Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

chiến lược xây dựng nền kinh tế tri thức ở việt nam trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.26 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………………1
B. NỘI DUNG TIỂU LUẬN………………………………………………………5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI……………………………… 5
1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ có liên quan…………………………………5
1.2. Khái quát quá trình hình thành nền kinh tế tri thức……………………… 6
1.3. Một số đặc điểm cơ bản của kinh tế tri thức…………………………………7
1.4. Kinh tế tri thức và chủ nghĩa Mác – Lênin………………………………… 9
1.5. Quan điểm của Đảng và nhà nước về kinh tế tri thức………………………11
CHƯƠNG 2: CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG NỀN KTTT VÀ MỘT SỐ GIẢI GIẢI
PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN THÀNH CÔNG VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TÊ TRI
THỨC CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA……….12
2.1.Xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức trên thế giới trong thế kỷ
XXI………………………………………………………………………………12
2.2.Chiến lược xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong quá trình công
nghiệp hóa hiện nay……………………………………………………………….14
2.3. Giải pháp chủ yếu cho nền kinh tế tri thức của Việt Nam hiện nay…………22
C. KẾT LUẬN……………………………………………………………………26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Kinh tế tri thức là một khái niệm mới, về nội hàm, kinh tế tri thức phản ánh một
trình độ rất cao trong các nấc thang phát triển kinh tế của loài người. Hiện nay xu
hướng phát triển kinh tế tri thức đang tác động ngày càng sâu rộng trên mọi khía
cạnh, lĩnh vực của đời sống nhân loại; có thể nói kinh tế tri thức vừa là mục tiêu
vừa là xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài người trong tương lai gần. Kinh tế tri
thức được xác định chính là cánh cửa mở ra cho các nền kinh tế đang phát triển
tiếp cận và rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển nếu biết đón bắt và tận
dụng cơ hội. Ngược lại, kinh tế tri thức cũng tạo ra thách thức lớn hơn bao giờ hết
đối với các nước đang phát triển, đó là nguy cơ tụt hậu, đó là khoảng cách ngày
càng gia tăng về trình độ phát triển với các nước phát triển.


Trong bối cảnh đó ở nước ta, sau nhiều tranh luận, đã có sự nhất trí xây dựng
nền kinh tế theo hướng tri thức hóa dần các công đoạn của quá trình sản xuất hàng
hóa và dịch vụ trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, và phát triển kinh tế
tri thức ở nước ta đã được khẳng định tại các Báo cáo Chính trị của Đảng lần thứ
IX, X, XI.
Trong chiến lược phát triển nền kinh tế theo mô hình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa rút ngắn của vài thập niên tới, làm cho nhiệm vụ xây dựng chương trình hành
động nhằm hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức của Việt Nam trở nên đặc
biệt cấp bách, thậm chí là rất gay gắt. Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế, kinh tế tri thức ngày càng phát triển mạnh mẽ và đóng góp vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển của thế giới, đó là thách thức lớn đối với nước ta,
song cơ hội lớn cũng nằm trong thách thức đó. Vì thế, mặc dù vẫn còn là một nước
đang phát triển, chúng ta không thể không tính đến tìm một lối đi tiến nhanh vào
nền kinh tế tri thức theo cách của mình, trong hoàn cảnh và đặc điểm của mình,
theo chiến lược và bước đi phù hợp với trình độ hiện có. Trong điều kiện đó, trên
tầm nhìn dài hạn, xây dựng nền kinh tế tri thức phải được coi là nhiệm vụ mang
tính sống còn đối với tương lai của Việt Nam. Vì vậy, em chọn đề tài: “ Chiến
lược xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong quá trình công nghiệp
hóa hiện nay” làm đề tài tiều luận môn chuyên đề kinh tế chính trị Mác – LêNin.
Do thời gian và trình độ còn hạn chế nên bài tiều luận hẳn còn nhiều thiết sót.
Vì vậy em rất mong ý kiến và sự giúp đỡ tận tình của quý thầy cô giáo để đề tài
của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
2. Tình hình nghiên cứu:
- Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên),“ Phát triển kinh tế tri thức, đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Vệt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
- GS. Đặng Hữu, (chủ biên)“ Phát triển kinh tế tri thức gắn với quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt nam”, Nxb Khoa học xã hội, 2009.
- Phạm Quang Phan, “ Những vấn đề cơ bản về kinh tế tri thức”, Báo cáo kết quả
nghiên cứu đề tài khoa học, Hà Nội, 2002.
- Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên),“ Phát triển kinh tế tri thức, đẩy nhanh quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2004.
- Nghiên cứu kinh tế tri thức nhiều năm, cho đến năm 2006, PGS.TS Phí Mạnh
Hồng chủ trì đề tài “ Một số vấn đề cơ bản về kinh tế tri thức – Cơ hội và thách
thức đặt ra cho Việt nam”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
*Mục đích: Cần làm rõ chiến lược xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong
quá trình công nghiệp hóa hiện nay:
- Về mặt lý luận: Cần làm rõ được khái niệm kinh tế tri thức đặc điểm cũng như vai
trò của kinh tế tri thức; nêu nên một số quan điểm của C.Mác của Đảng và nhà
nước về kinh tế tri thức; chứng minh phát triển kinh tế tri thức là tất yếu trong giai
đoạn hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Cần khảo sát, đánh giá thực trạng nền kinh tế tri thức ở các
nước phát triển và các nước đang phát triển và của Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, có những cơ hội và thách thức gì khi xây dựng nền kinh tế tri thức và
đưa ra những biện pháp để xây dừng thành công nền kinh tế tri thức.
* Nhiệm vụ:
- Thứ nhất: Một số khái niệm có liên quan như ( kinh tế tri thức là gì? CNH-HĐH
là gì? ); đặc điểm của kinh tế tri thức. Quan điểm của Đảng và nhà nước về kinh tế
tri thức.
- Thứ hai: Nghiên cứu tình hình kinh tế tri thức trên quốc tế và nêu nên thực trạng
kinh tế tri thức của nước ta trong thời gian qua. Từ đó rút ra những mặt mạnh và
mặt yếu của Việt Nam trên con đường xây dựng nền kinh tế tri thức
- Thứ ba: Đánh giá những thuận lợi, khó khăn trên con đường xây dựng nền kinh
tế tri thức của Việt Nam, từ đó đưa ra một vài giải pháp tiếp cận để xây dựng
thành công nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế tri
thức ở Việt nam trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện nay.
- Thứ nhất: Đánh giá nền kinh tế tri thức của Việt Nam đang ở mức độ nào, những

mặt nào mạnh cần phát huy và những điểm yếu cần khắc phục.
- Thứ hai: Chiến lược xây dưng nền kinh tế tri thức của Việt Nam trong thời đại
công nghiệp hóa và phát triển kinh tế tri thức là rất cần thiết và quan trọng, là con
đường tất yếu của nền kinh tế nước ta nếu như không muốn tụt hậu.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Tiều luận nghiên cứu về nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong
thời kỳ công nghiêp hóa. Bối cảnh mọi quốc gia đều phát triển theo xu thế toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Về thời gian: Thời gian những năm 2000 trở lại đây, khi mà hầu hết các quốc gia
đều nhận thấy phát triển kinh tế tri thức là cơ hội phát triển đất nước trong thế kỷ
XXI, thời điểm mà Đảng và Chính phủ biến chủ trương, mong muốn, trở thành
hành động được thể hiện tai văn kiên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trừu tượng hóa khoa học, phương pháp duy vật lich sử, phân tích tổng hợp, so
sánh đối chiếu, thống kê, phương pháp suy luận logic, quy nạp và diễn dịch, đọc và
nghiên cứu tài liệu…
6.Kết cấu của tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì kết cấu của tiểu luận gồm: 2
chương và 8 tiết.
*Một số từ viết tắt:
KTTT: Kinh tế tri thức
CNH- HĐH: Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ có liên quan:
1.1.1. Nền kinh tế tri thức.
a. Kinh tế: Theo ông Adam Smith, cha đẻ của môn kinh tế, định nghĩa từ “ Kinh
tế” trong cuốn sách nổi tiếng “Sự giàu có của các quốc gia” (Wealth of Nations)
của ông là: “nghiên cứu về sự giàu có”. Tuy nhiên, như trong bài viết về [“Kinh
tế tri thức ở Việt Nam”, của GS Hồ Tú Bảo, tạp chí Tia sáng đăng ngày 20-07-

2010] có đưa ra quan điểm: “Theo một định nghĩa được thừa nhận rộng rãi, kinh
tế là toàn bộ các hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu thụ hàng hóa và
dịch vụ của một cộng đồng hay một quốc gia”
b.Tri thức: Theo OECD: “Tri thức bao gồm toàn bộ kết quả, về trí lực của loài
người sáng tạo ra từ trước đến nay, trong đó tri thức về khoa học, về kỹ thuật, về
quản lý là các bộ phận quan trọng nhất”[ chuyên đề kinh tế chính trị Mác – Lênin,
tr 51, tr 52].
c. Kinh tế tri thức: Hiện nay trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về kinh
tế tri thức, trong đó khái niệm được thừa nhận rộng rãi nhất là khái niệm của tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD ( Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế).
Năm 1996, OECD đưa ra định nghĩa: “ Kinh tế tri thức là những nền kinh tế dựa
trực tiếp vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức và thông tin”. Nhưng
đến năm 2000, OECD và APEC đã điều chỉnh lai: “ Kinh tế tri thức là nền kinh tế
trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của
sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành khinh tế”.
1.1.2. Chiến lược: Là một từ có nguồn gốc từ lĩnh vực quân sự, đó là phương cách
để chiến thắng trong một cuộc chiến tranh. Có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng
có thể hiểu chiến lược là chương trình hành động, kế hoạch hành động được thiết
kế để đạt được một mục tiêu cụ thể, là tổ hợp các mục tiêu dài hạn và các biện
pháp, các cách thức, con đường đạt đến các mục tiêu đó. Trong quân sự, chiến lược
khác với chiến thuật, chiến thuật đề cập đến việc tiến hành một trận đánh, trong khi
chiến lược đề cập đến việc làm thế nào để liên kết các trận đánh với nhau. Nghĩa là
cần phải phối hợp các trận đánh để đi đến mục tiêu quân sự cuối cùng.
1.1.3. Công nghiệp hóa: Là quá trình chuyển đổi một cách căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công công nghệ, phương tiện, phương pháp ngay tiến, hiện đại, dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao
động xã hội cao.
1.2. Khái quát quá trình hình thành nền kinh tế tri thức:

1.2.1. Vai trò của tri thức trong lịch sử: Trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất phụ thuộc chủ yếu vào tri thức con người. C.Mác “ Tất cả sản phẩm lao động
của con người đều là sức mạnh vật hóa của trí thức”. Mọi nền kinh tế đều cần tri
thức như một yếu tố sản xuất và đến giai đoạn phát triển cao thì tri thức trở nên
đóng vai trò quan trọng [ Chuyên đề kinh tế chính trị Mác- Lênin, tr 46].
1.2.2. Sự hình thành nền kinh tế tri thức: Trước hết là kinh tế săn bắn và hái
lượm tồn tại trong hàng trăm nghìn năm. Tiếp theo đó là kinh tế nông nghiệp kéo
dài khoảng mười nghìn năm. Rồi đến kinh tế công nghiệp xuất hiện lần đầu tiên ở
Anh vào đầu nửa sau thế kỷ XVIII đã xác lập cơ sở kỹ thuật cơ khí, hình thành
lực lượng lao động và tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế công nghiệp hiện đại.
Cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật lần thứ hai (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX)
đã nâng cao cơ sở kỹ thuật cơ khí lên trình độ bán tự động hóa và hình thành tổ
chức quản lý mới. Đến giai đoạn gần đây chúng ta cũng dễ nhận thấy có những
chuyển biến mang tính cách mạng đó là cách mạng trong quản lý, quản lý cũng
đóng vai trò trở thành lực lượng sản xuất góp phần sáng tạo ra của cải xã hội, chứ
không còn là quản lý về kỷ cương lao động thuần khiết. Bất kỳ nền kinh tế nào
nói trên, dù ít hay nhiều cũng đã dựa vào tri thức để phát triển. Tuy nhiên, không
phải bất kỳ một nền kinh tế nào cũng là nền kinh tế dựa trên tri thức. Cái khác
biệt chủ yếu của nền kinh tế tri thức với các nền kinh tế khác là tri thức đã phát
triển đặc biệt mạnh mẽ, đã trở thành yếu tố quan trọng nhất, nguồn lực có tính
quyết định nhất đối với tăng trưởng kinh tế hơn cả vốn và tài nguyên; từ những
căn cứ xác thực đó, người ta cho rằng một nền kinh tế mới hoàn toàn khác các
nền kinh tế truyền thống đã ra đời.
1.3. Một số đặc điểm cơ bản của kinh tế tri thức.
1.3.1. Tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp:
Trong nền kinh tế tri thức, trí tuệ con người và kỹ năng lao động trở thành lợi
thế phát triển lớn nhất, quyết định nhất. Thay vì các yếu tố vật chất- kỹ thuật
truyền thống, con người trí tuệ và có kỹ năng cao đang trở thành lực lượng sản
xuất quang trọng nhất, quyết định thành công nỗ lực phát triển. Tri thức và công
nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp và quan trọng nhất, đồng nghĩa tri thức kỹ

năng, nguồn phát minh và công nghệ hiện đại đã trở thành lợi thế cạnh tranh quyết
định. Lực lượng nắm giữ tri thức sẽ là động lực phát triển của xã hội và là tầng lớp
quyết định vận mệnh của mỗi dân tộc
1.3.2. Kinh tế tri thức có tốc độ hoạt động nhanh và đổi mới nhanh:
Trong nền kinh tế tri thức có sự biến đổi sâu sắc và nhanh chóng cơ cấu tổ
chức, phương thức hoạt động [chuyên đề kinh tế chính trị Mác- Lênin, tr 56]. Các
ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học công
nghệ ngày càng tăng và chiếm đa số. Các ngành kinh tế như công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, điện tử, viễn thông… ngày càng chiếm tỉ trọng cao trong nền
kinh tế. Sáng tạo trở thành động lực trực tiếp của sự phát triển. Cái có giá trị nhất
là cái chưa biết, sự hao mòn vô hình diễn da rất nhanh đối với những cái đã biết
đã được sử dụng.[chuyên đề kinh tế chính trị Mác- Lênin, tr 57].
Trong kinh tế tri thức thì quyết định năng lực cạnh tranh chính là sự sáng tạo ra
cái mới có chất lượng cao hơn, thời gian đi tới người tiêu dùng nhanh hơn. Sự phát
triển kinh tế là do sự không ngừng đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm. Do đó
nền kinh tế tri thức có tốc độ hoạt động rất nhanh, “ làm việc và kinh doanh theo
mức độ của tư duy” ( Bill Gates, 2000).Sản xuất công nghệ trở thành ngành sản
xuất chủ đạo. Các khu công nghệ phát triển nhanh, đó là hình thức tổ chức sản xuất
cơ bản nhất trong nền kinh tế tri thức. KTTT là nền kinh tế rất nhiều biến động, có
nhiều rủi ro. Có người gọi KTTT là nền kinh tể rủi ro, kinh tế mạo hiểm.
1.3.3. Mạng thông tin trở thành cơ sở hạ tầng quan trọng nhất:
Nhờ có mạng thông tin, tri thức được quảng bá rộng rãi đến mọi người; mạng
gắn kết mọi người, mọi tổ chức với nhau, rút ngắn thời gian, xoá khoảng cách
không gian; các hoạt động sản xuất kinh doanh trở nên sôi động, nhanh nhạy, sản
xuất gắn chặt với thị trường; tổ chức quản lý có hiệu lực hơn, thúc đẩy phát triển
dân chủ, công khai, minh bạch. Mạng thông tin trở thành cơ sở hạ tầng quan trọng
nhất của nền kinh tế. Nhiều người gọi nền KTTT là kinh tế thông tin. Có xã hội
thông tin mới có KTTT.
1.3.4. Học tập trở thành yêu cầu thường xuyên, liên tục trong suốt cuộc đời
của mỗi người:

Trong nền kinh tế tri thức, trí thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, con
người muốn làm việc được cần phải có tri thức. Xã hội sẽ thực hiện nguyên tắc
phân phối mà người nắm giữ tri thức có mức tiền lương và tiền thưởng cao hơn
nhiều lần so với lao động chân tay. Thực tế đó đòi hỏ mọi người không ngừng học
tập, trau rồi kỹ năng, phát triển trí sáng tạo. Với sự bùng nổ thông tin và và liên tục
đổi mới công nghệ, đổi mới tri thức, mô hình đào tạo xong rồi làm việc không còn
phù hợp nữa. Giáo dục phải đào tạo cơ bản, tạo nền tảng để người học có khả năng
tự đào tạo không ngừng tiếp thu những kiến thức mới. Con người vừa học tập vừa
làm việc suốt đời. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế học hỏi: mọi người có điều
kiện ngày càng thuận lợi để học suốt đời, không ngừng phát triển kinh tế tri thức,
nâng cao kỹ năng, phát triển sức sáng tạo, thích nghi với sự phát triển, thúc đẩy đổi
mới. Xã hội học tâp là nền tảng của kinh tế tri thức.
1.3.5. Toàn cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ:
Quá trình phát triển khoa học công nghệ, phát triển KTTT, cùng với quá trình
phát triển kinh tế thị trường, phát triển thương mại thế giới và quá trình toàn cầu
hoá là những quá trình đi liền nhau, tác động qua lại và thúc đẩy nhau phát triển.
Sự sản sinh ra, truyền bá, sử dụng tri thức không thể chỉ nằm trong biên giới quốc
gia. Nền KTTT ra đời trong điều kiện nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá; bất cứ
ngành sản xuất, dịch vụ nào cũng đều dựa vào nguồn cung ứng từ nhiều nước và
được tiêu thụ trên toàn thế giới. Người ta thường gọi nền KTTT là nền kinh tế toàn
cầu hoá nối mạng, hay là nền kinh tế toàn cầu dựa vào tri thức.
1.4. Kinh tế tri thức và chủ nghĩa Mác – Lênin:
Vào thời đại của C.Mác, mới chỉ có một vài nước đang xây dựng nền kinh tế
công nghiệp, chưa xuất hiện kinh tế tri thức. Nhưng những quan điểm mà C.Mác
rút ra từ việc phân tích sự phát triển của hệ thống máy móc rất phù hợp với những
đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức hiện nay:
- Khi nghiên cứu về tư bản cố định, C.Mác đã chỉ rõ: hệ thống máy móc biểu
hiện ra là một hình thức thích hợp nhất của tư bản cố định và sự phát triển của tư
bản cố định lại là chỉ số của sự phát triển sức sản xuất, là thước đo mức độ phát
triển của sự giàu có dựa trên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ
thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động mà phụ thuộc ngày càng nhiều
vào trình độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc
vào việc ứng dụng khoa học hay vào sản xuất. Tính chất của lao động cũng thay
đổi. Con người là người kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình sản xuất.
-Việc hệ thống máy móc tự động thay thế lao động giản đơn, làm giảm lao
động trực tiếp không hề có ý nghĩa là giảm vai trò nhân tố con người trong lao
động sản xuất. Bời vì, như C.Mác đã khẳng định:“ Thiên nhiên không chế tạo ra
máy móc…Tất cả những cái đó đều là sản phẩm lao động của con người…đều là
sức mạnh đã vật hóa của tri thức…”
Những điều nói trên hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của kinh tế tri thức hiện
nay: hệ thống máy móc phát triển cùng với sự tích lũy những tri thức xã hội và nói
chung, sự tích lũy sức sản xuất. Mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ, sản xuất
ngày càng trở nên chặt chẽ. Tri thức, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trự
tiếp.
- Trong nền kinh tế tri thức, sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lự chủ
yếu thúc đẩy sự phát triển sức sản xuất. Muốn thắng trong cạnh tranh, phải luôn
luôn tìm được công nghệ mới. Các Mác đã chỉ rõ: “ Phát minh trở thành một nghề
đặc biệt, và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp
tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích”.
- C.Mác đã dự đoán rằng, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất sẽ
nâng cao năng xuất lao động xã hội. Cơ sở chủ yếu của sản xuất và của cải không
phải là lao động trực tiếp do chính con người thực hiện, không phải là thời gian
trong đó anh ta lao động, mà là sự chiếm hữu sức sản xuất của chính con người, là
nhận thức của con người về giới tự nhiên và sự thống trị giới tự nhiên do sự tồn tại
của con người với tư cách là một cơ thể mang tính xã hội.
1.5. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế tri thức.
Đại hội VII của Đảng quyết định chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã
hội 1991- 2000. Đại hội IX đánh giá việc thực hiện chiến lược đó và thực hiện
chiến lược phát triển kinh tê- xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI- “ Chiến lược đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nền tẳng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”[Văn
kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001,
tr 148]. Trong thời gian tới, kinh tế thế giới sẽ có những biến động to lớn không
lường trước được, theo chiều hướng chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức, tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, khoảng cách giữa các nước giàu nghèo có thể còn gia tăng.
Đó là một thách thức lớn đối với các nước đang phát triển nói chung và với Việt
Nam nói riêng. Nếu không biết tận dụng cơ hội nâng cao năng lực nội sinh, đổi
mới cách nghĩ, cách làm, bắt kịp tri thức mới của thời đại, đi thẳng vào nền kinh tế
dựa vào tri thức và công nghệ cao thì sẽ bị tụt hậu xa.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Đảng và nhà nước thì chúng ta không thể rập
khuôn theo mô hình công nghiệp hóa mà các nước đi trước đã tiến hành. Cũng
không nên hiểu công nghiệp hóa chủ yếu là xây dựng công nghiệp mà phải hiểu
đây là sự chyển biến nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu, năng suất, chất lượng và hiệu
quả thấp, dựa vào phương pháp sản xuất nông nghiệp, lao động thủ công là chính
sang nền kinh tế có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, theo phương pháp sản
xuất công nghiệp, dựa vào tiến bộ khoa học công nghệ mới nhất. Như vậy, nền
kinh tế tri thức là cơ hội quý giá để Việt Nam đẩy nhanh CNH-HĐH. Nước ta
không thể trần chừ, bỏ lỡ cơ hội lớn này mà phải đi thẳng vào nền kinh tế tri thức
để rút ngắn khoảng cách với các nước. Vì vậy công nghiệp hóa ở nước ta phải
đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ lớn lao, đó là chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp
sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Hai
nhiệm vụ ấy phải được thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, hỗ trợ nhau và bổ
sung cho nhau Nhưng chúng ta không thể chờ công nghiệp hóa hoàn thành cơ bản
rồi mới chuyển sang nền kinh tế tri thức như các nước đi trước đã trải qua. Đây là
lợi thế của các nước đi sau. Chiến lược phát triển của chúng ta là chiến lược dựa
vào tri thức và thông tin, chiến lược đi tắt đón đầu với mũi nhọn là công nghệ
thông tin: “ con đường CNH-HĐH của nước ta cần và có thể rút ngán thời gian,
vừa có những bước tuần tự, vừa có bước ngảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công

nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở
mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ,
từng bước phát triển kinh tế tri thức”[Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 91].
CHƯƠNG 2: CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ TRI THỨC VÀ
MỘT SỐ GIẢI GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN THÀNH CÔNG VIỆC XÂY
DỰNG NỀN KINH TÊ TRI THỨC CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA
2.1. Xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức trên thế giới trong thế kỷ XXI
Thực tế cho thấy, việc Mỹ và các nước EU đã vượt trội so với các nước châu Á
và các nước thuộc châu lục khác trong việc xây dựng nền kinh tế tri thức không chỉ
do họ có những điều kiện xuất phát về kinh tế và kỹ thuật cao hơn, mà trước hết là
do các nước này đã sớm nhận thức được vai trò quan trọng của nền kinh tế tri thức,
tính tất yếu và những điều kiện cần thiết cho sự ra đời và phát triển của nền kinh tế
này. Họ đã hiểu rằng công nghệ thông tin và rộng hơn là nền kinh tế tri thức không
những đòi hỏi những điều kiện ra đời và phát triển khác hẳn và một khi nó xuất
hiện nó cũng khiến cho các điều kiện cũ trở nên lỗi thời một cách nhanh chóng, do
đó họ sớm có những giải pháp đúng đắn để phát triển hoặc tạo điều kiện cho sự ra
đời của nền kinh tế tri thức. Mỹ là nước đang dẫn đầu xu thế chuyển từ nền kinh tế
hậu công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức, đứng đầu là công
nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin đã xuất hiện sớm và khá thành công ở
Mỹ. Ngoài ra, những yếu tố của nền kinh tế tri thức cũng đã phát triển và đạt được
mức khá cao trong nhiều nước EU.
Trong khi đó, ở không ít các nước châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh, người ta còn
hết sức mơ hồ về nền kinh tế tri thức. Cho nên, ở các nước này, sự đầu tư cho việc
phát triển khoa học công nghệ mà trước hết là công nghệ thông tin và cho việc xây
dựng nền kinh tế tri thức chưa được quan tâm thích đáng. Ở nhiều nước, người ta
vẫn bám lấy và coi trọng những tư duy và thể chế cũ và hậu quả là nền kinh tế của
các nước này bị lạc hậu tương đối so với các nước Âu Mỹ trong việc phát triển
khoa học kỹ thuật và trong việc tiến đến nền kinh tế tri thức. Những cuộc điều tra

gần đây cho thấy, trong khi Mỹ và EU đang hăng hái lao vào hoạt động kinh doanh
điện tử thì các công ty Châu Á dường như kém tích cực trong việc tham gia vào
hoạt động này. Một cuộc điều tra vào năm 2000 của công ty International Card
cho thấy, hầu hết các giám đốc điều hành của các công ty hàng đầu châu á đều
không cho rằng, thương mại điện tử là có lợi cho họ. Tại Singapore, một cuộc điều
tra của chính phủ cho thấy, 63% các công ty ở đó không thích kinh doanh trên
mạng điện tử .
Tuy nhiên, mặc dù có chậm hơn và ở trình độ thấp hơn so với các nước Châu
Âu và Mỹ thì những nét cơ bản của nền kinh tế tri thức cũng đang dần xuất hiện ở
nhiều nền kinh tế Châu Á. Điều này biểu hiện ở chỗ trong thời gian gần đây, đa số
các nước trong khu vực này đều tăng vố đầu tư cho công nghệ kỹ thuật cao và các
yếu tố cơ bản của nền kinh tế tri thức đang xuất hiện này càng nhiều và có những
đóng góp ngày càng rõ rệt vào nền kinh tế.
Đó là trên bình diện quốc gia, còn trên bình diện quốc tế, bình diện toàn cầu, do
những điều kiện, lợi ích và nhận thức khác nhau, nên các nước cũng tồn tại những
chính sách khác nhau về việc xây dựng các yếu tố của nền kinh tế tri thức. Hiện
nay, trong khi Mỹ tỏ ra rất hào hứng trong việc ủng hộ buôn bán tự do trên mạng
bằng cách kêu gọi bãi bỏ nhanh chóng những trở ngại đối với thương mại và tài
chính điện tử thì một số nước EU và Nhật Bản lại kịch kiệt phản đối. Điều đó chắc
chắn sẽ tác động làm chậm lại quá trình ra đời của nền kinh tế tri thức toàn cầu.
“ Cuộc cách mạng thông tin đang trên đường tiến tới. Đó không chỉ là cuộc
cách mạng về công nghệ, về máy móc, về kỹ thuật, về phần mềm mà trước hết đó
là một cuộc cách mạng về các quan niệm, về đổi mới tư duy…” [Peter Drucker,
1998, The Post Capitalism Society]. Như vậy, các nước muốn tiến tới và phát triển
nền kinh tế tri thức thì không những phải tăng cường đầu tư cho việc phát triển
công nghệ cao mà còn phải thay đổi thái độ đối với những thể chế kinh tế hiện nay
và đối với công nghệ mới. Trong thực tế, sự thay đổi lối tư duy phù hợp với nền
kinh tế mới, hầu hết các nước đã và đang nỗ lực hoạch định những chính sách
nhằm tạo ra tiền đề để xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức trong thế kỷ XXI.
2.2. Chiến lược xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong quá trình công

nghiệp hóa hiện nay.
2.2.1. Những thời cơ và thách thức của Việt Nam để xây dựng nền kinh tế tri
thức.
a. Thời cơ xây dựng và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam: Quá trình của
các nền kinh tế phát triển tới kinh tế tri thức là một quá trình tự nhiên, hợp quy luật
phát triển của lịch sử xã hội loài người. Trước xu thế phát triển nền kinh tế tri thức
toàn cầu, các nước đang phát triển ý thức ưu thế vượt trội của kinh tế tri thức so
với kinh tế công nghiệp; họ chủ động chuyển khai các công trình, chiến lược, kế
hoạch hành động đi vào kinh tế tri thức. Hội nhập quốc tế, khai thác những ưu thế
của kinh tế tri thức toàn cầu để phát triển đất nước, đó là sự lựa chọn khả quan di
nhất đối với các nước đang phát triển. Tự do hóa thị trường đang tạo tiền đề thuận
lợi cho kinh tế thế giới, đặc biệt là thông tin, viễn thông vận tải, từ đó hình thành
một kết cấu hạ tầng toàn cầu thúc đẩy rất mạnh việc điều chỉnh các ngành cũ và
phát triển các ngành mới. Hệ thống thông tin toàn cầu tạo cơ hội cho nhiều nước
đang phát triển có thể truy cập, khai thác kho tri thức toàn cầu để phát triển nhanh,
thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển, nhưng đồng thời cũng làm tăng sự lệ
thuộc vào các siêu cường. Các công ty xuyên quốc gia phát triển một nền kỹ thuật
tiên tiến hơn, vừa đem đến cho các nước đang phát triển những sản phẩm có giá
thành thấp hơn nhờ nguồn tài nguyên dồi dào và sức lao động rẻ của các nước đang
phát triển. Các nước đi sau trong đó có Việt Nam phải có đủ điều kiện và bản lĩnh
tiếp kịp các nước đi trước, nếu không đủ bản lĩnh, không chớp lấy thời cơ thì đất
nước sẽ bị tụt hậu ngày càng xa hơn, và bị gạt ra ngoài lề.
b. Thách thức của Việt Nam khi tiến lên xây dựng nền kinh tế tri thức: Khó
khăn lớn nhất đối với nước ta hiện này là trình độ chung về hiện đại hóa nông
nghiệp còn thấp, thiếu công nghiệp hiện đại, năng suất và hiệu quả sản xuất nông
nghiệp tương đối thấp. Toàn cầu hóa cũng đặt ra cho Việt nam những thách thức
tưởng chừng không thể vượt qua được, gia nhập AFTA và WTO, Chúng ta phải
đương đầu với sự cạnh tranh quốc tế do toàn cầu hóa mậu dich đem lai. Tri thức là
của nhân loại, các thành tựu khoa học chủ yếu được các nước giàu có tạo ra, để
chuyển giao công nghệ các nước nghèo như Việt Nam phải tốn rất nhiều của cải,

nhưng để ứng dụng công nghệ này thì cũng khó khăn vì thiếu trình độ chuyên môn.
Khía cạnh khác: Trong khi kêu gọi thương mại tự do, thì các cường quốc lại gia
tăng bảo hộ mậu dịch; với những khỏa bảo hộ hàng trăm tỷ USD cho nông nghiệp
và một số ngành công nghiệp đang kìm hãm sự phát triển sản xuất ở các nước đang
phát triển. Thiết chế toàn cầu hóa hiện nay chắc chắn sẽ đặt ra nhiều thách thức cho
Việt Nam trong việc chia sẻ tri thức toàn cầu vì sự phát triển của mình. Để vượt
qua thách thức này phải phát huy năng lực nội sinh, đầu tư mạnh cho phát triển
nguồn nhân lực, năng lực khoa học công nghệ, sức sáng tạo của toàn dân tộc, chọn
lựa chiến lược thich hợp, đi tắt, rút ngăn, vượt qua trỏ ngại.
2.2.2.Thực trạng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam
Vị trí của Việt Nam trong nền kinh tế tri thức toàn cầu là rất thấp. Những chỉ số
về kinh tế tri thức của Việt Nam đều ở nửa dưới của bảng xếp hạng. Chỉ số KEI
của Việt Nam hiện đang là 3,51, trong đó chỉ số sáng tạo chỉ là 2,72, trong khi đó
chỉ số KEI của một số nước trong khu vực là rất cao: Singapore là 8,44; Malaysia
là 6,07; Thái Lan là 5,52. Những yếu tố cho sự ra đời và phát triển kinh tế ở Việt
Nam mới đang ở thời kỳ hình thành.
Xét phương diện những đặc trưng của nền kinh tế tri thức thì chúng ta thấy cơ
cấu kinh tế - lao động của Việt Nam hiện nay vẫn là lạc hậu: tỷ trọng các ngành
dịch vụ, công nghiệp trong GDP còn hạn chế, ngành nông nghiệp còn cao. Cơ cấu
lao động cũng chưa chuyển biến mạnh mẽ: lao động trong lĩnh vực nông nghiệp
còn chiếm tỷ trọng rất cao, chất lượng lao động còn nhiều hạn chế. Trong khi đó
hiện nay ở Mỹ khoảng 80% lực lượng lao động làm việc trong các ngành dịch vụ,
nghiên cứu, ứng dụng và triển khai.
Tỷ trọng các ngành trong GDP năm 2010 (Đơn vị tính: %)
Công nghiệp Nông nghiệp Dịch vụ
41,1 20,6 38,3
Hiện nay, hàm lượng chất xám trong sản phẩm của Việt Nam là rất thấp, “đến
2020 giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt
khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ chế tạo chiếm khoảng
40% trong tổng giá trị sản phẩm công nghiệp”. [Văn kiện Đại hội XI Đảng Cộng

sản Việt Nam ]
Sự đầu tư cho khoa học, công nghệ ở Việt Nam so sánh tương quan với các
quốc gia trong khu vực là rất thấp. Hiện nay, Việt Nam chỉ dành khoảng 0,3%
GDP cho hoạt động khoa học, công nghệ, trong khi đó con số này ở Malaysia là
1%, Singapore là 3%. Theo Robert Walter Global – một công ty chuyên về tuyển
dụng: năm 2012 mặc dù kinh tế khó khăn, nhiều công ty phá sản hoặc giảm quy
mô hoạt động, Việt Nam vẫn “khát” nhân sự có trình độ. Hiện nay, tỷ lệ lao động
qua đào tạo ở Việt Nam đạt khoảng 35%, đây là con số rất thấp so với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
Một trong những tiêu chí quan trọng của kinh tế tri thức là sự ứng dụng công
nghệ vào sản xuất kinh doanh và quản lý. Phần lớn các doanh nghiệp ở nước ta đều
thiếu thông tin về công nghệ. Theo một khảo sát của Viện Nghiên cứu và Quản lý
TW trên 82 doanh nghiệp, chỉ có 16 doanh nghiệp có ý tưởng đổi mới công nghệ.
Xét một cách tổng quát, những yếu tố cho sự ra đời và phát triển kinh tế ở Việt
Nam hiện nay đang ở thời kỳ hình thành.
2.2.3. Những thành công và thất bại trong bước đầu xây dựng nền kinh tế tri
thức ở nước ta.
a. Thành công:
Ngày càng nhiều nghề đỏi hỏi kỹ thuật cao phát triển, cùng với đó là các tập
đoàn lớn trong lĩnh vực này xuất hiện. Tiêu biểu nhất chúng ta phải kể đến tập
đoàn FPT- tập đoàn công nghệ thông tin lớn nhất Việt Nam. Ngành công nghệ
thông tin ngày càng đống góp nhiều hơn vào ngân sách chung của cả nước. Công
nghệ thông tin cũng đã được ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ.
Chúng ta cũng đã có các dịch vụ bán hàng qua mạng, tìm kiếm trên mạng…Ngoài
ra, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã có trang web riêng có đầy đủ các tin tức về
Đẳng, các Nghị quyết, chính sách, các bộ luật hiện hành. Ngoài ra việc tham khảo,
mọi người còn có thể đóng góp ý kiến của mình thông qua mạng. Người Việt nam
ngày càng có cơ hội học tập mọi lúc, mọi nơ. Số lượng sinh viên du học ngày càng
tăng, đây là lực lượng rất quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước sau này.
Chúng ta cũng có nhiều nhân tài công nghệ thông tin đang theo học nước ngoài.

Đáng kể chúng ta phải nhắc đến Vũ Duy Thức, người đạt giải nhì cuộc thị tin học
Mỹ năm 2000 và giải nhất năm 2001. Do vậy đã có tới 7 trường đại học đồng ý cấp
học bổng tiến sĩ cho anh sinh viên mới có 22 tuổi này: MIT, Stanford, Carnege
mellon, Berkeley, USC, Washington, Masachusetts Amherst. Ngoài ra, lực lượng
học sinh của tat ham gia các cuộc thì học sinh giỏi quốc tế luôn đạt thành tích rất
cao.Trình độ lao động của ta ngày càng tăng, nhiều vị trí người lao động của ta đã
có thể đảm nhận thay cho việc thuê lao động nước ngoài trước đây. Nhiều Việt
kiều đang có xu hướng về nước để phát triển sự nghiệp của mình. Họ là lực lượng
rất hung hâu, họ đã làm việc và tiếp cận với phương pháp quản lý hiện đại, phong
cách chuyên nghiệp, có các mối quan hệ tốt.
Việc nâng cao dân trí cho người dân nông thôn được thực hiện rất tốt: Gần
100% tổng số xã đã có điện thoại và điểm bưu điện văn hóa xã. Người dân được sử
dụng các dịch vụ bưu chính, viễn thông, được đọc các loại sách, báo, tạp chí về
pháp luật, kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuât…Nhiều người nông dân
tiên tiến đã biết sử dụng khoa học công nghệ, internet để phục vụ cho quá trình sản
xuất của mình nhằm tăng hiệu quả sản xuất.
Viễn thông của ta cũng đạt đượng những thành tựu đáng kể: Internet có mặt ở
Việt Nam từ năm 1997, đến nay đã đạt khoảng 2 triệu thuê bao (đạt mật độ 1,6%).
Internet chính là một công cụ quan trọng phục vụ cho quá trình CNH-HĐH ớ nước
ta hiện nay.Số lượng người sử dụng điện thoại di động ở Việt Nam ngày càng tăng,
đi kèm với đó là các dịch vụ truyền hình di động và internet tốc độ cao cung cấp
cho điện thoại do động. Chúng ta sắp lắp đặt được các tuyến cáp quang nội địa và
quốc tế đạt tốc độ 240 GB/s sử dụng công nghệ ghép song WMA, có thể tải được
240000 cuộc điện thoại cùng một lúc. Điều đó cũng đã tạo điều kiện cho nhiều loại
hình dịch vụ thông tin như : Fax, truyền số liệu, truyền hình di động, đặc biệt tạo
môi trường lý tưởng cho internet tốc độ cao. Đặc biệt chúng ta đã phóng thành
công vệ tinh đầu tiên VINASAT1. Đây là 1 bước ngoặt cho sự phát triển của nền
công nghệ thông tin truyền thông của ta. Ngoài ra về tài chính, chúng ta đã có thị
trường chứng khoán tuy mới vài năm tuổi còn rất non trẻ xong nó bước đầu khẳng
định hướng đi cũng như khả năng hội nhập của Việt Nam trên con đường quốc tế.

Trong xu thế toàn cầu hóa, nước ta ngày càng mở rộng quan hệ đối ngoại với
nhiều quốc gia trên thế giới theo tiêu chí: “ Việt Nam sẵn sang là bạn với tất cả
các quốc gia trên thế giới”. Việc gia nhập WTO và tổ chức thành công hội nghị
APEC lần thứ 14 ( năm 2006) càng chứng tỏ được vị thế của nước ta trên trường
quốc tế. Tuy tiếp xúc với các nền văn hóa mới trên thế giới nhưng nền văn hóa
Việt nam vẫn luôn được các nước trên thế giới coi là một nền văn hóa đậm đàn bản
sắc dân tộc.
b. Thất bại:
Việc tuyên truyền và giáo dục cho mọi người hiểu về kinh tế tri thức ở nước ta
vẫn còn hạn chế. Rất nhiều người thậm chí còn chưa hề nghe thấy tên “ Kinh tế tri
thức”.Tuy tăng trưởng kinh tế của nước ta luôn ở mức cao nhưng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ở nước ta vẫn còn chậm. Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp ở
nước ta vẫn còn chậm chạp và gặp nhiều khó khăn. Đây là nguyên nhân chính làm
cho nền kinh tế nước ta vẫn còn thiên về đâu tư hữu hình theo kiểu toàn dân, trong
khi đó đầu tư vô hình, vốn trí tuệ chưa được quan tâm xây dựng và phát triển đúng
mức; một số cơ chế chính sách của ta vẫn còn mang đậm tàn dư của nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao ấp. Khả năng giải quyết việc làm của nước ta chưa đáp
ứng được nhu cầu thực tế: mỗi năm nước ta có thêm khoảng 1,3 triệu lao động mới
nhưng chỉ có 1,1 triệu trong số này có được việc làm. Vì vậy, tỉ lệ thất nghiệp ở
nước ta đang có xu hướng tăng lên.
Nguồn nhân lực- nhân tố quan trọng nhất cho nước ta tiến vào kinh tế tri thức
tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều điều đáng nói: Hiện nay, Việt Nam có
trên 43 triệu lao động nhưng 74,7% chưa được qua đào tạo, còn số còn lại thì
không thật giỏi nghề. Tỉ lệ lao động có trình độ đại học, cao đẳng chỉ chiếm 5,5%.
Những công việc đòi hỏi trình độ cao cấp thì hầu hết chúng ta vẫn phải thuê lao
động, chuyên gia nước ngoài. Xuất khẩu lao động là giải pháp giải quyết việc làm
rất có hiệu quả, nhưng nhiều người lao động ở nước ngoài tự ý phá hợp đồng, điều
này tạo ra ấn tượng không tốt, làm mất danh tiếng của người lao động Việt Nam
đối với bạn bè quốc tế. Khả năng làm việc theo nhóm của lao động nước ta là rất
kém, những việc đòi hỏi sự phối hợp của nhiều người thì hiệu quả thường không

bằng được công việc cần 1 hoặc 2 người. Điều này được phản ánh qua câu nói: “
một người Việt Nam hơn 1 người Nhật nhưng 2 người Việt Nam thua 2 người
Nhật”. Nhiều người có được việc làm là nhờ quan hệ, tiền bạc mà không hề có
trình độ, tài năng. Nếu những người này được nắm các vị trí quan trọng thì không
biết sẽ gây ra những hậu quả gì?
Việc đào tạo nguồn nhân lực của ta vẫn còn yếu kém: Chỉ có 15-20% sinh viên
ra trường có thể đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng. Nhận xét chung
của các nhà tuyển dụng đối với sinh viên hiện nay là: “ Thiếu kiến thức, yếu kỹ
năng, ứng xử vụng về, mơ hồ về nghề nghiêp, đặc biệt vốn ngoại ngữ thì rất ít
người đáp ứng được nhu cầu”.Thậm chí nhiều sinh viên tuy đã học năm thứ 3 ở
đại học nhưng khi hỏi về nghề nghiệp tương lai của mình thì vẫn còn mơ hồ. Điều
này chứng tỏ khoảng cách giữa giảng đường và thực tế vẫn còn rất xa xôi và rất
khó để thu hẹp khoảng cách này. Kém ngoại ngữ có lẽ là điều khó chấp nhận nhất
đối với sinh viên Việt nam trong xu thế toàn cầu hiện nay. Kém ngoại ngữ chứng
tỏ sinh viên nước ta vẫn còn tụt hậu so với các sinh viên nước khác. Phó giám đốc
phụ trách nhân sự tập đoàn FPT đã phải nói: “ Chúng tôi thà tuyển một người giỏi
nổi tiếng anh rồi đào tạo chuyên ngành còn hơn phải tuyển một người giỏi chuyên
ngành nhưng lại kém tiếng anh”.
Nền giáo dục của nước ta trong những năm gần đây còn nặng về bệnh thành
tích và gian lận trong thi cử: Chúng ta thực hiện phổ cập trung học nên số lượng
học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở luôn đạt gần 100%, nhưng rất nhiề học sinh
yếu kém vẫn được tốt nghiệp. Trong tất cả các cuộcthì tình trạng gian lận vẫn còn
diễn ra phổ biến.
* Thực trạng trên đã làm giảm đi động lực học tập, sáng tạo của những người
có tài thực sự và cũng tạo ra thái độ học tập lười biếng của các học sinh ngay từ
lúc còn nhỏ. Tình trạng “ chảy máy chất xám” vẫn còn diễn ra đối với nước ta hiện
nay do nhà nước ta vẫn chưa có các chính sách thỏa đáng đối với các nhân tài.
Tình trạng này đã lấy đi rất nhiều nhân tài của đất nước ta. Chúng ta chưa có nhiều
sản phẩm chất lượng tốt được cả thế giới công nhận như cà phê G7 của Trung
Nguyên. Ngoài ra, chúng ta còn để ăn cắp bản quyền thương hiệu như thương hiệu

thuốc lá Vinataba bị Indonesia sử dụng ở 10 nước, chúng ta chỉ mới đòi lại được
thương hiệu ở 2 nước là Lào và Campuchia.
2.3. Một số giải pháp để thực hiện thành công việc xây dựng nền kinh tế tri
thức của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa.
Coi trọng nhân tài, coi nhân tài là vốn quý của đất nước. Hướng các doanh
nghiệp, công sở vào khai thác những ưu thế của công nghệ thông tin. Xây dựng
quan điểm và phương thức điều hàn ở tầm vi mô và vĩ mô phù hợp với nền kinh tế
tri thức. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, tìm kiếm mô hình mới, phát triển lý luận dựa
trên bối cảnh mới của thời đại. Để nền kinh tế tri thức Việt Nam phát triển nhanh,
ổn định trong thế kỷ XXI, chúng ta phải dứt khoát phải tìm đến các giải pháp sau:
[TS. Trần Xuân Kiên, “ Triển vọng kinh tế Việt Nam trong thế kỷ XXI”, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr 204].
a. Các giải pháp về giáo dục, khoa học công nghệ: Đầu tư thỏa đáng cho giáo
dục, đặc biệt là giáo dục kỹ thuật; cần cải tiến hệ thống giáo dục, cho phép các
viện, trung tâm nghiên cứu của các tổ chức xã hội nghề nghiệp được đào tạo từ cử
nhân đến tiến sĩ; việc đào tạo tiến sĩ nên giao cho các cơ sở chứ bộ chủ quản không
nên làm thay. Đầu tư nhiều hơn cho khoa học và công nghệ, khuyến khích các viện
nghiên cứu phi chính phủ thực hiên các dự án, đề tài khoa học; Chính phủ cần hỗ
trợ xây trụ sở, vốn để thực hiện các dịch vụ khoa học công nghệ. Khuyến khích
quá trình học tập suốt đời của mọi công dân.
b. Các giải pháp tài chính ngân hàng: Sửa đổi hợp lý các chính sách tài chính,
tiền tệ. Phát triển mạng lưới ngân hàng ở khu vực nông thôn và miề núi, tạo điều
kiện thuận lợi cho các hộ gia đình và các xí nghiệp dân doanh được vay vốn dễ
dàng để phát triển sản xuất.
c. Các giải pháp về cải cách hành chính: Đẩy mạnh cải cách hành chính theo
chiều sâu, đẩy nhanh việc bãi bỏ cơ chế “ xin-cho” bằng cơ chế “ yêu cầu thực
hiên”; Giảm các chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp; Tăng lương để đội ngũ
công chức đủ sống bằng lương của mình; Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và
nhỏ của khu vực kinh tế dân doanh; Đổi mới mạnh mẽ hệ thống quản lý trong
doanh nghiệp nhà nước và dân doanh theo ba hướng: (Mạnh dạn áp dụng công

nghệ thông tin; Phân quyền nhiều hơn cho các cấp; Áp dụng cơ chế khoán sản
phẩm chứ không quản lý theo giờ hành chính, giao việc về nhà để giảm bớt chi phí
văn phòng, hội họp, đi lại, tránh ùn tắc giao thông). Xếp giờ đi làm khác nhau để
tránh ùn tắc giao thông.Các quy chế làm việc ở trong công sở, công ty, viện nghiên
cứu cũng phải thay đổi, bổ sung sao cho có thể khai thác tối đã những ưu thế của
công nghệ thông tin, chẳng hạn cần phải xây dựng quy chế khi có đi công tác xa
vẫn có thể biểu quyết qua điện thoại, qua Fax để bảo đảm hiệu quả của các cuộc
họp. Phát triển các dịch vụ công.
d. Các giải pháp về phát triển kết cấu hạ tầng: Các giải pháp về phát triển giao
thông nông thôn. Phấn đấu đến năm 2020 phải xây dựng kiên cố 100% đường lien
thôn, lien xã ( có bề rộng ít nhất 10m); Phát triển kinh tế ven biển, các cửa khâu
biên giới; Tu bổ các di tích lịch sử tại các thôn, bản ( đền, chùa, nhà truyền thống,
hội trưởng…); Phát triển các dải đô thị trên một số trục đường giao thông. Phát
triển khu vực thông tin và viễn thông, tạo điều kiện để cho công chúng được thông
tin tốt hơn và tham gia vào hoạt động xã hội ở mức cao hơn…Khuyến khích chế
tạo một số nhà di động giá rẻ để cho nhiều gia đình không có đất đai có thể mua
được,
đ. Các giải pháp về gia đình: Hướng dẫn mọi người làm kinh tế giỏi; Tuyên
truyền nếp sống văn hóa, văn minh công cộng; Sử dụng thời gian tốt lành hơn để
làm việc tại nhà; Biết phân công mọi thành viên thực hiện tốt các công việc;
Khuyến khích mọi người tham gia các hội nghị nghề nghiệp, Xây dựng tủ sách gia
đình.
e. Các giải pháp về phát triển thị trường lao động: Phải có chính sách để mọi
lao động tự do dịch chuyển từ nơi này sang nơi khác; Coi trọng lao động trong khu
vực dân doanh; Có điều luật về tự do lao động, luân chuyển lao động giữa các cơ
quan, doanh nghiệp, không được khép kín , không được giữ lao động một cách
khô cứng; mà chỉ sử dụng các biện pháp khuyến khích lương, đãi ngộ, thang bậc
hành chính, để nười lao động có quyền quyết định lao động ở doanh nghiệp vào, cơ
quan nào để có thể phát huy cao nhất tài năng của họ cho xã hội.
g. Các giải pháp về trọng dụng nhân tài: Có chế độ cất nhắc, khuyến khích nhân

tài; Có đãi ngộ xứng đáng; Có quy hoạch bài bản, quy hoạch thường xuyên và dài
hạn 1 năm, 2 năm, 5 năm, 7 năm, 10 năm cho các chức danh: Trưởng, phó ban các
ban, ngành, vụ, viện, trường học cho đến Thứ trưởng, Bộ trưởng các bộ, ngành, Ủy
viên dự khuyết, Ủy viên Trung ương, Phó Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch
nước, Thủ tướng, Tổng Bí thư…
h. Một nền văn hóa thích hợp với kinh tế tri thức: Nền văn hóa thích hợp với
kinh tế tri thức cần phải có 4 nét đặc trưng lớn: Thứ nhất là chủ nghĩa nhân văn;
Thứ hai là trình độ học vấn hiện đại tương ứng với từng cấp, từ tiểu học đến sau
đại học, mỗi cấp ấy có sự hiện đại của nó. Cộng với trình độ học vấn hiện đại ấy là
một kỹ năng đa phương diện, chứ không phải đơn tuyến chỉ chuyên sâu; Thứ ba là
khát vọng và khả năng đổi mới, sáng tạo. Có nhiều người cho rằng đây là đặc trưng
quan trọng nhất của văn hóa thích hợp với kinh tế tri thức; Thứ tư là khả năng thiết

×