MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
NỘI DUNG
CHƯƠNG I:THỊ TRƯỜNG MỸ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH XUẤT
KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ
I.Tổng quan về thị trường dệt may Mỹ
1.Những đặc điêm nổi bật của thị trường Mỹ
1.1Mỹ là thị trường lớn,thị hiếu đa dạng và tương đối dễ tính
1.2 Tính quy chuẩn và thống nhất cao độ của sản phẩm đưa vào thị trường Hoa Kỳ
1.3 Thứ ba, tính pháp lý cao của các quan hệ thị trường
1.4 Tính thống nhất, ổn định cao của hệ thống phân phối
1.5 Thị trường có sức cạnh tranh rất cao
1.6 Các hiệp hội kinh doanh có vai trò không nhỏ
2. Thị trường dệt may Mỹ
2.1Một số nét về văn hóa và lối sống ảnh hưởng đến cách ăn mặc của người Mỹ
2.2.Tình hình cung cầu và nhập khẩu hàng dệt may tại thị trường Mỹ
2.3.Các quy định, đạo luật của Mỹ đối với hàng dệt may
Quy định về xuất xứ hàng hoá
Quy định về nhãn mác
Đạo luật về chống bán phá giá
Đạo luật về cải tiến an toàn sản phẩm tiêu dung
Luật bảo vệ môi trường người tiêu dùng
Tiêu chuẩn về hàng dễ cháy
3.Kinh nghiệm của Trung Quốc trong xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ
II.Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ
1.Vai trò của thị trường Mỹ đối với xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
2.Các yêu cầu cấp thiết đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG MỸ
I.Vài nét về xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong thời gian qua
1.Kim ngạch xuất khẩu
2.Thị trường xuất khẩu
1
1
3.Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
4.Số lượng và quy mô các doanh nghiệp xuất khẩu
II.Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ
1.Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ từ 2005 đến nay.
1.1Kim ngach xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng
1.2 Về sản phẩm và cơ cấu sản phẩm
1.3 Về chất lượng và giá cả
1.4 Về mẫu mã, thương hiệu sản phẩm
1.5 Về năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam
2. Chính sách của Nhà nước và các biện pháp của Hiệp hội dệt may đã áp dụng để
thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ
2.1 Chính sách của Nhà nước
2.1.1 Nhóm công cụ hỗ trợ sản xuất
Chính sách đầu tư phát triển
Chính sách về nguyên phụ liệu
Chính sách về khoa học công nghệ
Chính sách về lao động và phát triển nguồn nhân lực
Chính sách về tổ chức quản lý
2.1.2Nhóm công cụ hỗ trợ hoạt động tiêu thụ sản phẩm
Chính sách thị trường
Chính sách tỷ giá hối đoái
Chính sách tín dụng và trợ cấp xuất khẩu
2.1.3 Đánh giá hiệu quả của các chính sách trong thời gian qua
2.2 Các biện pháp của hiệp hội dệt may Việt Nam
III.Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ
1.Những kết quả đạt được
1.1Hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam đã tăng nhanh chóng cả về số lượng và
giá trị
1.2 Hàng dệt may Việt Nam có chất lượng khá tốt,kiểu dáng mẫu mã sản phẩm đa
dạng
1.3 Một số mặt hàng dệt may đã có thương hiệu trên thị trường Mỹ
2.Những hạn chế
2
2
2.1 Quy mô ngành dệt may Việt Nam còn rất nhỏ so với các nước trong khu vực
2.2 Giá thành sản phẩm dệt may Việt Nam còn cao hơn một số nước khác
2.3 Sản phẩm may của Việt Nam chủ yếu ở dạng gia công
2.4 Năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam còn thấp,chưa đủ cạnh tranh
với thương hiệu nước ngoài.
2.5 Các doanh nghiệp Việt Nam chưa tạo được kênh phân phối hàng dệt may trực
tiếp vào thị trương Mỹ
3.Nguyên nhân
3.1 Ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển
3.2 Quy mô sản xuất hàng dệt may của Việt Namchủ yếu vẫn còn nhỏ lẻ
3.3 Khả năng tiếp thị yếu, công tác quản lý, thiết kế mẫu mã, chủng loại… chưa
cao
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VÀO
THỊ TRƯỜNG MỸ ĐẾN NĂM 2015
I.Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường Mỹ
1.Cơ hội
1.1 Nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ trong những năm tới là rất lớn
1.2 Ngành dệt may của Trung Quốc hiện đang phải đối mặt với các đề xuất bảo vệ
ngành công nghiệp dệt may của các nhà sản xuất Mỹ, nhiều nhà nhập khẩu Mỹ đã
tìm đến thị trường Việt Nam như một thị trường tiềm năng.
1.3 Quan hệ kinh tế thương mại Việt-Mỹ ngày càng phát triển,góp phần thúc đẩy
xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Mỹ trong đó có hàng dệt may.
2.Thách thức
2.1 Nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành, thiếu lao động có
trình độ chuyên môn. Nhân công giá rẻ không còn là lợi thế của Việt Nam vì hiện
có rất nhiều đối thủ cạnh tranh chào mức giá thấp hơn
2.2 Nguồn nguyên liệu trong nước chưa đáp ứng đầy đủ được yêu cầu của
ngành và yêu cầu đặc biệt của khách hàng.
2.3 Cơ chế giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam và nguy cơ tự khởi kiện
điều tra chống bán phá giá.
2.4Sự cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất khốc liệt trên tất cả các phân khúc thị
trường, nhất là Trung Quốc, Ấn Độ với ưu thế về chủng loại hàng hoá giá rất rẻ.
3
3
II.Những định hướng và triển vọng xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đến
năm 2015
1.Quan điểm,mục tiêu phát triển
2.Triển vọng phát triển ngành dệt may đến năm 2015
3.Chính sách hỗ trợ của Chính phủ cho ngành dệt may
III.Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang
thị trường Mỹ đến năm 2015
1.Giải pháp của Nhà nước
1.1Về xúc tiến thương mại hỗ trợ kinh doanh
1.2Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực
1.3 Tiếp tục đổi mới cơ chế, ban hành các chính sách hỗ trợ ngành dệt may
1.4 Hỗ trợ và cũng cố kết cấu hạ tầng phục vụ xuất khẩu
1.5 Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và nâng cao chất lượng dịch vụ công
2. Giải pháp của Hiệp hội dệt may Việt Nam
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngành dệt may
Việt Nam hiện nay đang được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát
triển khá mạnh. Trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt Nam đã có những
bước phát triển đáng kể với tốc độ trung bình giai đoạn 2005-2009 đạt 19%/năm,
kim ngạch xuất khẩu chiếm 20%kim ngạch xuất khẩu cả nước.Sự phát triển ấn
tượng của ngành may mặc đã góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong 9 nước
xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất trong số 153 nước xuất khẩu hàng dệt may trên
toàn thế giới. Một trong những thị trường có ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế thế
giới nói chung và nền kinh tế khu vực nói riêng đó là thị trường Mỹ.Đẩy mạnh
xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này chẳng những tao điều kiện thuận lợi để
kinh tế Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập mà còn góp phần năng cao năng
lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế.
4
4
Thêm vào đó,trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu tài liệu về tình hình xuất khẩu
hàng dệt may của nước ta em nhận thấy hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường
Mỹ trong thời gian vừa qua đạt quy mô và tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các thị
trường. Song bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động kinh doanh xuất khẩu
sang thị trường này vẫn có những tồn tại ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng xuất
khẩu hàng dệt may của nước ta.
Trước thực tế trên, em đã lựa chọn đề tài cho đề án môn học:Thúc đẩy xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ đến năm 2015”. Đề tài sẽ đi sâu phân
tích thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ giai đoạn
2005-2010 và từ đó đề ra một số giải pháp chính nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam sang thị trường tiềm năng này.
2.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ, đặc
điểm thị trường Mỹ, các chính sách ảnh hưởng,đến dệt may từ đó đưa ra các giải
pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị
trường Mỹ.
4.Phạm vi nghiên cứu
Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ từ 2005 đến
nay và định hướng đến 2015.
Đề tài này gồm ba chương:
Chương I: Thị trương Mỹ và sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may
của Việt Nam sang thị trường Mỹ.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của của Việt Nam sang thị trường
Mỹ.
Chương III: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
sang thị trường Mỹ đến năm 2015
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc đã hướng dẫn tôi hoàn
thành đề án này. Với kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, bài viết không thể
tránh khỏi những khiếm khuyết, tôi rất mong được bạn đọc và các thầy cô giáo góp
ý để bài viết này hoàn chỉnh hơn.
5
5
CHƯƠNG I:THỊ TRƯỜNG MỸ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THÚC
ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG MỸ
I.Tổng quan về thị trường dệt may Mỹ
1.Những đặc điểm nổi bật của thị trường Mỹ
1.1Mỹ là thị trường lớn,thị hiếu đa dạng và tương đối dễ tính
Với dân số 307 triệu người, thu nhập bình quân đầu người trên 50.000 USD, Mỹ
được coi là thị trường tiêu dùng khổng lồ.Hàng hóa dù chất lượng cao hay vừa đều
có thể bán được cho thị trường Mỹ vì các tầng lớp dân cư ở nước này đều tiêu thụ
nhiều hàng hóa. Riêng đối với các nước đang phát triển và Việt Nam khi xuất hàng
vào thị trường Mỹ cần phải lấy giá cả làm yếu tố quan trọng,mẫu mã có thể không
quá cầu kỳ nhưng phải đa dạng và hợp thị hiếu.
Mỹ là một dân tộc chuộng mua sắm và tiêu dùng. Họ có tâm lý là mua sắm càng
nhiều càng kích thích sản xuất và dịch vụ tăng trưởng. Mua sắm đã trở thành nét
không thể thiếu trong văn hóa hiện đại của nước này. Người Mỹ có một niềm tin
gần như tuyệt đối vào hệ thống các cửa hàng đại lý bán lẻ của mình, họ có sự bảo
đảm về chất lượng, bảo hành và các điều kiện vệ sinh an toàn khác. Điều này cũng
làm cho họ có ấn tượng rất mạnh trong lần tiếp xúc đầu tiên với các mặt hàng mới.
Nếu ấn tượng đó là xấu hàng hóa đó sẽ khó có cơ hội quay lại
Ở Mỹ không có các lề ước và tiêu chẩn thẩm mỹ xã hội mạnh và bắt buộc như ở
các nước khác. Các nhóm người khác nhau vẫn sống theo văn hóa, tôn giáo của
mình và theo thời gian hòa trộn, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo sự khác biệt trong thói
quen tiêu dùng của Mỹ so với người tiêu dùng ở các nước châu Âu. Cùng một số
đồ vật nhưng thời gian sử dụng có thể chỉ bằng một nửa thời gian sử dụng của
người tiêu dùng các nước phát triển khác.Với sự thay đổi như vậy, giá cả lại trở
nên có vai trò rất quan trọng. Điều này giải thích tại sao hàng hóa tiêu dùng từ một
số nước đang phát triển chất lượng kém hơn nhưng vẫn có chỗ đứng trên thị trường
Mỹ vì giá bán cạnh tranh ( điều này không xảy ra tại châu Âu).
1.2 Tính quy chuẩn và thống nhất cao độ của sản phẩm đưa vào thị trường Mỹ
6
6
Hàng hoá xuất khẩu vào Mỹ đòi hỏi thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ, nhất là đảm
bảo các yêu cầu chất lượng một cách nghiêm ngặt và đồng bộ.Các nhà nhập khẩu
Mỹluôn có ấn tượng và đòi hỏi có uy tín phải được đặt lên hàng đầu từ khi bắt đầu
có mối quan hệ hợp tác. Hàng hoá nhập khẩu vào Mỹthường phải có khối lượng
lớn, đúng quy chuẩn, đảm bảo đúng thời hạn, và không phương hại lợi ích kinh tế
của các Công ty Mỹ. Từ đó cho thấy chỉ nên lựa chọn và tập trung đầu tư vào một
số mặt hàng và ngành hàng xuất khẩu chủ lực, không dàn trải.
1.3 Thứ ba, tính pháp lý cao của các quan hệ thị trường
Môi trường pháp lý của Mỹ hết sức phức tạp, nhiều khi có sự khác biệt giữa luật
của Liên Bang, Bang và còn cả những quy định riêng biệt của chính quyền địa
phương. Hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Hoa
Kỳ được thực thi khá tốt vì thế hàng hoá bán ra ở đây phải được bảo hành tốt và an
toàn trong thời gian cam kết để tạo uy tín và niềm tin. Do đó việc hiểu biết các vấn
đề pháp lý liên quan là điều kiện mấu chốt khi xâm nhập vào thị trường Mỹvà việc
sử dụng các Công ty tư vấn nói chung trong đó có Công ty tư vấn Mỹlà điều cần
chú trọng.
1.4 Tính thống nhất, ổn định cao của hệ thống phân phối
Hệ thống phân phối hàng hoá ở Mỹphát triển ở trình độ cao, có tổ chức hoàn chỉnh,
nếu không dựa vào các hệ thống phân phối hiện có thì không thể đưa hàng hoá vào
thị trường này. Người dân Mỹ có thói quen mua sắm tại các siêu thị hay cửa hàng
lớn. Hệ thống phân phối này vừa là cơ hội, vừa là thách thức lớn cho các doanh
nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường Mỹ. Nếu chưa tham gia vào các kênh
phân phối lớn thì không những không phát triển được thị trường mà còn cản trở
đến thị phần tiêu thụ và gặp những vướng mắc vào hệ thống luật pháp của Mỹ.
Muốn đi đúng kênh các doanh nghiệp Việt Nam cần phải lựa chọn được nhà phân
phối có uy tín và đảm bảo được số lượng và quy cách hàng hoá đúng với thị hiếu
và yêu cầu của khách hàng Mỹ.
1.5 Thị trường có sức cạnh tranh rất cao
Mỹlà nước nhập khẩu lớn nhất thế giới, trên thị trường Mỹcó đầy đủ các nhà cung
cấp lớn nhỏ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, vì thế mức độ cạnh tranh là vô
cùng gay gắt. Trong cuộc cạnh tranh này, giá cả và chất lượng là hai yếu tố cơ bản,
nhưng không thể không tính đến những yếu tố khác như bao bì, mẫu mã, xuất xứ,
7
7
nhãn hiệu sản phẩm…. Đối với doanh nghiệp Việt Nam thì đây là những vấn đề
còn mới mẻ. Theo các luật sư Mỹ, vụ kiện cá ba sa đối Việt Nam nặng về khía
cạnh chính trị và là điều khó tránh khỏi. Đây là bài học đắt giá cho các doanh
nghiệp Việt Nam và sẽ còn có nhiều vụ kiện khác có thể xảy ra nữa trong quá trình
buôn bán với thị trường Hoa Kỳ
1.6 Các hiệp hội kinh doanh có vai trò không nhỏ
Ở Hoa Kỳ có rất nhiều hiệp hội của các nhà kinh doanh, các hiệp hội này có vai
trò lớn trong việc hướng dẫn và phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp với lợi
ích cộng đồng doanh nghiệp tại Mỹ, trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều đó
cho thấy rằng việc thiết lập quan hệ với các hiệp hội kinh doanh ở Mỹlà con đường
hữu hiệu để tiếp cận và xâm nhập thị trường Mỹ, thúc đẩy hoạt động đầu tư của
các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam.
2. Thị trường dệt may Mỹ
2.1Một số nét về văn hóa và lối sống ảnh hưởng đến cách ăn mặc của người Mỹ
Từ thế kỷ thứ 16 người Châu Âu đã khám phá ra Châu Mỹ và cũng từ đó Mỹ được
coi là mảnh đất của tự do, là miền đất hứa. Dòng thác nhập cư từ Châu Âu, Châu á,
Châu Phi ồ ạt đổ vào đây tạo nên một Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Chính vì vậy, dân
cư ở đây rất đa dạng về sắc tộc, tôn giáo và phong tục tập quán.
Các phân tích cụ thể cho thấy thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ rất đa dạng do nhiều
nền văn hóa khác nhau đang cùng tồn tại. Ví dụ : Người gốc châu Á chuộng màu
sắc nền và nhã hơn người gốc châu Âu. Sở thích về màu sắc khác nhau từ miền
Bắc xuống miền Nam. Người miền Bắc chuộng màu ấm cúng như đỏ, nâu…trong
khi người miền Nam thích các gam màu mát như xanh dương, trắng, nâu nhạt…
Với mặt hàng dệt may, Mỹ là nước tiêu dùng hàng dệt may lớn nhất thế giới. Hàng
năm, người Mỹ tiêu dùng mặt hàng này gấp 1,5 lần người Châu Âu- thị trường tiêu
dùng hàng dệt may thứ hai thế giới. Trong phong cách ăn mặc, người Mỹ thường
chú trọng đến yếu tố tự nhiên, bình thường. Với người Mỹ, sự thoải mái trong cách
ăn mặc là ưu tiên hàng đầu. Bởi vậy, khi làm việc, nam giới thường mặc những
chiếc sơ mi và quần âu vải sợi bông rộng thoáng còn nữ giới thì mặc váy với chất
liệu co giãn. Còn trong cuộc sống hàng ngày, quần bò áo thun là phong cách ăn
mặc đặc trưng nhất. ở mọi nơi trên đất Mỹ, bạn cũng có thể bắt gặp phong cách ăn
mặc này.
8
8
Nhịp sống ở Mỹ rất khẩn trương và họ tiêu dùng các sản phẩm cũng rất khẩn
trương.Một số sản phẩm mà họ chỉ sử dụng trong một thời gian ngắn mặc dù chưa
hỏng nhưng nó đã cũ hoặc là họ không thích thì họ sẽ mua chomình những thứ
mới.Khi đã đi mua thì họ sẽ mua sắm hàng loạt nhất là quần áo.Họ thích mua
những quần áo độc đáo nhưng phải tiện lợi.Sau đó nếu thấy hết mốt hoặc cũ thì họ
lại đem cho và lại đi mua đồ mới. Trong mặt hàng dệt may, người Mỹ khá dễ tính
trong việc lựa chọn các sản phẩm may nhưng lại khó tính đối với các sản phẩm dệt.
Người Mỹ thích vải sợi bông, không nhàu, rộng và có xu hướng thích các sản hẩm
dệt kim hơn.
Hiện nay, Mỹ là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới với thu nhập bình
quân khoảng 50.000 USD cộng với thói quen tiêu dùng nhiều, đây là thị trường
hấp dẫn đối với các mặt hàng nói chung và mặt hàng dệt may nói riêng. Tuy nhiên,
ở Mỹ mức thu nhập cũng rất đa dạng tạo nên thị trường cũng rất đa dạng và thường
chia làm ba phân đoạn. Đó là đoạn thị trường thượng lưu có thu nhập cao chuyên
tiêu dùng hàng dệt may có chất lượng cao, có nhãn hiệu nổi tiếng; đoạn thị
trườngtrung lưu tiêu dùng các mặt hàng cấp trung bình và đoạn thị trường dân
nghèo tiêu dùng các mặt hàng cấp thấp. Sự đa dạng trong thu nhập cũng là điều
kiện cho các nước xác định đoạn thị trường phù hợp với năng lực của mình.Tiêu
dùng với khối lượng lớn nên giá cả là yếu tố hấp dẫn nhất đối với người Mỹ. Họ
thích được giảm giá, khi giảm giá họ sẽ mua được nhiều hàng hơn mà vẫn không
phải tốn nhiều tiền. Sau giá cả là chất lượng hàng hoá và hệ thống phân phối sẽ là
lựa chọn tiếp theo cho việc tiêu dùng sản phẩm.
Nói chung, khác hẳn với thị trường Nhật- thị trường khó tính nhất thế giới, thị
trường Mỹ là thị trường tương đối dễ tính. Sự đa dạng trong sắc tộc,tôn giáo, thu
nhập và đặc biệt là tâm lý chuộng tự do cá nhân của người Mỹ đã đem lại một thị
trường tiêu dùng khổng lồ nhưng lại không quá cầu kỳ và yêu cầu khắt khe về sản
phẩm như Châu Âu.
2.2.Tình hình cung cầu và nhập khẩu hàng dệt may tại thị trường Mỹ
Các sản phẩm dệt may được sản xuất tại Mỹchủ yếu tập trung ở một số nhóm hàng
chính như thêu ren, đồ dùng trong nhà như thảm, rèm cửa và vải bọc cho các sản
phẩm nội thất. Các công ty lớn của Mỹchủ yếu chuyên sâu vào các dòng sản phẩm
chất lượng cao, trong khi đó các công ty vừa và nhỏ lại thành công với những sản
9
9
phẩm dệt may hàng loạt. Mặc dù ngày càng “tự động hoá” trong sản xuất nhưng số
lượng lao động sử dụng trong ngành dệt may của Mỹvẫn rất lớn với thu nhập hàng
năm khoảng gần 170.000 USD.
Các nguyên liệu chính được sử dụng trong ngành sản xuất vải sợi của Mỹlà len,
bông (cotton) và sợi nhựa tổng hợp. Vải chiếm 40% doanh thu của ngành sản xuất
dệt may Hoa Kỳ, chỉ sợi chiếm 20%, các loại thảm chiếm 20%, và chăn màn, rèm
cửa chiếm 20%.
Thị trường Mỹ là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới, kim ngạch
nhập khẩu vào Mỹ trong những năm gần đây đạt khoảng 100 tỷ USD/năm.
Biểu đồ 1: Trị giá nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ giai đoạn 2005-2009
Đơn vị tính: Tỷ USD
Nguồn www.trademap.org
Những mặt hàng nhập khẩu chính vào Mỹ là quần áo may sẵn, hàng thêu ren, trang
trí và vải sợi.Về chất liệu, cotton hiện vẫn rất được ưa chuộng tại Hoa Kỳ. Năm
2007, số lượng nhập khẩu mặt hàng quần áo chất liệu cotton chiếm 60,2% tổng số
lượng hàng dệt may của Hoa Kỳ.
Các nước xuất khẩu hàng dệt may chính sang Hoa Kỳ là Trung Quốc, Mexico, Ấn
Độ, Việt Nam, Indonesia… Trung Quốc là nước cung cấp nhóm hàng này lớn nhất
cho Hoa Kỳ cả về số lượng lẫn kim ngạch. Tuy nhiên, xuất khẩu dệt may của
Trung Quốc vào Hoa Kỳ đang có xu hướng giảm. Năm 2007, tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu nhóm hàng này chỉ đạt 14,8%, giảm mạnh so với tốc độ tăng trưởng của
năm 2005 là 43,7%, năm 2003 là 67%. Nhập khẩu dệt may từ Mexico, nước cung
cấp lớn thứ hai của Hoa Kỳ, năm 2007 giảm cả về số lượng và kim ngạch. Trong
khi đó, mặc dù mới chỉ chiếm 13,6% về kim ngạch và 14,9% về số lượng của thị
trường nhập khẩu dệt may của Hoa Kỳ, song sản phẩm dệt may đến từ các nước
Đông Nam Á, Ấn Độ, Pakistan đang tăng mạnh, đặc biệt là Việt Nam. Năm 2007,
Việt Nam là nước có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dệt may vào Hoa Kỳ nhanh nhất
cả về kim ngạch (tăng 34%) và số lượng (tăng 31%). Đến năm 2009, hàng dệt may
Việt Nam được xếp thứ hai với kim ngạch lên đến 5 tỉ đô la.
10
10
2.3.Các quy định, đạo luật của Mỹ đối với hàng dệt may
Muốn thâm nhập được vào thị trường Mỹ, sản phẩm xuất khẩu bắt buộc phải tuân
thủ theo nhiều quy định khác nhau. Đây là vấn đề khó khăn mà các doanh nghiệp
xuất khẩu của Việt Nam gặp phải khi xuất khẩu sang Mỹ.
2.3.1Quy định về xuất xứ hàng hoá
Uỷ Ban Thực Hiện Hiệp Định hàng dệt may sẽ chịu trách nhiệm về việc khai xuất
xứ hàng hoá. Tờ khai xuất xứ hàng hoá phải được đính kèm với bất kỳ lô hàng
nhập khẩu nào và kết hợp với Hải quan để quản lý hạn ngạch nhập khẩu. Bởi hạn
ngạch nhập khẩu áp dụng cho các quốc gia khác nhau thì khác nhau nên phải dựa
trên xuất xứ của hàng dệt may mới kiểm soát được.
Khi nhập khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ phải nộp ngay cho Hải quan Hoa Kỳ tờ
khai xuất xứ hàng hoá. Có hai loại tớ khai xuất xứ: tờ khai xuất xứ đơn và tờ khai
xuất xứ kép. Tờ khai xuất xứ đơn được dùng khi nhập khẩu hàng dệt may có nguồn
gốc xuất xứ từ một quốc gia hoặc chỉ được gia công tại một quốc gia bằng các
nguyên liệu sản xuất tại Hoa Kỳ hoặc từ quốc gia khác mà nó được sản xuất. Còn
tờ khai xuất xứ kép sử dụng khi nhập khẩu hàng dệt may mà được sản xuất hay gia
công và/hoặc có chứa các nguyên liệu từ nhiều nước khác.
Hải quan sẽ xác định quốc gia xuất xứ dựa trên tờ khai xuất xứ và các quy định về
“ biến đổi thực chất”. Biến đổi thực chất được xác định là nếu hàng dệt may có
nguồn gốc từ quốc gia A nhưng được chuyển qua quốc gia B rồi mới xuất khẩu vào
Mỹ, nếu như hàng đó không trải qua giai đoạn chế biến hay gia công đáng kể nào
thì lô hàng đó sẽ được xem như là xuất xứ từ quốc gia A. Một sản phẩm phải có sự
thay đổi về nhận dạng và xác định thương mại, đặc tính cơ bản hoặc giá trị sử dụng
thương mại mới được xác định là biến đổi thực chất. Và một lô hàng được chế biến
tại nhiều quốc gia khác nhau, quốc gia nào mà tại đó lô hàng trải qua giai đoạn
biến đổi thực chất thì quốc gia đó là quốc gia xuất xứ.
Có một quy định đặc biệt là hàng hóa gốc từ Mỹ đưa sang nước khác để sắp xếp
lại, gia công thêm và đóng gói khi nhập khẩu trở lại Mỹ sẽ không phải đóng thuế
nhập khẩu cho phần nguyên liệu có gốc từ Mỹ. Dựa vào quy định này, Việt Nam có
thể nhận vải cắt sẵn của công ty Mỹ cung cấp, về may thành quần áo…rồi xuất
khẩu trở lại Mỹ sẽ chỉ phải chịu thuế nhập khẩu đối với phần phí gia công.
2.3.2.Quy định về nhãn mác
11
11
Ở Mỹ, luật áp dụng chủ yếu về nhãn mác hàng dệt may là luật xác định sản phẩm
sợi dệt và luật nhãn hiệu sản phẩm bằng len năm 1939. Hầu hết các sản phẩm sợi,
dệt khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ đều phải được đóng dấu, niêm phong kín và ghi
nhãn. Nhãn mác phải được ghi rõ ràng, không tẩy xoá và ghi những thông tin sau:
-Tên riêng các loại sợi và tỷ lệ phần trăm trọng lượng của các chất sợi có trong sản
phẩm
- Tên của nhà sản xuất hoặc tên hay số đăng ký “ chứng minh” của một hay nhiều
người phụ trách tiếp thị hoặc điều hành sản phẩm sợi dệt. Số đăng ký “
chứngminh” do Uỷ Ban Thương Mại Liên Bang Hoa Kỳ cấp.
- Tên của quốc gia nơi mà sản phẩm được gia công hoặc sản xuất.
Còn nhãn hàng hoá cho sản phẩm len đựơc quy định theo luật nhãn hiệu sản phẩm
bằng len. Theo luật này, sản phẩm len phải bao gồm:
- Tỷ lệ trọng lượng của tổng các sợi có trong sản phẩm len
- Tỷ lệ trọng lượng tối đa của sản phẩm len, của các chất liệu không phải sợi, và
- Tên nhà nhập khẩu, tên nhà sản xuất bắt buộc phải ghi khi nhập khẩu sản phẩm
len có giá trị đến trên 500 USD và thuộc quy định của luật nhãn hiệu sản phẩm len.
Luật xác định sản phẩm sợi dệt và luật nhãn hiệu sản phẩm bằng len cũng quy định
các chi tiết như loại nhãn hàng hoá, cách thức gắn vị trí của nhãn hàng hoá trên sản
phẩm và trên bao bì.Vì vậy, các nhà xuất khẩu nên tìm hiểu kỹ về hai luật này để
không vi phạm về nhãn hàng hoá.bất kỳ lô hàng nhập khẩu nào và kết hợp với Hải
quan để quản lý hạn ngạch nhập khẩu. Bởi hạn ngạch nhập khẩu áp dụng cho các
quốc gia khác nhau thì khác nhau nên phải dựa trên xuất xứ của hàng dệt may mới
kiểm soát được.
Ngoài ra, từ 5/6/2010, tất cả các hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Mỹ
phảicó mã số của nhà sản xuất (MID).Theo đó, mã số của nhà sản xuất bao gồm
các ký tự thể hiện tên nước, địa chỉ của nhà sản xuất và sẽ là cơ sở xác định xuất
xứ hàng hóa của doanh nghiệp. Hàng dệt may điền sai mã số sản xuất sẽ không
hợp lệ và Hải quan Mỹ sẽ từ chối nhập cảng.
2.3.3Pháp luật về chống bán phá giá
Pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ về cơ bản được xây dựng dựa trên các
quy định về chống bán phá giá của WTO (trong Hiệp định về chống bán phá giá
12
12
của WTO).Dưới đây là phần tóm tắt một số nét đặc trưng riêng trong pháp luật
chống bán phá giá của Hoa Kỳ.
Đạo Luật chống bán phá giá của Mỹ quy định: “Bất cứ người nào thực hiện hay
giúp đỡ thực hiện việc nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Mỹ một cách phổ biến
và có hệ thống để bán những hàng hoá đó ở mức giá thấp hơn đáng kể giá thực tế
thị trường, hay giá bán buôn của những hàng hoá đó tại thị trường nơi nó được sản
xuất hay tại thị trường nước ngoài khác mà các hàng hoá đó thường được xuất
khẩu sau khi đã cộng giá bán buôn, chi phí vận tải, thuế, và các chi phí và lệ phí
cần thiết khác đều bị coi là vi phạm pháp luật nếu những hành vi kể trên được thực
hiện với dự định phá hoại, hay gây tổn thất một ngành của Mỹ, hay ngăn cản việc
thiết lập một ngành tại Mỹ, hay tạo sự kiềm chế hoặc độc quyền về hàng hoá đó tại
Mỹ”.
Các thủ tục hành chính áp dụng cho việc chống phá giá được quy định trong Đạo
Luật chống phá giá 1916; Đạo luật chống phá giá 1921; Mục VII của Đạo Luật
thuế 1930.Thủ tục chủ đạo đó là: thay vì dựa trên hành động của chính phủ hay cá
nhân trước toà án, luật chống phá giá cho phép thực hiện các thủ tục tố tụng. Cụ
thể là, những người đại diện cho một ngành ở Mỹ có thể lấy các lá phiếu biểu
quyết và trình cho Bộ Thương Mại Mỹ (DOC). DOC sẽ quyết định có tồn tại việc
phá giá hay không và ITC có trách nhiệm tìm kiếm bằng chứng và chứng minh sự
tồn tại các tổn thất. Yêu cầu về việc có dự định hay không có dự định từ phía bên
bị không quan trọng. Nếu ITC phát hiện ra tồn tại phá giá và tổn thất phá giá, thuế
chông phá giá sẽ được áp dụng. Bên bị sẽ không phải chịu các trừng phạt dân sự
hay hình sự nào.
2.3.4Đạo luật về cải tiến an toàn sản phẩm tiêu dùng
Đạo luật về cải tiến an toàn sản phẩm tiêu dùng đã được Quốc hội Mỹ thông qua
và chính thức có hiệu lực từ ngày 15/8/2008. Văn bản quy định những điều kiện
liên quan đến nhập khẩu một số mặt hàng chiếm thị phần xuất khẩu lớn của Việt
Nam. Từ ngày 15/8/2009, một số quy định mới trong Đạo luật về cải tiến an toàn
sản phẩm tiêu dùng sẽ tác động trực tiếp đến việc sản phẩm dệt may của Việt Nam
vào thị trường Mỹ.
Theo đạo luật này, một số quy định mới và được cải tiến áp dụng cho hàng dệt
may, da giầy khi xuất khẩu vào Mỹ là: Quy định về tính bắt cháy của vải; Quy định
13
13
về lượng chì cho phép trong sơn của giày dép, trong nguyên phụ kiện của các đồ
dệt may như phéc-mơ-tuya, khuy, trang sức… và quy định cấm dùng dải rút để bo
cổ và bụng áo của trẻ em… Nếu vi phạm những quy định này hàng hoá sẽ không
được phép nhập khẩu vào Mỹ. Đạo luật này vẫn sẽ được Hoa Kỳ tiếp tục sửa đổi
và bổ sung.Việc kiểm định và cấp giấy chứng nhận đạt chuẩn phải được thực hiện
bởi một cơ quan đánh giá độc lập do CPSC công nhận. Giấy chứng nhận này phải
kèm theo sản phẩm hay chuyến hàng xuất khẩu sản phẩm và phải có sẵn để cho
CPSC và Hải quan Mỹ kiểm tra khi có yêu cầu.
2.3.5Luật bảo vệ môi trường người tiêu dùng
Ngày 1/1/2010, Luật Bảo vệ môi trường người tiêu dùng của Mỹ bắt đầu có hiệu
lực, trong đó vấn đề kỹ thuật mới đối với nhập khẩu hàng dệt may là rào cản không
nhỏ cho các nhà xuất khẩu Việt Nam.Theo đó, những lô hàng nhập khẩu vào Mỹ
phải có giấy an toàn sản phẩm tiêu dùng Hoa Kỳ (CPSA) kiểm nghiệm của bên thứ
3 xác nhận sản phẩm sử dụng nguyên liệu bảo đảm cho sức khỏe người tiêu dùng.
Nhà sản xuất sẽ phải chịu trách nhiệm về tất cả thiệt hại, nếu có, cho người tiêu
dùng…
2.3.6Tiêu chuẩn về hàng dễ cháy
Uỷ Ban về an toàn sản phẩm tiêu dùng Hoa Kỳ sẽ giám sát việc nhập khẩu và kiểm
tra các lô hàng dệt may nhập khẩu nhằm đảm bảo các tiêu chuẩn của luật về sản
phẩm dệt dễ cháy. Và hầu như các sản phẩm dệt may nhập khẩu vào Hoa Kỳ đều
phải tuân thủ luật này nhằm bảo vệ người tiêu dùng khỏi các hiểm hoạ từ việc các
quần áo dễ bén lửa và sử dụng các vật dụng dễ cháy trong nhà. Trong luật này cũng
quy định rõ về tính bén lửa đối với hàng dệt may.
Trên đây là một số quy định cơ bản cần chú ý khi xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ.
Mỹ là nước của luật pháp,vì vậy các doanh nghiệp dệt may cần lưu ý mọi vấn đề
để tránh rắc rối trong quá trình xuất khẩu.
3.Kinh nghiệm của Trung Quốc trong xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ
Khác so với các nước Đông Nam Á, Trung Quốc là nước có lịch sử sản xuất các
sản phẩm dệt may rất lâu đời và một phần lớn các sản phẩm này là dành cho xuất
khẩu. Đây là ngành mà Trung Quốc có lợi thế do sử dụng nhiều nhân công giá rẻ.
Cho đến nay, hàng dệt may của Trung Quốc đã xuất hiện gần như khắp nơi trên thế
giới với tốc độ tăng trưởng tương đối cao; chính vì vậy Trung Quốc thường bị kiện
14
14
về việc bán phá giá và bị áp đặt hạn ngạch. Trung Quốc hiện đang tranh thủ được
càng nhiều nước càng tốt công nhận Trung Quốc là nền kinh tế thị trường để có lợi
bảo vệ quyền lợi của mình tốt hơn trong các vụ tranh chấp thương mại.Ngoài ra,
Chính phủ cũng rất tích cực nghiên cứu, tìm hiểu các quy định liên quan tới tranh
chấp thương mại và đã thành lập cơ quan cảnh báo chống bán phá giá.
Ngành công nghiệp dệt may Trung Quốc có vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân,chiếm 16% GDP. Xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc chiếm 25% giá trị
xuất khẩu của cả nước và chiếm 13% tổng kim ngạch thế giới.Dệt may là một
trong các ngành thế mạnh của Trung Quốc mà Việt Nam cần tìm ra giải pháp để
cạnh tranh.
Đối với hàng may mặc, Trung Quốc xuất vào Mỹ phần lớn là hàng dệt thường,
chiếm thị phần cao nhất so với các nước khác là 16,1%. Về hàng dệt thì Trung
Quốc chỉ đứng thứ 3 với thị phần chiếm 9,9%.
Chủng loại hàng dệt may của Trung Quốc rất đa dạng: hàng cấp thấp, bình dân như
đồ bộ, sơ mi…chiếm phần lớn kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc vào Mỹ, hàng
thời trang cao cấp tuy không đáng kể nhưng có mặt trên thị trường Mỹ như
Complet, veston, quần tây cao cấp…và dù hàng cấp thấp hay cấp cao thì hàng dệt
may của Trung Quốc vào Mỹ đều có giá rất rẻ so với mặt hàng cùng chủng loại của
các nước khác.
Các công ty dệt may của Trung Quốc biết sử dụng tối đa hệ thống Thương mại của
người Mỹ gốc Hoa để thực hiện phân phối trực tiếp sản phẩm của mình trên thị
trường Mỹ. Đến nước Mỹ người ta có thể dễ dàng nhận thấy hàng dệt may Trung
Quốc chiếm thị phần rất cao ở thị trương bình dân và có thu nhập thấp.
II.Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
sang Mỹ
1.Vai trò của thị trường Mỹ đối với xuất khẩu dệt may Việt Nam
Dệt may là mặt hàng trọng điểm và đang dẫn đầu về tỷ trọng đóng góp cho nền
kinh tế quốc dân. Do đó, đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may là chiến lược quan
trọng trong ngành công nghiệp nhẹ của Việt Nam.Mặt khác, thị trường Mỹ là thị
trường hấp dẫn nhất cho mặt hàng này. Vậy những lợi ích mà đẩy mạnh xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ là gì?
15
15
Thứ nhất, sự tăng số lượng và giá trị hàng dệt may vào thị trường Mỹ giúp cho Việt
Nam thu được lợi nhuận trong kinh doanh và gia tăng thị phần ở thị trường
Mỹ.Nhưng năm gần đây Việt Nam đứng thứ 5 trong các nước xuất khẩu hàng dệt
may vào Mỹ. Năm 2009, ngành Dệt may Việt Nam đạt kim ngạch XK khoảng
9,066 tỷ USD, trong đó đạt 4,995 tỷ USD ở thị trường Mỹ.
Thứ hai, xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu. Do đó, đẩy mạnh xuất khẩu sẽ
tạo điều kiện cho nhập khẩu nhiều hàng hoá hơn để Việt Nam có thể hiện đại hoá
nền kinh tế, nhập khẩu những hàng hoá mà không có hay đắt hơn ở trong nước và
người tiêu dùng có nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn hàng hoá.
Thứ ba, thúc đẩy xuất khẩu dệt may sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành liên
quan như: trồng bông, sản xuất vải, nhuộm, v.v…
Thứ tư, đẩy mạnh xuất khẩu dệt may vừa tận dụng được nguồn lao động dồi dào,
giá rẻ cũng như nguồn nguyên liệu rẻ ở Việt Nam vừa tạo thêm công ăn việc làm
cho người lao động.
Thứ năm, đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may giúp cho các doanh nghiệp tăng thêm
khả năng đầu tư vào đổi mới công nghệ, tiếp thu những thành tựu mới của khoa
học – công nghệ.
Thứ sáu, nó còn giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam học hỏi được kinh nghiệm
buôn bán quốc tế ở thị trường có mức độ cạnh tranh cao.
Thứ bảy, nó giúp tăng cường mối quan hệ giưa hai nước không chỉ trên lĩnh vực
kinh tế mà còn cả các lĩnh vực khác cũng như mở rộng quan hệ với các nước khác
trên thế giới.
Với những lợi ích nêu trên thì đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị
trường Mỹ là chiến lược hàng đầu của ngành dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
2. Tính tất yếu của việc thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ
Để làm định hướng và đường chỉ dẫn vào nghiên cứu những vấn đề tiếp theo của
cơ sở lý luận thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may cũng như các vấn đề khác có liên
quan đến thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may thì một vấn đề quan trọng được đặt ra
đó là trước tiên chúng ta phải hiểu thúc đẩy xuất khẩu dệt may là gì? Câu trả lời
cho câu hỏi này là tùy vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế thế giới và của
khoa học công nghệ cũng như các giai đoạn khác nhau của sản phẩm được xuất
khẩu mà việc thúc đẩy xuất khẩu được sử dụng bằng các cách khác nhau. Nó
16
16
không có một phương thức hay một biện pháp cố định nào được sử dụng liên tục
để thúc đẩy xuất khẩu cho một sản phẩm. Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may cũng
không nằm ngoài quy luật chung đó. Vì vậy mà với mỗi thời kỳ nó được sử dụng
bằng các phương pháp khác nhau. Tuy nhiên có thể khái quát lại như sau:
Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may là một phương thức thúc đẩy tiêu thụ hàng dệt
may mà trong đó nó bao gồm tất cả các biện pháp chính sách,cách thức …của Nhà
nước và các doanh nghiệp dệt may nhằm tạo ra cơ hội và khả năng để tăng giá trị
cũng như sản lượng của hàng dệt may được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Các biện pháp,chính sách,cách thức… Nó có thể là những biện pháp cho thời kỳ
sản phẩm mới xâm nhập thị trường,hoặc một sản phẩm đã được cải tiến hay một
sản phẩm đã có chỗ đứng trên thị trường và đang tìm các cạnh tranh để giành giật
thị phần.Kết quả của những biện pháp chính sách đó là những cơ hội. Cuối cùng là
thực hiện được mục tiêu bán được nhiều hàng dệt may hơn ra thị trường nước
ngoài. Chủ thể của thúc đẩy xuất khẩu là Nhà nước và các doanh nghiệp dệt may.
Tức là vừa có chủ thể đại diện ở tầm vĩ mô và vừa có chủ thể đại diện ở tầm vi
mô.Nhưng phạm vi nghiên cứu của đề tài này tập trung vào nghiên cứu các biện
pháp, chính sách của chủ thể vĩ mô.
Mặc dù ngành dệt may là một ngành công nghiệp nhẹ tương đối phù hợp với cơ sở
hạ tầng và khả năng tài chính ở nước ta,lại có được những thuận lợi cho sự chuyển
hướng trọng tâm phát triển nền kinh tế quốc dân của Đảng và Nhà nước. Cho nên
đã đạt được những thành tựu nhất định trong thời kỳ đổi mới. Nhưng cũng do
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan làm cho sản phẩm dệt may của nước ta chưa
thực sự có chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Mặt khác dệt may vẫn được coi là
ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn trong những năm tới. Vì vậy mà việc thúc
đẩy xuất khẩu hàng dệt may của nước ta trong những năm tới là tất yếu.
Mặt khác,trong những năm gần đây,Mỹ là thị trường xuất khẩu hàng dệt may chủ
yếu của nước ta( giai đoạn 2005-2009 chiếm hơn 50% kim ngạch dệt may xuất
khẩu với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình đạt 19%). Vì vậy việc thúc đẩy
xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ trong những năm tới cũng là một tất
yếu.
17
17
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ
I.Vài nét về xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong thời gian
qua
1.Kim ngạch xuất khẩu
Những năm gần đây ngành dệt may của Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể
theo hướng sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Khi Việt Nam thâm nhập ngày càng sâu vào thị trường thế giới, tham gia trên một
sân chơi rộng khắp toàn cầu, Ngành dệt may đã tận dụng những cơ hội mang lại và
phần nào đã chuyển những thách thức thành những kết quả đáng ghi nhận của
ngành. Năm 2007, dệt may vươn lên vị trí dẫn đầu trong danh mục các mặt hàng
xuất khẩu với kim ngạch đạt khoảng 7,75 tỉ USD (tăng 30% so với năm 2006),
vượt qua cả dầu thô. Năm 2008 mặc dù gặp rất nhiều khó khăn do suy thoái kinh tế
tại Hoa Kỳ,ở trong nước tình hình lạm phát thiếu ổn định tuy vậyxuất khẩu toàn
ngành đã đạt 9,12 tỷ USD (tăng 17.7% so với cùng kỳ 2007).Năm 2009,So với
bình diện chung của ngành dệt may các nước xuất khẩu khác ở khu vực châu Á và
trên thế giới thì ngành dệt may Việt Nam xem như đã an toàn về đích.Hầu hết các
đối thủ cạnh tranh ở khu vực châu Á của hàng dệt may Việt Nam như Pakistan,
Bangladesh, Trung Quốc… đều giảm mức tăng trưởng xuất khẩu đến 2 con số. Đặc
biệt, năng lực cung cấp của các nước này bị giảm sút mạnh ở các thị trường lớn
như Mỹ, EU nên lợi thế chuyển về VN.Sau mức suy giảm nhẹ (0,6% so với năm
trước) của năm 2009, xuất khẩu nhóm hàng dệt may đang bứt phá, hứa hẹn một
năm tăng trưởng tốt với trị giá đạt 3,86 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm 2010, tăng
18,6% so với cùng kỳ năm 2009, chiếm gần 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước và cao hơn so với nhóm hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn thứ 2 (là dầu thô)
tới gần 1,7 tỷ USD.
So với tăng trưởng xuất khẩu cả nước thì xuất khẩu hàng dệt may có tốc độ tăng
trưởng cao hơn rất nhiều, chứng tỏ dệt may là một ngành xuất khẩu rất quan trọng
trong cơ cấu xuất khẩu theo ngành của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Biểu đồ2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam giai đoạn 2005-2009
và 9 tháng 2010
18
18
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Tổng cục hải quan Việt Nam
2.Thị trường xuất khẩu
2.1 Các thị trường chính
2.1.1Thị trường Mỹ
Với dân số khoảng 350 triệu người, ít hơn các nước EU nhưng mức tiêu thụ hàng
dệt may gấp rưỡi EU(27kg/người/năm) nên tổng nhu cầu sử dụng của thị trường
này là rất lớn. Thêm nữa, Mỹ với đặc điểm là một hợp chủng quốc nên nhu cầu
tiêu dùng mang tính đa dạng phong phú. Nhu cầu lớn này lại được đáp ứng bằng
nhu cầu nhập khẩu nên đây được xem là một thị trường tiềm năng lớn đối với mọi
nhà sản xuất và xuất khẩu dệt may trên thế giới cũng như các doanh nghiệp Việt
Nam.
Tại thị trường Mỹ- thị trường xuất khẩu dệt may lớn nhất của Việt Nam với tỷ
trọng trên 55% trong tổng giá trị xuất khẩu dệt may - các doanh nghiệp đã nỗ lực
phối hợp với các nhà nhập khẩu trong việc xác định lại cơ cấu giá cả hợp lý trên cơ
sở vẫn giữ vững chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Nhờ đó trong năm 2008, hàng
dệt may Việt Nam đạt kim ngạch vào Hoa Kỳ trên 5,1 tỷ USD, tăng 15% so với
năm 2007. Trong 9 tháng đầu năm 2009, nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ
giảm đến 12,7% và hàng nhập từ hầu hết các nước sản xuất chính đều giảm (từ
Hồng Kông giảm 21%, từ Indonesia giảm 2,9%, từ Thái Lan giảm 25,6% và từ Ấn
Độ giảm 7,7%). Tuy nhiên, hàng dệt may Việt Nam xuất vào thị trường này vẫn
tăng 18% về lượng và chỉ giảm 4,5% về giá trị.
Việc nghiên cứu về xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ sẽ được
trình bày cụ thể hơn ở phần sau của đề tài.
2.1.2 Thị trường Châu Âu
Châu Âu được mệnh danh là lục địa già nhưng lại là một khu vực thị trường rộng
lớn,là nơi cung cấp các trang thiết bị, công nghệ hiện đại và đây cũng là một trung
tâm tài chính-kinh tế lớn của thế giới. Với dân số trên 360 triệu người và có GDP
9000 tỷ USD, EU thực sự là một thị trường có đầy tiềm năng,có mức tiêu dùng
hàng dệt may khá cao so với thế giới (chỉ sau Mỹ và Nhật Bản) 17kg/người/năm.
19
19
Thị trường Châu Âu chiếm khoảng 20% giá trị xuất khẩu dệt may của Việt
Nam.Tuy nhiên EU là thị trường có nhiều quy định kỹ thuật khắt khe, với mục đích
là bảo vệ tốt nhất sức khoẻ con người, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững...
Đây là rào cản lớn đối với những DN chưa có sự chuẩn bị kỹ càng.
Kim ngạch xuất khẩu sang EU không tăng mạnh như thị trường Mỹ. Nếu xuất
khẩu sang Mỹ những năm gần đây (trừ năm 2009 do ảnh hưởng của suy thoái kinh
tế) đều có mức tăng trưởng từ 17 đến 30%, thì xuất khẩu sang EU chỉ tăng ở mức
11-12%.Yêu cầu của người tiêu dùng về chất lượng và kiểu dáng sản phẩm tại EU
cũng có phần khắt khe hơn Mỹ, cũng là nguyên nhân khiến cho hàng dệt may sang
EU không tăng như mong đợi, bởi không nhiều DN đáp ứng được các tiêu chuẩn
kỹ thuật này. Để khắc phục khó khăn cho xuất khẩu hàng dệt may vào EU, ngành
dệt may phải tạo được sản phẩm có giá trị bảo vệ môi trường theo đúng yêu cầu
của thị trường EU, tổ chức lại sản xuất, chú trọng tìm mọi cách tiết giảm chi phí
sản xuất, nghiên cứu áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến... để nâng cao năng
suất lao động và khả năng cạnh tranh.
2.1.3 Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là tị trương lớn, với mức tiêu thu cao(20,3kg/người/năm). Hàng năm thị
trường này nhập khẩu hơn 20 tỷ USD hàng dệt may. Đây cũng là thị trương dệt
may lớn của Việt Nam,là thị trường đầy hứa hẹn với hàng dệt may Việt Nam trong
cả trước mắt cũng như lâu dài, chúng ta cần dầu tư và phát triển lên một mức cao
hơn
Tại thị trường Nhật Bản - thị trường lớn thứ ba của ngành dệt may Việt Nam,
các doanh nghiệp đã tăng cường hoạt động xúc tiến hợp tác đầu tư, thương mại với
đối tác Nhật Bản. Nhờ đó kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này không ngừng
tăng trưởng (năm 2008 tăng 12% và 9 tháng đầu năm 2009 tăng 15,3 %). Đây là
kết quả đáng ghi nhận trong điều kiện nền kinh tế Nhật Bản cũng bị suy giảm
nghiêm trọng. Hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu sang thị trương Nhật Bản không
chỉ tăng nhanh về kim ngạch mà còn đa dạng về chủng loại và tăng mạnh về khối
lượng. Các loại áo khoác gió nam, quần áo cho người lái xe tải, áo sơ mi, quần
âu…là những mặt hàng dệt may chủ yếu của Việt Nam xuất sang thị trường Nhật
Bản.
20
20
Thuận lợi lớn nhất hiện nay của dệt may Việt Nam là tăng trưởng vào thị trường
Nhật Bản.Chính sách ưu đãi miễn thuế trong Hiệp định kinh tế song phương Việt-
Nhật (VJEPA) chính thức có hiệu lực từ ngày 1/10/2009 là một động lực lớn để
nhà nhập khẩu nước ngoài chuyển đơn hàng sản xuất vào Việt Nam.
Tuy nhiên Nhật Bản cũng là thị trường đồi hỏi rất khắt khe về tiêu chuẩn chất
lượng ,từ nguyên phụ liệu đến quy trình sản xuất đều phải tuân thủ ngiêm ngặt tiêu
chuẩn chất lượng JIS(Japan Industrial Standard) cũng như các điều luật, các quy
định ứng dụng với sản xuất và nhập khẩu hàng hóa.
Biểu đồ3: Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trường EU, Mỹ và
Nhật Bản từ 2005-2009 và 5 tháng 2010
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Tổng cục Hải quan
2.2 Các thị trường khác
2.2.1 Thị trường ASEAN: Sau khi là thành viên chính thức của ASEAN vào năm
1995, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN chiếm khoảng 1/3 tổng kim
ngạch xuất khẩu cảu cả nước. Tuy vậy, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam sang ASEAN đến nay còn khá nhỏ bé so với tổng kim ngạch xuất khẩu của
toàn ngành( chỉ chiếm khoảng 5% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành).Hàng năm
dệt may xuất khẩu một lượng lớn sản phẩm sang các nước trong khu vực như Hàn
Quốc, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông… Tuy nhiên các nước này không phải là
thị trường nhập khẩu chính mà là nước nhập khẩu hoặc thuê Việt Nam gia công để
tái xuất khẩu sang nước thứ ba. Đây cũng là thị trường nguyên phụ liệu quan trọng
của ngành dệt may Việt Nam. Các nước thuộc ASEAN nhập khẩu hàng dệt may
của Việt Nam chủ yếu là hàng gia công, do đó giá trị thực tế thu được không cao.
2.2.2 Thị trường Trung Đông: Xuất khẩu sang thị trường Trung Đông có nhiều
điểm thuận lợi như khả năng thanh toán cao,nhu cầu nhập khẩu cao do công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng của các nước này chưa phát triển, do các nước này chủ yếu
tập trung vào phát triển ngành công nghiệp dầu khí-một nguồn tài nguyên vô cùng
quý giá. Thêm vào đó, cước vận chuyển đường biển tuy hơi xa nhưng tuyến đường
khá thuận lợi. Mặc dù kim ngạch còn thấp nhưng một số mặt hàng dệt may của
21
21
Việt Nam đã tỏ ra coa khả năng thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường này như áo sơ
mi, quần áo bảo hộ lao động và các loại hàng may mặc mỏng khác với thành phần
100% cotton.
2.2.3 Thị truờng Châu Phi: Với diện tích hơn 30 triệu km2, dân cư khoảng 700
triệu người, thị trường này gần như mới mẻ với các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt
may của Việt Nam. Hàng dệt may xuất sang thị trường này chủ yếu là vào thị
trường Nam Phi. Do dặc điểm lục địa bị các nước thực dân đô hộ, áp bức bóc lột
trong suốt thời gian dài nên Châu Phi tới nay vẫn chỉ là một lục địa nghèo.Tình
trạng nợ nước ngoài ngày càn đè nặng lên lục địa này. Do những khó khăn chồng
chất về kinh tế, chính trị, xã hội nhiều nước đã không có khả năng thanh toán nợ.
Sự bất ổn trên nhiều lĩnh vực và thu nhập thấp là lý do chính hàng may mặc của
Việt Nam chưa thâm nhập nhiều vào thị trường này.
3.Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Các sản phẩm dệt may Việt Nam đã được xuất khẩu tới hơn 50 nước trên thế giới
song mới chỉ tập trung vào một số mặt hàng phổ thông như áo jacket, sơ mi, quần
áo bảo hộ lao động, khăn trải bàn, khăn bông, hàng dệt kim.
Sản phẩm hàng dệt kim ngày càng được ưa chuộng.Mặt hàng dệt kim được sản
xuất rất đa dạng và được sử dụng rộng trong nhiều lĩnh vực của đời sống, song
hiện nay mới chỉ được quan tâm tới sản xuất các mặt hàng trên máy đan tròn mà
phần lớn là áo Polo-shirt và T-shirt từ sợi cotton và Pe/cotton.Trên thế giới, sản
phẩm dêt kim được chia làm 3 loại:
-Hàng dệt kim từ sợi Pe/Cotton thuộc nhóm giá trị thấp và trung bình(2,5-
3USD/sản phẩm).
-Hàng dệt kim từ sợi Cotton thuộc nhóm giá trị khá khoảng 10 USD/SP.
-Hàng dệt kim loại cao cấp và đặc biệt:20USD/SP. Loại sản phẩm này chủ yếu dệt
từ sợi Cotton chải kỹ có xử lý đốt long,làm bóng,chống co.
Mặt hàng dệt kim xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng dệt kim từ sợi
Pe/Cotton (75-80%) do vậy kim ngạch xuất khẩu chưa cao.Nhu cầu thế giới về sản
phẩm loại khá và cao cấp là rất lớn nên muốn hàng dệt kim tiếp tục phát triển phải
đổi mới công nghệ để có khả năng sản xuất ra những mặt hàng có giá trị xuất khẩu
cao.
22
22
Về mặt hàng sợi, sợi bông chải kỹ chất lượng cao bước đầu được sản xuất và tiêu
thụ, các sản phẩm Cotton/Visco, cotton.Acrylic, Wood/Acrylic, các loại sợi có lõi
đàn tính sản xuất phục vụ cho dệt bít tất và đồ lót…
Mặt hàng dệt sử dụng 100% sợi bông đã khép kín được sản xuất từ nguyên liệu
đến hoàn tất sản phẩm để may sơ mi xuất khẩu. Nhiều mặt hàng sợi bông dày được
đầu tư thêm công nghệ làm bóng,phòng co cơ học,đã xuất khẩu được sang các thị
trường Châu Âu, Nhật Bản.
Các mặt hàng dùng sợi tổng hợp nhờ đầu tư thêm nhiều thiết bị,trang bị hệ thống
se lăn sợi, thiết bị giảm trọng lượng nên chất lượng được nâng cao, hàng giả tơ
tằm,giả len sử dụng thích hợp với khí hậu nhiệt đới,làm phong phú thêm các mặt
hàng,ngành dệt sợi Petex phát triển thêm tương đối mạnh.
Bảng 1: Một số mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu chủ yếu trong giai đoạn
2005-2009
Mặt hàng XK Trị giá xuất khẩu(triệu USD)
2006 2007 2008 2009
Áo thun 1011 1510 2091,7 1948,7
Áo jacket 799,6 987,7 1197,3 1104
Áo sơ mi 409.7 460 498,9 525,5
Áo khoác 298 309,4 474,3 580
Quần jean 9,5 31,39 50,67 72,4
Quần áo thể thao 41,2 103 124,94 131.2
Áo ngủ 31,1 69,1 103,94 110
Quần áo trẻ em 249 287.8 308,67 338,7
Màn 57,2 81,9 98,07 133,1
Gang tay 69.9 76,4 112,96 121,49
Sản phẩm dệt may xuất khẩu khá đa dạng,vừa có tính quốc tế, vừ mang đậm bản
sắc dân tộc,có tính thời trang. Bên cạnh những mặt hàng dệt may truyền thống.
thông qua gia công cho các nước, các doanh nghiệp may Việt Nam có điều kiện
làm quen với công nghệ may các mặt hàng phức tạp, thời trang của thế giới. Tuy
nhiên, do cong thiếu các máy chuyên dùng hiện đại, phải qua nhiều thao tác thủ
công nên năng suất lo động còn thấp, chất lượng chưa cao so với nhiều nước trong
khu vực nên đã hạn chế khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam.
4.Quy mô các doanh nghiệp xuất khẩu
23
23
Xét trên quy mô, phần lớn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thuộc loại vừa và
nhỏ. Nếu phân theo tiêu chí lao động thì có tới 80% doanh nghiệp sử dụng dưới
300 lao động, theo vốn thì có tới 90% dưới 5 tỷ đồng. Hiệu quả chính của ngành
dệt may là tạo ra một triệu việc làm cho lao động công nghiệp và trên một triệu lao
động tiểu thủ công nghiệp. Dệt may cũng là một ngành sản xuất xoá đói giảm
nghèo cho các vùng nông thôn.
Với quy mô vừa và nhỏ như vậy, nếu không liên kết với một số doanh nghiệp lớn
thì những doanh nghiệp này cũng khó tồn tại, chưa nói tới việc cạnh tranh quốc tế.
Thực tế này đã được minh chứng trong tiến trình xoá bỏ hạn ngạch cho hàng may
mặc Việt Nam tại thị trường Canada trước đây và thị trường EU từ đầu năm ngoái.
Cứ xoá bỏ hạn ngạch đến đâu thì hàng dệt may Việt Nam mất hoặc giảm thị phần
đến đó vì các doanh nghiệp thiếu những nhà quản trị giỏi, thiếu kỹ năng tiếp cận
thị trường và năng suất lao động lại thấp…nên không thể cạnh tranh ngang bằng
với Bangladesh, Srilanca, Thái Lan, Indonesia, càng khó để cạnh tranh được với
các cường quốc dệt may.
II.Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị
trường Mỹ
1.Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ từ 2005 đến nay.
1.1Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng
Thị trường Mỹ được đánh giá là thị trường xuất khẩu hàng dệt may có tiềm năng
của Việt Nam. Như đã phân tích về đặc điểm thị trương hàng dệt may của Mỹ ở
trên, Mỹ là thị trường tiêu thụ hàng dệt may hết sức khổng lồ (giai đoạn 2005-2008
mỗi năm Mỹ nhập khẩu khoảng 100 tỷ USD). Đây thực sự là thị trường cực kỳ hấp
dẫn đối với các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam khi xuất khẩu các sản phẩm
của mình sang thị trường Mỹ.
Quan hệ thương mại hàng hóa song phương Việt Nam-Hoa Kỳ ngày càng phát
triển, đặc biệt là từ năm 2007, sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Năm 2007 là năm đánh dấu mức tăng
trưởng nhảy vọt trong thương mại hàng hóa Việt Nam - Hoa Kỳ, đặc biệt là xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, trong đó có hàng dệt
may.Nếu như trong năm 2005 và 2006, tổng kim ngạch dệt may xuất khẩu của Việt
Nam sang thị trường Hoa Kỳ chỉ đạt tương ứng 2,75tỷ USD và 3.045 tỷ USD thì
24
24
đến năm 2008, tổng trị giá hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ đã đạt
5,106 tỷ USD. Năm 2009, tuy chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc suy thoái kinh tế
bắt đầu tại Hoa Kỳ vào tháng 12/2007 và tiếp đến là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu từ giữa năm 2008, nhưng xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Mỹ vẫn đạt
4.955 tỷ USD, giảm nhẹ 2,96% so với kết quả thực hiện của một năm trước đó.
Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của các nhà xuất
khẩu Việt Nam.
Biểu đồ 4: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ giai
đoạn 2005-2010
Đơn vị: triệu USD
Xét về tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam:
Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009 5
tháng /
2010
Kim ngạch XK hàng
dệt may sang Hoa Kỳ
(triệu USD)
(A) 2.591 3.045 4.465 5.106 4.995 2.217
Kim ngạch XK hàng
dệt may của cả nước
(triệu USD)
(B) 4.809 5.834 7.750 9.120 9.066 3.857
Tỷ trọng trong tổng
KN XK sang Hoa Kỳ
(triệu USD)
(C)=100
*A/B
53,9 52,2 57,6 56,0 55,1 57,5
Tổng KNXK sang hoa
Kỳ (triệu USD)
(D) 5.905 7.829 10.089 11.869 11.356 5.026
Tỷ trọng trong tổng
KNXK cả nước sang
Hoa Kỳ (%)
(E)=100*
A/D
43,9 38,9 44,3 43,0 44,0 44,1
1.2 Về cơ cấu sản phẩm
25
25