Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Đẩy mạnh xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.59 KB, 63 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đã và đang trở thành
một xu hướng của thời đại mới. Trong bối cảnh kinh tế phụ thuộc phần lớn vào
sự liên kết các quốc gia với nhau như hiện nay thì hoạt động xuất khẩu lao động
được coi là một khâu quan trọng, là một nhân tố không thể thiếu đối với các
nước đang phát triển trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế. Cũng giống như
nhiều nước có nguồn lao động dồi dào khác, việc tận dụng lợi thế này để đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài là một hoạt động mang tính chiến lược
trong xu thế hội nhập, mở cửa, phù hợp với xu hướng di cư quốc tế hiện nay, góp
phần phát triển quan hệ về mọi mặt với các nước trên Thế giới, trên nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Đặc biêt hơn nữa, giai đoạn 2011-2020 là một cơ hội lớn khi Việt Nam
đang bước vào thời kì dân số vàng. Theo đó, lực lượng lao động với sức trẻ, sức
khoẻ đặt ra cho chúng ta những cơ hội lớn lao trong chiến lược phát triển kinh
tế- xã hội. Vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu lao động (XKLĐ) trở thành một chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, một chiến lược quan trọng, lâu dài,
góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho một bộ
phận lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Bên cạnh đó, XKLĐ còn là
biện pháp để tiếp thu, chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, giúp đào
tạo đội ngũ lao động có chất lượng và tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế
của Việt Nam, tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu hơn vào khu vực và quốc
tế.
Có thể thấy rằng, Đông Bắc Á là khu vực phát triển bao gồm các nước có
trình độ cao về phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật và công nghệ, trong đó Nhật
Bản còn là nước công nghệ nguồn, là khu vực có nhu cầu nhập khẩu nhiều loại
lao động. Vì vậy, XKLĐ sang khu vực này còn có mục đích tiếp thu các kiến thức
khoa học công nghệ (KHCN), kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệm quản lý,
kinh doanh hiện đại từ các nước trong khu vực này, nâng cao tay nghề và rèn
luyện tác phong công nghiệp cho người lao động. Thực tế, khu vực Đông Bắc Á là


2
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
một thị trường XKLĐ khu vực quan trọng đối với Việt Nam, trong đó các nước
nhập khẩu lao động (NKLĐ) chính là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Từ đầu
những năm 1990 đến nay, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này chiếm
tỷ trọng lớn và có tác động tích cực đối với người lao động cũng như đối với sự
phát triển chung của các ngành, địa phương của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả khả quan, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc
á thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn, có những diễn biến phức tạp
và phát sinh các tiêu cực, rủi ro. Xảy ra hiện tượng lao động Việt Nam bị phân
biệt đối xử về tiền công, về điều kiện làm việc và sinh hoạt, bị lạm dụng, lao động
tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc và cư trú bất hợp pháp, v.v Đặc
biệt, số lượng lao động Việt Nam tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ngày càng lớn, đến
mức các nước này đã nhiều lần lên tiếng sẽ đóng cửa thị trường nếu Việt Nam
không tìm cách ngăn chặn và giải quyết dứt điểm, thậm chí Đài Loan đã tạm thời
ngừng tiếp nhận lao động Việt Nam ở một số lĩnh vực. Những vấn đề đó đã tác
động tiêu cực tới quan hệ hợp tác lao động của Việt Nam với các nước trong khu
vực, là nguyên nhân gây ra nguy cơ bị đóng băng hoặc mất thị trường XKLĐ vào
tay các nước XKLĐ khác, làm phức tạp thêm tình hình, gây khó khăn cho công
tác quản lý lao động Việt Nam ở các nước này. Hơn nữa, xét về tầm chiến lược,
những vấn đề đó nếu không được giải quyết triệt để sẽ làm mất uy tín của người
lao động cũng như các doanh nghiệp XKLĐ của Việt Nam trên thị trường lao
động quốc tế, tạo dư luận và tâm lý không tốt trong xã hội đối với hoạt động
XKLĐ, ảnh hưởng xấu tới mục tiêu và hiệu quả của hoạt động XKLĐ của Việt
Nam sang khu vực này trong thời gian tới.
Từ tình hình thực tế nêu trên, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá hoạt
động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á để tìm ra những
nguyên nhân của thành công và hạn chế, rút ra các bài học kinh nghiệm, đưa ra
các giải pháp nhằm hạn chế những phát sinh tiêu cực, thúc đẩy hoạt động XKLĐ
của Việt Nam sang thị trường khu vực này phát triển là rất có ý nghĩa và cần

thiết trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, vấn đề "Đẩy mạnh xuất khẩu lao động
3
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á” được chọn làm đề tài
nghiên cứu trong đề án môn học của em.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tương nghiên cứu
Bài viết chủ yếu đề cập đến những khía cạnh lý luận và thực tiễn của hoạt
động xuất khẩu lao động nói chung và hoạt động này sang thị trường Đông Bắc
Á nói riêng.
2.2.Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một bài đề án môn học, em không đặt mục tiêu
nghiên cứu toàn bộ về hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam nói chung mà
chỉ giới hạn nghiên cứu về thực trạng xuất khẩu sức lao động của Việt Nam sang
khu vực Đông Bắc Á trong những năm gần đây. Đó là hình thức đưa người lao
động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng cung ứng lao
động còn hình thức xuất khẩu lao động trên cơ sở Hiệp định không thuộc phạm vi
nghiên cứu của bài viết.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết dùng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương
pháp tổng hợp, phân tích, phương pháp thống kê, liệt kê, so sánh kết hợp với tiếp
cận khảo sát một số doanh nghiệp có chức năng đưa lao động đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài của Việt Nam trong thời gian từ năm 2003 trở lại đây.
4.Kết cấu của bài viết
Ngoài lời nói đầu, phần kết luận, bài viết bao gồm ba chương:
Chương I: Lí luận chung về xuất khẩu lao động và sực cần thiết phải
đấy mạnh xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường các nước
Đông Bắc Á
Chương II: Thực trạng vấn đề xuất khẩu lao động của Việt Nam sang
thị trường các nước Đông Bắc Á trong những năm vừa qua

Chương III: Định hướng và giải pháp, kiến nghị nhằm đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường các nước
Đông Bắc Á giai đoạn 2011-2020
4
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
Trong quá trình thực hiện, do khuôn khổ của một bài đề án cũng như
những hạn chế về trình độ nghiên cứu, kiến thức lẫn kinh nghiệm thực tế nên bài
viết chắc chắn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Vì vậy em rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến, chỉ dẫn của các thầy giáo, cô giáo và các bạn sinh
viên để bài đề án được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHẢI ĐẤY MẠNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM SANG THỊ
TRƯỜNG CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á
1.1. Lý luận chung về xuất khẩu lao động
1.1.1. Khái niệm và nội dung của xuất khẩu lao động
1.1.1.1. Khái niệm
Lao động: Là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay
đổi những vật thể tự nhiên, để phù hợp với lợi ích của mình. Lao động là sự vận
động của sức lao động, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất
tạo ra của cải vật chất xã hội.
Sức lao động: Là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình
tạo ra của cải xã hội, phản ánh khả năng lao động của con ngưòi, là điều kiện
đầu tiên cần thiết trong quá trình lao động xã hội.
Xuất khẩu lao động là hoạt động mua - bán hàng hoá sức lao động nội địa
cho người sử dụng lao động nước ngoài.
Xuất khẩu lao động Việt Nam ra nước ngoài, thường gọi tắt là Xuất khẩu
lao động Việt Nam, là hoạt động kinh tế dưới hình thức cung ứng lao động Việt
Nam ra nước ngoài theo hợp đồng có thời hạn, phục vụ cho nhu cầu nhân công
lao động của doanh nghiệp nước ngoài. Người sử dụng lao động nước ngoài ở
đây là chính phủ nước ngoài hay cơ quan, tổ chức kinh tế nước ngoài có nhu cầu

sử dụng lao động trong nước.
1.1.1.2. Nội dung
Xuất khẩu lao động gồm hai nội dung:
5
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
- Đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
- Xuất khẩu lao động tại chỗ ( XKLĐ nội biên): người lao động trong nước làm việc
cho các doanh nghiệp FDI, các tổ chức quốc tế qua internet.
(Do sự giới hạn phạm vi bài viết tôi xin được đề cập đến vấn đề xuất khẩu
lao động tương ứng với nội dung 1- đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài)
Người lao động ở đây bao gồm: người lao động làm các công việc như lao
động phổ thông, sản xuất, giúp việc,…(những công việc ít đòi hỏi về trình độ
chuyên môn); chuyên gia; tu nghiệp sinh.
- Chuyên gia: là những người lao động có trình độ chuyên từ bậc đại học trở lên;
- Tu nghiệp sinh (TNS): (Mới chỉ có ở Nhật Bản, Hàn Quốc) chỉ những người lao
động chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ chuyên môn của nước nhập khẩu
lao động và nếu muốn vào làm việc ở các nước này họ phải được hợp pháp hoá
dưới hình thức TNS nghĩa là vừa làm vừa được đào tạo tiếp tục về trình độ
chuyên môn kỹ thuật.
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu lao động
Hình thức xuất khẩu lao động: là cách thức thực hiện việc đưa người lao
động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài do nhà nước quy định. Ở Việt Nam cho
đến nay đã tồn tại một số hình thức sau:
* Thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung : xuất khẩu lao động chủ yếu
thông qua các hiệp định liên chính phủ và nghị định thư.
*Bước sang thời kỳ mới - thời kỳ xuất khẩu lao động chịu tác động của thị
trường thì nó bao gồm các hình thức sau:
• Cung ứng lao động theo các hợp đồng cung ứng lao động đã ký kết với bên nước
ngoài.

Nội dung: Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động sẽ tuyển lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các hợp đồng cung ứng lao động.
Đặc điểm:
- Các doanh nghiệp tự mình đảm nhiệm tất cả các khâu từ tuyển chọn đến đào tạo
đến đưa đi và quản lý người lao động ở nước ngoài;
- Các yêu cầu về tổ chức lao động do phía nước tiếp nhận đặt ra;
- Quan hệ lao động được điều chỉnh bởi pháp luật của nước tiếp nhận;
6
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
- Quá trình làm việc là ở nước ngoài, người lao động chịu sự quản lý trực tiếp của
người sử dụng lao động nước ngoài;
- Quyền và nghĩa vụ của người lao động do phía nước ngoài bảo đảm.
• Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhận thầu, khoán
công trình ở nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài.
Nội dung: Các doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận khoán công trình
ở nước ngoài hoặc đầu tư dưới hình thức liên doanh liên kết chia sản phẩm hoặc
các hình thức đầu tư khác. Hình thức này chưa phổ biến nhưng sẽ phát triển
trong tương lai cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Đặc điểm:
- Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam sẽ tuyển chọn lao động Việt Nam
nhằm thực hiện các hợp đồng kinh tế, hợp đồng liên doanh_ liên kết giữa Việt
Nam và nước ngoài;
- Các yêu cầu về tổ chức lao động, điều kiện lao động do doanh nghiệp xuất khẩu
lao động Việt Nam đặt ra;
- Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam có thể trực tiếp tuyển dụng lao
động hoặc thông qua các tổ chức cung ứng lao động trong nước;
- Doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam trực tiếp đưa lao động đi nước
ngoài, quản lý lao động ở nước ngoài cũng như đảm bảo các quyền lợi của người
lao động ở nước ngoài. Vì vậy quan hệ lao động tương đối ổn định;
- Cả người sử dụng lao động Việt Nam và lao động Việt Nam đều phải tuân thủ

theo quy định của pháp luật, phong tục tập quán của nước ngoài.
- Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động giữa cá
nhân người lao động với người sử dụng lao động nước ngoài.
- Hình thức này ở Việt Nam còn rất ít vì nó đòi hỏi người lao động phải có trình độ
học vấn, ngoại ngữ tốt, giao tiếp rộng, tìm hiểu rõ các thông tin về đối tác
1.1.3. Đặc điểm chung của xuất khẩu lao động
1.1.3.1. Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đồng thời cũng là hoạt
động mang tính xã hội cao
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế ở tầm vi mô và vĩ mô. Nói xuất
khẩu lao động là hoạt động kinh tế vì nó đem lại lợi ích cho cả hai bên tham gia
(bên cung và bên cầu). Dù đứng ở góc độ nào thì với tư cách là chủ thể của một
hoạt động kinh tế cả bên cung và bên cầu khi tham gia hoạt động xuất khẩu lao
động đều nhằm mục tiêu là lợi ích kinh tế. Họ luôn luôn tính toán giữa chi phí
7
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
phải bỏ ra với lợi ích thu được để có quyết định hành động cuối cùng sao cho lợi
nhất. Chính vì thế bên cạnh các quốc gia chỉ đơn thuần là xuất khẩu hay nhập
khẩu lao động thì còn có cả những quốc gia vừa xuất khâu vừa nhập khẩu lao
động.
Tính xã hội thể hiện ở chỗ: dù các chủ thể tham gia xuất khẩu lao động với
mục tiêu kinh tế nhưng trong quá trình tiến hành xuất khẩu lao động thì cũng
đồng thời tạo ra các lợi ích cho xã hội như giải quyết công ăn việc làm cho một
bộ phận người lao động, góp phần ổn định và cải thiện cuộc sống cho người dân,
nâng cao phúc lợi xã hội, đảm bảo an ninh chính trị …
1.1.3.2. Xuất khẩu lao động là một hoạt động mang tính cạnh tranh mạnh
Cạnh tranh là quy luật tất yếu của thị trường. Sự cạnh tranh ở đây diễn ra
giữa các nước xuất khẩu lao động với nhau và giữa các doanh nghiệp xuất khẩu
lao động trong nước với nhau trong việc dành và thống lĩnh thị trường xuất
khẩu lao động. Cạnh tranh giúp cho chất lượng nguồn lao động xuất khẩu ngày
càng được nâng cao hơn và đem lại lợi ích nhiều hơn cho các bên đồng thời cũng

đào thải những cá thể không thể vận động trong vòng xoáy ấy.
1.1.3.3. Không có sự giới hạn theo không gian đối với hoạt động xuất khẩu
lao động
Thị trường xuất khẩu lao động với một quốc gia xuất khẩu lao động càng
phong phú và đa dạng bao nhiêu thì càng tốt. Nó làm tăng các loại ngoại tệ, giảm
rủi ro trong xuất khẩu lao động và nó cũng thể hiện khả năng cạnh tranh mạnh
mẽ của quốc gia đó.
Xuất khẩu lao động thực chất cũng là việc mua - bán một loại hàng hoá
đặc biệt vượt ra phạm vi biên giới quốc gia vì hàng hoá ở đây là sức lao động -
loại hàng hoá không thể tách rời người bán.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động
1.1.4.1. Sự hình thành hoạt động XKLĐ
Hoạt động kinh tế của bất cứ một quốc gia nào cũng luôn phải tính đến
nguồn nhân lực, trong đó vấn đề chính là sự dư thừa lao động ở trong nước.
Trước sức ép về việc làm, tỷ lệ thất nghiệp và thu nhập, việc XKLĐ để giảm các
8
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
sức ép này và thu ngoại tệ là một yêu cầu khách quan. Tuy nhiên, hoạt động
XKLĐ không nhất thiết phải từ các nước dư thừa lao động. Một số nguyên nhân
cơ bản dẫn đến sự hình thành hoạt động XKLĐ là:
- Sự phát triển không đều giữa các quốc gia trên thế giới.
- Sự phân bổ tài nguyên không đồng đều giữa các nước trên thế giới.
- Sự phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ.
- Quá trình toàn cầu hóa và hoạt động của các công ty xuyên quốc gia
(TNCs).
1.1.4.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động XKLĐ
XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại có tính đặc thù, chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố khác nhau, bị tác động của nền kinh tế và chính sách phát triển
của cả nước XKLĐ và nước NKLĐ, đồng thời có tác động trở lại đối với nền kinh
tế - xã hội của các nước này. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hoạt

động XKLĐ chịu tác động của một số yếu tố sau:
- Quan hệ cung - cầu về lao động: Một nước phải sử dụng LĐNN khi nguồn
lao động trong nước không đáp ứng được cho nhu cầu phát triển kinh tế của
nước đó. Sự thiếu hụt một hay nhiều loại lao động của một nước nào đó không
chỉ do thiếu dân số mà còn do không đủ lực lượng lao động có đủ kỹ năng cần
thiết để đảm nhận công việc, hoặc đơn giản chỉ do người lao động nước đó không
sẵn sàng làm việc. Bên cạnh đó, do thị trường lao động là một bộ phận không thể
tách rời với chu kỳ kinh tế, vì thế sự tăng trưởng hay suy thoái, khủng hoảng hay
phục hồi của một nền kinh tế cũng có những tác động tới nhu cầu lao động trong
nền kinh tế, có thể tạo ra việc làm cho người lao động hay cũng có thể làm giảm
bớt số việc làm cho họ. Trong những điều kiện như vậy, nhu cầu về lao động và
khả năng cung ứng ở các nước có tác động rất lớn tới hoạt động XKLĐ trên
phạm vi quốc tế. Thực trạng quan hệ cung - cầu về lao động là cơ sở để một quốc
gia quyết định NKLĐ hay XKLĐ, xác định số lượng lao động, cơ cấu ngành nghề,
loại lao động cần nhập khẩu hay có thể xuất khẩu. Sự phù hợp giữa nhu cầu lao
động của nước NKLĐ và khả năng cung ứng của nước XKLĐ là yếu tố quyết định
đảm bảo cho sự ổn định của hoạt động XKLĐ giữa các quốc gia. Trình độ phát
9
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
triển kinh tế và KHCN là yếu tố có tác động mạnh mẽ tới quan hệ cung - cầu về
lao động giữa các nước, quyết định loại hình và số lượng lao động mà một nước
sẽ nhập khẩu hay xuất khẩu.
- Sự cạnh tranh: Thị trường lao động quốc tế vừa là thị trường tự do cạnh
tranh, vừa là thị trường cát cứ giữa các quốc gia. Do đó, hoạt động XKLĐ vừa
diễn ra sự hợp tác giữa các nước vừa cạnh tranh nhau mạnh mẽ, sự hợp tác là
yêu cầu bắt buộc, yếu tố cạnh tranh đảm bảo cho sự sống còn của hoạt động
XKLĐ. Sự cạnh tranh trong hoạt động XKLĐ diễn ra giữa các doanh nghiệp XKLĐ
của một nước XKLĐ, hay của các nước XKLĐ, thậm chí giữa các nhà nước của
các quốc gia XKLĐ. Sự cạnh tranh thể hiện qua số lượng hợp đồng XKLĐ, cơ chế
quản lý lao động ở nước ngoài, mức lương, sự đa dạng về ngành nghề, trình độ,

kỹ năng lao động, khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật tại nơi làm việc, khả
năng thích nghi về văn hóa, khả năng giao tiếp… của người lao động. Ngoài ra,
còn có sự cạnh tranh giữa LĐXK với lao động bản địa về việc làm ở nước NKLĐ.
Do sự cạnh tranh này, công đoàn tại các nước NKLĐ thường tạo sức ép với chính
phủ để hạn chế số lượng LĐNN được tiếp nhận vào làm việc.
- Chất lượng lao động: Chất lượng hàng hóa sức lao động được xem xét
dưới góc độ là sự tổng hòa các yếu tố tạo ra năng lực lao động của người lao
động như thể lực, trí lực, các mối quan hệ xã hội của người lao động có ảnh
hưởng tới năng lực làm việc của người lao động ở nước NKLĐ. Chất lượng lao
động phải đảm bảo được việc tạo ra giá trị tăng thêm trong thời gian sử dụng
sức lao động đó, bảo đảm cho người lao động duy trì và tái tạo sức lao động,
phát huy được các khả năng sáng tạo, đảm bảo được cường độ lao động, tạo
được nhiều giá trị thặng dư cho người chủ sử dụng. Yếu tố này có tác động quan
trọng tới quyết định của chủ sử dụng về quy mô tuyển dụng LĐNN. Chính vì vậy,
chất lượng lao động là yếu tố căn bản quyết định khả năng cạnh tranh và lợi thế
trong việc chiếm lĩnh thị trường XKLĐ, đảm bảo cho sự phát triển của hoạt động
XKLĐ.
- Các chính sách, pháp luật: Hoạt động XKLĐ liên quan đến nhiều người,
nhiều tổ chức, liên quan đến nước XKLĐ và nước NKLĐ, liên quan đến các tổ
10
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
chức quốc tế như Tổ chức di cư quốc tế (IOM), Tổ chức lao động quốc tế (ILO), do
đó nó chịu tác động,mạnh mẽ của môi trường chính trị, pháp luật và chính sách
của chính phủ cả nước XKLĐ và nước NKLĐ cũng như luật pháp quốc tế. Hoạt
động XKLĐ của một quốc gia luôn có sự tham gia của chính phủ nước đó nhằm
bảo vệ các lợi ích của quốc gia, dân tộc. Vì vậy, hoạt động XKLĐ chịu tác động
trực tiếp từ chủ trương và các chính sách, biện pháp quản lý, điều tiết của chính
phủ nước XKLĐ.
- Các yếu tố truyền thống văn hóa và con người: Các chính sách tuyển
dụng LĐNN của bất kỳ quốc gia nào cũng hàm chứa sự bảo tồn và gìn giữ các giá

trị truyền thống văn hóa và phù hợp với tôn giáo của quốc gia đó. Vì vậy, một
quốc gia sẽ có chủ trương ưu đãi hơn đối với lao động đến từ các nước có nền
văn hóa tương tự (về tôn giáo, phong tục tập quán, về ngôn ngữ…). Hơn nữa, thị
trường thực chất là sự kết hợp của con người và nền văn hóa của thị trường đó.
Vì thế, một số thị trường lao động có thể tạo ra rất nhiều cơ hội đối với một loại
việc làm cho LĐNN do tính chất riêng có của thị trường ấy hoặc đơn thuần chỉ vì
thị trường đó không có đủ lao động có khả năng đảm nhận công việc đó. Điều
này cũng có tác động nhất định về số lượng, ngành nghề, loại lao động trong việc
cung ứng lao động của nước XKLĐ.
1.1.5. Tác động của xuất khẩu lao động
1.1.5.1. Tác động tích cực
Xuất khẩu có tác dụng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế; Tạo công ăn việc làm; phát triển nhân lực;góp phần vào ổn định
xã hội, na ninh quốc phòng; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; tăng cường giao
lưu văn hóa và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc……
• Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: được phản ánh
trên 2 phương diện:
Thứ nhất, sử dụng toàn bộ nguồn lực quốc gia để làm tăng thu nhập quốc
dân(GDP
Thứ hai, nâng cao tiềm lực kinh tế thông qua khoản thu ngân sách từ
người lao động và các doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
11
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
• Góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Dưới tác động của các quy luật phát triển kinh tế và vai trò lãnh đạo của
nhà nước về điều tiết cũng như định hướng vĩ mô, xuất khẩu lao động có sức lan
tỏa rất nhanh và rộng rãi trong nền kinh tế góp phần chuyển dịch cơ cấu lao
động kinh tế theo ngành, vùng hay hướng mở.
Phần lớn lao động được đưa ra nước ngoài là những người thuộc khu vực
nông thôn đang trong tình trạng thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp. Việc tạo ra

công việc cho họ là giúp họ có thu nhập và đồng thời làm ổn định an ninh xã hội.
• Góp phần phát triển nguồn lao động của đất nước
Nhờ có di cư lao động mà nhà nước phải quan tâm đến việc đào tạo
chuyên môn cho họ góp phần làm tăng chất lượng ngồn nhân lực.Đa số đi lao
động nước ngoài thì có thể nâng cao tay nghề,chuyên môn, kỹ năng làm viêc hay
cả tác phong trong công việc Đồng thời còn giúp cho họ tăng hiểu biết với thế
giới bên ngoài.
• Đưa tiến bộ khoa học kĩ thuật mới vào sản xuất kinh doanh
Khi làm việc ở nước ngoài về nước họ có thể tiếp cận học hỏi công nghệ và
các tiến bộ công nghệ mới về áp dụng với địa phương và đây là đội ngũ chuyển
giao công nghệ nhanh nhất và hiệu quả nhất.
• Góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế thế giới và phân công lao
động quốc tế thúc đẩy quá trình hội nhập và phát triển kinh tế về tín dụng ,tài
chính ,quan hệ hợp tác giữa các quốc gia ,góp phần đẩy mạnh xuất khẩu hàng
hóa.Di cư lao động còn giúp giao lưu trao đổi văn hóa giữa các quốc gia với
nhau.
1.1.5.2. Tác động tiêu cực
Ngoài những tác động tích cực ở trên thì tại một số quốc gia di chuyển
quốc tế về lao động còn có những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến kinh tế cũng
như văn hóa xã hội.
• Gây khan hiếm cục bộ về lao động trong nội địa.
Ở một số nước tại một số thời điểm và một số nơi có thể có hiện tượng
khan hiếm lao động trong những lĩnh vực lao động đơn giản cũng như lao động
12
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
có tay nghề cao, nhất là ở các nước có tốc độ phát triển cao, tốc độ xuất khẩu lao
động tăng nhanh nhưng thiếu kế hoạch phát triển nguồn lực. Đồng thời, hiện
tượng “chảy máu chất xám” ra nước ngoài cũng gây nhiều khó khăn.
• Ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội

Khi lao động ra nước ngoài, ngoài những kiến thức, tay nghề người ta thu
được từ nước ngoài, không ít những người trong số họ còn tiếp nhận không ít
những thói hư tật xấu của xã hội mà học đã từng sống và làm việc, nhất là những
lao động có trình độ thấp. Khi về nước, họ mang những thói hư tật xấu đó, do vậy
mà những thói hư tật xấu này có tác dụng tiêu cực đến đời sống xã hội người ta
không chỉ tiếp thu kinh nghiệm mà còn tiêm nhiễm nhiều thói hư tật xấu .Tư đó
sẽ mang về nước những tệ nạn xã hội không đáng có.
• Dễ đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc
Quá trình làm việc và sinh sống lâu dài của một quốc gia khác là một trong
những yếu tố khách quan khiến cho người lao động được xuất khẩu có thể quên
đi bản sắc, những truyền thống đáng quý của dân tộc mình. Điều này cũng ảnh
hưởng không nhỏ tới văn hoá, chính trị, xã hội của một quốc gia.[1, tr.273]
1.2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động Việt Nam sang thị
trường các nước Đông Bắc Á
1.2.1. Các nước Đông Bắc Á là thị trường nhập khẩu lao động lớn và tiềm
năng củaViệtNam
Đông Bắc Á đã từ lâu được coi là một thị trường đầy sức hút đối với ngành
xuất khẩu lao động Việt Nam. Với những đặc thù rất riêng của mình, thị trường
các nước Đông Bắc Á có những đòi hỏi về tiêu chuẩn lao động khá khắt khe
nhưng lại luôn là một thị trường đầy tiềm năng.
1.2.1.1. Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia quần đảo, là một nước có nền kinh tế manh đứng
thứ hai trên thế giới. Là quốc gia đang có xu hướng “già hóa dân số và lực lượng
lao động”, Nhật Bản đang phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động trầm trọng.
Dân số Nhật hiện có gần 128 triệu và dân số trong độ tuổi LĐ đạt 54,2 triệu
người vào năm 2010 và sẽ giảm còn 126,6 triệu và 52,5 triệu người năm 2015 và
124,5 triệu và 51,5 triệu người năm 2020 với tốc độ giảm, bình quân là
13
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
0,27%/năm và 0,51%/năm.[9]. Dự báo trong thời gian tới, khi nền kinh tế phục

hồi Nhật Bản sẽ thiếu trầm trọng lao động trong các lĩnh vực: Điện tử, may mặc,
chế biến thủy hải sản, công nghệ thông tin, khách sạn, y tế, dịch vụ xã hội, nông
nghiệp…. Để bù đắp sự thiếu hụt này và tránh những hệ quả tiêu cực do nhập
khẩu lao động mang lại, Nhật Bản đang có những thay đổi về chính sách tiếp
nhận lao động nước ngoài theo hướng chuyển tư cách tu nghiệp sang tư cách
thực tập kỹ năng (có hiệu lực từ 1/7/2010), tăng thời gian thực tập kỹ thuật, cải
thiện thủ tục tiếp nhận, mở rộng đối tượng và ngành nghề tiếp nhận, tăng trợ
cấp, cải thiện điều kiện ăn ở, đi lại cho tu nghiệp sinh, thử nghiệm chương trình
tu nghiệp sinh phi lợi nhuận của Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ (IMM), có thể
tiếp nhận lao động từ các nước đã ký hiệp định mậu dịch tự do (FTA) và hiệp
định đối tác kinh tế (EPA), khuyến khích tiếp nhận lao động lành nghề và có kỹ
thuật cao. Khả năng tiếp nhận của chương trình TTS hàng năm khoảng 80 ngàn
đến 100 ngàn LĐ, nếu Việt Nam thành công trong các giải pháp chống trốn và
triển khai tốt.
Hiệp định mậu dịch tự do giữa các nước ASEAN và Nhật Bản và Hiệp định
đối tác kinh tế với Nhật Bản (có hiệu lực từ 1/10/2009) thì mở ra hướng XKLĐ
trong lĩnh vực y tế và dịch vụ xã hội, khách sạn, nhà hàng đến Nhật Bản. Với
những điều kiện khả quan trong thời gian tới và theo dự báo của Ban Quản lý LĐ
Việt Nam tại Nhật Bản số lượng LĐ Việt Nam hàng năm đến Nhật Bản tu nghiệp
và làm việc sẽ có mức tăng trưởng hàng năm trong khoảng 10-15% và đến năm
2015 phấn đấu đạt 11 ngàn và năm 2020 đạt 15 ngàn LĐ trong các ngành: Xây
dựng, cơ khí, điện tử, may mặc, công nghệ thông tin, nông nghiệp, thuyền viên,
nhà hàng, y tá.
Những năm gần đây, chính sách của Nhật Bản không cho phép tiếp nhận
lao động nước ngoài trình độ thấp hoặc không có tay nghề vào làm việc. Tuy
nhiên, lao động phổ thông (lao động không có tay nghề hoặc tay nghề thấp) nước
ngoài có thể vào Nhật Bản làm việc theo chương trình tu nghiệp tại Nhật Bản với
thời gian không quá 1 năm. Lao động nước ngoài tu nghiệp, làm việc tại Nhật
Bản chủ yếu trong lĩnh vực cơ khí, dệt may, chế biến lương thực, xây dựng, chế
14

KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
biến hải sản, nông nghiệp và ngư nghiệp. Sự thiếu hụt nhân lực trầm trọng do sự
già hoá dân số và tỷ lệ sinh thấp đã khiến số lượng tu nghiệp sinh nước ngoài vào
Nhật Bản liên tục tăng lên. Bình quân, mỗi năm Nhật Bản tiếp nhận trên 70.000
người vào làm việc với tư cách tu nghiệp sinh.
Một nét đặc biệt của thị trường lao động Nhật Bản mà từ trước đến nay có
rất ít người để ý tới đó là tỷ lệ lao động giữa nam và nữ chênh lệch nhau rất
nhiều. Sự thiếu hụt lao động nữ trầm trọng đã khiến Nhật phải nhận lao động nữ
từ nước khác trong đó có Việt Nam để có thể đáp ứng nhu cầu trong nước. Đây
cũng có thể là một hướng mở cho doanh nghiệp Việt Nam để xuất khẩu sức lao
động nữ sang Nhật Bản.
Năm 2012, theo tổ chức Hợp tác Đào tạo quốc tế Nhật Bản (JITCO), Nhật
Bản có nhu cầu cao trong việc tiếp nhận lao động nước ngoài và xu thế này sẽ
còn tăng cao về số lượng cũng như ngành nghề, nhất là ngành nông nghiệp. Sau
thảm họa động đất và sóng thần tại Nhật năm 2011, tỷ lệ lao động nông nghiệp
của Nhật Bản bị giảm mạnh. Theo đánh giá của JITCO, đây là ngành khá phù hợp
với lao động Việt Nam. Số lượng lao động được tuyển sẽ không bị giới hạn mà
tùy vào khả năng đàm phán của doanh nghiệp phái cử lao động.
Bên cạnh đó, chính sách nhập cư sửa đổi của Nhật bắt đầu phát huy hiệu
quả, bỏ chế độ cư trú của tu nghiệp sinh và áp dụng chế độ cư trú thực tập sinh
kỹ năng, tiền lương thu nhập bình đẳng nên tăng tính hấp dẫn của thị trường
này. Tất cả những điều này cho thấy những dấu hiệu khả quan của thị trường
này trong những năm sắp tới.[18]
1.2.1.2. Thị trường Hàn Quốc
Hàn Quốc là một quốc gia thuộc Đông Á, nằm ở nửa phía nam của bán đảo
Triều Tiên với diện tích là 100,032 km2 và dân số hiện tại khoảng 48 triệu người.
Suy giảm trong tăng trưởng dân số của Hàn Quốc bắt đầu từ năm 1966 và vẫn tiếp
tục. Từ 2005-2010 tổng tỷ suất sinh của phụ nữ Hàn Quốc là 1,21, một trong những
thế giới thấp nhất theo quy định của Liên Hợp Quốc. Sinh sản tỷ lệ thấp hơn mức
sinh thay thế là 2,1 ca sinh mỗi phụ nữ đã gây ra một báo động quốc gia, với dự báo

15
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
thảm khốc của một xã hội lão hóa không thể phát triển hoặc hỗ trợ người cao tuổi
của nó.
Bảng 1: Thống kê tình trạng sinh - tử của Hàn Quốc
Giai
đoạn
Sống ca
sinh
mỗi
năm
Ca tử
vong mỗi
năm
Thay
đổi tự
nhiên
mỗi
năm
Tỷ suất
sinh
thô
(trên
1000)
Tỷ
suất
chết
thô
(trên
1000)

thay đổi
tự nhiên
(trên
1000)
Tổng
tỷ suất
sinh
Tỷ lệ tử
vong trẻ
sơ sinh
trên 1000
sinh
2000-
2005
476 000 245 000 231 000 10.2 5.3 5.0 1.22 5.3
2005-
2010
477 000 243 000 234 000 10,0 5.1 4.9 1,29 3.8
Nguồn: Dịch vụ thông tin thống kê Hàn Quốc
Bảng 2: Tỉ lệ tử vong của Hàn Quốc giai đoạn 2002-2012
Đơn vị: Phần nghìn
Nước 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Hàn
Quốc
5.85 5.93 6.02 6.03 6.13 6.26 5.85 5.99 5.73 5.94 6.15 6.26 6.38
Nguồn: Dịch vụ thông tin thống kê Hàn Quốc
Hiện nay, Hàn Quốc phải đối mặt với vấn đề dân số già đi nhanh
chóng. Trong thực tế, tốc độ lão hóa ở Hàn Quốc là chưa từng có trong lịch sử
nhân
loại[12] 18 năm để tăng gấp đôi dân số già 7-14% (số lượng ít nhất của

năm) [11], thậm chí vượt qua Nhật Bản. Thống kê hỗ trợ quan sát này, tỷ lệ cao
tuổi từ 65 trở lên, đã tăng mạnh từ 3,3% năm 1955 10,7% trong năm 2009[10].
Hình dạng của dân số của nó đã thay đổi từ một kim tự tháp trong những năm
1990, với những người trẻ hơn và ít người già, đến một hình dạng kim cương
trong năm 2010, với những người trẻ ít hơn và một tỷ lệ lớn các cá nhân tuổi
trung niên.
Hình 1: Tháp dân số Hàn Quốc năm 2005 [20]
16
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
Dân số già đi nhanh chóng đã gây ra một số tác động tiêu cực tới lực
lượng lao động. Đặc biệt, các chuyên gia dự đoán rằng điều này có thể dẫn đến
một sự co rút lực lượng lao động. Ngoài ra, với sự lão hóa nhanh chóng, đó là rất
có thể sẽ có một sự mất cân bằng trong tỷ lệ phần trăm trẻ tuổi của lực lượng lao
động. Hệ quả để lại là trong tương lai không xa , Hàn Quốc sẽ phải đối mặt với
tình trạng thiếu hụt lao động trầm trọng trong hoạt động kinh. Thêm vào đó, chi
phí chăm sóc sức khỏe cao hơn cũng có thể được phát sinh. Do đó, nhu cầu nhập
khẩu lao động nước ngoài sẽ tăng cao.
Sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành công nghiệp sản xuất và nền kinh
tế Hàn Quốc đã mang lại thay đổi cần thiết cho xã hội và nhân khẩu học của nó.
Từ nền kinh tế nông nghiệp truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp phát triển
Hàn Quốc đã có một sự chuyển đổi rất lớn. Sự phát triển không chỉ đơn thuần
mang đến sự phát triển thịnh vượng cho xã hội mà còn trong cơ cấu thị trường
lao động của mình. Một trong những thay đổi quan trọng là sự tăng trưởng của
dân số nước ngoài lao động tại Hàn Quốc. Nhu cầu thị trường lao động cho lao
động nước ngoài có tay nghề thấp có tăng đáng kể trong hai thập kỷ qua sau khi
chính phủ Hàn Quốc đã mở cửa thị trường và điều chỉnh của pháp luật về lao
động. Việc sửa đổi luật lao động Hàn Quốc vào cuối năm 1987 đã đưa ra một tác
động lớn trong chi phí lao động trong nước. Sự tăng mạnh của lao động trong
17
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C

nước tiền lương đã buộc nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ để tìm kiếm một thay
thế bởi tuyển dụng lao động nước ngoài rẻ hơn từ các nước láng giềng. Điều này
đã làm thay đổi Hàn Quốc từ một nước xuất khẩu lao động để chuyển đổi thành
một quốc gia nhập khẩu lao động.
Đối với Việt Nam, Hàn Quốc từ lâu đã là thị trường xuất khẩu (XK) lao
động truyền thống với nhu cầu tiếp nhận lớn. Theo số liệu của Cục Quản lý lao
động ngoài nước, mỗi năm, Hàn Quốc tiếp nhận trên 1 vạn lao động Việt Nam.
Thực tế cho thấy, người lao động Việt Nam được chủ sử dụng lao động Hàn Quốc
ưa thích. Dù phải cạnh tranh với 14 nước khác nhưng lao động Việt Nam luôn
đứng tốp đầu về số lượng lao động nhập cảnh Hàn Quốc.
18
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
Biểu 1: Tỉ lệ phần trăm lao động nước ngoài làm việc tại Hàn Quốc năm
2009
Nguồn: Văn phòng Xuất nhập cảnh Hàn Quốc
Đánh giá về thị trường lao động ở Hàn Quốc có thể thấy rằng, mặc dù ở
đất nước này tỷ lệ thất nghiệp cao nhưng nhiều lao động Hàn Quốc vẫn đòi hỏi
phải làm việc ở khu vực 3S (sạch sẽ, an toàn và nhẹ nhàng). Trong khi đó, lại xảy
ra tình trạng thiếu hụt lao động cho các ngành dệt, nhuộm, cơ khí và những
ngành công nghiệp khác. Vì vậy dẫn đến việc nhiều người không có việc làm và
không thể kiếm được công việc 3S, còn những nơi có các công việc 3D (bẩn, nguy
hiểm và nặng nhọc) vẫn đang phàn nàn về tình trạng thiếu hụt lao động nghiêm
trọng.
Việt Nam là quốc gia được phía Hàn Quốc ưu ái nhất trong số 15 quốc gia
đang được Hàn Quốc nhận lao động. Sự ưu ái đó thể hiện ở chỗ, số lao động Việt
Nam được nhận vào Hàn Quốc bao giờ cũng nhiều hơn một số nước khác. So với
14 quốc gia khác đang có người lao động tại Hàn Quốc, Việt Nam luôn dẫn đầu
về tỷ lệ được các doanh nghiệp Hàn Quốc sử dụng lâu dài.
Lao động người Việt Nam được các doanh nghiệp Hàn Quốc ưa thích bởi
tính cần cù, chịu khó, sáng tạo và nhanh chóng hòa nhập với môi trường sinh

hoạt và làm việc. Ước tính năm 2011 của tổ chức CIA World Factbook cho thấy,
cơ cấu lao động theo nghề nghiệp của Hàn Quốc là: 6,4% là nông nghiệp, 24,2%
19
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
là công nghiệp và 69,4% là dịch vụ thì theo đó, khả năng đáp ứng yêu cầu của lao
động Việt Nam đối với thị trường này là vô cùng cao. Theo thống kê, người đi
xuất khẩu lao động Việt Nam tại Hàn Quốc chủ yếu làm việc trong lĩnh vực sản
xuất, chế tạo (78,3%), số còn lại làm việc trong lĩnh vực xây dựng (9,3%), nông
nghiệp (10,5%), ngư nghiệp (1,7%) và dịch vụ (0,2%).
Chính phủ Hàn Quốc vừa ban hành chính sách mới, nhằm khuyến khích lao
động làm việc tại đây về nước đúng thời hạn. Cụ thể, Hàn Quốc sẽ tạo điều kiện
tái nhập cảnh dành cho lao động làm việc tại các doanh nghiệp nếu trong suốt
quá trình làm việc họ không thay đổi chỗ làm và chấp hành nghiêm luật lao động
nước sở tại. 3 tháng sau khi về nước, những lao động này sẽ được tái nhập cảnh
Hàn Quốc và được miễn kỳ kiểm tra tiếng Hàn, miễn giáo dục định hướng trước
và sau khi nhập cảnh. Người lao động cũng có thể làm việc tại nơi đã từng làm
việc trước khi về nước. Không chỉ tạo điều kiện cho lao động quay trở lại Hàn
Quốc làm việc, từ năm nay, Chính phủ Hàn Quốc còn phối hợp với ngành chức
năng Việt Nam triển khai dự án đào tạo nghề miễn phí cho người lao động có
mong muốn làm việc tại các công ty Hàn Quốc ở Việt Nam với thu nhập ổn định.
Điều này mở ra những cơ hội tốt đẹp cho người lao động Việt Nam làm việc ở
Hàn Quốc để đấy tiếp tục hứa hẹn một thị trường đầy triển vọng cho ngành xuất
khẩu lao động của Việt Nam.
1.2.1.3. Thị trường Đài Loan
Đài Loan là một hòn đảo có tổng diện tích 36.000km với dân số hiện có
khoảng 23 triệu người. Trong nhiều năm trở lại đây, thanh niên Đài Loan không
còn hứng thú với nghề xây dựng và sản xuất, họ hướng vào các hoạt động trong
lĩnh vực dịch vụ. Để đáp ứng nhu cầu về lao động cho phát triển kinh tế xã hội và
trật tự hoá việc sử dụng lao động nước ngoài, ngay từ tháng 5 năm 1992, Đài
Loan đã công bố Luật dich vụ việc làm.

Không giống như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan cho phép ký hợp đồng
nhận lao động nước ngoài vào làm việc. Khỏi đầu chỉ các công ty hoạt động trong
các dự án công cộng được chính quyền cho phép ký hợp đồng nhận lao động
nước ngoài. Quy mô lao động được giới hạn khoảng 15000 người/năm. Những
20
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
năm gần đây, quy mô lao động nước ngoài được làm việc tại Đài Loan gia tăng
và dao động khoảng từ 300.000-320.000 lao động/năm. Theo Cục quản lý lao
động ngoài nước, Đài Loan là thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam lớn nhất
trong năm 2012, với khoảng 30.500 người. Lao động Việt Nam tham gia thị
trường này làm việc trong nhiều lĩnh vực như: sản xuất chế tạo, cơ khí, may mặc,
nông nghiệp, đồ mộc Ngoài ra, Đài Loan có nhu cầu cao tiếp nhận lao động nước
ngoài vào làm việc, đặc biệt là trong ngành dịch vụ như giúp việc gia đình, chăm
sóc người bệnh tại các cơ sở Bảo trợ xã hội. Lương cơ bản khoảng 8-9 triệu đồng.
Đối với lao động tại nhà máy, công trường làm thêm 2 giờ trong ngày bình
thường được trả thêm 33% lương mỗi giờ; làm thêm các giờ tiếp theo được trả
thêm 66% lương mỗi giờ; làm thêm ngày chủ nhật, ngày nghỉ lễ, nghỉ phép được
trả lương gấp 2 lần ngày thường. Đây hứa hẹn sẽ là thị trường tiềm năng của
NLĐ Việt Nam trong năm 2013 và những năm tiếp theo.
1.2.2.Việt Nam có nguồn lao động xuất khẩu dồi dào
Bảng 3. Lực lượng lao động theo nhóm tuổi.
Đơn vị tính: Nghìn người
Năm
Tổng số 15-24 25-49 50+
2006
46.238,7 9.727,4 29.447,7 7.063,6
2007
47.160,3 8.561,8 29.392,1 9.206,4
2008
48.209,6 8.734,3 29.973,4 9.501,9

2009
49.322,0 9.184,7 30.285,1 9.852,2
2010
50.392,9 9.245,4 30.939,2 10.208,3
2011
51.398,4 8.465,2 31.503,4 11.429,8
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng 4. Nhân khẩu thực tế chia theo giới tính và nhóm tuổi năm 2012
TOÀN QUỐC
Đơn vị tính: Người
Tổng số
85,448,030
Trong độ tuổi lao
động
15 - 19 20 - 24 25 - 29
Tổng số
Trong
đó: Nữ
Tổng số
Trong
đó: Nữ
Tổng số
Trong
đó: Nữ
Tổng số
Trong
đó: Nữ
9,892, 4,813,4 8,090,0 3,876,3 6,165,2 3,016,3 56,512,8 27,770,0
21
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C

010 40 48 99 30 71 03 84
Nguồn: Cục quản lí lao động nước ngoài.
Thống kê cho thấy, lực lượng lao động củaViệt Nam không ngừng tăng lên
qua các năm. Năm 2011, tại Việt Nam lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên
chiếm 51,39 triệu người, tăng 1,97% so với năm 2010, trong đó lao động nam
chiếm 51,6%; lao động nữ chiếm 48,4%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao
động là 46,48 triệu người, tăng 0,12%. Việt Nam được thế giới đánh giá là có lợi
thế về dân số đông, đang trong thời kỳ “dân số vàng” nên lực lượng trong độ tuổi
lao động khá dồi dào và sung sức với 46,7 triệu lao động, trong khi hàng năm bổ
sung thêm hơn 1 triệu người đến tuổi lao động. Đây là nguồn lực vô cùng quan
trọng để đất nước ta thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
giai đoạn 2011-2020 đã được Đại hội Đảng XI thông qua ngày 16/2/2011.
Bảng 5: Dự báo dân số và lao động
Đơn vị tính: Nghìn người
2015 2020 Bình quân
2011-2020
Tổng dân số Việt Nam 91,64 96,12 + 1.00%
Dân số trong độ tuổi LĐ 60,33 60,2 +1.2%
Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu của Bộ LĐ, TB và XH và Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(ghi chú: dấu +chỉ sự tăng thêm bình quân/ năm)
Nguồn nhân lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công nhân,
trí thức, doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành, nghề. Trong đó, nguồn
nhân lực nông dân có gần 62 triệu người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân
lực công nhân là 9,5 triệu người (gần 10% dân số); nguồn nhân lực trí thức, tốt
nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng 2,15%
dân số; nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu người, trong đó, khối
doanh nghiệp trung ương gần 1 triệu người…. Sự xuất hiện của giới doanh
nghiệp trẻ được xem như một nhân tố mới trong nguồn nhân lực, nếu biết khai
thác, bồi dưỡng, sử dụng tốt sẽ giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội.

22
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
Dù trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt về lao động, nhưng Việt Nam vẫn
xây dựng được thị trường lao động đa dạng phong phú, hàng năm đưa được số
lao động ra nước ngoài ngày càng nhiều. Chỉ tính trong 3 năm (2006 – 2008)
trung bình mỗi năm đưa được hơn 83.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài,
chiếm khoảng 5% tổng số lao động được giải quyết việc làm trong cả nước. Và
tính đến nay đã có khoảng 500.000 lao động Việt Nam làm việc ở 40 quốc gia và
vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề.
Các thị trường truyền thống như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan không
những duy trì số lao động đã có mà còn tăng thêm, như thị trường Hàn Quốc,
trong năm 2008 đã nhận 12.000 lao động Việt Nam mới sang và tái tuyển dụng
6.000 lao động; thị trường Nhật Bản, ngoài chương trình hợp tác, nước ta đã mở
thêm nhiều chương trình phi lợi nhuận, người lao động đi làm việc ở Nhật không
phải nộp phí trước khi đi, nên tổng số tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật năm
2008 đã lên đến 6000 lao động.[14]
1.2.3. Việt Nam có xu hướng xuất khẩu lao động chất lượng cao sang các
nước Đông Bắc Á
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ
thông và nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số
đông, trong khi đó, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái
thiếu của Việt Nam hiện nay không phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực
chất lượng cao. Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã
qua đào tạo trên tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu
người có bằng cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người
từ 15 tuổi trở lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm
khoảng 40%. Cơ cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại
học và trên Đại học là 1, trung học chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là
0,92; trong khi trên thế giới, tỷ lệ này là 1-4-10. Theo đánh giá của Ngân hàng
Thế giới (WB), Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân

kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn so với
nhiều nước khác. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam
23
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12 nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB) trong
khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94
Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành kỹ
thuật - công nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong khi đó
các ngành xã hội luật, kinh tế, ngoại ngữ lại quá cao. Nhiều ngành nghề, lĩnh
vực có tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực. Những lĩnh vực hiện đang thiếu
lao động như: Kinh doanh tài chính, ngân hàng, kiểm toán, công nghệ thông tin,
điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo
Tuy nhiên, trong những năm trở lại đây, xuất khẩu lao động của Việt Nam
ngày càng được cải thiện về chất lượng lao động. Theo thống kê, lao động xuất
khẩu qua đào tạo ngày càng tăng, năm 2006 là 31,9%; năm 2007 là 34,5% lao
động có tay nghề tăng từ 35% ( năm 2003) lên 50% ( năm 2008). Các hoạt động
về xuất khẩu lao động từng bước có hiệu quả và đi vào nề nếp, đã tạo cho người
lao động xuất khẩu có thu nhập gửi về gia đình, tính bình quân mỗi năm, người
lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước từ 1,6 tỷ USD đến 2 tỷ USD, riêng thị
trường Hàn Quốc với gần 50.000 lao động, mỗi năm gửi về nước trên 700 triệu
USD, Nhật Bản hơn 300 triệu USD.
Tạo việc làm và xuất khẩu lao động hiện nay là nhiệm vụ quan trọng vừa
vì an sinh xã hội, vừa là động lực của sự phát triển, nhưng thực tế đang đứng
trước thử thách, đòi hỏi sự cạnh tranh cao về lao động và việc làm. Thấy được
những cơ hội cũng như những thách thức rất lớn trong việc tận dụng lợi thế
nguồn nhân lực vàcông tác đẩy mạnh xuất khẩu lao động ra nước ngoài, Đảng và
Chính phủ đã và đang triển khai những chủ chương, chính sách tích cực trong
việc bồi dưỡng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu các thị trường. Ngày
19/4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 579/QĐ-TTg Phê
duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 trong đó nêu

rõ mỗi bộ, ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực
đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung của mình. Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội cũng đã đặt ra mục tiêu giải quyết việc làm và xuất khẩu
lao động giai đoạn 2009 – 2010: Tạo việc làm cho từ 3 đến 3,2 triệu lao động; duy
24
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C
trì tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị ở mức 5%, giảm tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực
nông nghiệp xuống còn dưới 50% năm 2010; Về xuất khẩu lao động, bình quân
mỗi năm đưa được khoảng 100.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, trong đó
có 60% lao động qua đào tạo nghề, có từ 5% - 10% là lao động ở những huyện có
tỷ lệ hộ nghèo cao…
Để đạt được mục tiêu trên đây, ngành Lao động – Thương binh và Xã hội
đã và đang thực hiện nhiều giải pháp có tính khả thi, trong đó việc quan trọng
hàng đầu là tập trung nghiên cứu, hoạch định chiến lược về cung cầu lao động,
nâng cao năng lực dự báo, phân tích về lao động, việc làm đồng thời chú trọng
tăng nguồn lực đầu tư cho giải quyết việc làm trong nước và xuất khẩu lao động,
đặc biệt chú trọng đối tượng nghèo; tăng cường đào tạo nghề gắn với nhu cầu
của thị trường lao động trong nước và thị trường lao động nước ngoài, chú
trọng đến yếu tố ngoại ngữ, văn hoá, phong tục, tập quán, pháp luật của nước sở
tại cho lao động Việt Nam khi xuất khẩu lao động; tăng cường công tác quản lý
nhà nước, xử lý tốt mối quan hệ giữa nước ta với các nước tiếp nhận lao động,
bảo vệ quyền lợi người lao động xuất khẩu; có chính sách hỗ trợ đẩy mạnh xuất
khẩu lao động ở 61 huyện nghèo nhất cả nước.
25
KlịỐTĨ LỈIẬR TỐT RSIịĩỆP RS3YỄR TlỊĨI lìưeRS-RIìẬT 2-K37C

×