Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

ca dao, dân ca khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.77 KB, 16 trang )

1. Khái niệm ca dao, dân ca
 Ca dao là khái niệm tương đương, chỉ các thể loại trữ tình dân gian,
diễn tả đời sống nội tâm con người. Ca dao là một từ Hán-Việt, theo
từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn,
không có giai điệu, chương khúc. Ca dao là bài hát có hoặc không có
chương khúc, giai điệu, là một bộ phận lớn của nền Văn học dân gian
Việt Nam.
 Ca dao, dân ca là một. Tuy nhiên, ca dao là thiên về nghiên cứu lời,
còn dân ca là thiên về nghiên cứu về âm nhạc, giọng điệu, nhịp điệu
2. Khái quát về Khánh Hòa
 Khánh Hòa là một tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, giáp với
tỉnh Phú Yên về hướng Bắc, tỉnh Đắk Lắk về hướng Tây Bắc,
tỉnh Lâm Đồng về hướng Tây Nam, tỉnh Ninh Thuận về hướng Nam,
và Biển Đông về hướng Đông.
 Khánh Hòa hiện nay bao gồm 2 thành phố trực thuộc tỉnh (Nha
Trang và Cam Ranh), 1 thị xã (Ninh Hòa) và 6 huyện (Vạn
Ninh, Diên Khánh, Khánh Vĩnh, Khánh Sơn, Cam Lâm và huyện đảo
Trường Sa). Một phần quần đảo Trường Sa (huyện Trường Sa) nằm
dưới sự quản lý của tỉnh Khánh Hòa, nhưng bị tranh chấp về chủ
quyền bởi một số quốc gia khác.
 Khánh Hòa có bờ biển dài hơn 200 km và gần 200 hòn đảo lớn nhỏ
cùng nhiều vịnh biển đẹp như Vân Phong, Nha Trang,Cam
Ranh cùng Khu Du Lịch Quốc Tế Bắc Bán Đảo Cam Ranh, với khí
hậu ôn hòa, và nhiều di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng khác. Với những
lợi thế đó Khánh Hòa đã trở thành một trong những trung tâm du lịch
lớn của Việt Nam.
 Khánh Hoà là một miền đất độc đáo về địa lý và phong cảnh thiên
nhiên. “Non cao, biển rộng” đan xen, giao hoà làm nên một vẻ đẹp tự
nhiên kỳ thú, một hòn ngọc quý mà tạo hoá ban tặng cho con người.
Một miền đất như thế ắt sẽ là cái nôi nuôi dưỡng những tâm hồn thi
ca, là môi trường diễn xướng của ca dao, dân ca.


 Vốn là tiếng nói của người lao động, ca dao, dân ca “trao đổi với thiên
nhiên nhiều hơn là giao tiếp với xã hội”. Thiên nhiên càng hữu tình thì
nhu cầu trao đổi, giao lưu của con người với thiên nhiên càng lớn. Có
thể coi đây là một giả thiết để xem xét trữ lượng ca dao, dân ca ở
Khánh Hoà.
 Tuy vậy cho đến nay chưa ai trả lời được câu hỏi ở Khánh Hoà có
khoảng bao nhiêu bài ca dao, dân ca? Vì thế mà việc nghiên cứu sưu
tầm văn học dân gian nói chung và ca dao, dân ca nói riêng ở Khánh
Hoà còn gặp không ít khó khăn.
3. Sưu tầm ca dao, dân ca các dân tộc ở Khánh Hòa
3.1. Ca dao, dân ca dân tộc Kinh
3.1.1. Ca dao, dân ca với phong cảnh và sản vật Khánh Hòa
3.1.1.1. Ca dao, dân ca với phong cảnh
 Ca dao, dân ca Khánh Hoà nhắc tên những miền đất như: Vạn Giã,
Tu Bông, Ninh Hoà, Nha Trang, Cam Ranh, Diên Khánh, …; những
con sông, con suối như: sông Dinh, sông Cù, sông Cái, suối Tiên, suối
Đổ, suối Ngổ, …; những hòn đảo và núi như: hòn Hèo, hòn Đỏ, hòn
Kẽm, hòn Chữ, hòn Dữ, hòn Dung, hòn Chồng, ….
 Việc nhắc đến nhiều địa danh không những chứng tỏ sự phong phú
của ca dao, dân ca Khánh Hoà mà còn là căn cứ quan trọng để xác
định ca dao, dân ca Khánh Hoà, phân biệt với ca dao, dân ca của các
miền đất khác. Đồng thời qua đó ta cũng thấy được sự đa dạng của
thiên nhiên và địa hình mang đậm dấu ấn địa phương Khánh Hoà:
• Suối Tiên với không gian yên tĩnh, khoáng đạt, với dòng nước trong
mát, êm trôi đã tạo nên sự hài hòa giữa thiên nhiên, mang lại cho con
người những phút thư giãn, sảng khoái. Đó là cảnh đẹp nơi trần thế.
Suối Tiên nước chảy lững lờ
Tiên đi đâu, để bàn cờ rêu phong
Nước mây vắng vẻ tăm mòng
Bền gan nay vẫn rày mong mai chờ.

Mỗi một con người Khánh Hòa chắc hẳn không ai là không nhớ về sự tích
suối Tiên, một con suối thơ mộng, một thiên nhiên
hữu tình.Tương truyền xưa kia tiên ở trên trời
thường xuống đây tắm, đánh cờ, vui chơi. Ngày
nay nơi đây trở thành một thắng cảnh. Khách
du lịch trong và ngoài nước đến đây tận hưởng
cái không khí trong lành, tắm mát, phơi mình trên
các tảng đá ở giữa dòng suối và mơ màng về cái thuở Tiên còn về trần thế.
• Bãi biển Nha Trang, một phong cảnh hữu tình, nên thơ:
Bãi biển Nha Trang mịn màng trắng trẻo
Nước trong leo lẻo, gió mát trăng thanh
Đêm đêm thơ thẩn một mình
Đố sao cho khỏi vương tình nước mây
Cát trắng, nước trong, trăng thanh, gió mát.
Thiên nhiên quả là ưu đãi đối với thành phố
Nha Trang nói riêng, tỉnh Khánh Hòa nói
chung. Đó là một thiên nhiêu dịu êm, hiền
hòa, thân thiện với con người, nó khơi dậy
những nỗi niềm thầm kín trong sâu thẳm
tình cảm con người, đó là nỗi vấn vương, cùng khát vọng giao hoà với thiên
nhiên của con người.
• Thiên nhiên thơ mộng, thuận hoà là đặc điểm của vùng đất:
Tỉnh Khánh Hoà đậm đà mưa nắng
Non chồng nghĩa nặng, nước chứa tình thâm
Ngọn gió bay phảng phất hương trầm
Mây xây Tháp Bút, trăng dầm Bến Ngân.
Chỉ với bốn câu mà đã khái quát được đặc trưng khí hậu Khánh Hoà mưa
nắng rất điều độ và mùa mưa không “lạnh cắt ruột”,“lạnh nhức xương” như
ở Huế, ở Cao Nguyên. Trong mưa có khí ấm, trong nắng có khí mát. Đúng
là cái mưa, cái nắng cũng có mối tình sâu đậm với con người. Nó là thứ keo

gắn kết con người với quê hương xứ sở, để ai đó vì một lý do gì phải đi xa
vẫn hướng về quê hương thiết tha, chung thuỷ.
• Nhiều địa danh thuộc tỉnh Khánh Hòa được nhắc đến trong
mảng ca dao, dân ca nói về thời tiết:
Bao giờ Hòn Đỏ mang tơi
Hòn Hèo đội mũ thì trời sắp mưa.
• Đặc biệt, ở Khánh Hòa có khu di tích Tháp Bà, thuộc phường Vĩnh
Phước, TP. Nha Trang. Đây là một trong những kiến trúc đền tháp
Chăm còn lại đẹp nhất hiện nay, đã được Nhà nước công nhận là di
tích văn hóa quốc gia. Hàng năm cứ đến
ngày 23 tháng ba (lịch trăng), lễ hội Tháp
Bà được tổ chức rất lớn. Trong lễ hội, ngoài
lễ tắm tượng, còn có múa quạt, múa đèn,
dâng bông, hát bóng. Hiện nay dưới chân
Tháp Bà còn có một làng gọi là Xóm Bóng
(xóm của những người hát bóng chuyên nghiệp). Trước khi Nhà nước
ta xếp hạng, công nhận di tích này, ca dao địa phương đã lưu giữ nó
trong tâm trí nhiều người:
Ai về Xóm Bóng quê nhà
Hỏi thăm điệu múa Dâng Bà còn không?
Điệu múa Dâng Bà đã trở thành nghi lễ trong lễ hội, để tưởng nhớ, ca ngợi
Bà mẹ xứ sở Thiên Y A Na. Như thế tình yêu quê hương đã gắn liền với ý
thức giữ gìn, trân trọng những truyền thống lịch sử, văn hoá.
 Ca dao, dân ca về phong cảnh Khánh Hoà mang tính chất địa phương,
đặc thù rõ nét: Khác với ca dao Bắc Bộ, phong cảnh thiên nhiên là
những cánh đồng bát ngát, thẳng cánh cò bay, những ngọn núi xa
“mây mù che phủ”, khác với ca dao, dân ca Nam bộ, phong cảnh thiên
nhiên là những miệt vườn, sông nước, kinh rạch, trong ca dao, dân ca
Khánh Hoà, phong cảnh thiên nhiên nổi bật lên hình ảnh non nước,
núi biển. Không ở đâu non và nước giao thoa một cách sống động và

ân tình đến thế.
3.1.1.2. Với sản vật
 Phong cảnh thiên nhiên Khánh Hoà không chỉ đẹp một cách đơn
thuần mà bao giờ cũng gắn liền với những sản vật quý, đặc trưng cho
một miền quê nào đó:
• Trầm hương, yến sào là đặc sản quý
hiếm mà thiên nhiên đã ưu đãi cho Khánh
Hoà cả về số lượng và chất lượng. Không
phải ngẫu nhiên mà Khánh Hoà cón có một
tên gọi thứ hai là Xứ Trầm Hương. Sản vật
trầm hương, yến sào đi vào ca dao, dân
ca đã làm nên tính chất địa phương Khánh Hoà. Cho nên trầm hương,
yến sào không dừng lại ở giá trị sản vật mà đã trở thành biểu tượng
của quê hương non nước Khánh Hoà.
Khánh Hòa là xứ trầm hương
Non cao, biển rộng, người thương đi về
Yến sào ngon ngọt tình quê
Sông sâu đá tạc lời thề nước non.
Hoặc:
Khánh Hòa biển rộng non cao
Trầm hương Vạn Giã, yến sào Nha Trang.
• Trầm hương quý còn bởi nó được dùng làm thuốc chữa bệnh. Nó gắn
bó với con người khi ốm đau, trái gió trở trời, thất thường mưa nắng,
với tình chồng, nghĩa vợ hôm sớm, buồn vui, tan hợp. Trầm hương
nhắc người ta đừng quên nhân nghĩa ân tình:
Anh ngồi trong bếp lửa đau cái bụng
Em ngoài cửa nát nửa lá gan
Biết thuốc chi mà chữa bệnh cho chàng
Lấy trầm hương cho uống sao chàng vội quên.
• “Miếng ngon nhớ đời”. Từ nỗi nhớ vị ngon ngọt của món ăn, người ta

nhớ đến tên đất, tên làng, tên sông, tên hồ… quê hương của vị ngon
ngọt đó:
Yến sào hòn Nội
Vịt lội Ninh Hoà
Tôm hùm Bình Ba
Nai khô Diên Khánh
Cá tràu Võ Cạnh
Sò huyết Thuỷ Triều
Đời anh cay đắng đã nhiều
Về đây ngọt sớm, ngon chiều với em.
 Sản vật có loại do thiên nhiên ưu đãi, cũng có loại do con người vất vả
làm ra, nhưng tất cả đều được ca dao, dân ca nhắc đến bằng một thái
độ trân trọng tự hào:
Khoai lang hòn Chúa, đậu phụng hòn Dung
Chồng đào vợ mót đổ chung một gùi
 Ca dao, dân ca về sản vật Khánh Hoà thường đi đôi với tình cảm
con người mà nhất là tình yêu đôi lứa. Không ít những câu ca dao,
dân ca mượn sản vật để tỏ tình, hay giãi bày tâm sự buồn vui, yêu
thương, hờn giận:
Cây quế Thiên Thai mọc bên khe đá
Trầm nơi Vạn Giã hương toả Sơn lâm
Đôi đứa mình đây như quế với trầm
Trời xui, đất khiến sắt cầm trăm năm.
3.1.1.3. Tóm lại
Có thể nói ca dao, dân ca về phong cảnh và sản vật Khánh Hoà khá phong
phú. Đó là sự phong phú của một miền đất nhiều cảnh đẹp, nhiều sản vật
quí, nhiều thức ăn ngon. Trong bối cảnh đó, con người là nhân vật trung tâm,
với tình yêu thiên nhiên đất nước vô bờ, tình yêu con người đằm thắm sâu
nặng và một thái độ trân trọng lịch sử.
3.1.2. Ca dao, dân ca với xã hội và con người Khánh Hòa

Một bộ phận lớn ca dao, dân ca Khánh Hoà đề cập đến con người, nói thiên
nhiên, nói sản vật cũng để nói về con người. Trước tiên ta xem xét con
người Khánh Hoà ở góc độ xã hội.
3.1.2.1. Với xã hội
 Nếu như ca dao, dân ca Bắc bộ và Nam bộ chứa đựng những bức
tranh xã hội rộng lớn và đậm nét thì ca dao, dân ca Khánh Hoà ít đề
cập đến mâu thuẫn xã hội, đấu tranh giai cấp, vấn đề giàu nghèo, thân
phận con người.
• Dưới chế độ phong kiến, những vùng đất dù khác nhau cũng đều
chung một gầm trời. Bất công, đau khổ, đói nghèo là căn bệnh vô
phương cứu chữa của xã hội cũ. Vậy mà trong ca dao, dân ca Khánh
Hoà ít khi có tiếng thở dài, than thân, trách phận, những lời phản
kháng, hay thái độ vùng lên…
• Những bi kịch của người phụ nữ như: cảnh mẹ chồng nàng dâu, chồng
ngược đãi, cảnh lẽ mọn, lao động nặng nhọc, nghèo túng… trong ca
dao, dân ca Khánh Hoà cũng không đậm nét như ca dao, dân ca của
một số vùng đất khác.
• Cái nghèo được nói đến trong ca dao, dân ca Khánh Hoà nhưng chủ
yếu là lời tâm sự, sẻ chia, không nhuốm màu bi quan, trái lại chứa
đựng niềm hy vọng ở sự đổi đời:
Đừng than cái áo rách tay
Trời kia ngó lại vá may mấy hồi
 Ca dao, dân ca Khánh Hoà đôi khi cũng có những lời than thở về tình
duyên trắc trở, đổi thay, tan vỡ. Tình trạng gả bán, ép duyên, sản
phẩm của những luật lệ phong kiến hà khắc: trọng nam khinh nữ, cha
mẹ đặt đâu con ngồi đấy… đã đẩy con người đến chỗ bế tắc. Họ yêu
nhau nhưng không có quyền quyết định hạnh phúc của mình:
Lửa nhen mới bén duyên cầm
Trách lòng cha mẹ nỡ cầm duyên con.
 Tình yêu có thể vượt qua thử thách của không gian, đèo cao, dốc

đứng, nhưng khó lòng vượt qua trở lực phong kiến mà hiện thân của
nó không ai xa lạ chính là mẹ, cha của chàng trai, cô gái:
Trèo lên Đèo cả
Ngó xuống Vạn Giã – Tu Bông
Biết rằng phụ mẫu có đành không
Để em chờ, anh đợi uổng công hai đàng.
4. Nhìn chung ca dao, dân ca Khánh Hoà ít nói đến cái nghèo, ít nói đến
mâu thuẫn giai cấp và các quan hệ xã hội phức tạp khác. Đây cũng là
một đặc điểm rất đáng lưu ý. Có lẽ nhờ sự ưu đãi của thiên nhiên nên
từ bao đời người Khánh Hoà kiếm miếng ăn không đến nỗi quá nhọc
nhằn như ở những vùng đất khác. Vì vậy mà trong ca dao, dân ca
Khánh Hoà ta cũng ít gặp những cảnh một nắng hai sương, lên thác
xuống gềnh. Mặt khác thiên nhiên Khánh Hoà không chỉ mưa nắng
thuận hoà, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, mà còn rất hữu tình,
chính thiên nhiên dã góp phần làm nên tâm hồn tính cách của người
Khánh Hoà: gắn bó, giao hoà với cảnh vật, non nước và chan chứa
tình yêu con người.
Ninh Hòa có núi có non
Có song có biển, có hòn Vọng Phu
Có hòn Khói, có hòn Du
Có lăng Bà Vú, có tiên du hòn Hèo
Chùa Kì vắng vẻ trăng treo
Kỳ lân dạo sớm bắt heo, bắt gà
Từ khi giặc nổi cau qua
Xa em, hòn Giữ, hòn Bà cũng xa.
4.1.1.1. Với con người
 Tính cách con người ở một địa phương, một vùng đất nào đó được
hình thành bởi rất nhiều yếu tố như: hoàn cảnh tự nhiên, xã hội, điều
kiện lao động và quá trình lịch sử…
• Người Khánh Hoà có lòng yêu quê hương đất nước sâu nặng. Tình

yêu ấy thể hiện ở niềm tự hào về phong cảnh xinh đẹp, sản vật phong
phú và những con người anh hùng đã làm rạng rỡ non sông.
• Giá trị cao quí của độc lập tự do đã được người dân Khánh Hoà nhận
thức sâu sắc. Mượn lời mẹ nói với con, thế hệ trước nói với thế hệ
sau, ca dao đã nhắc nhở mọi người nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc độc lập
tự do. Yêu nước, xả thân vì đất nước được xem là chuẩn mực đạo đức,
tài năng của con người:
Nghe lời mẹ đứng lên
Nước không độc lập sống gì hỡi con
Trai tài yêu nước, yêu nhà
Nước kia có trọn thì nhà mới yênm
• Người Khánh Hoà vốn không ưa khuếch trương, sống thiên về nội
tâm, tình cảm rất dồi dào và chân thành. Cách nói, cách bộc lộ tình
cảm của ca dao Khánh Hoà không sôi nổi, bóng gió và có phần hoa
mỹ như ca dao Bắc bộ, cũng không thẳng thắn, bộc trực như ca dao
Nam Bộ. Tình yêu, tình vợ chồng, tình me ïcon, gia đình, tình
người… tất cả được diễn đạt một cách rõ ràng, cụ thể, ít ẩn dụ xa xôi
mà rất thắm thiết, rất thật:
Gió đâu bằng gió Tu Bông
Thương ai bằng thương cha , thương mẹ, thương chồng thương con.
Tu Bông là một vùng làng dưới chân đèo Cả, ba bề có núi bao bọc tạo thành
cái rốn gió, xưa kia đất này còn gọi là Tụ Phong. Tục ngữ có câu “Mưa
Đồng Cọ, gió Tu Bông”. Mưa Đồng Cọ rất lớn. Gió Tu Bông rất mạnh và
xoáy. Tình cảm gia đình được ví như cái gió Tu Bông nồng nàn, mãnh liệt.
• Tình cảm mẹ con không chỉ được sánh với núi cao, biển rộng, với
những cơn gió quê nhà, mà còn được thể hiện bằng việc làm cụ thể,
lao động chăm chỉ để phụng dưỡng mẹ già.
Cầm cần câu cá liệt xuôi
Lấy tiền mua gạo mà nuôi mẹ già.
 Hôn nhân là một đề tài lớn trong ca dao, dân ca của mọi miền đất

nước. Từ các khía cạnh của đời sống hôn nhân và gia đình, ca dao,
dân ca phản ánh những vấn đề xã hội. Hình ảnh “đèo”, “hòn” xuất
hiện nhiều trong ca dao Khánh Hoà. Có lẽ đây cũng là một nét chung
của ca dao miền Nam Trung bộ, dải đất Khu V dằng dặc, chạy ven
biển, lắm núi, nhiều đèo, nhiều đảo.
• Vợ chồng nghĩa nặng tình thâm cũng ví như con đèo sừng sững,
ví như hòn đảo trơ gan giữa đất trời.
Đèo nào cao bằng đèo Rọ Tượng
Nghĩa nào trượng bằng nghĩa phu thê.
• Trai gái yêu nhau mượn hình ảnh con đèo, cái hòn để tỏ tình, thề thốt.
Anh đứng ở Nha Trang
Trông sang xóm Bóng
Ánh trăng lờ mờ, lượn sóng lăn tăn
Gần nhau chưa kịp nói năng
Bây giờ sông cách, biển ngăn ngại ngùng!
Biển sâu con cá vẫy vùng
Sông sâu không dễ mượn dòng đưa thư
Anh nguyền cùng em:
Bao giờ Hòn Chữ bể tư
Biển Nha Trang cạn nước anh mới từ nghĩa em.
Hòn Chữ là một hòn đá rất to như một ngôi nhà nằm nơi bãi sông Cù, trên
có khắc chữ Chăm cổ. Các nhà khảo cổ học ngờ rằng hòn đá xưa kia nằm
trên núi Tháp Bà do đất lở, lăn xuống dòng song.
Hay:
Anh thương em đặng nghĩa vuông tròn
Mấy sông cũng lội mấy hòn cũng qua.
Hay:
Đứng ở Hòn Chồng, trông sang Hòn Yến
Lên Tháp Bà, về viếng Sinh Trung
Giang Sơn cẩm tú chập chùng

Đôi ta gắn bó thủy chung một lòng.
 Ca dao Khánh Hoà nói về biển, về cá tôm cũng nhiều như nói về
những con đèo. Đã từ lâu đời người Khánh Hoà sống chủ yếu bằng
nghề đi núi và đi biển. Do đó tình yêu, tình người gắn với quế, với
trầm, với tôm cá, đó , đăng:
Đôi ta như cặp cá bè
Lênh đênh trên biển ai dè gặp nhau
Đôi ta như cặp cá sơn
Ăn trên mặt nước, đợi cơn mưa rào.
• Và để nhắn nhủ nhau yêu thương, chung thuỷ, trai gái thường nhắc
đến các công việc quen thuộc thường ngày của nghề biển:
Anh đừng ham đó, bỏ đăng
Ham lê quên lựu, ham trăng quên đèn.
 Từ ca dao Khánh Hoà ta có thể hình dung được diện mạo con người
Khánh Hoà: yêu nhiều hơn ghét, thương nhiều hơn giận, lấy hoà khí
làm trọng, không ưa đấu lý, lao động chân chỉ, luôn luôn có một niềm
tin ở thời gian, cuộc sống và những giá trị.
Dó lâu năm dó thành kỳ
Đá kia lăn lóc có khi hoá vàng.
Đó cũng là lý do vì sao những tâm trạng buồn chán, thất vọng bi lụy thường
vắng bóng trong ca dao Khánh Hoà.
 Để giữ gìn non sông tươi đẹp, để bảo vệ thành quả lao động của cha
ông, nhiều khi người dân đã phải cầm vũ khí chống giặc ngoại xâm.
Dưới hình thức hỏi đáp, ca dao Khánh Hòa đã tạc bia ghi công những
người con ưu tú của tỉnh nhà:
Đầu tiên cô gái hỏi:
"Tiếng đồn anh hay chữ
Lại đây em hỏi thử
Đôi câu lịch sử Khánh Hòa
Từ ngày Tây cướp nước ta

Những ông nào đã dựng cờ khởi nghĩa,
Anh hãy nói ra cho em tường?"
Chàng trai trả lời:
Nghe lời em hỏi mà thương!
Thương người nghĩa kiệt, tơ vương vấn lòng
Vì thù non sông
Thề không đội trời chung với giặc
Từ Nam chí Bắc
Thiếu chi trang dạ sắt, gan đồng
Ở Khánh Hòa thì có ba ông
Ông Trần Đường giữ đèo Dốc Thị
Ông Trịnh Phong trấn nơi biển Cù
Ông Nguyễn Khanh lo việc quân nhu
Ba ông một bụng nghìn thu danh truyền"
Cô gái đâu đã "chịu thua":
"Ba ông là bậc anh hiền
Gọi "Khánh Hòa tam kiệt"
Người người đều biết
Đều thương đều tiếc
Chưa thỏa nguyền núi sông
Tấm thân xem nhẹ như lông hồng
Hỏi anh còn nhớ "Quảng Phước tam hùng" là ai?"
Cũng may là chàng trai không phải tay vừa:
"Dám đâu quên kẻ anh tài
Rèn gan sắt đá khôn nài bể dâu
Gương phấn dũng làu làu Phạm Chánh
Cùng Phạm Long chung gánh nước non
Cha con trung nghĩa vẹn tròn
Cùng Nguyễn Sung nguyện mất còn có nhau
Bao phen cay đắng hận thù

Tam hùng, tam kiệt nghìn thu trăng rằm".
4.2. Ca dao, dân ca các dân tộc ít người
4.2.1. Ca dao, dân ca của dân tộc Raglai
Đốt cây lồ ô vướng cây le
Khôn nhìn mặt, dại nhìn gan
Nói nhiều lỏng lạt, nói ít nắm chặt
Lội nước ước chân, uống rượu xỉn mặt.
4.2.2. Ca dao, dân ca của dân tộc Thái
 Bài đồng dao:
Lưới yêu tính bằng nào
Bằng quả núi nái
Mắt yêu tính bằng nào
Bằng vào cửa
Vào bản mương ăn con nhỏ nhà ai
Ăn con nhỏ chúng mày
Thử tìm ăn xem nào…
 Hát giao đài, chào hỏi:
Nam hát mở:
Châu chấu bay, cào cào nhảy
Anh em chúng tôi đây lòng vui rủ nhau chân bước
Sẵn sàng từ biệt bố mẹ sang chơi
Biết sĩ đến đây mẹ yêu còn chạy tìm áo
Vội vã đưa khăn…
Nữ đáp:
Em đây khó nghĩ trăm bề
Thang ba bậc còn trên rừng dương
Dứng sáu bậc còn ở mái rừng giang
Một mình em không đi lấy được…
 Ca ngợi nương rẫy;
Bước cây mòi xem ruộng

Bước lên bãi cỏ xanh xem nương
Nương kia chạy dài
Chòi cao gió hiu hiu
Nương em chẳng thiếu thứ gì
Dày dày bong lúa
Lúa cắm em gieo quanh chòi
Bãi bằng em trồng lúa doi
Em ươm cây nào vào đất kiệu màu cũng lên
Dưa hấu nhà ít sai quả
Dưa bở nhà nàng lắm trái
Dưa leo dàn cách đất.
4.2.3. Ca dao, dân ca của dân tộc Mường
Về mẹ: Bài mười tay
Bồng bồng con níu con ơi
Dưới sông cá lội ở trên trời chim bay
Ước gì mẹ có mười tay
Tay kia bắt cá, còn tay này bắt chim
Một tay chuốt chỉ luồn kim
Một tay đi làm ruộng, một tay tìm hái rau
Một tay ôm ấp con đau
Một tay vay gạo, một tay cầu cúng ma
Một tay khung cửi gần xa
Một tay lo bếp núc, lo cửa nhà nắng mưa
Một tay đi củi muối dưa
Còn một tay để van lạy, để bầm thưa, đỡ đần
Tay nào để giữ lấy con
Tay nào lau nước mắt, mẹ vẫn còn thiếu tay
Bồng bồng con ngủ cho say
Dưới sông cá vẫn lội, chim vẫn bay trên trời
4.2.4. Ca dao, dân ca của dân tộc Ê Đê

Bài Duê:
 Người có môi thần cho
Miệng thần tạo
Tai dính chặt với đầu
Là người có tài hát kuut, mmai, ayray.
 Gửi bông hành, bông nghệ nhớ không thôi
Em mong anh đã lâu
Như em mong chim phí
Em đợi anh đã nhiều
Như em đợi chim going.
 Một trái dưa chửng quên
Một trái bắp cũng dành cho nhau
 Anh với em
Vàng đã trao
Lời thề giữ trong lòng.
 Nhớ cây đa, bến suối Ê a Dông
Đàn ong đậu làm rung lá.
 Củ nghệ vàng em tắm lúc chiều hôm
Đêm nằm anh càng thương, càng nhớ
Còn cô gái thì ngỡ ngàng
Ở bến nước của nhà ai
Mà phía trên trong màu ngọc
Mà phía dưới đục màu chì
Như bến nước Hơ Kung, Y Du
Và mong ước:
Anh lấy nước ăn trầu
Vẽ lên triền núi đen
Bầy chuồn chuồn màu đỏ mây chiều
Đàn bươm bướm màu sương buổi sang…
 Tôi nghe tiếng kéo sợi đang reo

Thấy cô gái xinh
Lại thấy làn khói thuốc bay
Chàng trai đẹp bước vào
Bếp lửa gian trong chưa tắt ngọn.
4.2.5. ca dao, dân ca dân tộc Chăm
Hát H’ri
4.2.5.1. Dạy con (pờ ta o na)
Mẹ cha sẽ dạy con
Làm sao cày sâu cuốc bẩm
Thương anh em làng xóm
Đoàn kết chung nhau sinh sống…
4.2.5.2. Lời than thở của người con gái
Ơi… trồng mì không lên
Trồng bắp không lên
Đất đai khô cằn
Trời không có mưa
Làm quần áo rách rưới ơi…
4.2.5.3. Động viên người con trai
… Ơi… đất ta có nhiều núi rừng
Rừng có nhiếu trái cây
Sông có nhiều cá
Kêu trời phù hộ
Kêu bạn bè giúp đỡ
Trồng nhiều mì, nhiều khoai
Nhiều bắp, nhiều lúa ơi…
4.2.5.4. Trách móc
Hầy anh ơi, bạn ơi, bỏ nghĩa đôi ta
Anh ơi, mẹ già cha yếu
Anh ơi, con còn nhỏ
Mẹ già, cha yếu

Ai chăm sóc sau lưng ơi… hầy.
4.2.5.5. Hát dao duyên
Tình này ơi… vào nhà chào em mặc áo trắng lại tra khuy vàng ơi.
Vào nhà chào em mặc áo vàng có hang bong trên núi
Vào nhà chào em mặc áo cổ dài như trăng mới mọc.
4.2.5.6. Câu đối
Gái: Hầy… ơi em nghe anh học hành có tài
Đố anh đếm hết chồi tranh trên đồi.
Trai: Hầy em ơi! Em về đếm hết cá dưới song
Lên đây anh đếm hết chồi tranh ở trên đồi ơi hầy.
5. Vài nét về nghệ thuật ca dao, dân ca Khánh Hòa
5.1. Về thể thơ
 Nói đến ca dao người ta thường nghĩ đến thể thơ truyền thống là lục
bát. Thơ lục bát vốn có cấu trúc ưu việt, hoàn hảo: câu 6, câu 8, luật
bằng, trắc, mạch thơ đi đều đặn, nhịp nhàng, tạo nên chất ngâm, điệu
ru ngọt ngào. Đây là hình thức thơ cổ điển nhất của ca dao. Ca dao
Khánh Hoà có những bài sử dụng hình thức lục bát nguyên vẹn nhưng
nhìn chung là sử dụng hình thức lục bát biến thể nhiều hơn. Đặc điểm
của lục bát biến thể là câu trên 6 hoặc hơn 6. Câu dưới không phải là 8
mà là 10, 11 hoặc 12 tuỳ ý, nhưng vần thì tuân theo kiểu vần của lục
bát:
Sóng sao bọt nước xanh xanh
Chàng bỏ thiếp cuối bãi đầu ghềnh đêm đông
Thiếp hỏi chàng có thương trọn hay không
Làm cho thiếp đợi, mất công thiếp chờ
Đôi ta gá nghĩa chung tình
Dù ăn cơm mắm ngủ ngoài đình cũng ưng.
 Thể thơ song thất lục bát cũng được sử dụng trong ca dao Khánh Hoà.
Nói đến thể song thất lục bát là nhắc đến một thể thơ mà đơn vị tế bào
của nó gồm bốn dòng: hai dòng thất (mỗi dòng bảy tiếng) và một cặp

lục bát, nhưng ở ca dao Khánh Hòa, thể thơ cũng được biến thể khá
nhiều:
Dám đâu quên kẻ anh tài
Rèn gan sắt đá khôn nài bể dâu
Gương tuấn dũng làu làu Phạm Chánh
Cùng Phạm Long chung gánh nước non
Cha con trung nghĩa vẹn toàn
Cùng Nguyễn Sung nguyện mất còn có nhau
Bao phen cay đắng hận thù
Tam hùng tam kiệt nghìn thu trăng rằm.
 Đặc biệt thể thơ tổng hợp được sử dụng rất linh động, khéo léo, tạo
nên cách nói tự nhiên, chân thật:
Sông Dinh có ba ngọn nguồn
Anh nhớ em băng đèo vượt suối
Nhưng chưa biết đường tìm đến thăm em
Ghé vô chợ Ninh Hoà mua một xâu nem
Một chai rượu bọt
Anh uống say mèm.
 Hình thức biến thể và hỗn hợp được sử dụng nhiều trong ca dao
Khánh Hoà cho thấy hai điều. Thứ nhất: sáng tác dân gian chưa được
kỳ công, tinh xảo như văn chương bác học. Văn chương bác học
không có hình thức biến thể, thêm bớt số tiếng. Thứ hai: sáng tác dân
gian thể hiện sự hồn nhiên, không gò bó, theo hình thức phóng khoáng
của người bình dân.
5.2. Về hình ảnh
 Trong ca dao, dân ca Khánh Hoà có rất nhiều hình ảnh thiên nhiên,
những cơn gió, ngọn núi, con đèo, bãi biển, tảng đá và những hòn
(gồm các đảo hoặc gò đất, tảng đá nổi trên biển, trên sông)… Những
hình ảnh này được ca dao, dân ca sử dụng với ý nghĩa tượng trưng
cho vẻ đẹp, sự phong phú đa dạng của thiên nhiên và những phẩm

chất của con người.
• Hòn Chữ thể hiện sự bền vững, không xê dịch, chuyển dời với thời
gian.
• Gió Tu Bông tượng trưng cho tình cảm con người nồng nàn, thắm
thiết.
• Đèo Rọ Tượng là biểu tượng của tình chồng nghĩa vợ.
• ……….
 Hình ảnh thiên nhiên cùng với tên địa danh cụ thể trong ca dao
Khánh Hoà làm nên sắc thái địa phương rõ nét.
• Biển Nha Trang là một trong hai mươi chin vịnh đẹp nhất thế giới, là
nơi phong cảnh hữu tình, khí hậu ôn hòa, lí tưởng.
• Suối Tiên_một khung cảnh nên thơ, lãng mạn thu hút bao du khách
trong và ngoài nước. Đó là nơi tiên dừng chân nghỉ ngơi, thư giãn.
• Ninh Hòa nổi tiếng với những đặc sản dân dã, gần gũi, đậm tình quê
hương: nem chua, bún cá, vịt lội…
• ……….
Tất cả những địa danh đó, mỗi nơi mỗi vẻ, mang những sắc thái khác nhau
tạo nên thiên nhiên Khánh Hòa đa dạng, phong phú.
5.3. Về ngôn ngữ
 Ca dao Khánh Hoà ghi lại những từ ngữ thuộc vốn từ địa phương.
Qua đó ta hiểu thêm sắc thái ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói của người
Khánh Hoà. Ví dụ như:
• Mược: mặc
• Hổng: không
• Đửng: đừng
• Ảnh, cổ, ổng, bả: anh ấy, cô ấy, ông ấy, bà ấy…
• Dơ: bẩn
• Hôm rày: mấy ngày nay
• …………
 Việc sử dụng ngôn ngữ địa phương trong ca dao giúp ta xác định được

nguồn gốc của nó, để phân biệt bài ca dao ấy thuộc miền đất nào góp
phần sắc thái hoá tâm hồn, tình cảm của người bình dân. Ví dụ như:
Anh thương em dưới dốc thương lên
Đá lăn mược đá miễn thương bền thì thôi
Xưa kia lời nói cũng in
Hoa tàn nhị rữa cũng nhìn hổng dong
Bây giờ nhị rữa hoa tàn
Con thơ trìu mến sao chàng vội dong.
(Ninh Giang, Ninh Hòa)
Hay:
Anh ơi anh đửng ngậm ngùi
Một căn hai nợ anh ừ cho xong
Hồi thương nước đục cũng trong
Hồi ghét nước chảy giữa dòng cũng dơ
Lên non bẻ lá đề thơ
Trai không hết khó gái chờ mãn tang.
(Nình Bình, Ninh Hoà)
6. Kết luận
 Qua ca dao, dân ca lưu truyền ở Khánh Hòa, chúng ta có thể cảm nhận
được rằng: Nơi đây không chỉ có cảnh đẹp, thức ăn ngon, hải sản, lâm
sản quý mà còn có những con người thủy chung, nồng hậu, biết trân
trọng, giữ gìn những gì tốt đẹp của truyền thống.
 Sưu tầm ca dao thường kết hợp với việc sưu tầm dân ca, vì dân ca vốn
có nguồn gốc từ ca dao, nhưng do điều kiện về tư liệu dân ca còn hạn
chế, nên tổ ba chỉ có thể làm được đến đây, mong nhận được sự cảm
thông và góp ý.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×