Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tài liệu ôn thi tuyển công chức năm 2014 môn chuyên ngành quản lý nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.18 KB, 20 trang )


Chuyên đề
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO


Phần I
CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN VỀ TÔN GIÁO

I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ TÔN GIÁO
1. Khái niệm tôn giáo
Hiện nay, đang còn nhiều ý kiến khác nhau khi đề cập đến khái niệm tôn
giáo. Những người theo chủ nghĩa Mác-Lênnin cho rằng, tôn giáo không chỉ là
một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã hội. Với tư cách là một
hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản ánh một các hoang đường, hư ảo hiện thực
khách quan. Điều này được Ph.Ăngghen nêu trong tác phẩm chống Đuy-rinh:
“Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu
óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng
ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang
hình thức những lực lượng siêu trần thế” (C.Mác- Ph Ăngghen, toàn tập, Nxb
CTQG, 1994, Tr20, Tr437).
2. Nguồn gốc tôn giáo
Đã có nhiều cách lý giải khác nhau về nguồn gốc tôn giáo. Quan điểm
mác-xít cho rằng, tôn giáo có ba nguồn gốc chính: nguồn gốc kinh tế - xã hội,
nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lí.
2.1. Nguồn gốc kinh tế - xã hội
Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ của lực lượng sản xuất thấp, con
người bất lực trước thiên nhiên. Vì vậy, người nguyên thuỷ đã gắn cho thiên
nhiên những sức mạnh siêu nhiên. Nhưng về sau, bên cạnh sức mạnh của tự nhiên
lại xuất hiện những sức mạnh của xã hội, xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất, giai cấp hình thành, đối kháng giai cấp nảy sinh. Khi xã hội có giai cấp
đối kháng, con người bất lực trước các lực lượng xã hội thống trị họ, sự bần cùng


hoá về kinh tế, áp bức về chính tri, bất bình đẳng về xã hội và bất lực trong cuộc
đấu tranh chống giai cấp thống trị đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế
giới bên kia
2.2. Nguồn gốc nhận thức
Các nhà duy vật trước C.Mác thường nhấn mạnh về nguồn từ nhận thức
của tôn giáo. Còn những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin lại quan tâm
trước hết đến nguồn gốc kinh tế-xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác-
Lênin không phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tôn giáo mà còn làm sáng tỏ
một cách có cơ sở khoa học nguồn gốc đó.
Tôn giáo chỉ ra đời khi trình độ tư duy của con người đạt đến độ nhất định,
đó là khả năng tư duy trừu tượng khiến họ có thể hình thành những ý niệm về
2

thượng đế, về thần thánh. Khi tư duy con người còn ở trình độ thấp kém, họ không
hiểu nổi những hiện tượng tự nhiên nên đã gán cho nó sức mạnh thần thánh.
Trong những điều kiện lịch sử nhất định, trình độ nhận thức của con
người là có hạn, giữa biết và chưa biết bao giờ cũng có khoảng cách, do vậy mà
con người mượn những yếu tố bên ngoài để lý giải. Phương pháp nhận thức của
con người trong qúa trình nhận thức thế giới xung quanh có những sai lệch và
đầy rẫy những mâu thuẫn.
2.3. Nguồn gốc tâm lý, tình cảm
Các nhà vô thần cổ đại đưa ra luận điểm “Sự sợ hãi tạo ra thần linh”, V.I
Lênnin tán thành và phân tích thêm: “Sự sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư
bản - mù quáng vì quần chúng nhân dân không thể đoán trước được nó - là thế
lực bất cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản và người tiểu chủ, cũng đe
doạ đem lại cho họ sự phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”, “ngẫu nhiên” ”. Sự sợ hãi
trước sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội là sự sợ hãi trước các nỗi bất
hạnh: bệnh tật, cô đơn, chiến tranh, khủng hoảng và cái chết Tôn giáo xuất hiện
để bù đắp hẫng hụt, trống vắng, an ủi vỗ về xoa dịu con người lúc sa cơ lỡ vận,
cùng quẫn; con người ta tưởng tượng ra một thế giới sau khi chết, ở đó họ sẽ

sung sướng hơn, hết mọi khổ ải và bất công đưa đến niềm tin tôn giáo. Tôn
giáo của hiện tại bao giờ cũng tiếp nhận những tập quán, thói quen truyền thống
của tôn giáo quá khứ.
3. Tính chất của tôn giáo
3.1. Tính lịch sử của tôn giáo
Tôn giáo còn tồn tại lâu dài, nhưng không phải là hiện tượng xã hội vĩnh
hằng, bất biến mà có tính lịch sử. Tôn giáo có bước khởi đầu, biến động và có thể
mất đi. Là một phạm trù lịch sử, quá trình phát sinh, phát triển của tôn giáo gắn
với những điều kiện sinh hoạt vật chất và xã hội nhất định. Tôn giáo biến động
cùng biến động lịch sử; ở mỗi dân tộc khác nhau, mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau
tôn giáo sẽ khác nhau, t uy nhiên đó là quá trình rất lâu dài khó đoán định.
3.2. Tính quần chúng của tôn giáo
Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ các
tôn giáo chiếm tỉ lệ cao trong dân số thế giới, mà còn ở chỗ tôn giáo là một trong
các hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân
lao động. Dù tôn giáo hướng con người hy vọng vào hạnh phúc hư ảo ở thế giới
bên kia, song nó luôn phản ánh khát vọng của những người bị áp bức về một xã
hội tự do, bình đẳng, bác ái. Tôn giáo là một trong những nhu cầu tinh thần của
một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân.
3.3. Tính chính trị của tôn giáo
Trong xã hội không có giai cấp, tôn giáo chỉ phản ánh nhận thức hồn
nhiên, ngây thơ của con người về bản thân và thế giới quanh mình. Nhưng, khi
xuất hiện giai cấp thì tôn giáo thường phản ánh lợi ích giai cấp và đấu tranh giai
3

cấp. Tính chính trị của tôn giáo chỉ có khi xã hội đã phân chia giai cấp, khi có
những lực lượng chính trị lợi dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ MANG TÍNH NGUYÊN TẮC KHI ỨNG XỬ
VỚI TÔN GIÁO
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, khi ứng xử với tôn giáo

cần dựa trên những nguyên tắc sau đây:
1. Khắc phục dần những ảnh hƣởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn
liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, muốn thay đổi ý thức xã
hội, trước hết phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xoá bỏ ảo tưởng nảy
sinh trong tư tưởng con người, phải xoá bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Đấu
tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong tôn giáo là gián tiếp đấu tranh với
cái thế giới đang cần có ảo tưởng. Điều cần thiết trước hết là phải xác lập được
một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học, cùng
những tệ nạn nảy sinh trong xã hội. Đó là một trình lâu dài, quá trình ấy không
thể thực hiện nếu tách rời việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chỉ có
thông qua quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nhằm nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần và trí tuệ cho con người thì mới có khả năng gạt bỏ dần
những ảnh hưởng tiêu cực trong đời sống xã hội.
Sự thống nhất về lợi ích dân tộc, giai cấp và quốc gia sẽ tạo điều kiện tiến
tới sự thống nhất về tư tưởng và hành động.
Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là lãng quên hay từ bỏ cuộc đấu tranh
trên lĩnh vực tư tưởng và ngược lại, cần quan tâm và coi trọng việc tuyên truyền,
giáo dục thế giới quan duy vật khoa học một cách thường xuyên với nhiều hình
thức. Nhưng công tác tuyên truyền, giáo dục phải gắn liền và phục vụ cho công
cuộc xây dựng xã hội mới.
2. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng và không tín
ngƣỡng của công dân
Trong CNXH, việc bảo đảm và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng là một nguyên tắc. Quyền ấy, không chỉ thể hiện về mặt pháp
lý và còn được thực hiện trên thực tiễn một cách nhất quán, lâu dài trong xã hội
XHCN: Nội dung cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng là:
“Mỗi người đều phải được hoàn toàn tự do không những muốn theo tôn
giáo nào thì theo, mà còn phải có quyền truyền bá bất kỳ tôn giáo nào, hoặc thay
đổi tôn giáo”. Nhà nước XHCN thừa nhận và đảm bảo cho mọi công dân có

hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng về mặt nghĩa vụ và quyền lợi.
Các tôn giáo được nhà nước thừa nhận đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi
người cần có ý thức tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của người khác; đồng thời chống lại những phần tử lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để hoạt động đi ngược lại với lợi ích dân tộc và những kẻ hành nghề mê
tín dị đoan.
4

3. Cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo
Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò tác động của từng tôn giáo đối
với đời sống xã hội không như nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo
sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy, cần
phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử những vấn đề
có liên quan đến tôn giáo.
Có những tôn giáo khi mới xuất hiện như một phong trào bảo vệ lợi ích
của người nghèo, người bị áp bức và nô lệ. Nhưng rồi, tôn giáo ấy lại biến thành
công cụ của giai cấp thống trị bóc lột. Có những giáo sĩ suốt đời hành đạo theo
hướng đồng hành với dân tộc; nhưng cũng có những người đã hợp tác với những
thế lực phản động đi ngược lại lợi ích của quốc gia. Có những vị chân tu luôn
“kính chúa yêu nước”, thiết tha muốn sống “tốt đời đẹp đạo”; nhưng lại có
những người sẵn sàng hy sinh quyền lợi Tổ quốc cho lợi ích của ngoại bang.
Điều đó khiến cho Nhà nước XHCN luôn cần có thái độ, cách ứng xử phù hợp
đối với từng trường hợp cụ thể, như Lênin đã nhắc nhở: “Người mác-xít phải
biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể”, khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
4. Cần phân biệt hai mặt nhu cầu tín ngƣỡng, tôn giáo và lợi dụng tín
ngƣỡng, tôn giáo
Tôn giáo luôn tồn tại hai mặt: nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chân chính
của nhân dân và một bộ phận lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo vì mục đích ngoài
tôn giáo.
Sự phân biệt này, trên thực tế không đơn giản, nhưng lại là rất cần thiết, vì

có phân biệt được hai mặt đó mới tránh khỏi khuynh hướng tả hoặc hữu trong
quá trình quản lý, ứng xử với những vấn đề nảy sinh từ tín ngưỡng, tôn giáo.
Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần chính đáng của đồng bào có
đạo và sẽ còn tồn tại lâu dài. Mọi biểu hiện vi phạm quyền ấy là trái với tư
tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Xuất phát từ lợi ích giai cấp, dân tộc và an ninh quốc gia, nhà nước XHCN
phải thường xuyên đấu tranh loại bỏ yếu tố chính trị phản động trong tôn giáo.
Ngày nay, các thế lực phản động quốc tế đang lợi dụng tôn giáo để thực hiện
chiến lược “diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ CNXH ở các nước XHCN còn lại,
trong đó có Việt Nam. Điều đó nhắc nhở Đảng của giai cấp công nhân cần nêu
cao cảnh giác, giải quyết kịp thời, cương quyết đối với những kẻ lợi dụng tôn
giáo. Tuy nhiên, khi giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cũng cần tránh
khuynh hướng đơn giản, phiến diện, nôn nóng mà phải thận trọng và tỉ mỉ.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo là cơ sở khoa học cho
việc hoạch định chính sách đối với tôn giáo của nhà nước XHCN.

Phần II
CHỦ TRƢƠNG, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG
VÀ NHÀ NƢỚC TA HIỆN NAY

5

I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
1. Do những đặc điểm riêng về địa lý, dân cư, lịch sử, văn hóa, Việt Nam
là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Các tôn giáo ở Việt Nam có
tôn giáo ổn định về tổ chức và nề nếp sinh hoạt tôn giáo, đã có đường hướng tiến
bộ, có tôn giáo hoạt động chưa ổn định như Phật giáo, Công giáo, Cao đài, Phật
giáo Hòa Hảo, Tin lành, Hồi giáo còn có một số nhóm tôn giáo địa phương, hoặc
mới được thành lập có liên quan đến Phật giáo hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào
như: Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh độ Cư sỹ, Bàlamôn, Baha’i và

các hệ phái Tin lành.
Thực tế trên đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta phải có chủ trương, chính
sách một cách thỏa đáng đối với tôn giáo nói chung và đối với từng tôn giáo nói
riêng.
2. Ở Việt Nam còn có một bộ phận đồng bào các dân tộc thiểu số ở khu
vực miền núi phía Bắc (Tây Bắc), Tây Nguyên và Tây Nam Bộ theo tôn giáo. Ở
khu vực Tây Nam bộ có trên một triệu người Khơ-me theo Phật giáo Nam tông.
Ở Tây Nguyên và Tây Bắc có bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo Công giáo,
Tin lành,
Việc một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo đặt ra cho
chúng ta là cùng một lúc phải giải quyết cả hai vấn đề vốn rất phức tạp, nhạy cảm
là dân tộc và tôn giáo.
3. Tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam đa số là nông dân lao động, trong đó chủ
yếu là nông dân, có tinh thần yêu nước. Đồng thời họ cũng có niềm tin tôn giáo
sâu sắc và có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo bình thường. Cho nên tín đồ các tôn giáo
ở Việt Nam vừa gắn bó với dân tộc, đất nước, đi theo sự lãnh đạo của Đảng và
đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của toàn dân, vừa duy trì các sinh
hoạt tôn giáo, gắn bó với giáo hội theo phương châm “tốt đời, đẹp đạo”. Tuy
nhiên, đời sống dân sinh, trình độ dân trí ở một số vùng đồng bào tôn giáo còn
thấp so với mặt bằng chung.
Với đặc điểm này, công tác tôn giáo vừa phải phát huy mặt tích cực trong
tín đồ các tôn giáo, vừa phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ; đồng
thời nâng cao đời sống dân sinh, trình độ dân trí cho quần chúng và xoá đi những
mặc cảm với cách mạng do lịch sử để lại.
4. Ở Việt Nam có một lực lượng chức sắc, nhà tu hành - những người hoạt
động tôn giáo chuyên nghiệp - khá đông đảo. Chức sắc, nhà tu hành, chức việc
đang hoạt động trong các tổ chức giáo hội là người hướng dẫn quản lý sinh hoạt
tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ và là đầu mối để Nhà nước thực hiện việc quản lý
đối với hoạt động tôn giáo.
5. Ở Việt Nam, các tôn giáo có mối quan hệ quốc tế rộng rãi. Giáo hội

Công giáo Việt Nam trong mối quan hệ về mặt tổ chức là bộ phận của Giáo hội
Công giáo hoàn vũ do Giáo triều Vatican lãnh đạo điều hành. Các hệ phái Tin
lành ở Việt Nam có mối quan hệ với các tổ chức Tin lành quốc tế và trong khu
6

vực, vừa có quan hệ về mặt tổ chức theo hệ thống, vừa có mối quan hệ đồng đạo
theo xu hướng “đại kết” Ki-tô giáo. Giáo hội Phật giáo Việt Nam có mối quan hệ
với Phật giáo các nước trong khu vực, như Phật giáo Trung Quốc, Lào,
Campuchia, Thái Lan, Ấn Độ, và với các tổ chức Phật giáo quốc tế như tổ chức
Phật giáo châu Á vì Hòa bình - ABCP, Tổ chức Thân hữu phật tử thế giới - WFB.
Hồi giáo ở Việt Nam tuy ít nhưng có mối quan hệ khá chặt chẽ với Hồi giáo thế
giới và Hồi giáo các nước trong khu vực. Ngoài những mối quan hệ nói trên, các
tôn giáo ở Việt Nam còn chịu sự tác động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo của
người Việt Nam ở nước ngoài (hiện nay có khoảng gần ba triệu người Việt Nam ở
nước ngoài mà đa số là tín đồ, chức sắc của các tôn giáo).
Vấn đề quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo như nói trên, sẽ phải được
xem xét giải quyết tương xứng với đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng và Nhà
nước ta trong xu hướng toàn cầu hóa.
6. Hiện nay, vấn đề tôn giáo luôn bị các thế lực thù địch lợi dụng để phục
vụ lợi ích chính trị của chúng. Việc lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch
được gắn với vấn đề dân tộc, nhân quyền và lợi dụng một số sai sót ở cơ sở trong
việc thực hiện chính sách tôn giáo để xuyên tạc tình hình tôn giáo trong nước.
Chúng còn lôi kéo những phần tử ly khai trong các tôn giáo gây mất ổn định nội
bộ tôn giáo. Việc lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch đã và đang đặt ra
nhiều vấn đề cần phải giải quyết.
Do vậy, công tác tôn giáo hiện nay vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng của
quần chúng tín đồ, vừa phải cảnh giác đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn
giáo của các thế lực thù địch hòng chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CƠ BẢN CỦA ĐẢNG TA VỀ TÔN
GIÁO VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Năm 1986, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện trên các mặt kinh
tế, văn hóa, xã hội với Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Đổi mới
chính sách đối với tôn giáo là một nội dung rất quan trọng trong đường lối đổi
mới của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, tôn giáo là vấn đề rất quan trọng và
rất khó, cần phải tổng kết từ thực tiễn, nên đến năm 1990, Đảng và Nhà nước ta
có chính sách đổi mới về tôn giáo qua Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày
16/10/1990 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng với tựa đề Về
tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Sau 13 năm thực hiện chính
sách đổi mới đối với tôn giáo, lại từ thực tiễn, đồng thời xem xét những vấn đề
mới nảy sinh, đặt trong hoàn cảnh thế giới có nhiều thay đổi quan trọng, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW,
ngày 12/3/2003 Về công tác tôn giáo. Nghị quyết 25 là sự phát triển nâng cao và
hoàn chỉnh Nghị quyết 24 trở thành quan điểm chính thức về đổi mới đối với
công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Tư tưởng đổi mới thể hiện qua các
nội dung chủ yếu sau đây:
1. Về phƣơng hƣớng
7

Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai đoạn mới phải nhằm
tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Về quan điểm, chủ trƣơng có những nội dung chủ yếu sau đây
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ

pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Hai là, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết
dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau: đoàn kết đồng bào
theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá
trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với
Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín
ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước,
kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là
điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi
công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu
cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc; thông qua
việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm
lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các
tôn giáo.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Nước ta hiện có hàng chục triệu tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của các tôn
giáo, phân bố ở mọi vùng, miền, địa phương trong cả nước. Công tác tôn giáo có
liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, và nhiều cấp, nhiều ngành.
Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo, trong đó có đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là
lực lượng tham mưu nòng cốt. Tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo cần được
8


củng cố, kiện toàn, nhất là ở những địa bàn trọng điểm có đông đồng bào tôn
giáo. Công tác tôn giáo thực chất là công tác vận động quần chúng. Công tác
quản lý nhà nước đối với tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để
chống đối chế độ, chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do
hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp
luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức
sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự
của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt
động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo.
III. NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI TÍN
NGƢỠNG, TÔN GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
1. Những nguyên tắc cơ bản của chính sách đối với tôn giáo
Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp uỷ Đảng và chính quyền động
viên đồng bào các tôn giáo phát huy truyền thống yêu nước, hăng hái tham gia
công cuộc đổi mới, làm tốt việc đạo, làm tròn nghĩa vụ công dân, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; đồng thời tiếp tục thực hiện tốt chính sách của Nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo theo những nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không
tín ngưỡng tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và
quyền lợi trước pháp luật, không phân biệt người theo đạo và không theo đạo
cũng như giữa các tôn giáo khác nhau.
- Đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo
trong khối đại đoàn kết toàn dân.
- Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo phải tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật, có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội

chủ nghĩa; giữ gìn độc lập chủ quyền quốc gia.
- Những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện vọng
và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và phát huy.
- Mọi hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo làm mất trật tự an toàn xã hội,
phương hại nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, chống
lại Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây tổn hại các giá trị đạo
đức lối sống, văn hóa của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực
hiện nghĩa vụ công dân đều bị xử lý theo pháp luật. Hoạt động mê tín dị đoan bị
phê phán và loại bỏ.
9

- Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể tổ chức xã hội và các tổ chức tôn giáo có trách nhiệm làm tốt công tác vận động
quần chúng và thực hiện đúng đắn chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
2. Những nhiệm vụ của công tác tôn giáo trong tình hình hiện nay
Công tác tôn giáo hiện nay cần tập trung vào các nhiệm vụ sau:
Một là, cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp phải bảo đảm sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo bình thường, lành mạnh, hợp pháp, thường xuyên chăm lo đời
sống vất chất, văn hoá, tinh thần và nâng cao trình độ mọi mặt cho nhân dân nói
chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo. Vận động tín đồ chức sắc, nhà tu hành
trong các tôn giáo thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia
nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng
cuộc sống mới ở cơ sở, ở các khu dân cư.
Hai là, các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội phải tích cực tuyên truyền, phổ biến, giải
thích chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước trong nhân dân, nhất là với tín đồ
và chức sắc tôn giáo. Hướng dẫn các tôn giáo hoạt động theo hướng: phát huy
những giá trị văn hoá, đạo đức lành mạnh, hướng thiện của tôn giáo phù hợp với
truyền thống văn hoá.

Ba là, Nhà nước, Chính phủ bổ sung, hoàn thiện văn bản pháp luật về tôn
giáo, tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo pháp luật.
Bốn là, tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ các tín đồ và chức
sắc tôn giáo nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động ngăn ngừa và đấu tranh làm
thất bại âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống
lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Năm là, xây dựng, củng cố tổ chức Đảng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu
lãnh đạo các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng ở các địa
phương, địa bàn đồng bào có tôn giáo. Cán bộ, đảng viên nói chung và đảng
viên theo tôn giáo nói riêng phải gương mẫu thực hiện và vận động các tín đồ
tôn giáo thực hiện tốt những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Sáu là, kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo các cấp, các ngành. Có
quy hoạch, kế hoạch đào tạo cán bộ làm công tác tôn giáo ở các cấp, các ngành.
Bảy là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức
xã hội tăng cường công tác vận động tín đồ, chức sắc tôn giáo hoà nhập cùng
cộng đồng trong công cuộc đổi mới; thực hiện công cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”; xây dựng, củng cố tổ chức của
Mặt trận và các đoàn thể; ủng hộ các nhân tố tích cực và phong trào thi đua yêu
nước của đồng bào các tôn giáo, thực hiện “tốt đời đẹp đạo”, góp phần ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh ở từng cơ sở, địa
phương và cả nước.
3. Những chính sách cụ thể đối với tôn giáo hiện nay
10

3.1. Đối với các tín đồ tôn giáo
- Tín đồ có quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo không trái với chủ
trương chính sách và pháp luật của nhà nước, tiến hành các nghi thức thờ cúng,
cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý, đạo
đức, phục vụ nghi lễ tôn giáo tại cơ sở thờ tự.
- Tín đồ không được lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm trái pháp luật,

không được hoạt động mê tín dị đoan.
- Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được sinh hoạt tôn giáo
theo pháp luật Việt Nam.
3.2. Đối với chức sắc, nhà tu hành tôn giáo
- Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo có quyền:
+ Được thực hiện các chức trách, chức vụ tôn giáo của mình trong phạm
vi trách nhiệm đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
+ Chức sắc, nhà tu hành với tư cách công dân được Nhà nước khuyến
khích tổ chức hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo theo quy định của pháp
luật.
+ Được thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế theo quy định của hiến
chương, điều lệ hoặc giáo luật của tổ chức tôn giáo phù hợp với pháp luật Việt
Nam.
+ Chức sắc, nhà tu hành thuộc cơ sở tôn giáo đã xếp hạng di tích lịch sử -
văn hóa, danh lam thắng cảnh được hoạt động tôn giáo bình thường như tại cơ
sở tôn giáo khác.
+ Được nhà nước xét khen thưởng công lao đóng góp trong sự nghiệp
đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Được hưởng các quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của công dân.
- Chức sắc, nhà tu hành có nghĩa vụ:
+ Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo có trách nhiệm thực hiện mọi nghĩa vụ
công dân.
+ Có trách nhiệm thường xuyên giáo dục cho tín đồ lòng yêu nước, thực
hiện quyền, nghĩa vụ công dân và ý thức chấp hành pháp luật.
+ Chức sắc, nhà tu hành sau khi hoàn thành khóa đào tạo về tôn giáo ở
nước ngoài, nếu được tổ chức tôn giáo ở nước ngoài phong chức, phong phẩm,
bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, khi về Việt Nam hoạt động tôn giáo, tổ chức tôn giáo
quản lý trực tiếp có trách nhiệm đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật.
+ Chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài được giảng đạo tại cơ sở

tôn giáo của Việt Nam sau khi được cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở
Trung ương chấp thuận, phải tôn trọng quy định của tổ chức tôn giáo của Việt
Nam và tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam.
11

+ Khi thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế chức sắc, nhà tu hành phải
bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền và công việc nội bộ
của các quốc gia.
+ Thực hiện đúng chức trách, chức vụ tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm
tôn giáo đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chấp nhận và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động tôn giáo trong phạm vi trách
nhiệm đó.
- Người mạo danh chức sắc, nhà tu hành tôn giáo bị xử lý hành chính
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Người đang chấp hành án phạt tù hoặc đang bị quản chế hành chính
không được thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo. Việc phục hồi chức trách,
chức vụ tôn giáo khi đã hết hạn hình phạt trên phải do tổ chức tôn giáo quản lý
người đó đề nghị và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
- Việc mở trường đào tạo các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo phải được
phép của Thủ tướng Chính phủ. Tổ chức và hoạt động của các trường thực hiện
theo các quy định của Ban Tôn giáo Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các
trường thực hiện các quy chế chính sách, pháp luật của nhà nước theo sự hướng
dẫn, giám sát kiểm tra của các cơ quan chức năng của Nhà nước và Ủy ban nhân
dân sở tại.
- Việc phong giáo phẩm, phong chức cho các chức sắc, nhà tu hành tôn
giáo, việc bổ nhiệm, thuyên chuyển những chức sắc phải được sự chấp thuận
của Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (tùy theo
giáo phẩm). Đối với các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo được tổ chức, cá nhân ở
nước ngoài phong giáo phẩm, phong chức, bổ nhiệm phải được sự chấp thuận
của Thủ tướng Chính phủ.

3.3. Đối với các tổ chức tôn giáo
- Tổ chức tôn giáo có tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ
chức phù hợp với pháp luật và được Thủ tướng Chính phủ cho phép hoạt động
thì được pháp luật bảo hộ.
- Tổ chức tôn giáo hoạt động trái với tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành
đạo, cơ cấu tổ chức đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thì bị đình chỉ hoạt
động. Các cá nhân chịu trách nhiệm về những vi phạm đó bị xử lý theo pháp luật.
- Chức sắc, nhà tu hành và tổ chức tôn giáo hoạt động từ thiện theo quy
định và hướng dẫn của Nhà nước và các cơ quan chức năng.
3.4. Đối với các hoạt động tôn giáo
- Các hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự đã đăng ký hàng năm và thực
hiện trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì không phải xin phép.
- Những hoạt động tôn giáo vượt ra khỏi khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc
chưa đang ký hàng năm phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
12

- Các cuộc tĩnh tâm của linh mục trong giáo phận, của các tu sĩ tập trung
từ nhiều cơ sở, dòng tu của Công giáo, các cuộc bồi linh của mục sư và truyền
đạo của đạo Tin lành, các kỳ an cư của tăng ni đạo Phật và các sinh hoạt tôn
giáo tương tự khác thực hiện theo quy định của cơ quan quản lý nhà nước cấp
tỉnh về tôn giáo.
- Các đại hội, hội nghị cấp toàn quốc hoặc có liên quan đến nhiều tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương thì phải được phép của Thủ tướng Chính phủ.
Những đại hội, hội nghị tôn giáo ở các cấp địa phương phải được phép của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Việc in, xuất bản các loại kinh sách và các xuất bản giáo phẩm tôn giáo,
việc sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng trong
việc đạo thực hiện theo quy chế của Nhà nước về in, xuất bản, sản xuất kinh
doanh, xuất nhập nhập khẩu văn hóa phẩm, hàng hóa. Cấm in, sản xuất, kinh
doanh, lưu hành và tàng trữ sách báo, văn hóa phẩm có nội dung chống lại Nhà

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây chia rẽ tôn giáo, chia rẽ dân tộc,
gây mất đoàn kết trong nhân dân.
3.5. Đối với nơi thờ tự và tài sản của các tổ chức tôn giáo
- Nhà nước bảo hộ nơi thờ tự của tổ chức tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo
có trách nhiệm giữ gìn, tu bổ nơi thờ tự.
- Nhà đất và các tài sản khác đã được các tổ chức cá nhân, tôn giáo
chuyển giao cho các cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng hoặc tặng, hiến cho Nhà
nước đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
- Việc tu bổ và sửa chữa nhỏ, không làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc công
trình thuộc cơ sở thờ tự thì tổ chức thực hiện sau khi thông báo cho Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã sở tại. Việc sửa chữa lớn làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc
công trình tại cơ sở thờ tự, việc khôi phục công trình thờ tự bị hoang phế, bị hủy
hoại do chiến tranh, thiên tai, rủi ro, việc tạo lập cơ sở thờ tự mới, xây dựng các
công trình thờ tự (nhà, tượng, đài, bia, tháp…) phải được phép của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh.
- Tổ chức tôn giáo được nguồn tài chính từ sự ủng hộ tự nguyện của các
cá nhân, tổ chức, từ những thu nhập hợp pháp khác. Việc tổ chức quyên góp (kể
cả quyên góp vì mục đích xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự) phải được thông báo
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nghiêm cấm việc ép buộc tín đồ đóng
góp. Việc quản lý, sử dụng các nguồn tài chính có được từ các nguồn trên đây
thực hiện theo quy định của pháp luật.
3.6. Đối với hoạt động đối ngoại của tôn giáo
- Hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo phải tuân thủ pháp
luật và phù hợp với chính sách đối ngoại của của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia, vì hòa bình, ổn
định, hợp tác và hữu nghị.
13

- Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước mời tổ chức, cá nhân tôn giáo ở

nước ngoài vào Việt Nam phải được sự chấp thuận của Ban Tôn giáo Chính
phủ.
- Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước tham gia làm thành viên của tổ
chức tôn giáo nước ngoài, tham gia các hoạt động tôn giáo hoặc có liên quan
đến các tôn giáo nước ngoài thực hiện theo quy định của Ban Tôn giáo Chính
phủ.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài, kể cả tổ chức, cá nhân tôn giáo vào Việt
Nam để hoạt động ở các lĩnh vực không phải là tôn giáo thì không được tổ chức,
điều hành hoặc tham gia tổ chức điều hành các hoạt động truyền bá tôn giáo.
- Các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nước muốn nhận viện trợ thuần tuý
tôn giáo phải xin phép Chính phủ.

Phần II
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LỆNH TÍN NGƢỠNG TÔN GIÁO VÀ
NGHỊ ĐỊNH SỐ 92/2012/NĐ-CP QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ BIỆN PHÁP
THI HÀNH PHÁP LỆNH TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO

I. NHỮNG CHÍNH SÁCH CỤ THỂ ĐỐI VỚI TÔN GIÁO
Ngày 18 tháng 6 năm 2004, Thường vụ Quốc hội khóa XI đã thông qua
Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, bao gồm 6 chương và 41 điều. Ngày 08 tháng
11 năm 2012 Chính phủ ban hành Nghị định số 92/2012/NĐ-CP quy định chi
tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. So với các văn bản
pháp luật quy định về tín ngưỡng, tôn giáo trước đó, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn
giáo và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh và Nghị
định) có một số nội dung mới, cụ thể như sau:
1. Về phạm vi điều chỉnh
Pháp lệnh này không chỉ điều chỉnh các hoạt động tôn giáo mà còn điều
chỉnh hoạt động tín ngưỡng. Khác với hoạt động tôn giáo, hoạt động tín ngưỡng
là loại hình hoạt động không có tổ chức song lại thu hút đại đa số quần chúng
nhân dân tham gia. Loại hình hoạt động này rất phong phú, được thực hiện dưới

nhiều hình thức như thờ cúng tổ tiên tại gia đình, thờ những người có công với
cộng đồng, dân tộc và các hoạt động tín ngưỡng dân gian được tổ chức ở khắp
các vùng miền trên cả nước Nhà nước tôn trọng những hoạt động tín ngưỡng
lành mạnh, đề cao giá trị nhân văn và truyền thống văn hoá dân tộc, đáp ứng nhu
cầu tinh thần của đông đảo quần chúng nhân dân. Đồng thời Nhà nước cũng
nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng tín ngưỡng hoạt động mê tín dị đoan, thương
mại hoá hoạt động tín ngưỡng.
2. Về việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo, đăng ký hoạt động, công nhận
tổ chức tôn giáo
14

Pháp lệnh và Nghị định quy định tổ chức trước khi được xem xét công
nhận là tổ chức tôn giáo phải được cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo, đăng ký hoạt
động tôn giáo và hoạt động tôn giáo ổn định trong một thời gian nhất định.
- Việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo. Pháp lệnh và Nghị định (Điều 5 Nghị
định 92 quy định khi được cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo, tổ chức tôn giáo đăng
ký sinh hoạt tôn giáo đến Ủy ban nhân dân cấp xã trong đó nêu rõ tên tôn giáo,
tôn chỉ, mục đích, người đại diện, nơi cư trú, nội dung, hình thức, địa điểm, thời
gian, số lượng người tại thời điểm đăng ký (đây là điểm mới so với Nghị định
22).
- Việc đăng ký hoạt động tôn giáo. Pháp lệnh và Nghị định quy định có
sinh hoạt tôn giáo ổn định từ hai mươi năm trở lên kể từ ngày được Ủy ban nhân
dân cấp xã chấp thuận sinh hoạt tôn giáo; là tổ chức của những người có cùng
niềm tin; có giáo lý, giáo luật, lễ nghi, đường hướng hành đạo và hoạt động gắn
bó với dân tộc, không trái với thuần phong, mỹ tục và quy định của pháp luật;
không thuộc tổ chức tôn giáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công
nhận; tên gọi của tổ chức không trùng với tên các tổ chức tôn giáo đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền công nhận hoặc tên các danh nhân, anh hùng dân
tộc; có địa điểm hợp pháp để hoạt động tôn giáo; có người đại diện là công dân
Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có uy tín trong tổ chức và nghiêm

chỉnh chấp hành pháp luật.
- Việc hoạt động tôn giáo của tổ chức sau khi được cấp đăng ký. Pháp
lệnh và Nghị định (Điều 7 Nghị định 92 quy định sau khi được cấp đăng ký hoạt
động tôn giáo, tổ chức tôn giáo được tổ chức các cuộc lễ tôn giáo, thực hiện lễ
nghi, truyền đạo, giảng đạo tại cơ sở tôn giáo đã đăng ký; được bầu cử, suy cử
những người lãnh đạo tổ chức; mở lớp bồi dưỡng giáo lý; sửa chữa, cải tạo,
nâng cấp công trình tôn giáo; hoạt động từ thiện nhân đạo). Khi thực hiện các
hoạt động tôn giáo nêu trên, tổ chức phải tuân thủ quy định của Nghị định này
và các văn bản pháp luật có liên quan.
- Việc công nhận tổ chức tôn giáo. Pháp lệnh và Nghị định (Điều 8 Nghị
định 92 quy định sau thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp hoạt động tôn giáo,
tổ chức hoạt động tôn giáo liên tục, không vi phạm các quy định và Nghị định
này tại Khoản 1 Điều 16 Pháp lệnh) được đề nghị cơ quan có thẩm quyền công
nhận tổ chức tôn giáo.
3. Về việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo
trực thuộc
Pháp lệnh và Nghị định quy định tổ chức tôn giáo được thành lập, chia,
tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc được quy định tại Khoản 2
Điều 17 của Pháp lệnh và Điều 9, Điều 10 của Nghị định 92. Quy định này sẽ
tạo điều kiện cho tổ chức tôn giáo tổ chức, sắp xếp lại các tổ chức tôn giáo trực
thuộc đáp ứng yêu cầu của hoạt động tôn giáo và công tác quản lý hoạt động tôn
giáo.
15

4. Về việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử trong
tổ chức tôn giáo
Pháp lệnh và Nghị định coi đây là công việc nội bộ của tổ chức tôn giáo,
tổ chức tôn giáo có quyền thực hiện theo Hiến chương, điều lệ hoặc giáo luật
của tổ chức tôn giáo, Hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà
nước phê duyệt. Nhà nước chỉ nêu ra các điều kiện về tư cách công dân của

những người được xem xét phong chức, phong phẩm, bầu cử, suy cử để tổ chức
tôn giáo có sự lựa chọn, quyết định. Sau khi phong chức, phong phẩm, bổ
nhiệm, bầu cử, suy cử, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm đăng ký với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền (Quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh và Điều 19 của Nghị
định 92) đảm bảo quyền hoạt động tôn giáo hợp pháp cho họ. Trường hợp
phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc có yếu tố nước
ngoài phải có sự đồng ý trước của Ban Tôn giáo Chính phủ.
Tổ chức tôn giáo khi cách chức, bãi nhiệm chức sắc thuộc thẩm quyền
quản lý có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước
đã đăng ký chức sắc, trong đó nêu rõ lý do cách chức kèm theo các văn bản có
liên quan.
5. Về việc thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu
hành
Theo Pháp lệnh và Nghị định thì vấn đề thuyên chuyển nơi hoạt động tôn
giáo của chức sắc, nhà tu hành được quy định tại Điều 23 Pháp lệnh và Điều 23
Nghị định 92. Những trường hợp thông thường tổ chức tôn giáo chỉ có trách
nhiệm thông báo với Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đi và đăng ký hoạt động
tôn giáo với Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đến.
Trường hợp chức sắc, nhà tu hành vi phạm pháp luật về tôn giáo đã bị
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xử lý vi phạm hành chính hoặc đã bị xử lý về
hình sự thì việc thuyên chuyển phải có sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh nơi đến.
6. Về Hội đoàn tôn giáo
Pháp lệnh và Nghị định (Điều 19 Pháp lệnh và Điều 12 Nghị định 92) quy
định Hội đoàn tôn giáo chỉ được hoạt động sau khi được tổ chức tôn giáo đăng
ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuỳ theo phạm vi hoạt động của Hội
đoàn tôn giáo, tổ chức tôn giáo phải đăng ký với Ủy ban nhân dân cấp huyện,
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Ban Tôn giáo Chính phủ. Những hội đoàn do tổ
chức tôn giáo lập ra chỉ nhằm phục vụ lễ nghi tôn giáo, khi hoạt động không
phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Pháp lệnh và Nghị định (Điều 20 Pháp lệnh và Điều 13 Nghị định 92) quy
định tôn giáo, dòng tu, tu viện hoặc các tổ chức tu hành tập thể, tùy theo phạm vi
hoạt động phải có hồ sơ đăng ký với Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh hoặc Ban Tôn giáo Chính phủ.
7. Đăng ký ngƣời vào tu
16

Pháp lệnh và Nghị định (Điều 21 Pháp lệnh và Điều 26 Nghị định 92) quy
định khi nhận người vào tu, người phụ trách cơ sở tôn giáo phải đăng ký với Ủy
ban nhân dân cấp xã về danh sách người vào tu, sơ yếu lý lịch của người vào tu.
Trường hợp người chưa thành niên phải có ý kiến bằng văn bản của cha mẹ hoặc
người giám hộ.
8. Về vấn đề tài sản thuộc cơ sở tín ngƣỡng, tôn giáo
Pháp lệnh và Nghị định (Điều 26, Điều 27, Điều 28 Pháp lệnh và Điều 36
Nghị định 92) khẳng định những tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn
giáo được pháp luật bảo hộ, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm. Trong đó, đất
đai thuộc những cơ sở này được Nhà nước bảo đảm quyền sử dụng ổn định, lâu
dài. Cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo được quyền quyên góp, nhận tài sản,
hiến, tặng, cho để phục vụ hoạt động tôn giáo. Tuy nhiên, việc quyên góp, hiến,
tặng, cho phải bảo đảm sự tự nguyện của người đóng góp, tặng, cho; quyên góp
phải công khai, rõ mục đích sử dụng không được lợi dụng danh nghĩa cơ sở tín
ngưỡng, tôn giáo để quyên góp phục vụ lợi ít cá nhân.Tùy theo phạm vi quyên
góp phải thông báo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân
cấp huyện về mục đích, phạm vi, cách thức, thời gian thực hiện quyên góp, cơ
chế quản lý, cách thức sử dụng tài sản được quyên góp, trường hợp tổ chức
quyên góp vượt ra ngoài phạm vi một huyện thì phải thông báo với cấp Tỉnh nơi
tổ chức quyên góp. Việc tiếp nhận, quản lý sử dụng các khoản quyên góp có yếu
tố nước ngoài được thực hiện theo quy định của pháp luật.
9. Về hoạt động xã hội, từ thiện nhân đạo của chức sắc, nhà tu hành
và tổ chức tôn giáo

Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức tôn giáo tham gia
nuôi dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; hỗ trợ cơ sở chăm sóc sức khoẻ
người nghèo, người tàn tật, người nhiễm HIV - AIDS, bệnh nhân phong, tâm
thần; hỗ trợ phát triển các cơ sở giáo dục mầm non và tham gia các hoạt động
khác vì mục đích từ thiện nhân đạo phù hợp với hiến chương, điều lệ của tổ
chức tôn giáo và quy định của pháp luật. Nhà nước khuyến khích chức sắc, nhà
tu hành với tư cách công dân tổ chức hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo
theo quy định của pháp luật.
10. Về quan hệ quốc tế của tôn giáo
Xuất phát từ chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá
các mối quan hệ quốc tế của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do
đó các mối quan hệ quốc tế của các tôn giáo cũng được đổi mới cởi mở. Pháp
lệnh và Nghị định (Điều 34, Điều 35, Điều 36, Điều 37 Pháp lệnh và Điều 37,
Điều 38 và Điều 40 Nghị định 92) chỉ giới hạn các quan hệ quốc tế liên quan
đến tổ chức tôn giáo mới cần có sự chấp thuận của chính quyền. Việc mời tổ
chức, người nước ngoài vào Việt Nam để tiến hành các hoạt động trao đổi, hợp
tác quốc tế có liên quan đến tôn giáo; tham gia hoạt động tôn giáo ở nước ngoài;
tham gia khóa đào tạo tôn giáo ở nước ngoài, tổ chức tôn giáo phải có hồ sơ gửi
đến Ban Tôn giáo Chính phủ. Đối với chức sắc, nhà tu hành xuất cảnh ra nước
17

ngoài không thuộc các trường hợp trên thì thực hiện theo quy định của pháp luật
về xuất nhập cảnh.
Điều 39 Nghị định 92 quy định tổ chức tôn giáo mời chức sắc, nhà tu
hành là người nước ngoài giảng đạo tại cơ sở tôn giáo ở Việt Nam có trách
nhiệm gửi hồ sơ đến cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở Trung ương, trong
đó nêu rõ tên chức sắc, nhà tu hành, quốc tịch, tên tổ chức tôn giáo nước ngoài,
chương trình, thời gian, địa điểm thực hiện, người tổ chức, thành phần tham dự.
11. Về hoạt động tôn giáo
- Về đăng ký hoạt động tôn giáo hàng năm của tổ chức tôn giáo cơ sở. Pháp

lệnh và Nghị định (Điều 12 Pháp lệnh và Điều 24, Điều 25 Nghị định 92) quy định
hàng năm trước ngày 15 tháng 10, người phụ trách tổ chức tôn giáo cơ sở có trách
nhiệm gửi bản đăng ký hoạt động tôn giáo sẽ diễn ra vào năm sau đến Ủy ban nhân
dân cấp xã, trong đó phải nêu rõ người tổ chức, chủ trì hoạt động, dự kiến thành
phần, nội dung hoạt động, thời gian, địa điểm diễn ra hoạt động Đối với những hoạt
động tôn giáo ngoài chương trình đã đăng ký thì tùy theo quy mô hoạt động tôn
giáo, sự tham gia của tín đồ, phải được sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp
huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo. Pháp lệnh và Nghị định (Điều 18
Pháp lệnh và Điều 27, Điều 28, Điều 29 Nghị định 92) quy định Hội nghị thường
niên, đại hội của tổ chức tôn giáo, tùy theo cấp tổ chức phải được sự chấp thuận
của Ban Tôn giáo Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Ủy ban nhân dân
cấp huyện. Riêng hội nghị, đại hội cấp Trung ương hoặc toàn đạo phải có ý kiến
của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi dự kiến tổ chức hội nghị, đại hội.
- Đăng ký Hiến chương, điều lệ sửa đổi. Điều 30 Nghị định 92 quy định khi
tổ chức tôn giáo sửa đổi hiến chương, điều lệ thì có trách nhiệm gửi văn bản đăng
ký kèm theo hiến chương, điều lệ sửa đổi đến Ban Tôn giáo Chính phủ hoặc Ủy
ban nhân dân tỉnh. Văn bản này nêu rõ tên tổ chức tôn giáo, người đại diện, lý do,
nội dung sửa đổi hiến chương, điều lệ. Tổ chức tôn giáo được hoạt động theo hiến
chương, điều lệ sau khi được nhà nước có thẩm quyền (đây là điểm mới so với
Nghị định 22 là Ủy ban nhân dân tỉnh có chức năng sửa đổi hiến chương và điều lệ
của tổ chức tôn giáo).
- Về các cuộc lễ của tổ chức tôn giáo diễn ra ngoài cơ sở tôn giáo. Pháp
lệnh và Nghị định (Điều 25 Pháp lệnh và Điều 31 Nghị định 92) quy định tổ chức
tôn giáo khi tổ chức cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo phải có văn bản đề nghị gửi Ủy
ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi diễn ra cuộc lễ.
- Về giảng đạo, truyền đạo của chức sắc, nhà tu hành ngoài cơ sở tôn giáo.
Pháp lệnh và Nghị định (Điều 11 Pháp lệnh và Điều 32 Nghị định 92) quy định
chức sắc, nhà tu hành giảng đạo, truyền đạo ngoài cơ sở tôn giáo phải có văn
bản đề nghị gửi Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi dự kiến chức sắc, nhà tu hành

thực hiện. Kèm theo văn bản đề nghị có ý kiến của tổ chức tôn giáo trực tiếp
quản lý.
18

- Về việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tôn giáo. Pháp lệnh
và Nghị định (Điều 30 Pháp lệnh và Điều 34, Điều 35 Nghị định 92) quy định Việc
sửa chữa, cải tạo công trình tôn giáo không làm thay đổi kiến trúc, kết cấu chịu
lực thì không phải xin cấp giấy phép xây dựng, nhưng người phụ trách cơ sở tôn
giáo phải thông báo bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã sở tại. Trường
hợp sửa chữa, cải tạo công trình tôn giáo làm thay đổi kiến trúc, kết cấu chịu lực
hoặc xây dựng mới công trình tôn giáo thì phải được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
cho phép.
- Về thành lập, quản lý, giải thể trường đào tạo, mở lớp bồi dưỡng những
người chuyên hoạt động tôn giáo. Pháp lệnh và Nghị định (Điều 24 Pháp lệnh và
Điều 14, Điều 15, Điều 17, Điều 18 Nghị định 92) quy định tổ chức tôn giáo thành
lập, giải thể trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo phải được
sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ và đất đai, tài sản khi giải thể được xử
lý theo quy định pháp luật hiện hành; quản lý đối với trường đào tạo những
người chuyên hoạt động tôn giáo thì Ban lãnh đạo nhà trường phải gửi thông
báo tuyển sinh đến Ban Tôn giáo Chính phủ, nội dung nêu rõ số lượng học viên,
các điều kiện đảm bảo và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm quản lý
hành chính đối với trường đào tạo trên địa bàn; Người nước ngoài theo học tại
trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo ở Việt Nam (đây là điểm
mới so với Nghị định 22 là người nước ngoài theo học tại trường đào tạo ở Việt
Nam và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có chức năng quản lý hành chính đối với
trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo).
Tổ chức tôn giáo mở lớp bồi dưỡng những người chuyên hoạt động tôn
giáo phải được sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi mở lớp.
12. Về việc đình chỉ hoạt động tín ngƣỡng, tôn giáo
Pháp lệnh và Nghị định quy định (Điều 8 Pháp lệnh và Điều 2 Nghị định

92) có nêu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có thể bị đình chỉ nếu vi phạm một
trong các trường hợp: phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích
động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với chính sách
pháp luật của nhà nước; chia rẽ nhân ndaan, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo; gây rồi
trật tự công cộng; xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của người khác hoặc có những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác.
Quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng cho phép cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đình chỉ các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo khi nó diễn ra mà xâm phạm,
ảnh hưởng, tác động xấu đến các quan hệ xã hội được Nhà nước bảo vệ.
Về việc chế tài xử phạt các hoạt động vi phạm, ngoài nội dung xử lý đối
với những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo vì mục đích chính trị xấu, lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo vào mục đích mê tín dị đoan như trước đây, Pháp lệnh
còn nói đến việc xử lý đối với những ai phân biệt đối xử với lý do tín ngưỡng,
tôn giáo; vi phạm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân.
II. THẨM QUYỀN CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
TÔN GIÁO
19

Hiện nay, trong quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có 3 hình thức:
Thông báo, đăng ký và xin phép (phải có sự chấp thuận của chính quyền).
Những sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo bình thường của nhân dân, những hoạt
động tôn giáo bình thường của chức sắc, nhà tu hành được tôn trọng và đảm bảo
không phải xin phép. Việc xin phép chủ yếu được áp dụng đối với hoạt động về
mặt tổ chức của tổ chức giáo hội như công nhận tư cách pháp nhân tổ chức tôn
giáo, việc tổ chức hội nghị, đại hội, việc mở trường đào tạo chức sắc, việc xây
dựng nơi thờ tự, cơ sở tôn giáo Những việc này được áp dụng tương tự như
với các tổ chức đoàn thể xã hội khác.
Theo Nghị định 92, công tác quản lý Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn
giáo hiện nay có 46 nội dung công việc thuộc các lĩnh vực như: Tiếp nhận thông
báo hoạt động, tiếp nhận đăng ký hoạt động để quản lý, cấp phép đăng ký hoạt

động, cho phép tổ chức hoạt động, được thực hiện ở 4 cấp quản lý: Cấp Trung
ương là Chính phủ, cấp tỉnh là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là Ủy ban
nhân dân cấp huyện và cấp xã là Ủy ban nhân dân cấp xã. Nghị định số
92/2012/NĐ-CP ban hành là một bước tiến mới trong quá trình hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta. Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo tạo ra môi trường pháp lý mới, đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân tốt hơn; đồng thời tạo điều kiện quản lý, đưa hoạt
động của các tôn giáo tuân thủ chính sách, pháp luật. Theo đó, Ủy ban nhân dân
cấp xã có 10 nội dung công việc liên quan đến quản lý về tín ngưỡng, tôn giáo
trong Nghị định 92/2012/NĐ-CP, cụ thể gồm:
- Tiếp nhận thông báo người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng
(Khoản 1, Điều 3).
- Tiếp nhận thông báo dự kiến hoạt động tín ngưỡng tại cơ sở tín ngưỡng
vào năm sau (Khoản 2, Điều 3).
- Tiếp nhận thông báo những lễ hội tín ngưỡng không thuộc trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 4 (Khoản 5, Điều 4).
- Giải quyết (chấp thuận hoặc không chấp thuận) việc đăng ký sinh hoạt
tôn giáo (Điểm b, Khoản 2, Điều 5).
- Xác nhận sơ yếu lý lịch của người được thuyên chuyển (Điểm c, Khoản
2, Điều 23).
- Tiếp nhận và giải quyết đăng ký hoạt động tôn giáo hàng năm của tổ
chức tôn giáo cơ sở (Khoản 2, Điều 24).
- Tiếp nhận đăng ký người vào tu của người phụ trách cơ sở tôn giáo
(Khoản 1, Điều 26).
- Xác nhận sơ yếu lý lịch nơi người vào tu có hộ khẩu thường trú (Điểm b,
Khoản 2, Điều 26).
- Tiếp nhận và kiểm tra giám sát nội dung thông báo về cải tạo, sửa chữa
công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo không phải là di tích lịch sử - văn
hóa, danh lam thắng cảnh đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xếp hạng
20


mà không làm thay đổi kiến trúc, kết cấu chịu lực, an toàn của công trình và khu
vực xung quanh không phải xin cấp giấy phép xây dựng (Điều 35).
- Tiếp nhận và giám sát việc thực hiện thông báo tổ chức quyên góp của
cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo vượt ra ngoài phạm vi một huyện (Điểm a, Khoản 2,
Điều 36)./.

×