Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Giải pháp xử lý các mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của việt nam hiện nay trên cơ sở phép biện chứng về mâu thuẫn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.08 KB, 17 trang )

Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
LỜI MỞ ĐẦU
Từ năm 1986, Việt Nam chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đã đặt ra cho Việt Nam những thách thức mà mục tiêu cần
vượt qua. Trong đó, hoàn thành quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước
là mục tiêu đầu tiên cần thực hiện. Trải qua hơn 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt
được những kết quả vượt bậc trong phát triển kinh tế, có những bước tiến gần hơn
với mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trong đó, phải kể đến là tốc
độ tăng trưởng kinh tế nhanh với mức trung bình 7% trong cả giai đoạn, xuất khẩu
liên tục tăng trưởng với tốc độ trung bình 25 – 30%. Tuy nhiên, tính ổn định của
quá trình tăng trưởng là không cao, trong những năm qua Việt Nam tăng trưởng
mới chỉ theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào nguồn vốn, lao động giá rẻ và nguồn lực
tự nhiên. Việc tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài bằng các lợi thế về
tài nguyên và con người, sự mở cửa trong môi trường đầu tư, đã dẫn đến việc tiếp
nhận các nguồn vốn đầu tư một cách ồ ạt mà không hiệu quả, gây nên hiện tượng
cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đặc biệt là giai đoạn hiện
nay, khi mà nền kinh tế Việt Nam đang rơi vào suy thoái do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính từ Mỹ năm 2008 và những biến đổi khó lường của tự nhiên,
gây ra những thiệt hại to lớn về người và tài sản thì vấn đề giữ vững tăng trưởng
kinh tế để hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và bảo vệ
môi trường tự nhiên là một thách thức mà Việt Nam cần giải quyết được. Tuy
nhiên, quá trình thực hiện hai mục tiêu này lại xuất hiện những mâu thuẫn, gây cản
trở cho việc thực hiện chính sách. Nghiên cứu, phân tích các mâu thuẫn tồn tại giữa
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa – hiện
đại của Việt Nam hiện nay để đưa ra các định hướng giải quyết các mâu thuẫn đó
là một vấn đề cần thiết. Như chúng ta đã biết trong quá trình vận động và phát triển
của mọi sự vật luôn luôn xảy ra mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa các yếu tố trong
Học viên: Đào Thị Hà Phương 1 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh


bản thân sự vật hay mâu thuẫn giữa các sự vật với nhau. Triết học Mác-Lênin đã
chỉ ra, mâu thuẫn là một tất yếu khách quan, mang tính phổ biến và có đa dạng các
loại mâu thuẫn. Xác định đúng từng loại mâu thuẫn sẽ cho phép con người tìm ra
được những giải pháp phù hợp, tối ưu để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện thúc
đẩy sự vật phát triển. Từ lí luận về mâu thuẫn, ta hãy xem xét phân tích và đưa ra
cách thức giải quyết các mâu thuẫn tồn tại giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường hiện nay để góp phần đưa Việt Nam thoát khỏi suy thoái và hoàn thành
được quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Trước yêu cầu thực tiễn đặt ra như vậy, nên em đã chọn đề tài nghiên cứu
"Giải pháp xử lý các mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Việt Nam hiện nay trên cơ
sở phép biện chứng về mâu thuẫn”
Kết cấu bài tiểu luận gồm ba phần:
Phần 1: Lý luận chung phép biện chứng về mâu thuẫn
Phần 2: Phân tích các mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Việt Nam hiện nay
Phần 3: Giải pháp xử lý các mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ
môi trường trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam hiện
nay.
Qua bài viết này, em xin gửi lời cảm ơn đến PGS.TS. Phạm Văn Sinh đã
hướng dẫn em hoàn thành tốt bài tiểu luận này.Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian
và trình độ nhận thức, bài viết không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được
sự góp ý của các thầy cô và những người quan tâm để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MÂU THUẪN
1.1. Khái niệm về mâu thuẫn
Mâu thuẫn là một hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan và đã được

nhiều nhà triết học quan tâm và nghiên cứu.
Các nhà triết học phương Đông đã khái quát khái niệm về mâu thuẫn trong
thuyết âm dương và ngũ hành. Mâu thuẫn là để nói về tính hai mặt của tất cả các
hiện tượng sự vật: trong âm có dương, trong tốt có xấu, như vậy mọi sự vật đều vận
động theo theo hướng hài hòa. Các nhà triết học này cũng nhận định các nhân tố
âm dương trong một chủ thể luôn vận động và biến đổi luân hồi, âm thịnh thì
dương suy, bĩ cực thái lai, như vậy là khai thác khía cạnh thời gian của việc phát
sinh và giải quyết mâu thuẫn chứ không nhìn vào khía cạnh biến đổi của chủ thể
khi giải quyết mâu thuẫn.
Trong khi đó, các nhà triết học phương Tây kết luận rằng mâu thuẫn là động
lực của sự phát triển bởi vì trong mỗi một sự vật đều có ít nhất hai mặt, hai lập
trường, hai thế lực đối kháng, và các thế lực đó sẽ tìm cách triệt tiêu nhau để chiếm
lĩnh chủ thể, quá trình đó đẩy mâu thuẫn phát triển đến đỉnh điểm và khi mâu thuẫn
phát triển đến đỉnh điểm thì chủ thể sẽ biến đổi cả về lượng và chất sang một hình
thái mới. Mỗi sự vật đều chứa đựng mâu thuẫn bên trong nó bởi vì bản chất của sự
vật là động chứ không tĩnh. Khi sự vật vận động thì mâu thuẫn phát sinh.
Như vậy chúng ta nên hiểu rằng mâu thuẫn là đương nhiên tồn tại và là tốt
chứ không phải là xấu, vì nó giúp cho sự phát triển. Nếu một gia đình không có
mâu thuẫn thì con người sẽ không cần hoàn thiện nữa, dẫn đến không luyện tập,
không tiến hóa. Nếu một xã hội không có mâu thuẫn thì các giai cấp sẽ hòa đồng
như nhau, không còn động lực cạnh tranh, ai nghĩ cũng giống ai, không có bất đồng
chính kiến, khi ấy lại là một tai họa, vì tất cả đều mất phương hướng, không biết đi
3 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
đâu về đâu. Vì thế không thể phủ nhận rằng gia đình nào cũng có mâu thuẫn, xã hội
nào cũng có mâu thuẫn. Vấn đề là tìm ra mâu thuẫn đó như thế nào và giải quyết
mâu thuẫn đó như thế nào. Bài tiểu luận này sẽ đi đến phân tích các mâu thuẫn dưới
góc độ mâu thuẫn biện chứng.
1.2. Mâu thuẫn biện chứng trong triết học Mác – Lênin

Trong mỗi sự vật hiện tượng hay quá trình nào đó luôn chứa đựng những
mặt, những khuynh hướng đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân
mình, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo là nguồn gốc, động lực
cho sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và nhường chỗ cho sự ra
đời của cái mới. Trong đó:
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và mang tính phổ biến, là nguồn gốc
của sự vận động và phát triển. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự
vật hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật hiện
tượng đều là một thể thống nhất giữa các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng
đối lập nhau, những mặt đối lập nhau nhưng lại ràng buộc nhau nên nó tạo thành
mâu thuẫn. Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng khách quan mà còn là hiện tượng
phổ biến. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy
con người. Tồn tại phổ biến chẳng những ở mọi sự vật hiện tượng mà còn phổ biến
trong suốt quá trình vận động và phát triển của chúng, mâu thuẫn này mất đi thì
mâu thuẫn khác lại được hình thành.
Giữa các mặt đối lập có sự thống nhất và đấu tranh. Hai mặt đối lập liên hệ
với nhau, ràng buộc và quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn
tại và phát triển. Đồng thời, chúng cũng thể hiện những mâu thuẫn, bài trừ lẫn
nhau, khi xung đột trở nên gay gắt cùng những điều kiện thích hợp chúng sẽ
chuyển hóa lẫn nhau. Kết quả là sự thống nhất giữa hai mặt đối lập cũ bị phá hủy,
4 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
sự thống nhất giữa hai mặt đối lập mới được hình thành cùng với những mâu thuẫn
mới.
1.3. Các loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn trong tự nhiên, xã hội và tư duy tồn tại rất đa dạng. Tính đa dạng
được quy định bởi đặc điểm của các mặt đối lập, điều kiện thực hiện sự tác động
qua lại giữa các mặt đối lập, bởi trình độ tổ chức của hệ thống mà trong đó mâu
thuẫn tồn tại.

Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập, người ta phân loại thành mâu
thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Trong đó, mâu thuẫn bên trong là sự tác
động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật hiện
tượng, mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ với sự vật, hiện
tượng khác. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định sự vận động, phát triển của
sự vật vì nó là nguyên nhân của sự "tự thân vận động". Nó không tách rời với mâu
thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự vận động, phát triển
của sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy
được tác dụng.
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật hiện
tượng, người ta phân loại thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật hiện tượng, quy định
sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật hiện tượng, nó tồn tại trong suốt quá
trình tồn tại của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng
cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển một
mặt nào đó của sự vật. Mâu thuẫn cơ bản xuất phát từ bản chất của sự vật, quy định
sự tồn tại của sự vật và có tác dụng chi phối và làm nảy sinh những mâu thuẫn
không cơ bản. Mâu thuẫn không cơ bản tuy đóng vai trò phụ thuộc nhưng cũng có
ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của sự vật.
5 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
Căn cứ vào vai trò mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu
thuẫn thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong một giai
đoạn phát triển nhất định của sự vật hiện tượng, giải quyết nó tạo điều kiện giải
quyết các mâu thuẫn thứ yếu.
Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập trong xã hội, người ta phân chia
thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng là
mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có
lợi ích cơ bản đối lập nhau. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những

lực lượng, những khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi ích những mang tính cục
bộ, tạm thời. Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Mâu
thuẫn đối kháng theo nguyên tắc chung chỉ được giải quyết thông qua các cuộc
cách mạng xã hội. Còn mâu thuẫn không đối kháng, xu hướng phát triển đặc thù
của nó ngày càng dịu đi. Mâu thuẫn này được giải quyết vẫn phải tuân thủ nguyên
tắc là thông qua đấu tranh nhưng bằng phương pháp hoà bình.
Như vậy, hiểu bản chất các loại mâu thuẫn để tìm ra cách giải quyết phù hợp
là điều rất quan trọng trong thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt là giai đoạn hiện nay, khi
nền kinh tế đang rơi và suy thoái và tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
để hoàn thành được quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa thì cần phải giải quyết
một cách triệt để các mối mâu thuẫn đang tồn tại.
6 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
PHẦN 2: PHÂN TÍCH CÁC MÂU THUẪN GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Các khái niệm cơ bản
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy
mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự gia tăng được thể
hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít,
còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự
gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kì. Về bản chất, tăng trưởng phản ánh sự
thay đổi về lượng của nền kinh tế, nhưng ngày này yêu cầu tăng trưởng còn được
gắn liền với tính bền vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao.
Theo khía cạnh này, điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục, có hiệu
quả của các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người.
Có rất nhiều quan niệm để hiểu về môi trường là gì, trong phạm vi bài tiểu
luận, tác giả sẽ tiếp cận khái niệm môi trường dưới góc độ tự nhiên. Môi trường tự

nhiên là chỉ một bộ phận của giới tự nhiên, bao gồm các nhân tố thiên nhiên tồn tại
ngoài ý muốn của con người và ít nhiều chịu sự tác động của con người như đất,
nước, không khí, động vật, thực vật, nó có quan hệ trực tiếp tới quá trình sản xuất
vật chất và đời sống xã hội của con người.
Theo quan điểm của Liên hợp quốc bảo vệ môi trường là những hành động
thực hiện nhằm bảo vệ môi trường tự nhiên, phòng ngừa hay giảm thiểu những tác
động tiêu cực do các hoạt động kinh tế và xã hội của con người gây ra cho môi
trường.
7 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
2.2. Phân tích các mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước của Việt Nam
Vận dụng phép biện chứng về mâu thuẫn, chúng ta nhận thấy tăng trưởng và
bảo vệ môi trường có mối quan hệ thống nhất. Môi trường tự nhiên là điều kiện cho
tăng trưởng kinh tế và kinh tế tăng trưởng là cơ sở tạo nên các biến đổi của môi
trường tự nhiên theo hướng ngày càng tốt hơn.
Tuy nhiên, trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Việt Nam, để
đạt được mục tiêu tăng trưởng cao, chúng ta đã bỏ qua các các mối liên quan về
môi trường tự nhiên, thiếu sự tôn trọng khi ứng dụng khoa học tự nhiên và khoa
học kỹ thuật. Việc khai thác nguồn tài nguyên này một cách quá mức, dẫn đến hệ
sinh thái bị mất cân đối nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường gia tăng.
Từ đó đã dẫn đến những mâu thuẫn trong nhu cầu tăng trưởng kinh tế cao và
vấn đề bảo vệ môi trường tại Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước.
2.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh đáp ứng sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với hạn chế về điều kiện tài
nguyên thiên nhiên
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã giúp Việt Nam thoát được đói
nghèo và có những bước tiến xa trong phát triển kinh tế, được thể hiện rõ nhất qua

tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt. Tuy
nhiên, các ngành sản xuất của Việt Nam chủ yếu lại do đóng góp của các nguồn lực
tự nhiên. Trong giai đoạn sau đổi mới, chúng ta tập trung xuất khẩu ở các sản phẩm
được chế biến từ tự nhiên như gỗ, mây, tre… hay các khoáng sản ở dạng thô như
than đá, dầu mỏ… Với một thị trường rộng mở và đem lại nguồn thu nhập lớn đã
làm mờ mắt những người kinh doanh nói chung và những người dân của khu vực
8 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
có tài nguyên nói riêng. Họ không màng đến những tác động phản lại của tự nhiên
mà ra sức khai thác trái phép các tài nguyên, dẫn đến môi trường sinh thái bị kiệt
quệ, ô nhiễm nặng nề.
Bên cạnh đó, do nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiều nhà máy, công
xưởng ra đời, các thiết bị đòi hỏi nguyên liệu và kĩ thuật chất lượng cao đã dẫn đến
nhu cầu về nguyên liệu, năng lượng như chất đốt, điện trở nên ngày càng cấp thiết.
Để đáp ứng được hoạt động sản xuất diễn ra bình thường, Việt Nam đã xây dựng
nhiều nhà máy điện, cho phép khai thác các tài nguyên quý hiếm. Dẫn đến đất đai
bị ô nhiễm do khai thác than bừa bãi, ô nhiễm do nhà máy nhiệt điện, tác động tiêu
cực tới các hồ chứa nước do ngăn sông đắp đập làm nhà máy thủy điện, kế tới là
tàn phá rừng làm củi đốt… làm mất cân bằng hệ sinh thái.
Như vậy, những vấn đề nêu trên tất yếu dẫn tới mâu thuẫn cơ bản là muốn có
sự tăng trưởng kinh tế thì phải có rất nhiều yếu tố, nhiều nguồn lực đầu vào, trong
đó đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì tài nguyên thiên nhiên đóng
vai trò vô cùng quan trọng.
2.2.2. Mâu thuẫn trong cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ nhằm đáp ứng yêu cầu
tăng trưởng kinh tế
Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Việt Nam cần thu hút
các nhà đầu tư nước ngoài, tuy nhiên chúng ta chủ yếu đầu tư cơ sở hạ tầng cho các
khu vực, vùng lãnh thổ có nhiều lợi thế cạnh tranh. Dẫn đến các khu vực miền núi
đã khó khăn lại còn khó khăn hơn, trình độ hiểu biết đã yếu kém lại càng yếu kém

hơn. Kết quả là các tộc người tại khu vực miền núi với trình độ nhận thức kém vẫn
ứng xử theo các tập quán cổ hủ của họ. Việc người dân đặc biệt là tầng lớp thanh
niên thi nhau chặt những loại gỗ lâu năm hoặc tìm cách để giết chết những loài
động vật lớn hoang dã với mục đích thể hiện sức khỏe, sở thích và sự hùng dũng
của mình trước người khác hay quan niệm thuận theo tự nhiên, cứ để mọi cái trôi
9 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
theo dòng nước, nên mọi chất thải đều được đổ thẳng ra sông suối đã gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng. Bên cạnh đó họ cũng dễ bị lợi dụng bởi những người
hoạt động phi pháp, nghe theo lời xúi giục và tham gia vào các hoạt động khai thác
trái phép. Điều này càng làm cho thiên nhiên bị tàn phá và ô nhiễm nặng nề.
2.2.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng kinh tế với việc tạo việc làm cho lao
động trong khu vực di dân
Do nhu cầu tăng trưởng kinh tế và thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước, Việt Nam cần xây dựng một môi trường đầu tư lý tưởng để thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó, cơ sở hạ tầng là điều kiện cần đầu tiên. Để
thu hút được các nhà đầu tư , chúng ta buộc phải xây dựng các khu công nghiệp,
các nhà máy thủy điện, dẫn đến dân cư tại các khu vực này phải chuyển đến những
vùng đất mới. Trong khi đó, những người di dân chủ yếu là lao động tay chân,
không có trình độ. Khi chuyển đến những nơi ở mới họ không có đất đai để trồng
trọt, không có nghề nghiệp để làm, để nuôi sống bản thân. Chính phủ thì không tạo
cho họ nghề nghiệp mới, những công việc kiếm ra thu nhập. Do đó, để nuôi sống
bản thân và gia đình, họ phải dựa vào thiên nhiên. Họ phải khai hoang, chặt cây,
phá rừng để làm nương rẫy, bán những thực động vật quý hiếm để kiếm thu nhập.
Kết quả là hàng nghìn hecta rừng bị phá hủy, hàng trăm loại thực vật, cây gỗ lâu
năm bị tuyệt chủng, nguồn nước bị ô nhiễm nặng nề.
2.2.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về cơ sở vật chất kỹ thuật cho bảo vệ môi trường
tự nhiên với hạn chế về điều kiện kinh tế - kỹ thuật đáp ứng yêu cầu này
Để có thể khai thác tối đa, hợp lý, có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên thì vấn

đề cơ sở vật chất kỹ thuật trong việc khai thác giữ vai trò vô cùng quan trọng. Nếu
trong quá trình khai thác, cơ sở vật chất kỹ thuật được sử dụng có tính hiện đại, phù
hợp, thân thiện với môi trường thì không chỉ giúp cho việc khai thác có hiệu quả,
trên cơ sở đó thúc đẩy kinh tế tăng trưởng mà còn là điều kiện đảm bảo cho sự bảo
10 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
vệ môi trường sinh thái. Song không phải ở đâu, ở nơi nào cũng có đủ điều kiện cơ
sở vật chất kỹ thuật tốt để phục vụ cho quá trình khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Ở Việt Nam, nhìn chung, đánh giá một cách công bằng mà nói thì thực lực
khoa học - công nghệ của nước ta còn chậm phát triển, lạc hậu nhiều thế hệ so với
khu vực và trên thế giới, dẫn tới việc trong khai thác tài nguyên thiên nhiên sẽ
không thể có được sự hợp lý, do vậy không thể bảo vệ được nguồn tài nguyên thiên
nhiên quý giá. Hiện tại hầu hết các tỉnh của nước ta, đặc biệt là các tỉnh miền núi
đều không có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại trong khai thác tài nguyên, hoặc thiếu
những chiến lược khoa học cho sự nghiệp phát triển khoa học - công nghệ phục vụ
cho phát triển kinh tế nói chung. Phần lớn các doanh nghiệp, xí nghiệp được hình
thành trong thời gian qua, kể cả doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đều có công
nghệ, kỹ thuật sản xuất lạc hậu, chưa có biện pháp kỹ thuật xử lý môi trường… Đó
là chưa kể tới việc hiện nay, trong một số lĩnh vực khai thác khoáng sản lậu như
quặng, than, vàng… bọn đầu nậu khai thác không muốn sử dụng công nghệ khai
thác hiện đại, do vừa phải đầu tư lớn, vừa rơi vào nguy cơ bị tịch thu tài sản nếu bị
lực lượng chức năng phát hiện. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn tới mâu thuẫn
giữa yêu cầu về cơ sở vật chất kỹ thuật cho bảo vệ môi trường sinh thái với hạn chế
về điều kiện kinh tế - kỹ thuật đáp ứng yêu cầu này.
11 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
PHẦN 3: GIẢI PHÁP XỬ LÝ CÁC MÂU THUẪN GIỮA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG

NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Từ thực tế, chúng ta nhận thấy Việt Nam đang trong tình trạng suy thoái kinh
tế kéo dài do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu cùng với những thảm
họa tự nhiên liên tiếp xảy ra do ảnh hưởng của việc tàn phá môi trường. Trong khi
đó, chúng ta vẫn đang trong quá trình thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước. Vì vậy, đảm bảo một sự cân bằng giữa nhu cầu tăng trưởng kinh
tế với đòi hỏi bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và tái tạo môi trường, vừa
đáp ứng được nhu cầu sử dụng của thế hệ hiện tại trong tăng trưởng và phát triển,
vừa không làm phương hại gì đến nhu cầu và khả năng ứng dụng các nguồn tài
nguyên của các thế hệ tương lai là một yêu cầu bức thiết của Việt Nam. Để giải
quyết được vấn đề này, Việt Nam cần phải:
3.1. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu
Chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng sang mô hình tăng
trưởng theo chiều sâu. Nghĩa là từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát
triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng chất
lượng hiệu quả. Từ chủ yếu dựa vào vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và sử dụng
lao động giá rẻ sang tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nguồn nhân
lực chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Từ chủ
yếu là công nghiệp gia công, lắp ráp sang đẩy mạnh công nghiệp chế tạo, chế biến,
công nghiệp phụ trợ. Từ chủ yếu xuất khẩu tài nguyên khoáng sản, nguyên liệu, sản
phẩm thô sang tăng tỷ trọng xuất khẩu sang chế biến, chế tạo. Đẩy mạnh công
nghiệp hóa nông nghiệp, phát triển dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Phát triển và khai
thác tối đa thị trường trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu. Gắn kết chặt chẽ
giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ
12 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Khi chuyển sang mô hình tăng trưởng này,
chúng ta sẽ giảm bớt được áp lực về tài nguyên thiên nhiên trong sản xuất, do đó
hạn chế được tình trạng khai thác trái phép và có thời gian để tái tạo môi trường.

Để thực hiện được điều này, nhà nước cần có một khung pháp lý rõ ràng về những
chính sách khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghệ cao, thân thiện với môi
trường cũng như những án phạt răn đe cho hành vi gây ô nhiễm môi trường.
3.2. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục
Thay đổi nhận thức của các chủ thể kinh tế theo định hướng mới là cần thiết
để ngăn cản sự chuyển biến nhanh của những nhận thức sai về môi trường tự nhiên
trong hoạt động kinh tế, chấm dứt cách tư duy: một nền kinh tế hài hòa với môi
trường sẽ làm thiệt hại đến mục tiêu lợi nhuận, tăng trưởng kinh tế thật cao là vấn
đề trọng tâm cần làm trước còn việc bảo vệ môi trường thì sẽ thực hiện sau và có
thừa tiền để sửa sai nếu xảy ra ô nhiễm môi trường… Xã hội hoá giáo dục môi
trường cần được thực hiện và triển khai nhanh chóng đối với các chủ thể kinh tế.
Bởi lẽ, sự tác động vào môi trường tự nhiên một cách tự phát và gây thảm hoạ
không chỉ cho môi trường tự nhiên mà còn tác động xấu đến sự tăng trưởng kinh tế
khi những chủ thể này chưa nhận thức đúng đắn vai trò của môi trường, của công
tác bảo vệ môi trường trong hoạt động kinh tế. Để làm tốt công tác này chúng ta
cần tăng cường tuyên truyền giáo dục ý thức của người dân và các doanh nghiệp.
3.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường
Cần tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, các
cơ chế, chính sách cần thiết để lồng ghép các yêu cầu bảo vệ môi trường ngay từ
khâu xây dựng, thẩm định và phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các
chương trình, dự án phát triển. Xây dựng đồng bộ, rõ ràng hệ thống các tiêu chuẩn
môi trường, các yêu cầu về thủ tục để người dân dễ dàng thực hiện và các cơ quan
quản lý cũng dễ dàng đánh giá.
13 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
Áp dụng biện pháp kinh tế trong quản lý môi trường: đánh thuế các sản
phẩm có thể và gây ô nhiễm môi trường, thu lệ phí với các hoạt động kinh tế gây ô
nhiễm môi trường, cấm hoạt động đối với các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi
trường, kiên quyết xử lý các vi phạm về môi trường của các tổ chức, cá nhân theo

Luật Môi trường ban hành; ưu đãi, đầu tư cho các hoạt động kinh tế thân thiện, cải
thiện với môi trường tự nhiên.
3.4. Áp dụng khoa học kĩ thuật hiện đại
Xây dựng một chiến lược phát triển ngành công nghiệp sạch hơn và thân
thiện với môi trường. Xây dựng, thúc đẩy một thị trường cạnh tranh bình đẳng giữa
các doanh nghiệp, phát triển hệ thống các công cụ nhằm tăng cường năng lực
doanh nghiệp trong việc tiếp cận công nghệ thân thiện môi trường. Tăng cường
công tác truyền thông cơ sở, vận động các doanh nghiệp tham gia tích cực vào công
tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Khuyến khích nghiên cứu, sáng tạo
công nghệ trong nước và tăng cường hợp tác quốc tế. Thúc đẩy doanh nghiệp tự đổi
mới, áp dụng các công nghệ thân thiện môi trường vào qui trình sản xuất, tiết kiệm
năng lượng, tài nguyên và hạn chế gây ô nhiễm môi trường
14 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành Triết học) – Nhà xuất bản Chính trị - hành chính - 2010.
2. Hoàng Ngọc Hòa , “Tăng trưởng theo chiều sâu để ngăn chặn suy giảm kinh tế
trong giai đoạn hiện nay” - Tạp chí Cộng sản
3. TS Nguyễn Văn Thanh, “Xây dựng mô hình sinh thái hiện đại trong chiến lược
phát triển đất nước”, Tạp chí Cộng sản
15 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
MỤC LỤC
16 MHV:CH220234

×