Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tham luận ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ, THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Môn Toán THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.14 KB, 8 trang )

Tham luận:
ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ, THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
Môn Toán THCS
I. NHẬN THỨC CHUNG:
Cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp
giảng dạy học thì vấn đề về đổi mới trong kiểm tra, đánh giá là khâu hết sức quan
trọng trong quá trình giảng dạy và học tập. Làm thế nào để kiểm tra, đánh giá
được đúng trình độ, năng lực của học sinh và chất lượng giảng dạy vào những
thời điểm cụ thể theo mục tiêu của chương trình môn học là một câu hỏi lớn dành
cho những người làm giáo dục. Hiện nay việc kiểm tra, đánh giá các môn học
trong nhà trường phổ thông nói chung và đối với bộ môn Giáo dục công dân nói
riêng đang gặp nhiều bất cập. Trước tình hình đó Bộ Giáo dục và đào tạo đã có
công văn chỉ đạo các Sở Giáo dục tiến hành hội thảo với chủ đề: “Đổi mới kiểm
tra, đánh giá thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học đối với các môn Ngữ văn,
Lịch sử, Địa lí, Tiếng Anh, Toán, Lý, Hoá, Sinh và Giáo dục công dân cấp THCS
và cấp THPT” với mục tiêu “Đổi mới mạnh mẽ cách thức kiểm tra, thi. Kiên
quyết giảm tình trạng kiểm tra, thi với yêu cầu học sinh phải học thuộc lòng
nhiều định nghĩa, tính chất, định lý; tăng cường các câu hỏi đòi hỏi học sinh
phải suy nghĩ, trả lời theo cách hiểu và vận dụng của riêng mình”. Như vậy, theo
ý kiến của chúng tôi để giải quyết vấn đề này thì cùng với việc đổi mới về
phương pháp giảng dạy phải có sự đổi mới thật sự ở khâu ra đề và đa dạng hóa
hình thức kiểm tra, đánh giá.
II. THỰC HIỆN ĐỔI MỚI PPDH VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ TRONG
GIẢNG DẠY BỘ MÔN NGỮ VĂN Ở NHÀ TRƯỜNG THCS VĂN NHO CÁC
NĂM GẦN ĐÂY:
Nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa và đặc biệt là bản chất việc đổi mới PPDH và kiểm
tra, đánh giá trong giảng dạy bộ môn Toán, BGH nhà trường đã chỉ đạo các giáo
viên Toán trong quá trình dạy học tập trung vào thực hiện theo các định hướng
sau:
A/ VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC


Nhà trường đã tổ chức chỉ đạo GVBM Toán thực hiện:
1/ Vận dụng các PPDH theo hướng phát huy các yếu tố tích cực và những ưu
điểm của các PPDH truyền thống và các PPDH hiện đại nhằm tăng cường tính
tích cực của học sinh trong học tập, từ đó GV tạo điều kiện tối ưu để học sinh suy
nghĩ, tìm tòi nhiều hơn, thực hành nghe, nói, đọc, viết nhiều hơn.
2/ Chú trọng vận dụng triệt để và hiệu quả các PPDH đặc thù của bộ môn :
- PPDH Toán: PP vấn đáp gợi tìm, học tập sáng tạo, luôn luôn đề cao tính thực
hành, tích cực trong học tập.
3/ Hướng dẫn học sinh rèn luyện phương pháp tự học và tính tích cực học tập
môn Toán: giúp HS biết sử dụng SGK, SBT, đồ dùng học tập và các tư liệu tham
khảo một cách có ý thức và hiệu quả…
4/ Vận dụng các hình thức tổ chức học tập kết hợp giữa học tập cá nhân với học
tập hợp tác; giữa hình thức học cá nhân với hình thức dạy theo nhóm tạo dựng
không khí học tập thích hợp để HS có thể tranh luận với nhau, với GV và tự
đánh giá kết quả học tập của bản thân, của bạn.
5/ Tăng cường sử dụng ĐDDH theo phương châm thiết thực nhất như: Bảng
phụ, máy chiếu, phiếu học tập….chống trình trạng dạy chay, đọc chép, nhìn chép.
6/ Không áp đặt, gò bó giờ học theo qui trình cứng nhắc. Cho phép GVBM chủ
động, sáng tạo trong thiết kế giờ dạy học trên cơ sở căn cứ vào mục tiêu cụ thể
của bài học. Cho phép GVBM chủ động về thời lượng mỗi tiết bài trên cơ sở thời
lượng của từng tuần miến sao phải đảm bảo mục tiêu bài học.
7/ Tăng cường cải tiến kiểm tra, đánh giá bằng nhiều hình thức theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng (sẽ trình bày ở phần B), coi đó là một biện pháp để kích thích học
tập môn Toán.
B/ VỀ ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
Nhà trường đã tổ chức chỉ đạo GVBM Toán thực hiện các yêu cầu:
1/ Đảm bảo tốt các nguyên tắc đổi mới kiểm tra là:
- Bám sát mục tiêu môn học.
- Đảm bảo tính vừa sức và phân hoá học sinh (HS trung bình chăm chỉ phải làm
được điểm TB trở lên)

- Đảm bảo tỷ lệ các mức độ kiến thức kỹ năng:ghi nhớ- nhận biết- thông hiểu-
vân dụng, sáng tạo.
- Coi trọng đánh giá toàn diện về các mặt: kiến thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm,
kết quả vận dụng các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh.
2/ GV phải xây dựng được ma trận trước khi xây dựng hệ thống câu hỏi đối
với đề kiểm tra 45 phút trở lên.
3/ Thực hiện cụ thể của nhà trường trong kiểm tra môn Toán như sau:
3.1/ Đối với kiểm tra vấn đáp (kiểm tra miệng):
- Không nhất thiết chỉ kiểm tra vấn đáp trong 10-15 phút đầu giờ và chỉ kiểm
tra kiến thức của bài vừa học (như ta quen gọi là kiểm tra bài cũ).
- Hình thức kiểm tra vấn đáp, giáo viên có thể sử dụng ở mọi thời điểm trong
tiết học Toán, cho mọi đối tượng học sinh với nhiều yêu cầu và mục đích khác
nhau: Nhắc lại kiến thức đã học để vận dụng cho bài đang học.
- Trong khi kiểm tra vấn đáp giáo viên có thể hỏi về kiến thức cũ hoặc những
kiến thức khác có liên quan đến bài mới đang học.
- Kiểm tra vấn đáp GV phải xác định rõ: nội dung, yêu cầu, mục đích hỏi, xác
định rõ từng đối tượng nhằm đến của mỗi câu hỏi, có loại yêu cầu thấp (tái hiện,
nhắc lại kiến thức đã học) cho học sinh yếu, TBình; có loại đòi hỏi yêu cầu cao
(thông hiểu, giải thích, phân tích, vận dụng) cho học sinh khá, giỏi.
- Trong việc kiểm tra vấn đáp, không chỉ chú trọng đến kiến thức, mà đòi hỏi
phải rèn luyện năng lực nói và kỹ năng trình bày lưu loát cho học sinh. Đặc biệt
phải chú trọng sửa cho học sinh những lỗi về: cách diễn đạt, vẽ hình…
- Cần tận dụng tối câu hỏi trong SGK, SGV và có thể xây dựng thêm các câu
hỏi khác cho phù hợp.
3.2/ Kiểm tra viết:
- Phải thông báo trước để học sinh chuẩn bị. Thời gian dành cho kiểm tra viết
có thể là: 10, 15, 20 phút hoặc lâu hơn là 45 phút. Có thể áp dụng các kiểu đề
kiểm tra sau đây:
*Kiểu đề là câu hỏi luận đề(tự luận)
- Nhất thiết GV phải đảm bảo:

+ Xác định mục đích và nội dung kiến thức kiểm tra.(làm rõ về yêu cầu thể
loại, kiến thức, kỹ năng, thái độ sẽ kiểm tra)
+ Xác định hình thức và thời gian kiểm tra.
+ Xây dựng đề kiểm tra cụ thể .
+ Lập biểu điểm, hướng dẫn thực hiện và cho điểm.
*Kiểu đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan
- Nhất thiết GV phải đảm bảo:
+ Đảm bảo một cách khoa học về số lượng câu hỏi, trên cơ sở thời gian dành cho
việc kiểm tra. Nhận thức rõ nếu càng nhiều câu hỏi trắc nghiệm thì độ tin cậy
trong đánh giá kết quả học tập của học sinh càng cao.
+ Đảm bảo về độ khó vừa phải để học sinh chăm chỉ học tập có thể đạt điểm khá
trở lên và có câu phân hoá để phân loại được học sinh khá, giỏi.
+ Khi soạn đề GV phải sử dụng phong phú các hình thức câu hỏi trắc nghiệm
thông dụng như: câu TN đúng - sai, câu TN nhiều lực chọn, câu TN đối chiếu cặp
đôi, câu TN điền khuyết, câu TN trả lời ngắn… Không được đơn thuần sử dụng 1
loại duy nhất.
*Đề kiểu kiểm tra kết hợp cả câu trắc nghiệm và câu tự luận:
- Nhất thiết GV phải đảm bảo:
+ Tỷ lệ điểm cho phần trắc nghiệm là 30 - 40% . Tỷ lệ điểm cho phần tự luận 60
- 70%.
+ Yêu cầu về các mặt cho hệ thống câu hỏi kiểm tra phải tuân thủ như đã đặt ra
cho mỗi kiểu đề bài tự luận và trắc nghiệm khách quan đã nêu trên.
4/ Xác định rõ từng kiểu đề, hình thức ra đề cho từng loại bài kiểm tra:
- Loại bài kiểm tra 10, 15 phút có thể áp dụng tất cả các kiểu đề, hình thức đề:
đề tự luận, đề kết hợp cả trắc nghiệm + tự luận; đề vấn đáp, đề viết . Chỉ yêu cầu
GV lựa chọn sao cho phù hợp với điều kiện của nhà trường, học sinh và yêu cầu,
mục đích đặt ra trong đánh giá học sinh.
Loại bài kiểm tra 45 phút: là hình thức đề viết với kiểu đề kết hợp cả trắc nghiệm
+ tự luận hoặc có thể chỉ tự luận.
- Căn cứ vào chuẩn kiến thức, mục tiêu môn toán THCS:

Đạt được những yêu cầu cụ thể về kiến thức và kĩ năng, thái độ và phương
pháp tư duy mang tính đặc thù của môn toán.
Tăng cường tính thực tế, tính sư phạm. Không đặt ra yêu cầu quá cao về lý
thuyết.
Giúp học sinh nâng cao khả năng suy luận hợp lý và hợp logic nâng cao
năng lực tư duy trừu tượng và hình thành cảm xúc thẩm mỹ, khả năng diễn đạt ý
tưởng qua diễn đạt môn toán.
5/ Khâu chấm, trả bài kiểm tra:
- Chấm bài GVBM bám sát thang điểm, để hạn chế tối đa yếu tố chủ quan, cảm
tính. Đặc biệt trong mỗi bài kiểm tra GV phải ghi rõ lời phê (lời nhận xét) về ưu
điểm, khuyết điểm và thái độ làm bài kiểm tra của mỗi học sinh.
- Trả bài và sửa bài theo đúng qui định, qui chế.
- Bài kiểm tra phải được lưu giữ thường xuyên ở cả học sinh lẫn giáo viên (giáo
viên lưu ở mỗi mức độ 1 bài/ lớp)
III/ NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC
HIỆN ĐỔI MỚI PPDH VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ TẠI NHÀ TRƯỜNG
1/ Những thuận lợi:
1.1/ CBGV đã được tập huấn khá kỹ lưỡng về đổi mới PPDH và KTĐG trước
khi thực hiện.
1.2/ Các tài liệu hướng dẫn, các tài liệu mẫu được trang bị tương đối đầy đủ.
1.3/ Chỉ đạo của BGH, chuyên môn nhà trường luôn sát sao và chặt chẽ về công
tác đổi mới PPDH, thường xuyên tổ chức dự giờ, góp ý, xây dựng giờ dạy chuẩn
để GV học tập rút kinh nghiệm. Đặc biệt trong KTĐG, đã phân cấp việc quản lý
đề kiểm tra đến từng cá nhân, bộ phận để đảm bảo đề ra đủ độ chuẩn: đề kiểm tra
miệng thường xuyên GVBM ra và tự chịu trách nhiệm, đề 10, 15, 45 phút tổ
chuyên môn quản lý và chịu trách nhiệm.
1.4/ GVBM nhà trường đa số tiếp cận nhanh nhậy về PPDH, hình thức dạy học
tích cực, cũng như cách thức mới trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
HS.
1.5/ Tổ chức kiểm tra riêng theo từng lớp hoặc 2-3 lớp chung một đề hoặc chung

đề cho cả khối: Đề kiểm tra có thể dùng cho 1 lớp hoặc 2-3 lớp chung, nghĩa là
đề kiểm tra của một giáo viên dạy 1, 2, 3 lớp đó. Có ưu điểm bám sát được trình
độ của học sinh lớp đó, vừa sức không quá cao hoặc không quá thấp, đảm bảo
được tính bí mật đề kiểm tra, phát hiện và bồi dưỡng kịp thời các khả năng, kỹ
năng của học sinh. Đề kiểm tra này sẽ được tổ trưởng, bộ phận chuyên môn nhà
trường duyệt trước khi kiểm tra giảm được tính chủ quan của giáo viên bộ môn.
2/ Những khó khăn, vướng mắc tại nhà trường:
2.1/ Về đổi mới PPDH:
2.1.1/ Cơ sở vật chất (phòng học, bàn nghế…) chưa phù hợp cho việc áp dụng
một số hình thức học tập tích cực như: hoạt động thảo luận nhóm.
2.1.2/ Học sinh trên địa bàn nhà trường là con em nhà nông độ nhanh nhậy
trong học tập chưa cao. Từ học tập thụ động chuyển sang tiếp cận với phương
pháp và hình thức học tập tích cực, chủ động còn nhiều hạn chế, bỡ ngỡ, vướng
mắc. Các em không quen hình thức học tập hợp tác, tư duy suy luận, phân tích,
liên tưởng còn chậm, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu yếu. Đó là một tác nhân hạn
chế sự đổi mới của GV.
2.1.3/ Một số GV do hạn chế về năng lực nên còn chậm đổi mới, hoặc hiểu
chưa thật đúng bản chất của PPDH tích cực, nên khi đi vào vận dụng trong dạy
học còn nhiều lúng túng, máy móc, mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Ví như:
cứ cho là tổ chức dạy học nhóm, cho HS làm phiếu học tập mới là vận dụng
phương pháp mới. Vì vậy sa vào thực hiện tuỳ tiện, hình thức và khô cứng.
2.2/ Về đổi mới kiểm tra, đánh giá:
2.2.1/ Một số giáo viên bộ môn do hạn chế về năng lực nên:
- Việc xác định các mức độ về kiến thức, kỹ năng trong khâu lập ma trận còn
nhiều lúng túng.
- Kỹ thuật xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm chưa thành thạo.
- Ngại sử dụng đề trắc nghiệm vì: khó soạn, đề quá dài.
2.2.2/ Giai đoạn những năm đầu thực hiện đổi mới, phương tiện, thiết bị để in
ấn(máy vi tính, máy in, pho to) đề kiểm tra dạng trắc nghiệm khách quan ở nhà
trường chưa có nên giáo viên gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong khâu chuẩn

bị đề kiểm tra.
2.2.3/ Ra đề kiểm tra theo hướng đổi mới đòi hỏi GVBM phải đầu tư nhiều
thời gian, công sức, trí tuệ trong khi thời gian làm việc của giáo viên rất bận rộn
đã tác động không nhỏ đến chất lượng của đề.
2.2.4/ Ở địa bàn nhà trường, đối tượng con em nhà nghèo, cận nghèo chiếm
trên 20% tổng số học sinh, do đó việc huy động kinh phí để làm đề kiểm tra trắc
nghiệm trên giấy in sẵn cũng còn gặp những khó khăn.
2.2.5/ Tiết trả bài kiểm tra 45’không có:
Tiết trả bài kiểm tra 45’ trở lên là một tiết học không thể thiếu được trong
quá trình đổi mới kiểm tra đánh giá.
Tiết kiểm tra 45’ trở lên nhằm đánh giá,nhận định trình độ tư duy, khả
năng tính toán, trình bày lời giải và khả năng vận dụng kiến thức của học sinh
thông qua phương tiện đánh giá kết quả học tập là đề kiểm tra. Tiết trả bài kiểm
tra là điều kiện cho thầy trò cùng nhau xem xét lại phương tiện đánh giá hợp lý
chưa, cùng định mức được trình độ tư duy, khả năng tính toán,… của từng học
sinh. Tìm ra lỗ hổng kịp thời, để bồi đắp cho từng học sinh.
2.2.6/ Việc thực kiểm tra của giáo viên dạy nhiều lớp trong cùng khối:
Thời gian kiểm tra định kì hay thường xuyên tại các lớp khác nhau thường chênh
lệch trong tuần, dễ dẫn đến việc lộ đề thường xuyên xảy ra, tạo điều kiện cho học
sinh có thói quen săn đề , tủ đề, không phát triển được kỹ năng tư duy, kỹ năng
tính toán,… tạo ra lối học thụ động, chủ quan trong học tập, đi ngược lại mục tiêu
môn Toán. Mặc dù đề kiểm tra chung đó được phiên dịch ra nhiều đề đi nữa, các
đề này đều có tính tương đương, tương tự, nên việc bí mật đề kiểm tra không đảm
bảo.
2.2.7/ Qua thực tế cho thấy, việc kiểm tra đánh giá với hình thức kết hợp tự luận
và trắc nghiệm khách quan thì phần trắc nghiệm khách quan nên chiếm 1 tỉ lệ nhỏ
(không quá 30% của đề kiểm tra) vì trắc nghiệm khách quan xác suất đoán mò
lớn(từ 25% đến 50% ) giảm đi khả năng suy luận logic của học sinh, tạo ra tính ì
trong học tập, không tự giác học tập mà trông cậy vào bạn.
IV/ NHỮNG ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ:

1/ Đối với học sinh miền núi, để áp dụng PPDH tích cực có hiệu quả, tránh hình
thức, Bộ GD&ĐT cần có sự nghiên cứu tăng thời lượng cho những tiết bài có
dung lượng kiến thức, kỹ năng lớn, nặng để GV và HS không bị gò bó, áp lực vì
sợ cháy giáo án.
2/ Tăng cường trang bị về cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị có tác dụng hỗ trợ
hiệu quả, thiết thực cho thực hiện đổi mới PPDH Toán ở nhà trường như: máy
tính, máy chiếu, tranh ảnh gắn với các nhà Toán học được giới thiệu trong SGK
Toán THCS, các phòng học chức năng để thuận tiện cho việc sử dụng máy
chiếu….Hỗ trợ cho HS về SGK và các tài liệu tham khảo gắn với chương trình
học tập,
3/ Cần tiếp tục có chương trình tập huấn về PPDH tích cực, kỹ năng xây dựng
ma trận và kỹ thuật ra đề kiểm tra cho GVBM Toán một cách thiết thực, hiệu
quả. Đặc biệt là kỹ thuật xây dựng câu hỏi kiểm tra trắc nghiệm khách quan.
4/ Đối với môn toán THCS thì phần trắc nghiệm khách quan chiếm tỉ lệ nhỏ
nhằm hạn chế lối học thụ động, đoán mò.(nên chọn 30% TNKQ)
Đề kiểm tra đánh giá thống nhất chung trong khối thì phải thống nhất chung một
thời gian kiểm tra. Nhằm đảm bảo tính bí mật của đề kiểm tra, chống lối học thụ
động, chuyên săn đề, tủ đề, trông cậy vào bạn.
Sau mỗi lần kiểm tra đánh giá (45’ trở lên) thì sau đó phải có tiết trả bài kiểm tra
để thầy trò cùng nhau rút kinh nghiệm.
Sau một chương học nên có tiết kiểm tra chương nhằm hệ thống hóa kiến thức,
hoàn thiện kỹ năng giải bài tập, bổ khuyết cho những phát hiện thiếu sót về kiến
thức… Tạo thuận lợi cho việc kiểm tra đánh giá tốt hơn.
Nói chung: Đổi mới kiểm tra đánh giá, phương pháp dạy học phải đi vào thực
tiễn, phải được thực hiện chính xác, không bị ràng buộc bởi một tác nhân khác,
không cắt xén giảm bớt. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện cụ thể mà GV có thể vận
dụng phù hợp với đặc điểm của học sinh và địa phương mình ./.

×