Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy văn lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.38 KB, 11 trang )

SKKN: Một số kinh nghiệm ử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn 9
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY
TRONG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN LỚP 9
PHẦN A

: MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ

:
1. Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết:
Thực trạng đáng lo ngại trong thời gian gần đây là học sinh ít thích học văn. Thực
trạng này đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời than thở với nhau của
những người trực tiếp giảng dạy môn văn và nay đã trở thành vấn đề của báo chí và dư
luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài làm văn của học sinh trong những năm gần đây
mới thấy cần thiết phải có những thay đổi về phương pháp dạy văn và học văn hiện
nay. Qua công tác giảng dạy cũng như chấm trả các bài kiểm tra Ngữ văn, tôi nhận
thấy có rất nhiều những biểu hiện thể hiện tâm lý chán học văn của học sinh. Khi HS
tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ dàng nhận ra những lỗi cơ bản của học sinh
như: dùng từ sai, viết câu sai, chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu
logic. Đặc biệt có những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa, … Hơn thế nữa, có tình
trạng các em học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết
liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào
những phần sau. Phần lớn số học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không
biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình.
Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến và thậm chí là đáng báo động. Muốn khôi
phục sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn khoa học xã hội, không thể chỉ bằng
biện pháp kêu gọi mà chúng ta phải tích cực đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học,
khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho các em phương pháp học
văn hiệu quả nhất. Trong những kĩ thuật dạy học mới, bản thân tôi tâm đắc nhất là sử


dụng KT bản đồ tư duy (BĐTD). Có thể khẳng định rằng đây là một trong những
PPDH rất quan trọng, vừa rất mới, rất hiện đại, lại rất khả thi, đang được ngành giáo
dục cả nước ta áp dụng. Vì vậy, dựa trên những tài liệu đã tập huấn, tôi mạnh dạn đưa
ra “Một số kinh nghiệm nhỏ trong việc dạy học theo BĐTD Ngữ văn ở Lớp 9”
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn ngữ văn 9.
2- Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới:
Việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp học sinh
học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển khai nội dung
dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội dung của phong trào thi
đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo
phát động.
Việc sử dụng thành thạo và hiệu quả Bản đồ Tư duy trong dạy học sẽ mang lại
nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh và phương
pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ
động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh
hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua
một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức. Học sinh hiểu bài nhanh hơn,
hiệu quả hơn, biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học; biết
Đỗ Thị Lệ Hoa Năm học: 2012-2013
1
SKKN: Một số kinh nghiệm ử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn 9
dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Đối với môn Ngữ văn, học
sinh rất hào hứng trong việc ứng dụng BĐTD để ghi chép bài nhanh, hiệu quả.
3- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Ứng dụng BĐTD trong quá trình dạy học môn Ngữ văn ở lớp 9.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH

:
1-


Cơ sở lí luận và thực tiến có tính định hướng cho việc nghiên cứu, tìm
giải pháp của đề tài
1.1- Cơ sở lí luận của đề tài
Năm học vừa qua là năm học mà toàn ngành Giáo dục và Đào tạo tiếp tục nỗ lực
đổi mới phương pháp giảng dạy, để đào tạo ra những con người năng động, sớm thích
ứng với đời sống xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất
nước. Trước tình hình đó, đòi hỏi đội ngũ giáo viên chúng ta phải không ngừng đổi
mới, cải tiến nội dung, phương pháp soạn giảng để trong mỗi tiết dạy, học sinh sẽ được
hoạt động nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn
trên con đường chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Muốn được như vậy, đòi hỏi mỗi giáo
viên phải triệt để thực hiện theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm nhằm phát huy
tính chủ động, tích cực, tự giác và sáng tạo của học sinh trong hoạt động dạy học.
Trong chương trình giáo dục phổ thông, Ngữ văn là một môn học có vị trí quan
trọng vì mang tính nhân văn rất cao. Bởi vậy, để học sinh học tốt môn Ngữ Văn ở
trường phổ thông nói chung, người giáo viên phải chú trọng đến phương pháp dạy học,
phải tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu và áp dụng những hình thức, biện pháp tổ chức dạy
học mới, hiện đại, sinh động, đưa học sinh đến với môn học này một cách tự giác, bằng
niềm say mê thật sự. Có như thế mới đáp ứng được yêu cầu của môn học mang đậm
tính nhân văn này.
Có thể khẳng định rằng PPDH bằng BĐTD là một trong những PPDH hiện đại.
Nó giúp học sinh dễ ghi nhớ, phát triển nhận thức, khả năng tư duy, óc tưởng tượng và
khả năng sáng tạo
1.1- Cơ sở thực tiễn của đề tài
Trước đây trong giảng dạy, chúng ta đã từng sử dụng các mô hình, sơ đồ, biểu
đồ để cô đọng, khái quát kiến thức cho học sinh, nhất là ở những bài tổng kết các
chương, các phần của môn học hay các bài ôn tập. Cách làm này có thể nói đã đem lại
những hiệu quả thiết thực nhất định trong việc ôn tập, củng cố, hệ thống kiến thức cho
học sinh bởi cách trình bày gọn, rõ, lô-gic. Thế nhưng, bên cạnh những ưu điểm ấy,
cách làm này vẫn còn những hạn chế nhất định, bởi trước hết là cả lớp cùng có chung
cách trình bày giống như cách của giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không phải do học

sinh tự xây dựng theo cách hiểu của mình. Các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh,
màu sắc và đường nét. Cách này chưa thật sự phát huy được tư duy sáng tạo, chưa thật
sự kích thích, lôi cuốn được các em trong việc tích cực, chủ động tìm tòi, phát hiện và
chiếm lĩnh kiến thức của bài học. Hơn nữa, phạm vi sử dụng hẹp vì chúng ta chỉ sử
dụng chúng trong một số tiết dạy có tính chất tổng kết các chương, các phần, các mảng
kiến thức của môn học hay các bài ôn tập mà thôi chứ chúng không được sử dụng cho
tất cả các bài học, các giờ lên lớp cũng như các khâu của tiến trình bài dạỵ
Trong năm học vừa qua, chúng ta đã bước đầu được tiếp cận với việc sử dụng
BĐTD, đây là một bước tiến đáng kể trong việc đổi mới PPDH hiện nay. Việc sử dụng
BĐTD thay thế cho những mô hình, sơ đồ, đã lạc hậu để khái quát, cô đọng kiến thức
cho học sinh là một sự tất yếu, bởi BĐTD có rất nhiều điểm ưu việt hơn. Do đó, việc
ứng dụng BĐTD vào trong quá trình dạy học môn Ngữ văn không chỉ lôi cuốn sự hứng
thú, niềm đam mê, yêu thích môn học ở các em học sinh mà còn làm rộ lên việc đưa
Đỗ Thị Lệ Hoa Năm học: 2012-2013
2
SKKN: Một số kinh nghiệm ử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn 9
BĐTD vào bài giảng ở giáo viên. Nhưng việc đưa Bản đồ tư duy vào ứng dụng trong
quá trình dạy học đối với môn học Ngữ văn còn là vấn đề gặp không ít khó khăn,
trở ngại đối với giáo viên, cụ thể như trong việc tổ chức, thiết kế các hoạt động dạy
học với việc sử dụng SBĐTD. Qua dự giờ, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn đối
với các đồng nghiệp trong tổ, trong trường, tôi nhận thấy, phần lớn giáo viên dừng
lại ở việc sử dụng BĐTD để hệ thống hóa kiến thức sau mỗi bài học, hay mỗi bài
ôn tập, tổng kết một phân môn, một mảng kiến thức nào đó mà thôi. Họ chưa mạnh
dạn đưa Bản đồ tư duy vào tất cả các khâu trong quá trình dạy học, chưa phát huy
được tính phổ biến và đa năng của bản đồ tư duy. Do đó, chưa phát huy một cách
đầy đủ công dụng của BĐTD trong quá trình dạy học môn Ngữ văn.
2- Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp
2.1- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
2.1.1- Tài liệu
-Một số chuyên đề bồi dưỡng cán bộ quản lí và GV THCS – Bộ Giáo dục và

Đào tạo (đã được tập huấn).
- Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, Sử dụng bản đồ tư duy góp phần TCH
HĐ học tập của HS, Tạp chí Khoa học giáo dục, số chuyên đề TBDH năm 2009.
- Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy; Bản đồ tư duy-công cụ hiệu quả hỗ trợ
dạy học và công tác quản lý nhà trường, Báo Giáo dục&Thời đại, số 147 ngày
14/9/2010.
2.1.2- Cách tiến hành
- Tổng hợp các tài liệu có liên quan đến việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học nói
chung và bộ môn ngữ văn nói riêng với mục đích giúp HS xâu chuỗi khắc sâu kiến thức
sau mỗi giờ học đồng thời giúp HS hứng thú học tập bộ môn ngữ văn nhằm nâng cao
chất lượng học tập.
- Qua thực nghiệm trên lớp, tìm hiểu thái độ học tập của học sing, đối chiếu kết
quả học tập của học sinh trước và sau khi vận dụng, tham khảo sự đóng góp của đồng
nghiệp mà rút ra được những kết luận quan trọng cho đề tài.
2.2- Thời gian tạo ra giải pháp
Đề tài này tôi đã tiến hành từ tháng 10 năm 2011 đến nay.
PHẦN B: NỘI DUNG
I- MỤC TIÊU
- Mục tiêu của đề tài này giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả, các em có
ý thức rèn luyện kỹ năng tư duy rèn luyện thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo
BĐTD trong quá trình học để các em có được phương pháp học tốt,
- BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ
não. Học sinh trực tiếp vẽ BĐTD vừa lôi cuốn, hấp dẫn các em, đồng thời còn phát
triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi đó là “sản phẩm kiến thức hội họa”do chính các em
tự làm ra, lại vừa phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của các em trong học tập,
không rập khuôn một cách máy móc như khi lập các bảng biểu, sơ đồ, vì các em dễ
dàng vẽ thêm các nhánh để phát triển ý tưởng riêng của mình.
- Tạo một không khí sôi nổi, hào hứng, say mê cho học sinh trong học tập.
- Phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
II- Mô tả giải pháp của đề tài:

1-Thuyết minh tính mới:
Điểm mới của đề tài là sử dụng một cách có hiệu quả BĐTD trong quá trình dạy
và học, góp phần nâng cao chất lượng môn Ngữ văn lớp 9.
a. Khái niệm BĐTD :
Đỗ Thị Lệ Hoa Năm học: 2012-2013
3
SKKN: Một số kinh nghiệm ử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn 9
Bản đồ tư duy hay còn gọi là Sơ đồ tư duy (Mind Map) là PPDH chú trọng đến cơ
chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ
thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức, bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng
thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, đây là một
dạng sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ
thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi em có thể vẽ một kiểu khác nhau, dùng những màu sắc,
hình ảnh, chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác nhau, Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi
em có thể “thể hiện” nó dưới dạng Bản đồ tư duy theo cách riêng của mình. Do đó, việc
lập bản đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
b. Cấu tạo của BĐTD:
-Ở giữa bản đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề.
-Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ chủ đề.
-Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý chính.
-Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm thì ý càng
cụ thể, chi tiết. Có thể nói, BĐTD là một bức tranh tổng thể, một mạng lưới tổ chức,
liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung, một đơn vị kiến thức nào
đó.
c. Các bước thiết kế một BĐTD:
Để thiết kế một BĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy , hay trên phần mềm
Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:
Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình ảnh minh
họa cho chủ đề - nếu hình dung được)
Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề, thì ta

đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính, đặt tiêu đề các nhánh
chính, nối chúng với trung tâm.
Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ mỗi ý
chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai thành mạng lưới
liên kết chặt chẽ.
Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn (nếu có)) để minh họa cho các ý,
tạo tác động trực quan, dễ nhớ.
*Giáo viên lưu ý:
+Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu hút sự chú ý
của mắt, như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
+Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn.
+Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ đồng thời tạo
sự cân đối, hài hòa cho sơ đồ.
+Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần thiết
+Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình.
d. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ BĐTD trên lớp:
- Cho học sinh lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của giáo viên.
- Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà
nhóm mình đã thiết lập.
- Học sinh cả lớp nhận xét, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của
bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD,
từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
2. Cách sử dụng BĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học:
a. Làm quen với BĐTD:
* Đối với giáo viên:
Đỗ Thị Lệ Hoa Năm học: 2012-2013
4
SKKN: Một số kinh nghiệm ử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn 9
Ngoài việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ có liên
quan đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những tài liệu liên quan đến

việc hướng dẫn sử dụng BĐTD và phần mềm vẽ SĐTD Mind Map để có những tri
thức cơ bản về nó (Hiểu biết về BĐTD, cấu tạo, vai trò, tiện ích, phương pháp tạo lập,
thiết kế, việc sử dụng nó trong quá trình dạy học ); đồng thời, giáo viên cần đầu tư thời
gian vào việc tập vẽ, cả vẽ trên giấy và trên phần mềm trong máy vi tính (Nhớ là phải
nghiên cứu kĩ cách sử dụng phần mềm để thực hiện thao tác cho nhanh nhẹn, thuần
thục). Sau khi đã hiểu kĩ, nắm chắc về vai trò, công dụng của BĐTD, sử dụng thành
thạo phần mềm, nắm vững phương pháp vẽ một BĐTD, thì việc ứng dụng nó vào quá
trình dạy học là việc dễ dàng. (Dĩ nhiên chuyện BĐTD đẹp hay xấu phụ thuộc vào sự
tưởng tượng, liên tưởng, óc sáng tạo và năng khiếu mỗi người).
* Đối với học sinh:
Bước 1: Làm quen
- Giáo viên giới thiệu cấu trúc BĐTD theo mạch kiến thức của bài học cho học sinh
nắm, rồi hướng dẫn cách vẽ một BĐTD (Cung cấp cho các em phương pháp vẽ
BĐTD).
Bước 2: Tập vẽ
-Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa (hoặc hình ảnh) ở trung tâm màn hình (hoặc trên
bảng đen). Ví dụ: Các phương châm hội thoại, Truyện Kiều, Từ (Xét về cấu tạo) Cho
học sinh thực hành vẽ BĐTD trên giấy hoặc bìa lịch hay bảng phụ.
-Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy nghĩ và vẽ các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp
3 (Luyện kĩ năng vẽ SĐTD)
Bước 3: Trang trí
-Sau khi các em vẽ xong sườn TD, giáo viên gợi ý cho các em vẽ chèn thêm những
hình ảnh cần thiết (nếu có) để minh họa cho nội dung của sơ đồ, gợi ý cho các em chỉnh
sửa đường nét, sử dụng màu sắc để phân biệt, làm nổi bật mạng lưới các ý trong sơ đồ.
(Kĩ năng hội họa - dấu ấn sáng tạo riêng)
*-Giáo viên lưu ý học sinh khi vẽ SĐTD, các em nên kết hợp dùng màu sắc, đường nét,
ngay trong quá trình vẽ để tiết kiệm thời gian ( nhánh màu gì thì chữ màu đó).
Bước 4: Chia sẻ kinh nghiệm
Ở bước này, giáo viên thu một số SĐTD các em vừa vẽ theo từng loại (Sơ đồ
không triển khai đủ các ý chính, sơ đồ vẽ quá chi tiết đến vụn vặt, sơ đồ vẽ không đúng

trọng tâm kiến thức, sơ đồ dùng quá nhiều hình ảnh, màu sắc lòe loẹt, )
Cho học sinh quan sát, nhận xét, góp ý chỉnh sửa, bổ sung.
Giáo viên lắng nghe, định hướng cho các em chỉnh sửa, bổ sung: giáo viên cần tôn
trọng và phát huy sự sáng tạo của các em, bởi đây là “sản phẩm” của chính các em. Mặt
khác, giáo viên cũng cần khuyến khích, biểu dương những BĐTD vẽ đảm bảo đầy đủ
kiến thức trọng tâm, đẹp, có cách trình bày khoa học, cân đối, hài hòa về đường nét,
màu sắc.
+ Nếu thấy mất quá nhiều thời gian để tô đậm màu trong một nhánh, ta có thể
hướng dẫn thêm cho các em cách gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi trong đó. Đây
là điều rất mới mẻ, sáng tạo và tiết kiệm rất nhiều thời gian.
b. Các hình thức sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học:
b
1
. Sử dụng BĐTD trong các hình thức kiểm tra:
Có thể dùng BĐTD để kiểm tra trong nhiều hình thức:
† Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra bài cũ:
Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ đề của
kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ BĐTD thông qua câu
Đỗ Thị Lệ Hoa Năm học: 2012-2013
5
SKKN: Một số kinh nghiệm ử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn 9
hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa (hoặc hình ảnh trung tâm) ấy kết hợp với câu hỏi định
hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và định hình được cách vẽ SĐTD
theo yêu cầu.
* Ví dụ:
Sau khi các em học xong tiết 26, bài “Truyện Kiều của Nguyễn Du”
trước khi tìm hiểu đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” (Tiết 27 trong PPCT), giáo viên
kiểm tra bài cũ bằng cách cho các em lập BĐTD để củng cố kiến thức đã học ở tiết học
trước thông qua câu hỏi sau: Với từ khóa “TRUYỆN KIỀU” Hãy khái quát hiểu biết
của em về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm “truyện Kiều” của ông ? Sau đó, giáo viên

ghi cụm từ khóa lên giữa bảng phụ rồi gọi một em HS lên bảng vẽ. Học sinh sẽ dễ dàng
vẽ được BĐTD theo nội dung yêu cầu.
Dưới đây là BĐTD về “TRUYỆN KIỀU” có tính chất minh họa, các em vẽ
BĐTD đảm bảo các nội dung tương tự như sau là tốt:
Khi học sinh vẽ xong, giáo viên cho cả lớp quan sát, gọi một vài em nhận xét,
góp ý sơ đồ rồi giáo viên nhận xét và ghi điểm.
Giáo viên có thể cho cả lớp cùng lập SĐTD trên giấy theo cách hoạt động cá
nhân trong một thời gian nhất định để lôi cuốn tất cả học sinh vào việc ôn kiến thức
đồng thời rèn luyện kĩ năng tạo lập SĐTD và thói quen tư duy cho các em. Hết thời
gian quy định, giáo viên chọn sơ đồ của một vài em (vẽ xong trước), chấm, nhận xét và
ghi điểm cho các em; biểu dương, khen ngợi những em vẽ tốt để khích lệ các em nhằm
tạo không khí học tập sôi nổi. Đây là việc làm rất cần thiết của chúng ta.
† Sử dụng BĐTD trong kiểm tra 15 phút, 1 tiết:
Chúng ta cũng có thể dùng SĐTD trong các hình thức kiểm tra trên giấy (15
phút, 1 tiết) một cách dễ dàng để tăng cường việc rèn luyện thói quen tư duy lô-gic, tư
duy hệ thống cho học sinh thông qua các bài kiểm tra viết, nhằm phát triển năng lực tư
duy sáng tạo cho các em. giáo viên nên chọn kiểm tra những kiến thức có tính hệ thống,
xâu chuỗi, các em có thể dễ dàng hệ thống hóa bằng SĐTD. Ví dụ: lập SĐTD về Từ
loại (xét về cấu tạo, xét về ngữ pháp), về các Phương châm hội thoại, Các cách phát
triển từ vựng, trong bài kiểm tra 45 phút Tiếng Việt; hay lập SĐTD để khái quát, sơ
đồ hóa kiến thức về một tác giả, tác phẩm nào đó, về quá trình phát triển tính cách, tâm
trạng của một nhân vật trong tác phẩm truyện hay mạch cảm xúc, trình tự kết cấu của
một bài thơ đối với phân môn Văn học. Mặt khác, về yêu cầu của đề kiểm tra, giáo
Đỗ Thị Lệ Hoa Năm học: 2012-2013
6
SKKN: Một số kinh nghiệm ử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn 9
viên cần đưa ra từ hay cụm từ khóa ngắn gọn, rõ ràng, cụ thể, khái quát được chủ đề
của phần kiến thức cần kiểm tra trong câu hỏi để định hướng, giúp học sinh dễ dàng
nắm bắt chính xác yêu cầu đề và có thể vẽ đúng BĐTD theo yêu cầu. Sau đây là một số
ví dụ minh họa các dạng đề kiểm tra viết yêu cầu học sinh lập SĐTD:

* Ví dụ 1: Có mấy cách phát triển của từ vựng? Em hãy lập SĐTD minh họa với cụm
từ khóa sau: “SỰ PHÁT TRIỂN TỪ VỰNG”.
b
2
. Sử dụng BĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng:
Lâu nay, việc sử dụng BĐTD như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc dạy học
bài mới thì ít nhiều giáo viên chúng ta đã và đang ứng dụng. Tuy nhiên, việc sử dụng
BĐTD vừa để tổ chức, dẫn dắt cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá, chiếm lĩnh kiến
thức bài học lại vừa thay thế cho việc ghi bảng cô đọng kiến thức tiết dạy, bài dạy của
giáo viên thì quả là việc làm còn hết sức mới mẻ Qua một quá trình thử nghiệm một số
tiết dạy, tôi nhận thấy rõ ràng cách làm này ta hoàn toàn có thể làm được. Không những
thế, việc kết hợp sử dụng BĐTD trong việc tổ chức dạy học bài mới với việc sử dụng
nó để cô đọng kiến thức thay cho việc ghi bảng lại tiết kiệm được rất nhiều thời gian
trên lớp, lại vừa có tác dụng hình thành cho học sinh có thói quen ghi chép bằng
BĐTD. Đây cũng là việc làm rất cần thiết góp phần rèn luyện kĩ năng vẽ BĐTD cho
các em, nhất là những bài học nhằm giới thiệu, cung cấp kiến thức.
Ví dụ 1:
Đối với phân môn Tiếng Việt thì sử dụng BĐTD kết hợp việc dạy học bài mới với
việc ghi bảng càng dễ dàng hơn. Ví dụ khi dạy bài “Ôn tập Tiếng Việt” học kỳ II (Tiết
138). Sau khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cum từ trung tâm “ÔN TẬP TIẾNG
VIỆT” lên giữa bảng đen. Sau đó, dẫn dắt học sinh lần lượt đi vào tìm hiểu các nội
dung ôn tập theo trình tự SGK. Bắt đầu với việc hệ thống, củng cố kiến thức lý thuyết
thông qua các câu hỏi:
Chúng ta đã học qua những kiến thức nào phần tiếng Việt ở học kì II? Em hãy
nhắc lại ? (vẽ bốn nhánh chính ứng với bốn bài )
Thế nào là khởi ngữ? Làm thế nào để nhận biết khởi ngữ?
Đỗ Thị Lệ Hoa Năm học: 2012-2013
7
SKKN: Một số kinh nghiệm ử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn 9
Có những thành phần biệt lập nào? Cho ví dụ mỗi thành phần ? (vẽ 4 nhánh nhỏ,

ghi chú)
Em có nhận xét gì về liên kết câu, liên kết đoạn văn ? Có những cách liên kết nào?
(vẽ các nhánh nhỏ, ghi chú)
Thế nào là nghĩa tường minh, hàm ý?Điều kiện tồn tại hàm ý?(vẽ các nhánh nhỏ,
ghi chú)
Ta kết hợp cho học sinh làm các bài tập trong mỗi nội dung ôn tập sau khi lập
SĐTD cho mỗi nhánh (nội dung). Cuối tiết Ôn tập, ta có SĐTD trên bảng như sau:
Việc sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học bài mới sẽ giúp học sinh từng bước phát
hiện, tiếp cận và chiếm lĩnh toàn bộ kiến thức bài học một cách khoa học, có hệ thống,
lô-gic. Bắt đầu bài học bằng từ, cụm từ trung tâm thể hiện trọng tâm kiến thức, thông
qua sự định hướng dẫn dắt của giáo viên, các em tự khám phá, tìm hiểu các đơn vị kiến
thức của bài học (các ý lớn, nhỏ) một cách liền mạch, có hệ thống, đến khi tiết học kết
thúc cũng là lúc toàn bộ kiến thức của bài học được cô đọng và trình bày một cách sinh
động, khoa học và sáng tạo trên bảng đen. BĐTD ấy không chỉ cung cấp cho các em
“bức tranh tổng thể” về kiến thức của bài học mà nó còn giúp cho các em dễ dàng nhận
ra mạch lô-gic kiến thức của bài học. Việc sử dụng kết hợp này càng thuận lợi hơn khi
chúng ta sử dụng phần mềm Mind Map và soạn giảng bằng bài giảng powerpoint, bài
giảng điện tử.
b
3
. Sử dụng SĐTD trong việc hệ thống, củng cố kiến thức sau mỗi bài học, mỗi
phần của bài học:
Sau khi dạy xong mỗi phần (một đơn vị kiến thức) của bài học, hay mỗi bài học,
giáo viên cho học sinh hình dung, nhớ lại và vẽ SĐTD để củng cố, hệ thống phần kiến
thức đó, hoặc toàn bộ kiến thức của bài học.
Ví dụ: Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu xong luận cứ 3: “Những điểm mạnh, điểm
yếu của con người Việt Nam trong bài “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” của Vũ
Khoan, giáo viên cho học sinh lập SĐTD về đặc điểm của con người Việt Nam. Các
Đỗ Thị Lệ Hoa Năm học: 2012-2013
8

SKKN: Một số kinh nghiệm ử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn 9
em sẽ nhớ lại những gì vừa được nghe, được thảo luận, được ghi chép và vẽ SĐTD. Sau
đây là SĐTD minh họa:
2- Khả năng áp dụng:
a- Thời gian áp dụng có hiệu quả:
Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung
và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng, tôi thấy bước đầu có những
kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của ứng dụng BĐTD trong hỗ
trợ đổi mới phương pháp dạy học. Biết sử dụng BĐTĐ để dạy bài mới, củng cố kiến
thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả
hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp
kiến thức môn học. Một số học sinh trung bình đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến
thức bài học ở mức đơn giản. Đối với môn Ngữ văn, học sinh rất hào hứng trong việc
ứng dụng BĐTD để ghi chép bài nhanh, hiệu quả, đặc biệt là trong học tiếng Việt.
b- Có khả năng thay thế giải pháp hiện có:
Vận dụng đề tài này, các em học tập tích cực hơn, sôi nổi hơn. Các em không còn tâm
lý chán học, ngại học môn Ngữ văn vì phải ghi chép nhiều. Trái lại, tất cả rất hào hứng
với việc học tập. Vì việc ứng dụng BĐTD không chỉ tạo tác động trực quan lôi cuốn
các em, mà còn giúp các em ghi chép bài gọn gàng, khoa học hơn, nhanh hơn và nhẹ
nhàng hơn nhiều so với cách ghi chép trước đây.
Học sinh sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học nhóm thì nó sẽ giúp các em phát huy
được tính sáng tạo đồng thời kết hợp sức mạnh của các cá nhân thành sức mạnh tập thể
để có thể giải quyết được các vấn đề một cách hiệu quả. Sơ đồ tư duy tạo cho mỗi thành
viên cơ hội được giao lưu học hỏi và phát triển chính mình một cách hoàn thiện hơn.
Do vậy, khẩ năng vận dụng BĐTD trong dạy và học để thay thế các giải pháp đã vận
dụng đối với môn Ngữ văn lớp 9 là khá cao.
c- Khả năng áp dụng
Đề tài này không chỉ áp dụng cho học sinh lớp 9 mà còn áp dụng cho các khối lớp
6,7,8. Tùy vào kiến thức và đặc điểm kiểu bài mà giáo viên linh hoạt thực hiện. Cũng
có thể thực hiện ở các bộ môn khác… không những chỉ ở trường THCS Hoài Thanh

Tây mà còn thực hiện áp dụng cho tất cả các trường THCS hiện nay.
* Việc vận dụng một số kinh nghiệm dạy học theo BĐTD trong thời gian vừa qua bản
thân tôi nhận thấy học sinh học tập sôi nổi, hào hứng, say mê hơn, các em yêu thích
học bộ môn hơn trước, điều đó góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy
và học
Đỗ Thị Lệ Hoa Năm học: 2012-2013
9
SKKN: Một số kinh nghiệm ử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn 9
Đó là những kết quả rất khả thi nhờ áp dụng phương pháp dạy học bằng BĐTD
trong dạy học Ngữ văn lớp 9.
3- Lợi ích kinh tế- xã hội:
- BĐTD đem lại kết quả rất hữu hiệu cho người học khi lập kế hoạch, dự án. Nó cho
người học một cái nhìn tổng thể, cách đánh giá khách quan.
- Khi chúng ta chưa định hướng được kế hoạch rõ ràng, vẫn chỉ là những ý tưởng, sử
dụng phương pháp BĐTD chắc chắn sẽ thành công. BĐTD sẽ giúp bạn tư duy thông
suốt và biết sắp xếp công việc theo một trật tự ngay từ đầu .
-Việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp học sinh học
tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực của phong trào thi đua
“Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo phát
động.
- Sử dụng thành thạo và hiệu quả Bản đồ Tư duy trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết
quả tốt trong phương thức học tập của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo
viên. Học sinh tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm
được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh
nắm được kiến thức thông qua một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức.
PHẦN C: KẾT LUẬN
1- Điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp:
Mục tiêu của bậc học phổ thông là đào tạo con người toàn diện. Giáo viên muốn khôi
phục sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn khoa học xã hội, không thể chỉ bằng
biện pháp kêu gọi mà chúng ta phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học văn, khơi

gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho các em phương pháp học văn
hiệu quả nhất. Muốn đạt được điều đó, thì mỗi giáo viên bộ môn cần phải: Nắm chắc
được những thuận lợi, khó khăn, hiểu rõ thực tế lớp mình giảng dạy, dặn dò HS chuẩn
bị kĩ về kiến thức, về đồ dùng và phương tiện cần thiết để thực hiện giờ học BĐTD đạt
hiệu quả.
-Khi vận dụng chúng ta cần linh hoạt sử dụng ở những tiết dạy, bài dạy cho phép và
phù hợp chứ không nên lạm dụng BĐTD để khỏi phải ghi bảng ở tất cả các tiết dạy.
2- Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp
Tóm lại, việc vận dụng BĐTD trong dạy học, kiểm tra, đánh giá sẽ dần hình thành
cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một
cách hệ thống, khoa học, đặc biệt là đối với học sinh ở cấp THCS hiện nay. Học sinh sẽ
học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy, hình
thành những con người linh hoạt tư duy sáng tạo trong tương lai, là những nhân tài góp
phần trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, đưa đất nước ta ngày càng phát
triển. Vì vậy, việc tăng cường sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học nói chung, trong
đó có dạy học Ngữ văn là việc làm rất cần thiết, góp phần đáp ứng yêu cầu của phong
trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3- Đề xuất, kiến nghị:
a- Đối với giáo viên:
Cần phải nắm vững những hiểu biết, kiến thức cơ bản về sơ đồ tư duy: khái niệm,
cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt động vẽ BĐTD trên lớp và những tiện
ích.
Cần có sự cân nhắc khi ứng dụng BĐTD vào việc soạn, giảng, kiểm tra đánh giá,
tổ chức hoạt động cho học sinh, tránh lạm dụng; nhất là đối với bộ môn Ngữ văn.
Cần xác định đúng kiến thức cơ bản, trọng tâm để thiết kế BĐTD tức là phải biết
chọn lọc những ý cơ bản, những kiến thức thật cần thiết.
Đỗ Thị Lệ Hoa Năm học: 2012-2013
10
SKKN: Một số kinh nghiệm ử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn 9
Cần đầu tư thời gian hợp lí vào việc soạn bài, lập trước các BĐTD cần

thiết cho tất cả các khâu của quá trình lên lớp đối với từng bài học.
b- Đối với học sinh:
Cần tích cực, tự giác, cũng như tăng cường giao lưu học hỏi một cách khiêm tốn ở
thầy cô, bạn bè về việc vẽ, học và ghi chép với BĐTD.
c- Đối với nhà trường:

Chuyên môn cần thường xuyên tổ chức cuộc hội thảo, hội
giảng, thao giảng, chuyên đề… về việc sử dụng BDTD trong quá trình dạy học để
GV giảng dạy học hỏi thêm kinh nghiệm lẫn nhau.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc dạy học theo
BĐTD, rất mong được sự góp ý bổ sung để sáng kiến được hoàn thiện hơn
Hoài Thanh Tây, ngày 22 tháng 11 năm 2012
Người viết

Đỗ Thị Lệ Hoa
Đỗ Thị Lệ Hoa Năm học: 2012-2013
11

×