Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Phân tích khả năng phát triển phương thức thanh toán không dùng tiền mặt thông qua tiền điện tử ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.25 KB, 25 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TPHCM-HUI
BÀI THUYẾT TRÌNH
MÔN: TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
GIẢNG VIÊN: THẠC SỸ ĐÀO THU THỦY
LỚP: NCTN 6B
NHÓM 9
ĐỀ TÀI: Thông qua bản chất và chức năng tiền tệ, bạn hãy phân
tích khả năng phát triển phương thức thanh toán không dùng tiền
mặt thông qua tiền điện tử ở Việt Nam? Tồn tại và đề xuất giải pháp
khắc phục trong thời gian tới.
DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN NHÓM 9
1) Nguyễn Đinh Trường Đạt 19079331
2) Phạm Bùi Ngọc Hiền 12127081
3) Lê Thị Giang 12130401
4) Trần Thị Thu Hà 12129411
5) Nguyễn Thị Nhung 12000173
6) Võ Ngọc Hằng 12061741
7) Võ Thị Mộng Trinh 12129651
8) Nguyễn Tăng Khoa 12008685
9) Nguyễn Chí Công

LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam thời gian qua, đất nước
chúng ta đã thu được kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong
nhân dân cũng như các nhàđầu tư trong và ngoài nước. Cùng với những
thành tựu đổi mới của đất nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những
bước chuyển mình mạnh mẽ, đóng vai trò tích cực vào việc kiềm chế lạm
phát, ổn định tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ngân hàng và các doanh nghiệp chính là hai nhân tố chủ chốt trong nền kinh
tế đã đóng góp cho sự thành công đó. Doanh nghiệp với sự tài trợ của ngân


hàng đã không ngừng mở rộng sản xuất, cung ứng khối lượng hàng hoá lớn
cho thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Thanh toán trong ngân hàng là hoạt động không thể thiếu trong sự lớn mạnh
của ngân hàng, nó làm cho việc lưu thông tiền tệđược nhanh chóng, bắt kịp
với xu thế hiện đại,đưa hệ thống ngân hàng thương mại bắt kịp với các nước
trong khu vực và rút ngắn khoảng cách với các ngân hàng thương mại trên
thế giới. Do đó, việc hoàn thiện và phát triển công tác TTKDTM trong ngân
hàng là hết sức cần thiết.
TTKDTM trong những năm gần đây đã đạt được những tiến bộ vượt bậc
từng bước hoà nhập với quốc tế. Việc thanh toán được thực hiện qua hệ
thống máy vi tính đã giải quyết tốt ba yêu cầu của công tác thanh toán là
nhanh chóng, chính xác, an toàn. Doanh số TTKDTM ngày một tăng, nạn
khan hiếm tiền mặt được đẩy lùi.
Tuy nhiên công tác TTKDTM ở nước ta hiện nay vẫn còn một số tồn tại cần
quan tâm nghiên cứu. Vì những lý do trên mà em chọn đề tài: "Các hình
thức thanh toán không dùng tiền mặt và lợi ích của nó"
Do thời gian có hạn kinh nghiệm bài viết chưa có nhiều nên không tránh
khỏi những sai sót. Mong cô cùng toàn thể các bạn thông cảm và góp ý cho
nhóm 9 chúng em.
Xin cảm ơn!
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THANH TOÁN KHÔNG
DÙNG TIỀN MẶT
1.1 Khái niệm:
1.1.1 Nguồn gốc của tiền tệ
1.1.2 Bản chất tiền tệ
1.2 Chức năng của tiền tệ
1.2.1 Thước đo giá trị
1.2.2 Phương tiện lưu thông
1.2.3 Phương tiện lưu trữ giá trị
1.2.4 Phương tiện thanh toán

1.2.5 Tiền tệ thế giới
1.3 Vai trò của tiền tệ
1.3.1 Công cụ thực hiện yêu cầu hạch toán kinh tế
1.3.2 Công cụ quản lý vĩ mô
1.3.3 Công cụ thể hiện chủ quyền quốc gia
1.4 Thể thức thanh toán không dùng tiền mặt
1.4.1 Các thẻ thanh toán
1.4.2 Tiền mặt điện tử
1.4.3 Séc điện tử
1.4.4 Ủy nhiệm thu
1.4.5 Ủy nhiệm chi
1.4.6 Thanh toán bằng chứng từ điện tử
1.4.7 Thanh toán bằng thư tín dụng
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG
2.1 Tình hình thanh toán tiền điện tử trên thế giới
2.2 Quá trình phát triển của thanh toán không dùng tiền mặt ở VN
2.2.1 Thời kì ngân hàng hoạt động theo cơ cấu tập trung
2.2.2 Thời kì ngân hàng hoạt động theo cơ cấu thị trường
2.3 Lợi ích của thanh toán không dùng tiền mặt
2.4 Những vấn đề tồn tại
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC VÀ TỒN TẠI
3.1. Đẩy mạnh dịch vụ thanh toán thẻ
3.2 Áp dụng biện pháp đồng bộ để việc lắp đặt và sử dụng POS đi vào cuộc
sống
3.3 Có biện pháp yêu cầu và giám sát các tổ chức cung ứng dịch vụ TTKDTM
3.4 Đẩy mạnh sử dụng internet banking, mobile bankinh, ví điện tử……
3.5 Trên cơ sở kết quả triển khai việc trả lương qua tài khoản cho các đối
tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước theo Chỉ thị 20/2007/CT-TTg
3.6 Khuyến khích các ngân hàng thương mại và cả các tổ chức khác cung cấp
dịch vụ hỗ trợ thanh toán nghiên cứu, phát triển, cung ứng các phương tiện

và hình thức TTKDTM mới
3.7 Hoàn thiện và đồng bộ hóa môi trường pháp lý cho hoạt động TTKDTM
4. Kết luận
NỘI DUNG
Chương I: Khái quát chung về thanh toán không dùng tiền mặt
1.1 Khái niệm: thanh toán không dùng tiền mặt là phương thức trả thực hiện bằng cách
tính một số tiền từ tài khoản người chi chuyển sang tài khoản người hưởng thụ. Các tài
khoản này điều được mở tại ngân hàng. TTKDTM là nghiệp vụ trung gian của ngân
hàng. Ngân hàng chỉ thanh toán khi có lệnh của chủ tài khoản, bao gồm các tổ chức kinh
tế, đơn vị cá nhân đăng ký tài khoản tại ngân hàng.
Tiền tệ là một phạm trù kinh tế khách quan, tiền tệ ra đời và phát triẻn gắn liền với sự ra
đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa.
1.1.1Nguồn gốc của tiền tệ
Để tìm hiểu về nguồn gốc của tiền tệ ta hãy xem qua các hình thái phát triển của
các hình thái biểu hiện của giá trị
Hình thái thứ nhất: hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:
- Trong hình thái này giá trị (tương đối) của mọt vật được biẻu hiện ở giá trị của
một vật được biểu hiện ở giá trị của mọt vạt khác duy nhất đống vai trò vật
ngang giá “đơn nhất” với ba đặc điểm:
+ Giá trị sủ dụng trở thành hình thái biểu hiện của giá trị
+ Lao động tư nhân trở thành lao động xã hội trưc tiếp
+ Lao động cụ thể trở thành hình thái biểu hiện của lao động trừu tượng
Hình thái thứ hai: hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng
- Những vật ngang giá đặc thù tồn tại song song vói nhau và đều có quyền lực
như nhua trong vai trò vật ngang giá.
Hình thái thứ ba: hình thái giá trị chung:
- Giá trị chung của hàng hóa thể hiện giá trị của chúng ở một hàng hóa đóng vai
trò vật ngang giá chung.
Hình thái thứ tư: hình thái giá trị tiền tệ:
- Khi nền văn hóa phát trỉên, lực lượng sản xuất phát trỉên, thị trường mở rộng

thì xuất hiện nhiều vật ngang giá chung gây khó khăn cho việc lưu thông hàng
hoá . Vật ngang giá chung bằng kim loại thay thế dần vật ngang giá khác. Sau
đó bạc, chiếm ưu thế tuyệt đối. Cuối cùng cố định ở vàng. Với tư cách là vật
ngang giá chung đã trở thành tiền tệ.
Vàng trở thành vật ngang giá chung cố định
1.1.2 Bản chất tiền tệ
Tiền là một hàng hoá đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các
loại hàng hoá. Làm phương tiện để trao đổi hàng hoá dịch vụ và thanh toán các
khoản nợ.
1.2 Chức năng của tiền tệ
1.2.1 Thước đo giá trị.
- Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá.
- Muốn đo lường giá trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì
vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá
trị hàng hoá không cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng
vàng nào đó một cách tưởng tượng.
- Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng
hoá
trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao
động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó.
- Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá. Do đó, giá
cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng
hoá.
- Giá cả hàng hoá do các yếu tố sau đây quyết định:
+ Giá trị hàng hoá.
+ Giá trị của tiền.
+ Ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu hàng hoá.
- Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo
lường. Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng
nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ. Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có

tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn
giá cả. Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác
dụng của nó khi dùng làm thước đo giá trị.
- Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu
chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của
hàng hoá tiền tệ thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao động cần thiết để
sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh
hưởng gì đến "chức năng" tiêu chuẩn giá cả của nó, mặc dù giá trị của vàng
thay đổi như thế nào.
Ví dụ: Một USD vẫn bằng 10 xen.
1.2.2 Phương tiện lưu thông:
- Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá
trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông hàng hoá ta phải
có tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông
hàng hoá.
- Công thức lưu thông hàng hoá là: H- T - H, khi tiền làm môi giới
trong trao đổi hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể
tách rời nhau cả về thời gian và không gian. Sự không nhất trí giữa
mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng kinh tế.
- Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi,
bạc nén. Dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu
thông, tiền đúc bị hao mòn dần và mất một phần giá trị của nó. Nhưng
nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ giá trị.
- Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ
có tình trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò
chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà
mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có
đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm
bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc
ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến

sự ra đời của tiền giấy.
- Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị và
được công nhận trong phạm vi quốc gia.
1.2.3 Phương tiện lưu trữ giá trị:
- Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông
đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là
đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền
là một hình thức cất trữ của cải.
- Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị,
tức là tiền vàng, bạc.
- Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một
cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản
xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào
lưu thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại ít
thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
1.2.4 Phương tiện thanh toán:
- Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp
thuế, trả tiền mua chịu hàng Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá
phát triển đến trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán
chịu.
- Trong hình thức giao dịch này trước tiên tiền làm chức năng
thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng vì là mua bán
chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm
phương tiện thanh toán.
- Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả
năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng
tiền mặt.
- Mặt khác, trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ,
người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ
phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó

không thanh toán được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá
vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.
1.2.5 Tiền tệ thế giới:
- Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm
chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ
giá trị, phải trở lại hình thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức
năng này, vàng được dùng làm phương tiện mua bán hàng,
phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung
của xã hội.
1.3 Vai trò của tiền tệ
1.3.1 Công cụ thực hiện yêu cầu hạch toán kinh tế
- C.Mác đã chỉ ra rằng, người ta khổng thể tiến hàng sản xuất
hàng hóa nếu như không có tiền và sự vận động của nó. Khi
tiền tệ tham gia trong chức năng thước đo giá trị và phương tiện
lưu thông là cho việc đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa
trở nên giản đơn, thuận lợi và thống nhất, làm cho sự vận động
của hàng hóa trong lưu thông tiến hành một cách trôi chảy. Mặt
khác, khi sử dụng tiền trong sản xuất kinh doanh giúp cho
người sản xuất có thể hạch toán được chi phí và xác định kết
quả sản xuất kinh doanh, thực hiện được tích lũy tiền tệ để thực
hiện tái sản xuất kinh doanh. Tiền tệ trở thành công cụ duy nhất
và không thể thiêu để thực hiện yêu cầu quy luật giá trị. Vì vậy,
nó là công cụ không thể thiếu được để mở rộng và phát triển
nền kinh tế hàng hóa.
1.3.2 Công cụ quản lý vĩ mô:
- Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển chuyển
sang nền kinh tế thị trường thì tiền tệ không những là phương
tiện thực hiện các quan hệ kinh tế xã hội trong phạm vi quốc gia
mà còn là phương tiện quan trọng để thực hiện và mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế. Cùng với ngoại thương, các quan hệ

thanh toán và tín dụng quốc tế, tiền tệ phát huy vai trò của mình
để trở thành phương tiện cho việc thực hiện và mở rộng các
quan hệ quốc tế, nhất là đối với các mối quan hệ nhiều mặt giữa
các quốc gia trên thế giới hình thành và phát triển làm cho xu
thế hội nhập trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, tài chính, tiền tệ
ngân hàng, hợp tác khoa học kỹ thuật giữa các nước.
1.3.3 Công cụ thể hiện chủ quyền quốc gia:
- Tiền tệ là một công cụ để phục vụ cho mục đích của người sử
dụng chúng.Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển
cao thì hầu hết các mối quan hệ kinh tế - xã hội đều được tiền tệ
hóa, mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan…đều không thể thoát ly
khỏi các quan hệ tiền tệ. Trong điều kiện tiền tệ trở thành công
cụ có quyền lực vạn năng xử lý và giải tỏa mối ràng buộc phát
sinh trong nền kinh tế xã hội không những trong phạm vi quốc
gia mà còn phạm vi quốc tế. Chính vì vậy mà tiền tệ có thể thỏa
mãn mọi mục đích và quyền lợi cho những ai đang nắm giữ tiền
tệ. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ thì thế
lực của đồng tiền vẫn còn phát huy sức mạnh của nó.
1.4 Thể thức thanh toán không dùng tiền mặt
1.4.1 Các thẻ thanh toán
- Thẻ thanh toán cho bạn phương thức thanh toán an toàn và tiện
lợi thay thế tiền mặt và chi phiếu. Cơ bản thì thẻ thanh toán,
như là thẻ tín dụng, đều hoạt động trên nguyên tắc “hôm nay
mua, sau này thanh toán”. Những phương thức thanh toán bằng
thẻ khác bao gồm thẻ ghi nợ và thẻ của Cửa hàng/ thẻ Trả
trước.
a) Thẻ ghi nợ
- Thẻ ghi nợ là thẻ thanh toán cung cấp cho bạn phương thức
thanh toán tiện lợi và an toàn thay thế tiền mặt và séc. Số tiền
mua được trừ từ tài khoản ngân hàng của chủ thẻ vào thời điểm

mua sắm, nên không có lãi suất và chi phí phát sinh. Trong hầu
hết các trường hợp thì cá nhân không cần có lịch sử tín dùng để
lập thẻ ghi nợ. Thay vào đó, người chủ thẻ không thể sử dụng
nhiều hơn số tiền có trong tài khoản. Thẻ ghi nợ cũng tương tự
như thẻ ATM, cho phép bạn truy cập các giao dịch đến tài
khoản thanh toán và tài khoản ghi nợ thông qua máy ATM.
- Quyền lợi của chủ thẻ:
• Dễ dàng và an toàn hơn khi mang theo nhiều tiền mặt.
• Được chấp nhận trên toàn thế giới.
• Có thể sử dụng tại máy ATM để rút tiền mặt, thanh toán,
hay lấy các thông tin tài khoản.
• Thông thường không có chi phí tài chính (trừ khi tiêu xài
vượt quá số tiền có trong tài khoản).
• Cho phép theo dõi các khoản chi trả - mua sắm trên bảo
sao kê tài khoản hằng tháng.
• Thanh toán tự động cho những chi phí hàng tháng như
chi phí thành viên.
- Quản lý tiền với thẻ Ghi Nợ
Sử dụng thẻ ghi nợ là phương thức hiệu quả với chủ thẻ để quản lý tài khoản
hiệu quả. Mỗi giao dịch ATM và giao dịch mua sắm đều xuất hiện trên sao
kê hàng tháng. Chủ thẻ nên:
• Cẩn thận trước những khoản chi trả và rút tiền hoặc các chi phí đối
với thẻ ghi nợ.
• Kiểm tra số dư thường xuyên với các bản sao kê hàng tháng, bảo đảm
mỗi giao dịch là chính xác.
b) Thẻ của cửa hàng phát hành/ Thẻ trả trước
- Thẻ do cửa hàng phát hành hoặc thẻ trả trước cũng như một thẻ tín dụng
truyền thống, nhưng lại hoạt động như một thẻ ghi nợ. Không có phí tài
chính hay lãi suất nào khi việc mua sắm được trừ từ số tiền bạn nạp vào thẻ.
Kết hợp với việc thanh toàn bảo đảm và khả năng rút tiền từ máy ATM, thẻ

trả trước là một lựa chọn tốt cho nhiều khách hàng.
- Khái niệm thẻ trả trước thật sự rất đơn giản. Bạn mở một tài khoản và “nạp
tiền” vào thẻ, tương tự như thẻ gọi điện thoại trả trước. Chiếc thẻ này, ví dụ
như thẻ MasterCard trả trước – có thể được sử dụng mọi nơi thẻ MasterCard
được chấp nhận, bao gồm giao dịch trên mạng và các cửa hàng.
- Một khi tài khoản được sử dụng hết để chi trả hoặc rút ra tại máy ATM, thẻ
phải được nạp tiền thêm bằng tiền mặt hay chuyển khoản. Theo cách này
bạn có thể tránh sử dụng nhiều hơn số tiền mà bạn có.
- Quyền lợi của chủ thẻ
• Không có lãi suất. Khi bạn sử dụng thẻ trả trước, bạn chẳng vay tiền
của ai cả. Bạn đang sử dụng chính số tiền của mình.
• Thẻ trả trước không có khả năng gây nợ hoặc các vấn đề tín dụng vì
bạn không vay tiền.
• Sử dụng được ở bất kỳ nơi đâu.
1.4.2 Tiền mặt điện tử:
- Tiền điện tử (e-money hay còn được gọi là digital cash) là
một hệ thống cho phép ngườisử dụng cho có thể thanh toán
khi mua hàng hoặc sử dụng các dịch vụ nhờ truyền đi các con
sốtừ máy tính này tới máy tính khác. Giống như serial trên
tiền giấy, số serial của tiền điện tử làduy nhất. Mỗi "tờ" tiền
điện tử được phát hành bởi một ngân hàng và được biểu diễn
cho mộtlượng tiền thật nào đó. Tính chất đặc trưng của tiền điện tử
cũng giống như tiền giấy thật, nó vô danh và có thể sử dụng lại. Tức
là, người mua hàng sẽ trả một số tiền nào đó cho người bán hàngvà
không sẽ có bất cứ phương thức nào để lấy thông tin về người mua
hàng. Đó cũng là một đặc điểm khác biệt giữa tiền điện tử và hệ thống
thanh toán thẻ tín dụng.
- Tiền điện tử là tiền đã được số hóa, tức là tiền ở dạng những bit số.
Tiền điện tử chỉ được sử dụng trong môi trường điện tử phục
vụ cho những thanh toán điện tử thông qua hệ

thốngthông tin bao gồm hệ thống mạng máy tính, internet và được
lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của tổchức phát hành (bên thứ 3) và
được biểu hiện dưới dạng bút tệ trên tài khoản mà khách
hàng(người mua) mở tại tổ chức phát hành
- Tiền điện tử là một hệ thống cho phép người sử dụng có thể mua bán
hàng hóa trực tuyến.
- Tiền điện tử thường do một bên thứ 3 như Compaq milicnet hoặc
digital cash phát hành và đươc lưu tại ví tiền điện tử trên máy tính
người sử dụng . Tiền điện tử được sử dụng để mua hàng trên mạng khi
người dùng không muốn gửi các thông tin về thẻ thanh toán qua
internet. Cụ thể hơn tiền điện tử là phương tiện của thanh toán điện tử
được bảo mật bằng chữ ký điện tử, và cũng như tiền giấy nó có
chức năng là phương tiện trao đổi và tích lũy giá trị. Nếunhư
giá trị của tiền giấy được đảm bảo bởi chính phủ phát hành thì
đối với tiền điện tử, giá trịcủa nó được tổ chức phát hành đảm
bảo bằng việc cam kết sẽ chuyển đổi tiền điện tử sang tiềngiấy
theo yêu cầu của người sở hữu.Tiền điện tử là một hệ thống thu
mua của các khoản tín dụng tiền mặt trong tương đốinhỏ số
tiền, lưu trữ các khoản tín dụng trong máy tính của bạn, và sau đó chi
tiêu cho họ khi thựchiện mua hàng điện tử trên Internet. Về lý
thuyết, tiền điện tử có thể được chi tiêu trong mộtlượng rất
nhỏ, chẳng hạn như 1/10 một xu (Mỹ) hoặc ít hơn. Hầu hết
các thương gia chấp nhậnsố tiền mặt cho đến nay, tuy nhiên, sử
dụng nó như là một cách thay thế cho các hình thức thanhtoán cho
một số cao hơn mức giá mua hàng. Có một số phương pháp tiếp cận
đến thương mại kỹthuật số tiền trên Web Trong số này có eCash từ
DigiCash và Cybercash.
- Hầu hết các hệ thống tiền điện tử bắt đầu bằng một ngân hàng tham
gia là vấn đề tiền mặthoặc các số điện thoại duy nhất định danh
là mang theo một giá trị, chẳng hạn như la năm đôla. Để có

được một giấy chứng nhận, bạn phải có một tài khoản tại ngân hàng.
Khi bạn mua hàng, số tiền được rút từ tài khoản của bạn. Bạn
chuyển giao chứng chỉ cho các nhà cung cấp để trảcho một
sản phẩm hoặc dịch vụ, và các nhà cung cấp tiền cho số tiền
mặt trong ngân hàng vàocác nhà cung cấp khác. Để mua hàng
lớn, các nhà cung cấp có thể kiểm tra tính hợp lệ của một số
tiền mặt bằng cách liên hệ với các ngân hàng phát hành.
1.4.3 Séc điện tử
- Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập mẫu do ngân hàng nhà
nước qui định, yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ tài khoản
tiền gửi thanh toán của mình để trả cho người hưởng thụ có tên ghi
trên séc hay người cần séc.
- Séc có thể được chuyển nhượng tức là người hưởng thụ có tên trong
séc có thể chuyển nhượng cho người khác thụ hưởng số tiền ghi trong
séc trong phạm vi thời gian hiệu lực của séc, trừ trường hợp trên séc
ghi cụm từ “ không được phép chuyển nhượng”. séc được dùng để
thanh toán chuyển khoản hoặc rút tiền mặt tại đơn vị ngân hang của
người phát hành séc.
- Ngân hàng có trách nhiệm thanh toán kịp thời cho người thụ hưởng,
nếu chậm trễ do lỗi của ngân hàng thì ngân hàng sẽ bị phạt.
số tiền phạt = số tiền thanh toán * số ngày chậm thanh toán* lãi
xuất nợ quá thời hạn của lãi xuất tiền cho vay ngắn hạn
1.4.4 Ủy nhiệm thu:
- Ủy nhiệm thu la ngân hàng của bên bán hàng sẽ tiến hành thu tiền của ngân
hàng bên mua hàng. Các bước tiến hành như sau:
1. Bên bán lập UNT gủi cho NH của mình.
2. NH gửi bộ UNT và lệnh thanh toán sang cho NH của bên mua 3. NH
bên mua xác nhận, báo nợ cho bên mua rồi thanh toán.
1.4.5 Ủy nhiệm chi:
- Nhiệm chi (hoặc lệnh chi) là phương tiện thanh toán mà người trả tiền lập

lệnh thanh toán theo mẫu do Ngân hàng quy định, gửi cho ngân hàng nơi
mình mở tài khoản yêu cầu trích một số tiền nhất định trên tài khoản của
mình để trả cho người thụ hưởng
- Ủy nhiệm chi phải do khách hàng lập, ký và chỉ căn cứ vào lệnh đó để trích
tiền từ tài khoản khách hàng chuyển trả cho đơn vị thụ hưởng. Việc Ngân
hàng tự động trích tài khoản của khách hàng là không được phép trừ trường
hợp đã có thỏa thuận trước bằng văn bản.
- Ủy nhiệm chi không có nghĩa là ủy nhiệm cho ngân hàng chi hộ , ủy nhiệm
chi phải do khách hàng lập, ký và NH chỉ căn cứ vào lệnh đó để trích tiền từ
tài khoản khách hàng chuyển trả cho đơn vị thụ hưởng. Việc NH tự động
trích tài khoản của KH là không được phép trừ trường hợp đã có thỏa thuận
trước bằng văn bản.
1.4.6 Thanh toán bằng chứng từ điện tử
- Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành quyết định cho phép ngân hàng và các tổ
chức dịch vụ thanh toán được sử dụng chứng từ điện tử để hạch toán và
thanh toán vốn. Chữ ký trên chứng từ này cũng là chữ ký điện tử, được xác
lập riêng cho từng cá nhân và có giá trị như chữ ký tay trên chứng từ giấy
thông thường.
- Quyết định nêu rõ, chứng từ điện tử là chứng từ kế toán mà toàn bộ các yếu
tố của chứng từ được thể hiện dưới dạng dữ liệu điện tử đã được mã hóa và
được truyền qua mạng máy tính. Theo đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
chịu trách nhiệm quy định về tiêu chuẩn, quy cách mẫu biểu, chỉ tiêu phản
ánh, cấu trúc dữ liệu của chứng từ điện tử, về việc lập, cấp phát, quản lý các
mật mã trong thanh toán điện tử giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán.
- Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán sử dụng chứng từ điện tử có trách
nhiệm bảo mật và bảo toàn dữ liệu thông tin về chứng từ điện tử trong quá
trình sử dụng và lưu trữ. Đồng thời, phải quản lý, kiểm tra chặt chẽ để ngăn
ngừa và chống các hình thức lợi dụng để khai thác, xâm nhập, sao chép,
đánh cắp hoặc sử dụng chứng từ điện tử vào việc trái với quy định về bảo

mật, cung cấp số liệu của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
1.4.7 Thanh toán bằng thư tín dụng
- Ngân hàng phát hành phát hành một L/C yêu cầu thanh toán cho người thụ
hưởng một số tiền nhất định khi người thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ
theo quy định của L/C chứng minh người thụ hưởng hoàn thành nghĩa vụ
cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định được
quy định trong L/C. Khi đó, sau khi người thụ hưởng hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng hóa hoặc dịch vụ, lập bộ chứng từ, xuất trình bộ chứng từ cho
ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng chỉ định trong khoảng thời gian quy
định của tín dụng thư, để được thanh toán
- Bộ chứng từ đó phải thỏa mãn những điều kiện sau đây:
• Bộ chứng từ phải đầy đủ về mặt chủng loại và số lượng, thể hiện nội
dung phù hợp với các yêu cầu của L/C, bản thân các chứng từ không
mâu thuẫn nhau về mặt nội dung. Ví dụ như thư tín dụng yêu cầu
xuất trình bao nhiêu loại chứng từ, mỗi loại bao nhiêu bản gốc, bao
nhiêu bản sao, ngày phát hành trong khoảng thời gian nào, nội dung
thể hiện ra sao…, thì bộ chứng từ do người thụ hưởng xuất trình phải
đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đó.
• Bộ chứng từ phải phù hợp với UCP (xem phần UCP) được dẫn chiếu
trong L/C.
• Bộ chứng từ phải phù hợp với ISBP (xem phần ISBP).
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG
2.1 Tình hình thanh toán tiền điện tử trên thế giới
- Thanh toán điện tử (hay còn gọi là thanh toán trực tuyến) là
một mô hình giao dịch không dùng tiền mặt đã phổ biến trên
thế giới. Có rất nhiều hình thức thanh toán điện tử như: thông
qua thẻ ATM, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, ví điện tử Payoo,
payment gateway, thanh toán qua điện thoại vv…
- Thông qua thanh toán điện tử người dùng sẽ không sử dụng
tiền mặt để thanh toán chi trả các hoạt động giao dịch mua bán

của mình mà thay vào đó là sử dụng các loại thẻ tín dụng, các
thẻ này đã được chứng thực và được sự bảo đảm của các Ngân
hàng. Điều này rất an toàn và tiện dụng, có tính bảo mật cao.
- Thanh toán điện tử trong việc mua bán, giao dịch hàng trực
tuyến có nhiều hình thức khác nhau và đặc điểm cơ bản của
hình thức này là người mua không nhất thiết phải gặp trực tiếp
người bán để thanh toán; không bị giới hạn bởi không gian, địa
lý, bất cứ nơi đâu bạn cũng có thể mua được hàng.
- Hiện nay có 3 hình thức thanh toán phổ biến nhất là: thẻ tín
dụng, định danh hay ID hóa số và xe mua hàng điện tử nhưng
phổ biến nhất là thanh toán thông qua thẻ tín dụng. Đây là một
hình thức thanh toán phổ biến và tương đối rộng rãi trên thế
giới.
2.2 Quá trình phát triển của thanh toán không dùng tiền mặt ở VN
- Trong những năm gần đây, đặc biệt kể từ khi Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) giai đoạn 2006-
2010 và định hướng đến năm 2020, hoạt động TTKDTM ở Việt Nam đã có
bước phát triển khá mạnh về cơ sở hạ tầng, hành lang pháp lý, mô hình tổ
chức, các phương tiện và dịch vụ thanh toán.
- Với sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, cùng với việc mở rộng nhanh quy
mô hoạt động và tăng cường đầu tư công nghệ của hệ thống ngân hàng, nhận
thức và thói quen của xã hội về hoạt động TTKDTM trong nền kinh tế đã có
chuyển biến rõ rệt, tạo những điều kiện tiền đề thuận lợi để đẩy mạnh lĩnh
vực này trong thời gian tới, phù hợp với những yêu cầu hiện nay về tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước
- Cơ sở hạ tầng và công nghệ thanh toán không dùng tiền mặt được chú trọng
đầu tư và phát huy hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước đã thiết lập được hệ thống
thanh toán điện tử liên ngân hàng, kết nối 63 chi nhánh tỉnh, thành phố với
hiệu năng xử lý và quy trình nghiệp vụ thanh toán hiện đại theo thông lệ
quốc tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán với dung lượng ngày càng cao của nền

kinh tế. Hệ thống ngân hàng thương mại đã có sự phát triển cả về quy mô và
mạng lưới hoạt động; hầu hết các ngân hàng thương mại đã thiết lập được hệ
thống ngân hàng lõi (Core Banking), hệ thống thanh toán nội bộ với kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến, cho phép các ngân hàng thương mại cung ứng các
dịch vụ, phương tiện thanh toán hiện đại. Trên địa bàn cả nước, số lượng
máy rút tiền tự động (ATM) và các thiết bị chấp nhận thẻ (POS) có tốc độ
tăng trưởng nhanh (tính đến nay đã có trên 10.000 ATM, hơn 36.000 POS
được lắp đặt và 22 triệu thẻ ngân hàng được phát hành); đồng thời, đã hình
thành một số công ty chuyển mạch của các liên minh thẻ, kết nối các giao
dịch thẻ giữa các ngân hàng thành viên như Banknetvn, Smartlink. Ngành
viễn thông, công nghệ thông tin cũng đã thiết lập được hệ thống hạ tầng kỹ
thuật với mạng lưới rộng khắp, sẵn sàng đáp ứng các điều kiện cần thiết để
triển khai các dịch vụ và phương tiện thanh toán mới trên phạm vi toàn
quốc.
- Hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt đã từng
bước được xác lập để đáp ứng yêu cầu của thực tế. Dựa trên Luật Ngân hàng
Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật giao dịch điện tử, các Nghị định
của Chính phủ điều chỉnh về hoạt động thanh toán, các Nghị định về giao
dịch điện tử trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thương mại và những văn
bản pháp lý đã được ban hành để hướng dẫn và điều chỉnh các hoạt động
thanh toán, giúp cho việc quản lý, vận hành, giám sát hoạt động thanh toán
đáp ứng yêu cầu thanh toán của nền kinh tế.
- Một số phương tiện và dịch vụ thanh toán mới, tiện lợi và tiện ích dựa trên
nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin như: Thẻ ngân hàng, Mobile
Banking, Internet Banking, Ví điện tử, đã xuất hiện và đang đi dần vào cuộc
sống, phù hợp với xu thế thanh toán của các nước trong khu vực và trên thế
giới. Các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng chuyên cung cấp các giải
pháp trung gian, hỗ trợ dịch vụ thanh toán như MobiVi, VietUnion,
M_Service, đã được hình thành và sự liên kết giữa các tổ chức này với ngân
hàng, công ty viễn thông đang ngày càng phát triển.

- Nhận thức, thói quen của các tổ chức, doanh nghiệp và một bộ phận người
dân trong xã hội về TTKDTM đã có sự thay đổi tích cực; các giao dịch
thanh toán giữa các doanh nghiệp, giữa các tổ chức kinh tế đã được thực
hiện chủ yếu qua ngân hàng.
2.2.1 thời kì ngân hàng hoạt động theo cơ cấu tập trung
2.2.2 thời kì ngân hang họat động theo cơ cấu thị trừơng
2.3 Lợi ích của thanh toán không dùng tiền mặt
- Trên thực tế, việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt lại thực sự
mang đến nhiều lợi ích cho mỗi quốc gia: thu hút nhiều hơn các khoản
tiền nhàn rỗi trong xã hội; tăng nguồn vốn cho đầu tư, mở rộng sản
xuất (do lượng tiền mặt trong lưu thông càng ít càng làm tăng hệ số
tạo tiền); tăng khả năng kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế
của NHTW, góp phần thúc đẩy hiệu quả điều hành CSTT quốc gia; hỗ
trợ các cơ quan chức năng tăng cường hiệu quả công tác phòng chống
tham nhũng, tội phạm kinh tế qua đó đóng góp ý nghĩa quan trọng về
mặt chính trị, nâng cao lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.
Đặc biệt, đối với những quốc gia có hệ thống ngân hàng chưa phát
triển mạnh như Việt Nam hiện nay, việc thúc đẩy thanh toán không
dùng tiền mặt còn góp phần tái cấu trúc hoạt động ngân hàng một cách
thiết thực và hiệu quả thông qua việc đa dạng hóa các dịch vụ ngân
hàng, đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng. Ngoài ra, việc không sử dụng tiền mặt trong
lưu thông là một trong những thước đo quan trọng của việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong các dịch vụ ngân hàng thương mại, bởi để
thực hiện được các giao dịch điện tử đều phải thông qua hệ thống
thanh toán điện tử ở từng ngân hàng.
2.4 Những vấn đề tồn tại
- Hạ tầng cơ sở kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh toán phát triển
chưa đồng bộ, mới tập trung ở các thành phố, đô thị, chưa trang bị đến
các vùng nông thôn, miền núi; hệ thống ATM vẫn chủ yếu là để rút

tiền mặt, việc chuyển khoản chỉ được thực hiện chủ yếu trong nội bộ
từng ngân hàng; hệ thống POS chưa phát triển và thiếu hệ thống
chuyển mạch POS, do đó, lượng sử dụng tiền mặt chưa giảm.
- Trong giao dịch thanh toán giữa các doanh nghiệp, cũng còn một bộ
phận sử dụng tiền mặt, nhất là trong khu vực các doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Trong khu vực này, việc rút, sử dụng và trả nợ của người vay
bằng tiền mặt còn khá lớn. Đối với các hợp tác xã, các hộ sản xuất
kinh doanh cá thể, chủ trang trại, tỷ trọng sử dụng tiền mặt còn lớn
hơn.
- Các giao dịch thanh toán trong khu vực dân cư phần lớn vẫn sử dụng
tiền mặt. Ngay cả ở thành thị, nơi có điều kiện thuận lợi cho phát triển
TTKDTM như tại các siêu thị, trung tâm mua sắm, giải trí, khách sạn,
nhà hàng, khu du lịch, việc sử dụng tiền mặt vẫn còn phổ biến. Các hộ
gia đình vẫn trả tiền điện, nước, điện thoại, cước phí internet, truyền
hình cáp, phần lớn bằng tiền mặt. Còn ở khu vực nông thôn thì điều
kiện khó khăn, trở ngại hơn nhiều, do đó TTKDTM còn kém phát
triển, đại bộ phận người dân chưa có điều kiện tiếp cận với các dịch
vụ và tiện ích thanh toán hiện đại.
- Ở Việt Nam, tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán trong
vòng 10 năm qua mặc dù đã giảm mạnh từ mức 23,7% năm 2001
xuống còn 14,02% năm 2010 nhưng vẫn còn ở mức cao so với thế
giới khi mà tỷ lệ này ở các nước tiên tiến như Thụy Điển và Na Uy chỉ
khoảng 1%, còn Trung Quốc ở mức 10%. Rõ ràng, tiền mặt vẫn là
phương thức thanh toán chủ yếu ở Việt Nam, chiếm tỷ trọng lớn trong
khu vực công, doanh nghiệp và dân cư. Có nhiều nguyên nhân lý giải
cho tình trạng phổ biến thanh toán bằng tiền mặt, theo đó, nguyên
nhân chính là do thói quen sử dụng tiền mặt của người dân, tâm lý
ngại trải nghiệm công nghệ mới, khiến nhiều người cảm thấy không
thoải mái khi sử dụng các dịch vụ thanh toán điện tử. Ngoài ra, hạn
chế về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của nhiều NHTM cũng là

điểm hạn chế việc phát triển và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ
ngân hàng điện tử tới người tiêu dùng. Thêm vào đó, hệ thống thuế
chưa thật sự phát triển khiến cho nhiều cá nhân doanh nghiệp có thể
“lách luật”, vẫn ưa thích sử dụng hình thức thanh toán bằng tiền mặt,
như một lợi ích cá nhân, hơn là việc sử dụng thanh toán qua ngân
hàng (chuyển khoản, ủy nhiệm chi), nhằm trốn việc kiểm soát thuế từ
phía các cơ quan chức năng. Ý thức được tầm quan trọng của việc
phát triển và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt, Chính phủ đã
đề xuất nhiều giải pháp nhằm hạn chế việc sử dụng tiền mặt trong
thanh toán, mà cụ thể là việc phê duyệt Đề án TTKDTM giai đoạn
2006-2010 và định hướng đến năm 2020 theo Quyết định số
291/2006/QĐ-TTg ngày 29/12/2006. Theo đó, mục tiêu tổng quát của
Đề án này là nhằm đa dạng hóa dịch vụ thanh toán, phát triển cơ sở hạ
tầng thanh toán, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thanh toán điện tử,
chú trọng phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực
nông thôn để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thanh toán của nền kinh tế,
giảm chi phí xã hội liên quan đến tiền mặt, tạo sử chuyển biến rõ rệt
về tập quán thanh toán trong xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống ngân hàng và hiệu quả quản lý nhà nước. Mục tiêu
cụ thể là phấn đấu đến cuối năm 2015, tỷ lệ tiền mặt trong tổng
phương tiện thanh toán ở mức thấp hơn 11%, nâng số người dân được
tiếp cận các dịch vụ thanh toán cũng như tỷ lệ người dân có tài khoản
tại ngân hàng lên mức 35-40% dân số.
NGUYÊN NHÂN:
- Các cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy TTKDTM chưa thật đồng bộ, chưa
khuyến khích các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đầu tư mạnh và đồng
bộ cho cơ sở hạ tầng; sự phối kết hợp giữa những biện pháp hành chính và
biện pháp kích thích kinh tế chưa đồng bộ, chưa đủ mạnh để đưa chủ trương
thật sự đi vào cuộc sống.
- Sự tham gia phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan chưa chặt chẽ,

chưa đồng bộ, chưa tạo ra đủ các điều kiện, tiền đề cần thiết cho việc phát
triển TTKDTM.
- Công tác thông tin, tuyên truyền của các phương tiện thông tin đại chúng
chưa thật đồng bộ và kịp thời; việc phổ biến, hướng dẫn, quảng bá về công
dụng, tính tiện lợi và cách sử dụng các phương tiện TTKDTM của các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán chưa đầy đủ, kịp thời tới công chúng.
- Thói quen, tâm lý sử dụng tiền mặt của một bộ phận cơ quan, tổ chức và đại
bộ phận cá nhân còn phổ biến; ngoài ra còn một số yếu tố khác gây cản trở,
hạn chế sử dụng TTKDTM như: văn minh thương mại, tâm lý ngại tiếp cận
với công nghệ mới, ngại công khai hóa thu nhập, doanh thu, sử dụng tiền
mặt với những mục đích không minh bạch
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TỒN TẠI
- Tiếp tục và đẩy mạnh phát triển dịch vụ thanh toán thẻ; mở rộng phạm vi sử
dụng, đa dạng hóa tiện ích và nâng cao chất lượng dịch vụ thẻ. Trong thời
gian tới, thẻ ngân hàng không chỉ đơn thuần là một phương tiện dùng chủ
yếu để rút tiền mặt tại quầy giao dịch của ngân hàng hoặc tại các máy ATM
mà việc sử dụng với nhiều tiện ích thanh toán khác nhau trở thành phổ biến
và thường xuyên hơn như mua hàng hóa và dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận
thẻ, thanh toán đối với các khoản chi định kỳ hoặc thanh toán các dịch vụ
công cộng như phí cầu đường, mua xăng dầu, mua vé xe buýt, đi taxi Mỗi
ngân hàng phát hành phải nỗ lực nghiên cứu và đầu tư vào chương trình
khuyến khích phát triển dịch vụ thanh toán thẻ nhằm đáp ứng được mọi nhu
cầu cơ bản của người dân. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu và áp dụng có hiệu
quả thẻ chi tiêu công cho các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước nhằm giảm
thiểu tối đa sử dụng tiền mặt trong khu vực tài chính công.
- Áp dụng một số biện pháp đồng bộ để việc lắp đặt và sử dụng POS thực sự
đi vào cuộc sống, trở nên hấp dẫn và có lợi đối với cả người mua hàng và
người bán hàng, trên cơ sở đó để mở rộng dần phạm vi và đối tượng sử dụng
POS, cụ thể: (i) đẩy nhanh tiến độ kết nối các hệ thống POS cùng với quá
trình xây dựng Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất để tạo thuận lợi cho

khách hàng sử dụng thẻ khi thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ; (ii) thực
hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi, các biện pháp khuyến khích (khuyến
khích về thuế, phí) để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực
thương mại, dịch vụ lắp đặt và sử dụng thanh toán qua POS tại các trung
tâm thương mại, nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí, du lịch, ; kết
hợp với các biện pháp kích thích của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán, các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ (giảm phí, khuyến mãi,
tích điểm, quay xổ số ) để khuyến khích người tiêu dùng mua hàng hóa,
dịch vụ thanh toán qua POS, nhất là trong thời gian đầu nhằm tạo thói quen;
(iii) các cơ quan cấp phép kinh doanh, xếp hạng, đánh giá doanh nghiệp bổ
sung tiêu chí lắp đặt và sử dụng POS đối với các siêu thị, trung tâm thương
mại,
- Có biện pháp yêu cầu và giám sát các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
thường xuyên duy trì và không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ ATM,
tăng cường các biện pháp bảo đảm an toàn trong giao dịch thẻ, làm tốt công
tác chăm sóc, bảo vệ lợi ích của khách hàng, đồng thời có biện pháp hỗ trợ,
khuyến khích để tăng cường tăng cường lắp đặt ATM tại nơi có nhu cầu.
- Bên cạnh việc sử dụng thẻ ngân hàng, đẩy mạnh sử dụng các phương tiện
TTKDTM hiện đại khác như Internet Banking, Mobile Banking, ghi nợ trực
tiếp từ tài khoản, Ví điện tử, để thanh toán định kỳ, thường xuyên như:
điện, nước, điện thoại, internet, truyền hình cápđể giảm thiểu dần việc nhân
viên của các đơn vị cung ứng dịch vụ phải đến từng nhà thu tiền mặt.
- Trên cơ sở kết quả triển khai việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng
hưởng lương từ ngân sách nhà nước theo Chỉ thị 20/2007/CT-TTg, có các
biện pháp vận động, khuyến khích để cán bộ, công chức tăng cường sử dụng
các phương tiện TTKDTM thông qua tài khoản (thực hiện chuyển khoản
trực tiếp trên máy ATM, sử dụng thanh toán POS, sử dụng các dịch vụ thanh
toán hiện đại khác); mở rộng phạm vi thực hiện quy định về việc chi trả qua
tài khoản của tất cả các khoản chi từ ngân sách nhà nước cho cán bộ, công
chức.

- Khuyến khích các ngân hàng thương mại và cả các tổ chức khác cung cấp
dịch vụ hỗ trợ thanh toán nghiên cứu, phát triển, cung ứng các phương tiện
và hình thức TTKDTM mới, hiện đại dựa trên cơ sở hạ tầng công nghệ
thông tin viễn thông (điện thoại di động và internet) và áp dụng những kinh
nghiệm tốt của các nước đã triển khai nhằm thúc đẩy TTKDTM cả ở những
khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa và cả đối với những đối tượng chưa
có tài khoản ngân hàng.
- Hoàn thiện và đồng bộ hóa môi trường pháp lý cho hoạt động TTKDTM, kể
cả việc bổ sung, sửa đổi một số nội dung liên quan đến hoạt động thanh toán
trong hai Dự án Luật Ngân hàng Nhà nước và Dự án Luật Các tổ chức tín
dụng, đến việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản dưới luật liên quan
đến các hình thức thanh toán hiện đại như thanh toán thẻ, thanh toán trực
tuyến qua Internet, điện thoại di động,…; hoặc liên quan đến hoạt động của
các tổ chức công nghệ thông tin, các tổ chức chuyên môn hóa trong một số
loại hình hỗ trợ dịch vụ thanh toán. Khung pháp lý rõ ràng, minh bạch, bảo
đảm vai trò hợp lý của Ngân hàng Nhà nước trong việc đảm nhận vai trò
giám sát hiệu quả, cũng như bảo đảm cho thị trường một sự linh hoạt, năng
động cần thiết trong một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán cũng là một yếu tố quan trọng trong việc tăng
cường lòng tin của người sử dụng và giới doanhnghiệp vào các phương tiện,
dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt.
- Kết hợp các biện pháp hỗ trợ như tăng cường tuyên truyền, phổ biến kiến
thức về thanh toán thẻ, giao dịch ATM, POS, Ví điện tử và các hình thức
thanh toán mới cho người dân; tập trung ưu tiên cho việc tiếp tục đầu tư,
phát triển và hoàn thiện hạ tầng công nghệ thanh toán; tăng cường đào tạo
cán bộ trong lĩnh vực thanh toán và mở rộng hợp tác quốc tế để nhận được
những hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cần thiết.
Với các giải pháp trên, phương tiện thanh toán thẻ nói riêng và các phương tiện
TTKDTM mới, hiện đại khác nói chung sẽ có bước chuyển biến mạnh mẽ trong
thời gian tới, nhất là khi mà các ngân hàng thương mại ngày càng quan tâm chú

trọng tới khu vực dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Hoạt động TTKDTM được dự đoán là
sẽ đi sâu vào cải thiện chất lượng, các tiện ích, khả năng được chấp nhận và được
phục vụ sẵn sàng mọi lúc mọi nơi với tính bảo mật cao của các phương tiện
TTKDTM, theo đó giúp tăng thêm lòng tin của người sử dụng dịch vụ đối với loại
hình dịch vụ TTKDTM.
KẾT LUẬN:
- Với khoảng 20 triệu người sử dụng dịch vụ Internet, Việt Nam được coi là
thị trường tiềm năng để phát triển thương mại điện tử mà kéo theo đó là các
dịch vụ thanh toán trực tuyến. Muốn phát triển các dịch vụ này cần phải có
sự phối hợp nhịp nhàng và tích cực giữa các ngân hàng trong nước và các
công ty cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử, đảm bảo đồng thời lợi ích của
nền kinh tế, lợi ích của Nhà nước và của nhân dân. Bên cạnh việc thực hiện
3 nhiệm vụ chủ yếu bao gồm (i) Phát triển thanh toán điện tử với nhiều sản
phẩm, dịch vụ mới, đa dạng, an toàn, thuận tiện; (ii) Lựa chọn áp dụng một
số mô hình thanh toán phù hợp với Việt Nam để xây dựng nền tảng, tạp
bước phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở khu vực nông
thôn; (iii) Tăng cường quản lý thanh toán tiền mặt, giảm sử dụng tiền mặt
trong các giao dịch thanh toán; cần chú trọng triển khai thực hiện đồng bộ 5
nhóm giải pháp: Một là, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ khuôn khổ pháp lý và
cơ chế chính sách; Hai là, nâng cao chất lượng và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật; Ba là, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các dịch vụ thanh toán, ứng
dụng các phương tiện thanh toán mới, hiện đại; Bốn là, đẩy mạnh công tác
thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn trong toàn xã hội; Năm là, đẩy mạnh các
giải pháp hỗ trợ khác như đẩy mạnh hợp tác quốc tế để nhận được sự hỗ trợ,
tư vấn kỹ thuật, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan Bộ, ngành trong việc
triển khai các giải pháp, tăng cường nâng cao chất lượng cán bộ, đặc biệt là
cán bộ tham gia xây dựng chính sách, tăng cường kiểm tra, giám sát đối với
các hoạt động thanh toán trong nền kinh tế…
- Tuy nhiên, chỉ có nỗ lực từ phía các cơ quan quản lý là chưa đủ, việc mở
rộng thanh toán không dùng tiền mặt cũng như sự thành công của Đề án

đang triển khai phụ thuộc một phần rất lớn vào ý thức của từng người dân,
từng doanh nghiêp, trong việc hy sinh lợi ích riêng trước mắt của mình, để
hướng đến lợi ích chung xa hơn của toàn xã hội, góp phần giảm tỷ lệ tiền
mặt trong lưu thông và sử dụng nhiều hơn các dịch vụ thanh toán điện tử
trong hoạt động kinh doanh và sản xuất, sinh hoạt.

×