Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH THĂNG LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.34 KB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH
o0o
CHUYÊN ĐỀ
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Tên đề tài:
NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN TẠI NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH
THĂNG LONG
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Việt Dũng
Mã sinh viên : TC425673
Lớp
Khóa
Giảng viên hướng dẫn
:
:
:
Ngân hàng 2
42 Hệ: Tại chức
TS.Đoàn Phương Thảo
Hà Nội - 2014
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT KÝ HIỆU Ý NGHĨA
1 NHNN&PTNT Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
2 NHTM Ngân hàng thương mại
3 NHNN Ngân hàng Nhà nước
4 KH Khách hàng
5 TCTD Tổ chức tín dụng
6 NQH Nợ quá hạn
7 DN Doanh nghiệp
8 DTT Doanh thu thuần


9 LNST Lợi nhuận sau thuế
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
S 2.1: S c c u b máy t ch c c a Ngân h ng Nông nghi p ơ đồ ơ đồ ơ ấ ộ ổ ứ ủ à ệ
v Phát tri n Nông thôn Chi nhánh Th ng Longà ể ă 30
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơ chế thị trường, hệ thống Ngân hàng được phân chia làm hai cấp :
Ngân hàng nhà nước đảm nhiệm chức năng quản lý vĩ mô và các ngân hàng
thương mại thực hiện kinh doanh tiền tệ tín dụng. Để thực hiện đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, các ngân hàng thương mại không ngừng tăng cường huy động
vốn, phát triển hoạt động makerting, nâng cao chất lượng công nghệ tin học, tăng
cường hoạt động quản lý rủi ro, quản lý nợ…nhằm hoàn thành sư nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Hoạt động của Ngân hàng rất đa dạng và phong phú trong đó có: hoạt
động tín dụng, thanh toán, chuyển hoá vốn và các dịch vụ khác. Hoạt động tín
dụng là một trong những haotj động chủ chốt của các ngân hàng thương mại.
Chính vì tính quan trọng của nó mà các khoản tín dụng do ngân hàng thương mại
cấp ra phải đảm bảo được hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên nó lại chứa đựng
nhiều rủi ro tiềm ẩn. Để tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại luôn phải
khắc phục những rủi ro trong bất cứ hoạt động nào của mình: rủi ro tín dụng, rủi
ro thanh toán, rủi ro chuyển hoá vốn, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái…Trong đó,
rủi ro tín dụng là loại rủi ro mà hậu quả của nó ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt
động khác, ảnh hưởng đến chính sự tồn tại và phát triển của bản thân ngân hàng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng: Nguyên nhân từ phía khách hàng,
từ phía ngân hàng, từ khả năng lắm bắt thông tin nhưng nguyên nhân chủ yếu là
từ phía khách hàng, có nghĩa là khách hàng không trả được nợ vay cho ngân
hàng vào thời điểm đáo hạn. Như vậy sẽ gây ra rủi ro đọng vốn hay rủi ro mất
vốn cho phía ngân hàng.
Ta thấy rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được xuất phát từ khoản nợ mà

khách hàng không trả được cho ngân hàng khi đến hạn, hay còn gọi đó là các
khoản nợ quá hạn. Để giảm thiểu rủi ro tín dụng thì trước hết ta phải có những
biện pháp xử lý hiệu quả các khoản nợ quá hạn sao cho tránh được những tổn
thất không mong muốn do nợ quá hạn gây ra.
Chính vì sự cấp thiết của vấn đề nên em lựa chọn đề tài: “ Nâng cao hiệu quả
xử lý nợ quá hạn tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh
Thăng Long.”
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng xử lý nợ quá hạn tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Thăng Long. Trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ quá hạn tại Chi nhánh.
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Công tác xử lý nợ quá hạn của ngân hàng thương mại
Phạm vi nghiên cứu: Công tác xử lý nợ quá hạn của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Thăng Long
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp phân tích số liệu, phương pháp quy nạp, diễn giải, mô tả…
5. Kết cấu của chuyên đề tốt nghiệp
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, chuyên đề tốt nghiệp có kết cấu 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về nợ quá hạn trong ngân hàng Thương mại
Chương 2: Thực trạng xử lý nợ quá hạn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Chi nhánh Thăng Long
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý nợ quá hạn tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Thăng Long
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ QUÁ HẠN TRONG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về Ngân hàng Thương mại
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát
triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển nền kinh tế là điều kiện, đòi

hỏi sự phát triển của ngân hàng. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành
động lực thúc đẩy nền kinh tế.
Hoạt động ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các
thợ vàng. Vì vậy, những ngân hàng loại này còn được gọi là ngân hàng của thợ
vàng. Yêu cầu phải có đơn vị tiền tệ kim loại với với trọng lượng và hàm lượng
xác định, tạo điều kiện cho trao đổi hàng hóa dẫn đến việc đúc tiền. Việc đúc tiền
sau đó được nhà nước độc quyền thực hiện. Việc lưu hành những đồng tiền riêng
của mỗi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ kết hợp với thương mại và giao lưu quốc tế
tạo ra yêu cầu về dịch vụ đổi tiền tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại.
Người làm nghề đổi tiền, thực hiện kinh doanh bằng ngoại tệ thu lợi nhuận từ
khoản chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
Người làm nghề đổi tiền thường là người giàu, họ có thể đã làm nghề cho
vay nặng lãi từ trước. Họ có két tốt để cất giữ, đảm bảo an toàn. Do yêu cầu cất
giữ tiền của các lãnh chúa, nhà buôn…nhiều người đổi tiền thực hiện luôn cả
nghiệp vụ giữ hộ. Thực hiện cất giữ hộ làm tăng thu nhập, tăng khả năng đa dạng
các loại tiền, tăng quy mô tài sản của người kinh doanh tiền tệ. Việc cất giữ hộ
nhiều người khác là điều kiện để thực hiện thanh toán hộ. Thanh toán qua trung
gian làm nảy sinh thanh toán không dùng tiền mặt, những ưu điểm của nó đã thu
hút nhiều thương gia đến đổi tiền ngày một đông. Trong điều kiện lưu thông tiền
kim loại ( bạc hoặc vàng), các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền, thanh toán,
vừa đúc tiền và cho vay nặng lãi.
Đầu tiên, những người kinh doanh tiền tệ đã dùng vốn của mình để cho
vay. Lượng vốn nhỏ trong khi nhu cầu vay rất cao đã dẫn đến mức lãi suất cao,
đó là hoạt động cho vay nặng lãi. Thực tế họ nhận ra rằng, thường xuyên có
người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra nhưng tất cả những người gửi tiền đều
không rút cùng một lúc, như vậy đã tạo ra số dư trong két. Do tính chất vô danh
của tiền, họ có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của người gửi để cho
người khác vay. Làm như thế thu được lợi nhuận lớn nên họ tìm cách mở rộng
thu hút tiền gửi bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Nhờ vào cung cấp các tiện
ích khác nhau mà họ huy động được ngày càng nhiều tiền gửi, là điều kiện để mở

rộng cho vay, hạ lãi suất cho vay phù hợp với nhu cầu của các thương gia. Hoạt
động cho vay với lãi suất thấp, quy mô lớn dựa trên tiền gửi của khách hàng đã
làm thay đổi cơ bản hoạt động của ngành kinh doanh tiền tệ từ kẻ buôn tiền – cho
vay nặng lãi thành nhà kinh doanh tiền tệ - Ngân hàng.
Trải qua hàng trăm năm , đến nay hoạt động của các ngân hàng thương
mại đã trở thành một yếu tố không thể thiếu gắn liền với nền kinh tế của mọi
quốc gia trên thế giới. Tại mỗi nước, điều kiện lịch sử cụ thể đã hình thành nên
nhiều loại ngân hàng khác nhau ( ngân hàng tiề gửi, ngân hàng tiết kiệm, ngân
hàng đầu tư, ngân hàng phát triển…) tạo nên hệ thống ngân hàng. Trong đó, trừ
ngân hàng Trung ương có chức năng xây dựng, quản lý chính sách tiền tệ quốc
gia, các ngân hàng còn lại đều là các tổ chức thực hiện kinh doanh tiền tệ cho dù
chúng có một số nghiệp vụ khác nhau đi nữa.
Cùng với sự phát triển của kinh tế và khoa học công nghệ, hoạt động ngân
hàng với 3 nội dung chính: nhận tiền gửi, thanh toán và cấp tín dụng, đã có
những bước tiến rất nhanh. Trước đó là sự đa dạng các loại hình ngân hàng và
hoạt động ngân hàng, từ ngân hàng tư nhân do quá trình tích tụ và tập trung vốn
nên hình thành ngân hàng cổ phần. Qúa trình gia tăng vai trò quản lý Nhà nước
đối với hoạt động ngân hàng đã hình thành ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước;
các ngân hàng liên doanh, các tập đoàn ngân hàng phát triển mạnh vào những
năm cuối thể kỉ 20. Nhiều dịch vụ mới phát triển, ngân hàng thương mại từ chỗ
chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung hạn và dài hạn, cho
vay để đầu tư vào bất động sản. Nhiều ngân hàng mở rộng cho vay tiêu dùng,
cho thuê, kinh doanh chứng khoán. Các hình thức huy động vốn cũng ngày càng
đa dạng, các loại tiền gửi khác nhau được đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu
của khách hàng. Công nghệ ngân hàng góp phần không nhỏ vào việc thay đổi các
hoạt động cơ bản của ngân hàng. Thanh toán điện tử thay thế dần thanh toán thủ
công, đẩy nhanh tốc độ, an toàn, mức an toàn trong thanh toán. Sự ra đời của các
loại thẻ đang dần thay thế tiền giấy, dịch vụ ngân hàng 24h…đã, đang và sẽ tạo
ra nhiều tiện ích cho người sử dụng.
Quá trình phát triển của các ngân hàng không những làm gia tăng số

lượng và còn làm tăng quy mô của mỗi ngân hàng. Tích tụ, tập trung vốn đã tạo
ra các công ty ngân hàng lớn để tài trợ cho những ngành công nghiệp, dịch vụ
toàn cầu. Bên cạnh các dịch vụ ngân hàng truyền thống, các dịch vụ hiện đại
đang được cung cấp thường xuyên bởi ngân hàng làm giảm ranh giới giữa ngân
hàng và các tổ chức phi tài chính. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính ( công ty
bảo hiểm, công ty tài chính, công ty môi giới chứng khoán…) đều đang mở rộng
cung cấp một số dịch vụ ngân hàng. Ngược lại ngân hàng cũng mở rộng phạm vi
cung cấp dịch vụ về môi giới chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm, đầu tư…Qúa
trình phát triển của ngân hàng tạo ra mối liên hệ ràng buộc ngày cảng chặt chẽ,
phụ thuộc lẫn nhau. Các hoạt động ngân hàng xuyên quốc gia, đa quốc gia đã và
đang thúc đẩy hình thành các hiệp hội, tổ chức liên kết các ngân hàng nhằm tạo
ra chính sách chung, quy trình để kiểm soát chung, kết nối và tạo sự thống nhất
trong vận hành, điều hành hệ thống ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và
thế giới.
Các ngân hàng có thể được khái niệm qua chức năng, dịch vụ, vai trò mà
chúng thực hiện trong nền kinh tế. Theo giáo trình Ngân hàng thương mại (2013)
của Trường ĐH.Kinh tế Quốc dân do PGS.TS.Phan Thị Thu Hà làm chủ biên có
đưa ra khái niệm:
“ Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế”.
Theo Nghị định Số: 59/2009/NĐ-CP của Chính Phủ về tổ chức và hoạt
động của ngân hàng thương mại: “ Ngân hàng thương mại là ngân hàng được
thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có
liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và
các quy định khác của pháp luật”.
Theo quy định tại Khoản 12, Điều 4 của Luật các TCTD của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2010: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ sau đây:

a) Nhận tiền gửi;
b) Cấp tín dụng;
c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”.
Theo đó, tùy theo loại hình hoạt động, Tổ chức tín dụng có thể thực hiện
một hoặc một số hoặc cả ba hoạt động ngân hàng nêu trên khi được NHNN cấp
Giấy phép thành lập và hoat động.
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại ra đời do yêu cầu thiết yếu của nền kinh tế: cơ sở
nền sản xuất và lưu thông hàng hoá, và nền kinh tế ngày càng phát triển càng cần
đến hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Trong sự phát triển của nền kinh tế xã hội, Ngân hàng là một yếu tố không
thể thiếu bởi các chức năng cơ bản của nó là: trung gian tài chính, tạo phương
tiện thanh toán, trung gian thanh toán.
 Trung gian tài chính
Ngân hàng có chức năng trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư dưới hình thức nhận tiền gửi và cấp tín dụng. Hai
loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời có
nhu cầu chi cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập hoặc vốn hiện có, vì vậy
phát sinh nhu cầu bổ sung vốn. (2): các cá nhân và tổ chức có thu nhập hoặc vốn
hiện tại lớn hơn các khoản chi cho hàng hóa, nên cần có tiền để tiết kiệm. Tiền sẽ
chuyển từ nhóm thứ hai sang nhóm thứ nhất nếu trường hợp cả hai bên cùng có
lợi. Khi đó, lợi nhuận là động lực để tạo ra các mối quan hệ tài chính giữa hai
nhóm, dòng tiền lưu chuyển với điều kiện: phải quay trở lại với một lượng lớn
hơn trong một khoảng thời gian nhất định. Khi đó, hình thành nên quan hệ tín
dụng, nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Chức năng trung gian
tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi
thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đóng vai trò là
cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này,
ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là
người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và

lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi
tiền và người đi vay.
Cơ sở cho chức năng trung gian tài chính của ngân hàng là khả năng thẩm
định thông tin của ngân hàng. Sự phân bổ không đồng đều thông tin và năng lực
phân tích thông tin được gọi là “ thông tin không cân xứng”, nó làm giảm đi tính
hiệu quả của thị trường nhưng lại tạo ra khả năng sinh lợi cho ngân hàng.
 Trung gian thanh toán
Khi ngân hàng nhận tiền gửi và cho vay sẽ dẫn đến cơ sở của thanh toán
hộ. Đầu tiên là thanh toán hộ giữa những khách hàng có tiền gửi ở cùng một
ngân hàng và sẽ mở rộng khi hình thành hệ thống thanh toán liên ngân hàng.
Nhiều khách hàng mở tài khoản, gửi tiền tại ngân hàng chính là cơ sở để
ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn ở hầu hết các quốc gia. Tiền được
chuyển từ tài khoản của khách hàng A tại ngân hàng này sang tài khoản của
khách hàng B tại ngân hàng khác. Để việc thanh toán diễn ra thuận tiện, nhanh
chóng, tiết kiệm chi phí, ngân hàng cung cấp nhiều hình thức thanh toán khác
nhau: thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt ( Séc, ủy nhiệm
thu, ủy nhiệm chi, thẻ…Cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ
và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh
toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung
tâm thanh toán, công nghệ thanh toán qua Ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi
qui mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Nhiều hình thức thanh toán
được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa
các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các Ngân hàng trên toàn thế giới.
Với các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của
thanh toán qua Ngân hàng, biến Ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan
trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán mang lại lợi ích lớn cho ngân
hàng, ngoài doanh thu từ phí ngân hàng còn mở rộng được huy động vốn và cho
vay.
 Tạo phương tiện thanh toán

Một trong những chức năng quan trọng của tiền là làm phương tiện thanh
toán. Hệ thống ngân hàng tham gia tạo nên phương tiện thanh toán là tiền ghi sổ,
ngân hàng không tạo ra được tiền kim loại. Với ưu thế dần dần giấy nợ của ngân
hàng đã dần thay thế tiền kim loại, trở thành phương tiện lưu thông và phương
tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy. Với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất,
dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát hành tiền giấy vào Bộ tài chính
hoặc Ngân hàng Trung ương, chấm dứt việc Ngân hàng thương mại tạo ra giấy
bạc của riêng mình.
Trong điều kiện thanh toán qua ngân hàng, nếu khách hàng có số dư trên
tài khoản tiền gửi thanh toán thì họ có thể chi để có được số hàng hóa theo yêu
cầu. Tiền gửi trên tài khoản gửi thanh toán tại ngân hàng là phương tiện thanh
toán song hành với tiền giấy.
Toàn bộ hệ thống ngân hàng tham gia tạo phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở
mở rộng cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng tài khoản tiền vay
thì sẽ tạo nên khoản thu của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác, tạo ra
các khoản cho vay mới. Toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra một khối
lượng tiền gửi thanh toán gấp nhiều lần so với lượng tiền cơ sở thông qua hoạt
động tín dụng.
Tóm lại, chức năng tạo phương tiện thanh toán được phát sinh dựa trên
chức năng trung gian tài chính và chức năng trung gian thanh toán. Khi thực hiện
chức năng này, hệ thống ngân hàng tham gia cung tiền tác động tới lượng tiền
cung ứng, ảnh hưởng tới lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
1.2. Nợ quá hạn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm và phân loại nợ quá hạn
1.2.1.1. Khái niệm và nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn
Trong hoạt động kinh doanh tài chính – tiền tệ của Ngân hàng thương mại
thì hoạt động tin dụng là một trong những hoạt động quan trọng, chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong cơ cấu tài sản của ngân hàng thương mại, và đem lại phần lợi nhuận
lớn nhất cho ngân hàng thương mại. Nhưng đây cũng là hoạt động luôn luôn chứa

đựng nguy cơ rủi ro. Rủi ro tín dụng là loại rủi ro gắn liền với việc không thu được
nọ khi đến hạn. Việc phát sinh nợ quá hạn là điều khó có thể tránh khỏi, nhưng
nếu nợ quá hạn phát sinh quá tỷ lệ cho phép sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng
thanh toán của ngân hàng thương mại.
Theo quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế cho vay
vốn của tổ chức tín dụng đối với khách hàng quy điịnh rõ: “ Nợ quá hạn trong kinh
doanh của ngân hàng là hiện tượng khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn
mà đã cam kết trả trong khế ước vay trước đây. Nếu không được điều chỉnh kỳ hạn
nợ, hoặc được gia hạn nợ thì số nợ đến hạn phải chuyển sang nợ quá hạn, và khách
hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn đối với số tiền trả chậm”.
Như vậy bản chất của nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng là hiện tượng
đến thời hạn thanh toán khoản nợ người đi vay không có khả năng thực hiện
ngay nghĩa vụ của mình đối với người cho vay. Hay nói cách khác thì nợ quá hạn
là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo.
Các chỉ tiêu phản ánh nợ quá hạn:
+ Tỷ lệ nợ quá hạn
Ta có:
Tỷ lệ NQH =
Số dư Nợ quá hạn
x 100 (1)
Tổng dư nợ
Ý nghĩa: Tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh số dư nợ gốc và lãi đã quá hạn mà chưa thu
hồi được. Tỷ lệ Nợ quá hạn cho biết, cứ 100 đồng cho vay hiện hành thì có bao
nhiêu đồng đã quá hạn. Đây là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng hoạt động tín
dụng của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn cao chứng tỏ chất lượng tín dụng thấp và
ngược lại.
Trong đó : +Tổng NQH bao gồm: NQH, nợ chờ xử lý, nợ khoanh.
+Tổng dư nợ cho vay, cho thuê phải xem xét đến các yếu tố:
• NQH <180 ngày, 180 ngày< NQH<360 ngày
• Các khỏan nợ chờ xử lý.

• Nợ cho vay được khoanh.
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thì tỉ lệ Nợ quá hạn so với tổng
dư nợ cho vay, cho thuê ở mức nhỏ hơn hoặc bằng 5% và Nợ quá hạn khó đòi
chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng Nợ quá hạn thì Ngân hàng thương mại đó mới được
đánh giá là có hoạt động tín dụng hiệu quả. Để xem xét về thực trạng Nợ quá hạn,
Người ta quan tâm nhiều đến rủi ro mang tính thời hạn.
Tỷ lệ NQH chỉ phản ánh những số dư nợ thực sự đã quá hạn mà không
phản ánh toàn bộ quy mô dư nợ có nguy cơ quá hạn. Để khắc phục nhược điểm
này, ngân hàng sử dụng chỉ tiêu “ tỷ lệ tổng dư nợ có nợ quá hạn”:
+ Tỷ lệ tổng dư nợ có NQH
Tỷ lệ tổng dư nợ có NQH (%) =
tổng dư nợ có NQH
x 100
Tổng dư nợ
Do chỉ tiêu “ Tổng dư nợ có nợ quá hạn” bao gồm toàn bộ dư nợ của một khách
hàng ( kể cả đến hạn và chưa đến hạn) kể từ khi xuất hiện món nợ quá hạn đầu tiên
nên nó phản ánh chính xác hơn mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng.
+ Chỉ tiêu “ khách hàng có nợ quá hạn”
Tỷ lệ KH có nợ quá hạn = Tổng số KH quá hạn
Tổng số KH có dư nợ
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 khách hàng vay vốn thì có bao nhiêu khách đã quá hạn.
Nếu tỷ lệ này cao, phản ánh chính sách tín dụng của ngân hàng không hiệu quả. Nếu
chỉ tiêu này thấp hơn chỉ tiêu “ nợ quá hạn” thì cho biết nợ quá hạn tập trung vào
những khách hàng lớn, nếu cao hơn chỉ tiêu NQH thì nợ quá hạn tập trung vào
những khách hàng nhỏ.
+ Chỉ tiêu cơ cấu Nợ quá hạn
(2)
(3)
Tỷ lệ Nợ ngắn hạn quá hạn =
Nợ quá hạn ngắn hạn

x 100
Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ Nợ dài hạn quá hạn =
Nợ quá hạn dài hạn
x 100
Nợ dài hạn
+ Chỉ tiêu phản ánh khả năng thu hồi nợ quá hạn: Để đánh giá chính xác hơn chất
lượng tín dụng, người ta dùng 2 chỉ tiêu sau:
NQH có khả năng thu hồi =
NQH có khả năng thu hồi
x 100 (6)
Nợ quá hạn
 Nguồn gốc phát sinh Nợ quá hạn
Khi tiến hành cấp tín dụng, Các Ngân hàng thương mại luôn luôn mong
muốn thu lại được cả gốc và lãi của khoản tín dụng đầy đủ và đúng thời hạn.
Chính vì thế, khi quyết định cấp một khoản tín dụng thì các Ngân hàng thương
mại phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các bước trong quy trình tín dụng từ
việc thu thập thông tin, thẩm định khách hàng, giải ngân, giám sát quá trình sử
dụng, thu lại gốc và lãi.
Đặc biệt là phải làm tốt bước giám sát quá trình sử dụng khoản vay của
khách hàng, nếu phát hiện thấy có biểu hiện sử dụng vốn sai mục đích thì các
Ngân hàng thương mại phải có biện pháp ngăn ngừa và xử lý kịp thời. Chính vì
vậy, quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn vay là một việc làm hết sức quan trọng
trong công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng, hạn chế khả năng xảy ra Nợ quá hạn.
Trên thực tế có rất nhiều những dấu hiệu cho thấy khoản vay sẽ gặp khó
khăn. Nhưng chúng ta không thể dựa vào một số cách thức cụ thể nào để công bố
khoản vay đó là khoản vay khó hoàn trả hay không thể hoàn trả. Tuy nhiên, trong
hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại ,Ta có thể thấy một số dấu hiệu về
sự khó khăn tài chính của khách hàng.
Một là tính khả thi của dự án thấp: Khi xin vay thực hiện dự án phát triển

sản xuất kinh doanh, khách hàng sẽ phải cung cấp cho Ngân hàng thương mại
(4)
(5)
NQH không có khả

năng thu hồi
=
NQH không có khả năng thu hồi
x 100 (7)
Nợ quá hạn
các thông tin chứng minh tính khả thi của dự án. Nếu thấy tính khả thi của dự án
thấp, khách hàng không có khả năng chi trả chi phí vốn vay (gốc+lãi vay) thì
Ngân hàng thương mại có thể từ chối khoản vay đó đối với khách hàng.
Hai là, trì hoãn việc nộp báo cáo tài chính cho ngân hàng: Một trong
những nguyên nhân dẫn đến việc trì hoãn nộp báo cáo tài chính là sự gian lận
trong báo cáo tài chính. Để có được nguồn vốn vay giải quyết tính cấp thiết của
quá trình sản xuất kinh doanh, hay sử dụng vào mụch đích nào đó thì các doanh
nghiệp có thể cung cấp các báo cáo tài chính không trung thực. Về phía các Ngân
hàng thương mại phải chú ý, phải có khả năng đọc các báo cáo tài chính, phát
hiện các gian lận. Nếu không rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Ba là, việc sử dụng vốn tín dụng sai mục đích. Trong quá trình giải trình
hồ sơ vay vốn, khách hàng luôn phải nêu rõ mục đích sử dụng vốn vay của mình
đối với Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng vốn vay
khách hàng có thể sử dụng vốn sai mục đích ban đầu, gây ra tình trạng không có
khả năng trả nợ hay khất nợ đối với ngân hàng.
Bốn là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có chiều hướng
phát triển không lành mạnh, có thể ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp
đang gặp rủi ro: thị trường tiêu thụ sản phẩm đó đang bị thu hẹp, thị trường cung
cấp nguyên vật liệu bị rối loạn, hay khách hàng vay vốn của ngân hàng gặp phải
các thông tin không lành mạnh về tình hình tài chính, tình trạng hoạt động…

khiến cho cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trường bị giảm giá mạnh, uy tín của
doanh nghiệp trên thị trường không được vững chắc, các đối tác tự ý huỷ bỏ hợp
đồng kinh doanh, đẩy tình hình tài chính của doanh nghiệp vào chỗ khó khăn.
Năm là thu nhập của người vay không ổn định, có nhiều thu nhập bất
thường với khối lượng lớn Như vậy, Ngân hàng thương mại khó có thể thu lại
khoản vay, do tình hình tài chính của doanh nghiệp còn bất ổn định, nhất là vào
lúc khoản vay tới thời điểm đáo hạn tỉ lệ xảy ra Nợ quá hạn là rất cao.
Ngoài ra còn một số dấu hiệu khác như: Khách hàng tùy ý xin hoãn nợ,
khất nợ, hoàn trả nợ vay ngân hàng chậm hay quá kỳ hạn, không đầy đủ như đã
cam kết, gia tăng tài sản cố định qua việc sáp nhập hay mua lại của các doanh
nghiệp khác, các thảm hoạ thiên nhiên xảy ra: bão lụt, hoả hoạn…
Đó là các dấu hiệu khó khăn về tài chính của khách hàng cũng có nghĩa là
khả năng trả nợ vay của khách hàng thấp. Trên cơ sở các dấu hiệu này, Ngân hàng
sẽ tìm ra các biện pháp điều chỉnh và ngăn ngừa kịp thời, tránh dẫn đến những
khoản nợ quá hạn có thể gây ra rủi ro tín dụng.
1.2.1.2. Phân loại Nợ quá hạn
Nợ quá hạn được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau để làm căn cứ
xây dựng kế hoạch thu hồi vốn trong từng trường hợp cụ thể . Sau đây là một số
phương pháp phân chia thường được áp dụng nhất:
Căn cứ vào thời gian quá hạn:
+ Nợ quá hạn dưói 180 ngày
+ Nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày
+ Nợ quá hạn trên 360 ngày
Căn cứ vào khả năng thu hồi:
+ Nợ quá hạn thông thường đòi đủ 100%.;
+ Nợ quá hạn khó đòi, khả năng thu hồi không đủ và phải kéo dài;
+ Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi.
Căn cứ vào thành phần kinh tế:
+ Nợ quá hạn của các doanh nghiệp nhà nước.;
+ Nợ quá hạn của các doanh nghiệp tư nhân.;

+ Nợ quá hạn của các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.;
+ Nợ quá hạn của các hộ cá thể; Nợ quá hạn của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
Căn cứ theo biện pháp bảo đảm tiền vay:
+ Nợ quá hạn có boả lãnh của bên thứ ba.;
+ Nợ quá hạn còn vật tư, còn hàng hoá tồn kho chơ bán và có tài sản hình
thành từ vốn vay;
+ Nợ quá hạn có tín chấp;
+ Nợ quá hạn có xác nhận của cấp chủ quản;
+ Nợ quá hạn có người thừa kế hợp pháp theo pháp luật trả thay.
Căn cứ theo thời hạn khoản vay:
+ Nợ quá hạn của các khoản vay ngắn hạn.;
+ Nợ quá hạn của các khoản vay trung dài hạn.
Căn cứ theo nguyên tệ:
+ Nợ quá hạn theo VND;
+ Nợ quá hạn theo ngoại tệ.
Căn cứ thro nguyên nhân phát sinh:
+ Nợ quá hạn do lỗi người vay : yếu kém về trình độ quản lý, khả năng
cạnh tranh, do người vay cố tình không trản;
+ Nợ quá hạn do lỗi của người cho vay: thường bao giờ cũng gắn với lỗi
người vay.
1.2.2. Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn
1.2.2.1. Xuất phát từ người đi vay
Sự tồn tại và phát triển của khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển
của ngân hàng. Hiệu quả và chất lượng của các khoản tín dụng dựa trên sơ sở
phương hướng sản xuất kinh doanh cuả người vay vốn. Hiệu quả kinh tế của người
đi vay ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng thu được
gốc và lãi tiền cho vay hay không phụ thuộc chủ yếu vào người vay vốn sử dụng
vốn vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả hay không. Khách hàng sử dụng vốn của
ngân hàng gặp rủi ro điều tất nhiên là ngân hàng chịu hậu quả dây chuyền.

Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích: Khách hàng sử dụng vốn vay ngân
hàng không đúng với mục đích đã đưa ra trong đơn xin vay vốn. Khách hàng có
thể sử dụng vốn vay vào kinh doanh không đúng đối tượng, sử dụng vốn ngắn
hạn để đầu tư trung và dài hạn vào tài sản cố định, hoặc đã có đủ tiền trả ngân
hàng nhưng chưa đến hạn trả nợ, hoặc đã có tiền nhưng chưa đủ trả ngân hàng,
khách hàng sử dụng tiền đó vào hoạt động kinh doanh khác và gặp rủi ro.
Khả năng quản lý kinh doanh của khách hàng kém: Do trình độ tổ chức,
quản lý hoạt động kinh doanh của giám đốc doanh nghiệp kém, thiếu kinh
nghiệm kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nên khi lập phương án có những
tính toans không hợp lý. Ban giám đốc không đánh giá, phân tích những biến
động và xu hướng phát triển của thị trường nên không tranh thủ thời cơ và bị
động trước sự thay đổi của môi trường kinh tế, không tìm ra hướng đi cho doanh
nghiệp của mình. Doanh nghiệp bị thua lỗ, dự án bị đổ vỡ, nguồn trả nợ ngân
hàng bị đe doạ.
Khách hàng cố tình lừa đảo: Có nhiều khách hàng “cố tình” đưa ra các hồ
sơ hợp pháp, các dự án có hiệu quả để được vay vốn ngân hàng. Khách hàng
dùng cùng một tài sản thế chấp để vay vốn nhiều ngân hàng, khi đẫ được vay vốn
thì sử dụng cho các mục đích cá nhân, hoặc bỏ trốn, hoặc lúc đầu khách hàng vay
và trả nợ nghiêm chỉnh, khi tạo được lòng tin của ngân hàng thì sử dụng vốn vay
vào mục đích khác. Nếu ngân hàng không phát hiện kịp thời thì đây sẽ là nguyên
nhân phát sinh các khoản nợ khó đòi hay mất vốn.
Ngoài ra, còn có một số khách hàng muốn vay vốn ngân hàng nhưng lại
không muốn trả nợ cho ngân hàng, mặc dù có khả năng trả nợ ngân hàng. Đó là
một hành động có chủ ý. Loại nguyên nhân này được xếp vào nguyên nhân rủi ro
về tư cách, đạo đức của người vay. Rủi ro đạo đức cũng là một vấn đề do thông
tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Bên cho vay có thể
không biết, tất cả những gì mà họ cần biết về khách hàng để đưa ra quyết định
đúng đắn. Đây là nguyên nhân khá quan trọng gây ra nợ quá hạn và rủi ro tín
dụng cho ngân hàng. Trong những trường hợp này, phần lớn ngân hàng cần phải
có sự can thiệp, giúp đỡ của pháp luật.

1.2.2.2. Xuất phát từ phía Ngân hàng
Ngân hàng thiếu một chính sách rõ ràng, nhất quán hoặc chính sách tín
dụng không phù hợp với thực trạng nền kinh tế xã hội. Chính sách tín dụng phải
được hiểu theo nghĩa đầy đủ, bao gồm định hướng chung trong việc cho vay,
chính sách khách hàng, ngành nghề được ưu tiên… Chính sách tín dụng của một
ngân hàng là kim chỉ nam cho hoạt động tía dụng của ngân hàng đó. Khi chính
sách tín dụng không đầy đủ, đúng đắn và thống nhất, nó sẽ tạo ra định hướng
lệch lạc cho hoạt động tín dụng dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng,
thiếu hiệu quả, tạo ra kẽ hở cho người vay và các đối tượng khác lợi dụng, dẫn
đến rủi ro tín dụng.
Ngân hàng chưa thực sự chú trọng vào mục tiêu của khoản vay, tính toán
không đầy đủ chính xác, dẫn đến quyết định sai lầm trong cấp tín dụng. Việc
đánh giá về người vay, khoản vay chưa đúng mức, hoặc quá chủ quan, tin tưởng
vào người vay, coi nhẹ khâu kiểm tra, không kiểm tra toàn diện về tình hình tài
chính, phi tài chính của người vay, quá coi trọng tài sản thế chấp, bảo lãnh coi là
đảm bảo chắc chắn trong mọi trường hợp rủi ro, từ đó coi nhẹ tính khả thi và khả
năng hoàn vốn của bản thân dự án.
Cán bộ tín dụng ngân hàng chưa được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về
khía cạnh kinh tế kỹ thuật của dự án, của ngành kinh doanh của ngân hàng đầu
tư, không đủ năng lực them định một cách đầy đủ khoa hoạ về dự án đầu tư dẫn
đén xác định sai hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của người vay. Việc không
am hiểu về pháp luật cũng có thể dẫn đến các khoản vay không đảm bảo được
quyền lợi cho ngân hàng khi xảy ra tranh chấp trước pháp luật.
Ngân hàng thiếu thông tin tín dụng hoặc thông tin tín dụng không chính
xác, kịp thời, chưa có phân loại khách hàng , thiếu hệ thống phân tích , đánh giá
khách hàng một cách đầy đủ , khách quan, đúng đắn .Việc thiếu thông tin sẽ dẫn
đến nảy sinh vấn đề sự lựa chọn đối nghịch trước khi xảy ra giao dịch. Chọn lựa
đối nghịch xảy ra khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục
không mong muốn tức là những rủi ro không trả được nợ , họ lại tích cực tìm vay
nhất và do vậy họ có nhiều khả năng được vay nhất. Người cho vay do sự lựa

chọn đối nghịch dẫn đến có thể những người bị từ chối không cho vay lại là
những người trả được nợ, ngược lại những người được vay lại có phương án liều
lĩnh , do vậy họ đã bị thất bại và không trả được nợ .
Một bộ phận cán bộ ngân hàng yếu kém về năng lực, phẩm chất , lợi dụng
vị trí công tác để trục lợi, tham ô, thậm chí làm trái nguyên tắc gây nên nợ quá
hạn và thiệt hại cho ngân hàng .
Ngân hàng thiếu một cơ cấu theo dõi, quản lý rủi ro, chưa có hệ thống đo
lường, phân tán rủi ro theo từng loại khách hàng , ngành nghề hoặc địa bàn. Hệ
thống kiểm tra, kiểm soát yếu kém, lỏng lẻo không kịp thời phát hiện, chấn
chỉnh, sửa chữa các sai sót trong hoạt động kinh doanh nói chung và họat động
tín dụng nói riêng.
1.2.2.3. Các nguyên nhân khác
Sự biến động về kinh tế cũng là một trong những nguyên nhân gây nên nợ
quá hạn. Quy luật phát triển kinh tế mang tính chất chu kỳ, lúc thịnh vượng kinh tế
phát triển nhanh, doanh nghiệp sẵn có khả năng chi trả. Lúc suy thoái, sản xuất
kinh doanh đình đốn sẽ làm cho mọi hoạt động doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm
chí không trả được nợ ngân hàng gây tình trạng nợ quá hạn.
Sự biến động kinh tế chính trị trong khu vực và trên thế giới làm ảnh hưởng
đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời có thể dẫn đến sự thay đổi chính
sách, điều đó đã làm ảnh hưởng đến chất lượng các khoản tín dụng.
Thiên tai, địch hoạ là rủi ro bất khả kháng của ngân hàng và khách khi thực
hiện một hợp đồng vay. Khi rủi ro này xảy ra sẽ có ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh nghiệp, kéo theo ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nếu
rủi ro xảy ra lớn đòi hỏi phải có thời gian để ổn định sản xuất kinh doanh mới có
khả năng trả nợ, hoặc thậm chí không thể khắc phục được.
1.3. Ảnh hưởng của Nợ quá hạn
1.3.1. Đối với Ngân hàng
1.3.1.1. Nợ quá hạn làm giảm hiệu quả huy động vốn
Nợ quá hạn phát sinh đồng nghĩa với việc một phần vốn kinh doanh của
ngân hàng tồn đọng trong các khoản nợ này. Việc tồn đọng này làm cho ngân

hàng mất đi cơ hội làm ăn khác có thể đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng,
hay một phần vốn kinh doanh của ngân hàng bị tồn đọng trong các khoản nợ
này, và nó làm giảm vòng quay vốn của ngân hàng. Nói cách khác, nợ qúa hạn
phát sinh đã làm giảm doanh sè cho vay của ngân hàng,từ đó làm giảm hiệu quả
sử dụng vốn.
1.3.1.2. Nợ quá hạn làm giảm lợi nhuận
Thu nhập của ngân hàng chủ yếu phát sinh từ hoạt động cho vay của ngân
hàng. Đồng thời, nguồn vốn của ngân hàng chủ yếu từ nguồn vốn huy động phải
trả chi phí hu động vốn. Do vậy, khoản vay không thu hồi được dẫn đến một bộ
phận tài sản của ngân hàng đóng băng làm giảm thu nhập mà vẫn phải trả chi phí
huy động vốn.
1.3.1.3. Nợ quá hạn làm giảm khả năng thanh toán
Các khoản nợ quá hạn phát sinh làm thay đổi khách hàng cũng như nguồn
thanh toán tiền. Hơn nữa tỷ lệ nợ qúa hạn trên tổng dự nợ cao dẫn đến tình trạng
mất khả năng thanh toán của ngân hàng.Nếu khách hàng nắm được dấu hiệu này
sẽ ồ ạt đến rút tiền, và ngân hàng.
1.3.1.4. Nợ quá hạn làm giảm uy tín của ngân hàng
Do ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng tiền của người khác,
nên tỷ lệ nợ qúa hạn của ngân hàng cao, tức là chất lượng tín dụng của ngân hàng
không cao, có thể ảnh hưởng đến tính thanh toán của ngân hàng. Điều này sẽ làm
cho khách hàng không còn tin tưởng vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, dẫn tới việc giảm đáng kể các quan hệ giao dịch của ngân hàng.
1.3.1.5. Nợ quá hạn làm tăng nguy cơ phá sản
Đây là ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của nợ qúa hạn đối với hoạt động
ngân hàng. Nếu nợ qúa hạn ở mức độ cao, không sớm được hạn chế, sẽ dẫn tới
hàng loạt các ảnh hưởng xấu nêu trên, đồng thời dẫn tới đỉnh điểm là sự phá sản
của ngân hàng.
1.3.2. Đối với khách hàng
Trong nền kinh tế hiện đại, hầu hết các hoạt động thanh toán giao dịch của
khách hàng chủ yếu dùa vào vay vốn ngân hàng. Do vậy, tình trạng nợ qúa hạn

dây dưa khó đòi của khách hàng sẽ ảnh hưởng trực tiếp quan hệ của khách hàng
với ngân hàng, làm giảm tốc độ luân chuyển vốn của khách hàng. Lãi suất nợ qúa
hạn quy định bằng 150% mức lãi suất cho vay. Như vậy nếu một doanh nghiệp
phát sinh nợ qúa hạn sẽ làm tăng chi phí hoạt động lên. Điều đó càng làm tăng
gánh nặng trả nợ ngân hàng.
Việc phát sinh nợ quá hạn sẽ làm khách hàng mất uy tín đối với ngân
hàng. Vậy mà, trong hoạt động của minh, khách hàng rất cần có quan hệ với
ngân hàng. Nợ quá hạn phát sinh là vật cả lớn gây ra khó khan cho khách hàng.
Sé không còn có một ngân hàngân hàng nào muốn duy trì quan hệ lâu dài với
doanh nghiệp có tỷ lệ nợ qúa hạn cao.
1.3.3. Đối với nền kinh tế
Hệ thống ngân hàng tài chính là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và chứa
đựng nhiều rủi ro, chỉ cần một tổn thương nhỏ cũng có thể gây nên những xáo trộn
lớn trong quá trình điều hành nền kinh tế.
Nợ quá hạn gây lạm phát: Nợ quá hạn ở mức độ cao sẽ dẫn đến sự khan
hiếm vốn một cách giả tạo. một khối lượng lớn vốn tồn đọng trong các khoản nơ
quá hạn dấn đến tiền trong lưu thông giảm sút, gây sức ép tăng cung tiền mà hậu
qủa là lạm phát.
Nợ quả hạn làm đình trệ sản xuất: Nợ qúa hạn còn ảnh hưởng lớn đến việc
lưu thông tín dụng, làm cho vốn bị un tắc, không đến được nơi cần vốn để phát
triển hoạt động sản suất kinh doanh, gây đình đốn, ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển kinh tế.
Nợ qúa hạn làm khủng hoảng hệ thống tài chính tiền tệ ngân hàng, khủng
hoảng kinh tế: Ngân hàng là kênh chủ yếu, thực hiện huy động và cho vay phát
triển kinh tế, hoạt động ngân hàng là hoạt động khinh tế mang tính xã hội cao,
ảnh hưởng về chất lượng hoạt động ngân hàng mang tính dây chuyền. Tỷ lệ nợ
qúa hạn cao, nếu không dược kịp thời có biện pháp quản lý và xử lý sẽ gây ra
thua lỗ cho ngân hàng. Hoạt động huy động vốn, cho vay, đầu tư, do vậy bị thu
hẹp, ảnh hưởng tiều cực đến sự tăng trưởng của nền kinh tế, đồng thời trực tiếp
làm khủng hoảng kinh tế xã hội.

1.4. Biện pháp hạn chế nợ quá hạn
1.4.1. Đối với khách hàng
Khi phân tích từ góc độ khách hàng nên tập trung phân tích ở các khía cạnh sau:
 Tư cách pháp nhân của đơn vị vay vốn
Theo quy định của luật pháp thì chỉ có đơn vị pháp nhân mới có quyền ký
kết các hợp đồng kinh tế. Trong khi hợp đồng tín dụng cũng là một hợp đồng
kinh tế, cho nên Ngân hàng chỉ ký kết với các đơn vị có đây đủ tư cách pháp
nhân. Ở đây tư cách pháp nhân được hiểu là: Một tổ chức được nhà nước thành
lập hay cho phép thành lập một cách hợp pháp, phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ,
phải có tài sản độc lập với tài sản của tổ chức và cá nhân khác, tự nhân danh
mình tham gia các quan hệ quản lý và tự chịu trách nhiệm về tất cả hoạt động của
mình trong phạm vi phần tài sản mà mình quản lý.
Như vậy, Một đơn vị có đầy đủ tư cách pháp nhân phải có đầy đủ và hợp lệ
các giấy tờ:
+ Quyết định thành lập doanh nghiệp
+ Quyết định tổ chức
+ Giấy phép kinh
 Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh
Phân tích doanh thu của doanh nghiệp: Đây là cơ sở kinh tế cơ bản phản
ánh chất lượng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu doanh thu càng lớn thì
doanh nghiệp càng có thể tăng thu nhập, có điều kiện mở rộng sản xuất kinh
doanh, tăng khả năng trả nợ vay cho ngân hàng. Nhưng doanh thu của doanh
nghiệp tăng nhanh trong kỳ có thể là do những thu nhập bất thường trong kinh
doanh. Khi quyết định cho vay ngân hàng phải chú ý .
 Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp
Trên cơ sở báo cáo tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm gần nhất,
Ngân hàng thương mại sẽ đánh giá dược doanh nghiệp thừa vốn hay thiếu vốn,
việc sử dụng tài chính của doanh nghiệp có tốt hay không, từ đó sẽ đánh giá được
mức độ rủi ro của khoản vay sau này.
Khi phân tích tình hình tài chính của đơn vị, Ngân hàng thương mại

cần sử dụng các chỉ tiêu như:
- Tỉ số chênh lệch giữa vốn tự có/ vốn sử dụng, hạn chế không cho những
doanh nghiệp có vốn tự có thấp vay để hạn chế thấp nhất rủi ro cho khoản vay.
- Chênh lệch giữa các khoản phải trả/ phải thu: Chênh lệch này cho biết tỉ
lệ vốn đi chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng là bao nhiêu. Khi xem xét chỉ tiêu
này ngân hàng sẽ thấy được ảnh hưởng của nó đến khả năng hoàn trả khoản vay
đúng hạn của khách hàng.
- Khả năng thanh toán : một doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt là có
khả năng tự cân đối các khoản nợ khi đến hạn. Nếu doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán thì khoản tín dụng của ngân hàng sẽ gặp rủi ro cao.
 Phân tích dự án vay vốn của khách hàng
Phân tích tính pháp lý của dự án: Để thực thi một dự án thì trước hết dự án
đó phải có tính pháp lý. Tính pháp lý của dự án phải thoả mãn các điều kiện sau:
Mục đích đầu tư của dự án phải phù hợp với mục đích hoạt động của doanh
nghiệp mà cấp có thẩm quyền đã phê duyệt. Dự án phải được cấp có thẩm quyền
phê duyệt.
Phân tích tính khả thi của dự án: Ngân hàng phải xem xét nguồn nguyên
vật liệu này được cung cấp từ nguồn nào, có dễ kiếm tìm, hay được thay thế hay
không, có ổn định không. Chất lượng của nguyên vật liệu có được đảm bảo, giá
cả có hợp lý hay không. Bởi tất cả các yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến kết
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến khả
năng trả nợ vay cho ngân hàng.
Phân tích hiệu quả kinh tế do dự án đem lại:
Ta có chỉ tiêu sau:
Hiệu quả kinh tế =
Lợi nhuận thu được của dự án
Tổng số vốn đầu tư bỏ vào dự án
Chỉ tiêu này cho biết : Cứ mỗi đồng vốn bỏ ra thì doanh nghiệp thu lại
được bao nhiêu phần lợi nhuận. Dựa vào chỉ tiêu này, ngân hàng sẽ biết được
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp có tốt hay không.

Mỗi dự án sản xuất đều có sự tham gia của ngân hàng dưới hình thức cho
vay vốn, khi đó doanh nghiệp sẽ phải chịu một mức lãi suất theo quy định cho
khoản vay đó. Hiệu quả kinh tế do dự án đem lại phải đảm bảo lớn hơn mức lãi
suất mà ngân hàng cho vay, như vậy mới đảm bảo cho doanh nghiệp khả năng trả
vốn và lãi cho ngân hàng một cách đầy đủ. Đây là chỉ tiêu quan trọng để ngân
hàng có quyết định cho vay hay không.
Phân tích khả năng đáp ứng về vốn cho dự án:
Để thực hiện một dự án, điều đầu tiên và rất quan trọng là phải có vốn.
Khi xem xét về nguồn vốn cung cấp cho dù án, phải xem xét xem nguồn vốn
được cung cấp từ nguồn nào, có đảm bảo an toàn và ổn định hay không.
Tóm lại, nhờ vào việc phân tích đánh giá khách hàng và dự án mà khách
hàng xin vay vốn đã giúp cho ngân hàng lắm bắt được tình hình hiện tại và trong
tương lai của doanh nghiệp, khả năng đầu tư, hiệu quả đầu tư có thể đạt được của
dự án để từ đó đưa ra quyết định cho vay đúng đắn nhất, hạn chế được nợ qua
hạn phát sinh.
1.4.2. Đối với Ngân hàng
 Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng
Công việc của các ngân hàng thương mại không chỉ là phân tích đánh giá
yếu tố khách hàng mà phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt
động tín dụng.
Kiểm tra việc chấp hành kế hoạch dư nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
xem có phù hợp với cơ cấu nguồn vốn, có những biện pháp để khỏi tăng nguồn
vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất của các tổ chức kinh tế trên địa bàn.
Kiểm tra hồ sơ cho vay, đánh giá chính xác về tính hợp pháp, hợp lệ của
hồ sơ vay. Đặc biệt là tính pháp lý và tính thực tiễn của những tài liệu trong hồ sơ
vay vốn như: Đơn xin vay, phương án sản xuất, tình hình tài chính của đơn vị
(1)
vay, hồ sơ đảm bảo nợ vay, giấy phép kinh doanh, giá trị của tài sản đảm bảo,
hợp đồng mua bán vật tư
Kiểm tra về một số chỉ tiêu như: Thời hạn cho vay, thời hạn gia nợ, mức

tín dụng được cấp. Khi kiểm tra thời hạn cho vay phải xác định cơ sở của thời
hạn cho vay có phù hợp với sự luân chuyển vốn của đối tượng vay. Gia hạn nợ
phải đảm bảo tuân thủ quy trình ra hạn nợ, đặc biệt là hướng khắc phục giải
quyết khoản nợ sau khi gia hạn của khách hàng. Về mức tín dụng được cấp phải
làm rõ cơ sở xác định mức tín dụng thông qua việc xem xét nhu cầu vay, khả
năng đáp ứng của ngân hàng, giá trị tài sản làm đảm bảo. Kiểm tra về việc bảo
quản tài sản thế chấp cầm cố.
Kiểm soát về an toàn vốn vay: gồm các điều kiện về đảm bảo an toàn tiền
vay, thực hiện quy chế an toàn vốn, các biện pháp bảo đảm tín dụng và hạn chế
rủi ro. Phân loại các khoản nợ theo từng nhóm được quy định trong quyết định
299-QĐ/NH5 ngày 133/11/1996 của thống đốc ngân hàng:
+ Các khoản vay có khả năng hoàn trả nợ theo đúng quy định trong hợp
đồng.
+ Các khoản vay không trả được một phần hay toàn bộ gốc, lãi trong vòng
180 ngày kể từ ngày đến hạn trả.
+ Các khoản vay không trả được một phần, hay toàn bộ gốc và lãi trong
vòng từ 181 ngày đến 360 ngày kể từ ngày đến hạn trả.
+ Các khoản vay không trả được một phần hay toàn bộ gốc và lãi trong
khoảng thời gian >360 ngày.
Việc kiểm soát được thực hiện trên mọi lĩnh vực hoạt động của tín dụng.
Song các ngân hàng cần tập trung vào một số các vấn đề hay có sai sót trong quá
trình thực hiện.
 Nâng cao chất lượng công tác thông tín dụng
Thông tin về khách hàng và môi trường kinh doanh tác động lên cả ngân
hàng và người vay vốn. Thông tin từ khách hàng được thu thập bao gồm: giấy
phép đăng ký kinh doanh, giấy phép thành lập, báo cáo tài chính, hợp đồng cung
cấp nguyên vật liệu, giá trị tài sản thế chấp so với thị trường, kết quả kinh doanh.
Trên thực tế không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng sử dụng có hiệu
quả vốn vay. Ngân hàng thương mại còn rơi vào tình trạng mất vốn hay thâm hụt
vốn do sự giả danh hay mạo nhận doanh nghiệp gây ra rủi ro, tổn thất cho ngân

hàng. Chính vì vậy mà vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng là việc làm hết sức
cần thiết. Nhận thấy sự cấp thiết của vấn đề, ngân hàng nhà nước đã xây dựng hệ
thống thông tin phòng ngừa rủi ro của ngành ngân hàng gọi tắt là CIC (Credit
Imformation Center). Hệ thống CIC đã phần nào làm giảm tình trạng thiếu thông
tin tín dụng phục vụ công tác cho vay của các ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng.
 Phân tích khả năng mở rộng hay thu hẹp tín dụng trong từng thời kỳ
Nên mở rộng hay thu hẹp tín dụng trong từng thời kỳ khác nhau, các ngân
hàng thương mại phải phân tích đánh giá trước hết ở tầm vĩ mô. Đó là, việc nắm
bắt kịp thời thông tin về các chính sách của nhà nước đối với nền kinh tế nói
chung và đối với hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng. Như vậy sẽ làm giảm
được các rủi ro xảy ra do sự thay đổi của chính sách.Trong điều kiện các văn bản
pháp luật chưa hoàn thiện như nước ta hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại
phải chú ý đến các chính sách tín dụng của mình sao cho phù hợp với tình hình
hiện tại và có thể phát triển trong tương lai.
 Thực hiện tốt việc đôn đốc thu nợ và lãi phù hợp với từng khoản vay
Đối với những khoản nợ có khả năng thu hồi thì chỉ cần đôn đốc việc trả
nợ khi thời điểm đáo hạn sắp đến. Còn với những khoản vay có dấu hiệu xấu thì
phải có các biện pháp kịp thời như : Đưa ra các lời khuyên, cố vấn cho doanh
nghiệp về sẩn phẩm, biện pháp thu nợ, phương án sản xuất kinh doanh. Tạo điều
kiện cho doanh nghiệp thu hồi được vốn và trả nợ vay cho ngân hàng đúng thời
hạn hay có thể gia hạn nợ, rút bớt mức chi trả định kỳ trong một thời gian…với
những khoản nợ quá hạn thông thường thì áp dụng các biện pháp xử lý cơ bản:
Thúc nợ: là biện pháp đệm chuẩn bị cho bước khởi kiện qua việc kết hợp
với chính quyền địa phương gây áp lực thu hồi nợ. Biện pháp này áp dụng với
các khách hàng có các điều kiện sau:
+ Món tiền vay nhỏ, hay món tiền vay lớn nhưng đã trả được một phần nợ gốc và
có khả năng trả nợ nếu có sự thúc ép từ chính quyền địa phương.
+ Có tài sản thế chấp chính phủ.
+ Có tài sản và nguồn thu khác có thể trả nợ cho Ngân hàng.

Gán nợ: là hình thức cần trừ nợ bằng cách chi nhánh mua lại tài sản thế
chấp cầm cố của người vay với giá cả hợp lý. Biện pháp này áp dụng vớ các
khách hàngcó điều kiện sau: Khi có giấy uỷ quyền cho Ngân hàng Ngân hàng
NN&PTNT Chi nhánh Thăng Long bán tài sản thế chấp cầm cố hay cam kết gán
nợ, sẵn sàng bán tài sản trả nợ cho chi nhánh; khách hàng không có nguồn trả nợ
nào khác ngoài việc bán tài sản.
Khởi kiện: là bước xử lý sau cùng khi các bước xử lý trên đã được thực
hiện nhưng vẫn không thu hồi được nợ. Biện pháp này được áp dụng với các đối
tượng sau:

×