(bên nhận đầu tư không có vốn, phải vay của bên đầu tư).
Ưu điểm của hình thức này là vay nợ để có vốn đầu tư mrơ rộng
sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng - những khu vực cần vốn đầu tư lớn,
thu hồi vốn chậm
19
19

Nguyễn Trà Mi
Tuy nhiên, nếu không có phương án đầu tư đúng, được tính toán
một cách khoa học thì việc chi tiêu vốn vay sẽ không có hiệu quả, vốn
vay sẽ trở thành một gánh nặng cho nền kinh tế
- Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế.
Các dịch vụ thu ngoịa tệ là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối
ngoại. Xu thế hiện nay là tỷ trọng các hoạt động dịch vụ tăng lên so với
hàng hoá khác trên thị trường thế giới.
Với Việt Nam, việc đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ là
giải pháp cần thiết, thiết thực để phát huy lợi thế của đất nước
Sau đây là các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ chủ yếu
Vận tải quốc tế.
Vận tải quốc tế là hình thức chuyên chở hàng hoá và hành khách
giữa hai nước hoặc nhiều nước.
Sự ra đời và phát triển của vận tải quốc tế gắn liền với sự phân
công lao động xã hội và quan hệ buôn bán giữa các nước với nhau
Sự phát triển của vận tải quốc tế có tác dụng tăng nguồn thu ngoại
tệ thông qua vận tải và tiết kiệm chi ngoại tệ do phải thuê vận chuyển khi
nhập khẩu hàng hoá
- Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ
Hiện nay nhu cầu lao động ở các nước phát triển vẫn còn lớn do
kinh tế phát triển, tỷ lệ tăng dân số ở các nước này có xu hướng giảm và
20
20
Nguyễn Trà Mi
nhất là do chuyển dịch cơ cấu kinh tế bởi cách mạng khoa học và công
nghệ. Những ngành khó cơ giới hoá và tự động hoá, độc hại, nguy hiểm
hoặc cần nhiều lao động không lành nghề như xây dựng, khai mỏ, dịch
vụ, công nghiệp nhẹ, công nghiệp lắp ráp ô tô, điện tử hiện vẫn cần lao
động

Việt Nam với dân số gần 80 triệu người, kinh tế đang phát triển, là
một nước có lực lượn lao động lớn. Việc xuất khẩu lao động mang lại
nhiều lợi ích trước mắt và lâu dài
- Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác
Ngoài những hoạt động nêu trê, lĩnh vực kinh tế đối ngoại còn có
nhiều hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác như dịch vụ thu bảo hiểm, dịch
vụ thông tin bưu điện, dịch vụ kiều hối, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tư vấn
Nhìn chung các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ ở nước ta mới đang
ở giai đoạn hình thành và phát triển bước đầu. Những hoạt động này có
triển vọng to lớn. Tuy nhiên, muốn đưa các hoạt động này thành một lĩnh
vực quan trọng của nền kinh tế, cần phải có cách nhìn đúng đắn về vai trò
của chúng, cần đầu tư thoả đáng và có các cơ sở vật chất thích hợp tích
luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách Nhà nước, giải quyết việc làm, cải
thiện đời sống của nhân dân
3. Mục tiêu, phương hướng, nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh doanh đối ngoại.
21
21
Nguyễn Trà Mi
Trước hết cần khằng đình rằng, hiệu quản kinh tế đối ngoại phải
được xem xét dưới góc độ hiệu quả kinh doanh - xã hội trong mối quan
hệ giữa kinh tế đối ngoại với tính cách là tổng thể các hoạt động kinh tế
đối ngoại với nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội. Đó là lợi ích kinh
tế - xã hội mà kinh tế đối ngoại mang lại cho nền kinh tế quốc dân và đời
sống xã hội, được thể hiện ở mức độ đóng góp vào việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội như phát triển sản xuất, đổi mơí cớ cấu kinh tế,
tăng năng suất lao động xã hội,tích luỹ ngoại tế, tăng nguồn thu cho ngân
sách nhà nước, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân
- Về mục tiêu.
Đối với nước ta, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm

từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Trong thời gian trước mắt việc mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước - nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Mục tiêu đó
phải được quán triệt đối với mọi ngành, mọi cấp trong hoạt động kinh tế
đối ngoại cũng như phải được quán triệt trong mọi lĩnh vực của kinh tế
đối ngoại.
- Phương hướng cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh
tế đối ngoại, phát triển kinh tế đối ngoại.
Xuất phát từ quan điểm của Đảng: "Việt Nam muốn là bạn của tất
cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và
22
22
Nguyễn Trà Mi
phát triển"
1
, phương hướng cơ bản nhằm phát triển kinh tế đối ngoại
trong thời kỳ quá độ là.
Một là, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại và đa dạng hoá các
hình thức kinh tế đối ngoại. Đây là phương hướng chủ yếu của quan hệ
quốc tế trong giai đoạn hiện nay- giai đoạn hoà bình, phát triển trở thành
xu hướng cơ bản của thời đại chúng ta.
Thực hiện phương hướng đa phướng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại
theo tinh thần Việt Nam quna hệ với tất cả các nước, các tổ hức quốc tế
và khu vực trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc trong quan hệ quốcn tế của
Nhà nước ta đã đề ra nhằm khai thức các nguồn lực đa dạng, phong phú
của thế giới, tạo ra thế mơí, chống mọi hành động gây sức ép đặt và
cường quyền.
Để thực hiện phương hướng đa phương hoá cần quá triệt và giải
quyết tốt mối quan hệ chặt chẽ giữa kinh tế và chính trị. Quan hệ chính trị

tốt đẹp sẽ mở đường cho quan hệ kinh tế phát triển thuận lợi, ngược lại
quan hệ kinh tế mở rộng là cơ sở thiết lập va tăng cường mối quan hệ
chính trị. Tuy nhiên, quan hệ kinh tế có tính độc lập tương đối và trước
hết phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu hàng đầu. Kinh
nghiệm thực tiễn đã chỉ rõ, nêu hướng quan hệ kinh tế theo yêu cầu chính
trị đơn thuần sẽ đưa lại hiệu quả tiêu cực lâu dài và cuối cùng lại làm rạn
nứt chính ngay quan hệ chính trị.
23
23
Nguyễn Trà Mi
Cùng với việc quán triết mối quan hệ kinh tế chính trị, cần thực
hiện đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại. Chính việc thực hiện đa
dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại là tạo ra khả năng hiện thực để
thực hiện phương hướng đa phương hoá. Với sự phát triển đa dạng hoá
các hình thức kinh tế đối ngoại, một mặt chúng ta sẽ có điều kiện tranh
thủ được những cơ hội để khai thác nguồn lực quốc tế; mặt khác, thông
qua việc mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại, chúng ta sẽ có điều
kiện để khai thác tiềm năng của đất nước phụ vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Để thực hiện đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại có hiệu
quả cần phải lực chọn những hình thức thích hợp, những mô hình lựa
chọn không chỉ xuất phát từ tiềm năng vốn có trong nước mà phải căn cứ
nhu cầu của thị trường. Đồng thời phải tạo ra môi trường thông thoáng cả
về kinh tế, pháp luật, chính trị, xã hội để các hình thức lựa chọn phát huy
tác dụng.
Hai là, chủ động hội nhập quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, đưa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh
thủ tối đa nguồn lực bên ngoài nhằm kết hợp sưc mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại một cách hiệu quả. Muốn vậy cần phải nhận thức rõ
hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu trnh mà vấn đề cốt lõi

là giành thị trường, vốn công nghệ và kỹ thuật, phải tuân thủ các nguyên
tắc, luật lệ, tập quán quốc tế trên cơ sở cùng có lợi "có đi có lại". Hội
24
24
Nguyễn Trà Mi
nhập quốc tế chỉ đưa lại hiệu qủ khi xây dựng được chiến lược đúng đắn,
đồng thời có lộ trình hợp lý cúng như việc xây dựng đối tác mạnh và cơ
chế phù hợp nhằm từng bước làm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế đất nước thị trường quốc tế.
Ba là, trong điều kiện nền kinh tế thị trường quốc tế đã từng bước
hiện đại hoá, trở thành nền kinh tế thị trường hiện đại và thống nhất, đồng
thời luôn luôn biến động, do đó việc phát triển kinh tế đối ngoại cần tôn
trọng và tuân thủ cơ chế thị trường, thông qua việc phát triển kinh tế đối
ngoại mà củng cố và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Mỗi bước tiến của quan hệ kinh tế đối ngoại phải là mỗi bước tiến
bộ của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Muốn
vậy cần phải nâng cao hiểu biết về cơ chế thị trường hiện đại cũng như
các định chế, thiết kế và thông tin thị trường để xử lý và đối phó với
những rủi ro.
- Nguyên tắc cơ bản cần quán triệt trong việc mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Để mở rộng kinh tế đối ngoại có hiệu quả cần quán triệt những
nguyên tắc phản ánh những thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm lợi ích
đáng về kinh tế, chính trị của đất nước. Những nguyên tác đó là:
+ Nguyên tác bình đẳng.
Đây là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế nói chung và quan
hệ kinh tế quốc tế nói riêng. Ngày nay khi hoà bình phát triển trở thành
25
25

×