Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Tài liệu ôn thi tuyển công chức năm 2014 môn chuyên ngành tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.13 KB, 41 trang )

Chuyên đề
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO
Phần I
CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN VỀ TÔN GIÁO
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ TÔN GIÁO
1. Khái niệm tơn giáo
Hiện nay, đang cịn nhiều ý kiến khác nhau khi đề cập đến khái niệm tôn
giáo. Những người theo chủ nghĩa Mác-Lênnin cho rằng, tôn giáo không chỉ là một
hình thái ý thức xã hội mà cịn là một thực thể xã hội. Với tư cách là một hình thái
ý thức xã hội, tôn giáo phản ánh một các hoang đường, hư ảo hiện thực khách
quan. Điều này được Ph.Ăngghen nêu trong tác phẩm chống Đuy-rinh: “Nhưng tất
cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con
người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ
là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực
lượng siêu trần thế” (C.Mác- Ph Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, 1994, Tr20,
Tr437).
2. Nguồn gốc tơn giáo
Đã có nhiều cách lý giải khác nhau về nguồn gốc tôn giáo. Quan điểm mácxít cho rằng, tơn giáo có ba nguồn gốc chính: nguồn gốc kinh tế - xã hội, nguồn
gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lí.
2.1. Nguồn gốc kinh tế - xã hội
Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ của lực lượng sản xuất thấp, con người bất lực trước thiên nhiên. Vì vậy, người nguyên thuỷ đã gắn cho thiên nhiên
những sức mạnh siêu nhiên. Nhưng về sau, bên cạnh sức mạnh của tự nhiên lại xuất
hiện những sức mạnh của xã hội, xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất,
giai cấp hình thành, đối kháng giai cấp nảy sinh. Khi xã hội có giai cấp đối kháng,
con người bất lực trước các lực lượng xã hội thống trị họ, sự bần cùng hố về kinh tế,
áp bức về chính tri, bất bình đẳng về xã hội và bất lực trong cuộc đấu tranh chống
giai cấp thống trị đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia...
2.2. Nguồn gốc nhận thức
Các nhà duy vật trước C.Mác thường nhấn mạnh về nguồn từ nhận thức của
tôn giáo. Còn những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin lại quan tâm trước
hết đến nguồn gốc kinh tế-xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác-Lênin


không phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tơn giáo mà cịn làm sáng tỏ một cách có
cơ sở khoa học nguồn gốc đó.
Tơn giáo chỉ ra đời khi trình độ tư duy của con người đạt đến độ nhất định, đó
là khả năng tư duy trừu tượng khiến họ có thể hình thành những ý niệm về thượng đế,


về thần thánh. Khi tư duy con người còn ở trình độ thấp kém, họ khơng hiểu nổi
những hiện tượng tự nhiên nên đã gán cho nó sức mạnh thần thánh.
Trong những điều kiện lịch sử nhất định, trình độ nhận thức của con người
là có hạn, giữa biết và chưa biết bao giờ cũng có khoảng cách, do vậy mà con người mượn những yếu tố bên ngoài để lý giải. Phương pháp nhận thức của con người trong qúa trình nhận thức thế giới xung quanh có những sai lệch và đầy rẫy
những mâu thuẫn.
2.3. Nguồn gốc tâm lý, tình cảm
Các nhà vơ thần cổ đại đưa ra luận điểm “Sự sợ hãi tạo ra thần linh”, V.I
Lênnin tán thành và phân tích thêm: “Sự sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản
- mù quáng vì quần chúng nhân dân khơng thể đốn trước được nó - là thế lực bất
cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản và người tiểu chủ, cũng đe doạ đem lại
cho họ sự phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”...”. Sự sợ hãi trước sức
mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội là sự sợ hãi trước các nỗi bất hạnh: bệnh tật,
cô đơn, chiến tranh, khủng hoảng và cái chết...Tôn giáo xuất hiện để bù đắp hẫng
hụt, trống vắng, an ủi vỗ về xoa dịu con người lúc sa cơ lỡ vận, cùng quẫn; con
người ta tưởng tượng ra một thế giới sau khi chết, ở đó họ sẽ sung sướng hơn, hết
mọi khổ ải và bất công... đưa đến niềm tin tôn giáo. Tôn giáo của hiện tại bao giờ
cũng tiếp nhận những tập qn, thói quen truyền thống của tơn giáo q khứ.
3. Tính chất của tơn giáo
3.1. Tính lịch sử của tơn giáo
Tơn giáo cịn tồn tại lâu dài, nhưng khơng phải là hiện tượng xã hội vĩnh
hằng, bất biến mà có tính lịch sử. Tơn giáo có bước khởi đầu, biến động và có thể
mất đi. Là một phạm trù lịch sử, q trình phát sinh, phát triển của tơn giáo gắn với
những điều kiện sinh hoạt vật chất và xã hội nhất định. Tôn giáo biến động cùng
biến động lịch sử; ở mỗi dân tộc khác nhau, mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau tôn giáo

sẽ khác nhau, tuy nhiên đó là q trình rất lâu dài khó đốn định.
3.2. Tính quần chúng của tơn giáo
Tính quần chúng của tơn giáo khơng chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ các tôn
giáo chiếm tỉ lệ cao trong dân số thế giới, mà cịn ở chỗ tơn giáo là một trong các
hình thức sinh hoạt văn hố tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân lao
động. Dù tôn giáo hướng con người hy vọng vào hạnh phúc hư ảo ở thế giới bên
kia, song nó ln phản ánh khát vọng của những người bị áp bức về một xã hội tự
do, bình đẳng, bác ái. Tơn giáo là một trong những nhu cầu tinh thần của một bộ
phận không nhỏ quần chúng nhân dân.
3.3. Tính chính trị của tơn giáo
Trong xã hội khơng có giai cấp, tơn giáo chỉ phản ánh nhận thức hồn nhiên,
ngây thơ của con người về bản thân và thế giới quanh mình. Nhưng, khi xuất hiện
giai cấp thì tơn giáo thường phản ánh lợi ích giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tính
2


chính trị của tơn giáo chỉ có khi xã hội đã phân chia giai cấp, khi có những lực
lượng chính trị lợi dụng tơn giáo vì mục đích ngồi tơn giáo.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ MANG TÍNH NGUYÊN TẮC KHI ỨNG XỬ
VỚI TÔN GIÁO
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, khi ứng xử với tôn giáo
cần dựa trên những nguyên tắc sau đây:
1. Khắc phục dần những ảnh hƣởng tiêu cực của tơn giáo phải gắn liền
với q trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, muốn thay đổi ý thức xã
hội, trước hết phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xoá bỏ ảo tưởng nảy sinh
trong tư tưởng con người, phải xoá bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Đấu tranh
chống những biểu hiện tiêu cực trong tôn giáo là gián tiếp đấu tranh với cái thế
giới đang cần có ảo tưởng. Điều cần thiết trước hết là phải xác lập được một thế
giới hiện thực khơng có áp bức, bất cơng, nghèo đói và thất học,...cùng những tệ

nạn nảy sinh trong xã hội. Đó là một trình lâu dài, q trình ấy không thể thực hiện
nếu tách rời việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chỉ có thơng qua quá
trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần và trí tuệ cho con người thì mới có khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu
cực trong đời sống xã hội.
Sự thống nhất về lợi ích dân tộc, giai cấp và quốc gia sẽ tạo điều kiện tiến tới
sự thống nhất về tư tưởng và hành động.
Dĩ nhiên, điều đó khơng có nghĩa là lãng qn hay từ bỏ cuộc đấu tranh trên
lĩnh vực tư tưởng và ngược lại, cần quan tâm và coi trọng việc tuyên truyền, giáo
dục thế giới quan duy vật khoa học một cách thường xun với nhiều hình thức.
Nhưng cơng tác tun truyền, giáo dục phải gắn liền và phục vụ cho công cuộc xây
dựng xã hội mới.
2. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng và khơng tín ngƣỡng
của cơng dân
Trong CNXH, việc bảo đảm và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng
tín ngưỡng là một ngun tắc. Quyền ấy, không chỉ thể hiện về mặt pháp lý và còn
được thực hiện trên thực tiễn một cách nhất quán, lâu dài trong xã hội XHCN: Nội
dung cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng là:
“Mỗi người đều phải được hồn tồn tự do khơng những muốn theo tơn giáo
nào thì theo, mà cịn phải có quyền truyền bá bất kỳ tơn giáo nào, hoặc thay đổi tôn
giáo”. Nhà nước XHCN thừa nhận và đảm bảo cho mọi cơng dân có hoặc khơng có
tín ngưỡng, tơn giáo đều bình đẳng về mặt nghĩa vụ và quyền lợi. Các tôn giáo
được nhà nước thừa nhận đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi người cần có ý thức
tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của người khác;
đồng thời chống lại những phần tử lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt động đi
ngược lại với lợi ích dân tộc và những kẻ hành nghề mê tín dị đoan.
3. Cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo
3



Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò tác động của từng tôn giáo đối
với đời sống xã hội không như nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ,
giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội ln có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải
có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử những vấn đề có liên
quan đến tơn giáo.
Có những tơn giáo khi mới xuất hiện như một phong trào bảo vệ lợi ích của
người nghèo, người bị áp bức và nô lệ. Nhưng rồi, tôn giáo ấy lại biến thành công
cụ của giai cấp thống trị bóc lột. Có những giáo sĩ suốt đời hành đạo theo hướng
đồng hành với dân tộc; nhưng cũng có những người đã hợp tác với những thế lực
phản động đi ngược lại lợi ích của quốc gia. Có những vị chân tu ln “kính chúa
u nước”, thiết tha muốn sống “tốt đời đẹp đạo”; nhưng lại có những người sẵn
sàng hy sinh quyền lợi Tổ quốc cho lợi ích của ngoại bang. Điều đó khiến cho Nhà
nước XHCN ln cần có thái độ, cách ứng xử phù hợp đối với từng trường hợp cụ
thể, như Lênin đã nhắc nhở: “Người mác-xít phải biết chú ý đến tồn bộ tình hình
cụ thể”, khi giải quyết vấn đề tơn giáo.
4. Cần phân biệt hai mặt nhu cầu tín ngƣỡng, tơn giáo và lợi dụng tín
ngƣỡng, tơn giáo
Tơn giáo ln tồn tại hai mặt: nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo chân chính của
nhân dân và một bộ phận lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo vì mục đích ngồi tơn giáo.
Sự phân biệt này, trên thực tế không đơn giản, nhưng lại là rất cần thiết, vì
có phân biệt được hai mặt đó mới tránh khỏi khuynh hướng tả hoặc hữu trong quá
trình quản lý, ứng xử với những vấn đề nảy sinh từ tín ngưỡng, tơn giáo. Nhu cầu
tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần chính đáng của đồng bào có đạo và sẽ cịn
tồn tại lâu dài. Mọi biểu hiện vi phạm quyền ấy là trái với tư tưởng của chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Xuất phát từ lợi ích giai cấp, dân tộc và an ninh quốc gia, nhà nước XHCN
phải thường xuyên đấu tranh loại bỏ yếu tố chính trị phản động trong tôn giáo. Ngày
nay, các thế lực phản động quốc tế đang lợi dụng tôn giáo để thực hiện chiến lược
“diễn biến hồ bình” nhằm xố bỏ CNXH ở các nước XHCN cịn lại, trong đó có
Việt Nam. Điều đó nhắc nhở Đảng của giai cấp cơng nhân cần nêu cao cảnh giác,

giải quyết kịp thời, cương quyết đối với những kẻ lợi dụng tôn giáo. Tuy nhiên, khi
giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cũng cần tránh khuynh hướng đơn
giản, phiến diện, nôn nóng mà phải thận trọng và tỉ mỉ.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo là cơ sở khoa học cho việc
hoạch định chính sách đối với tơn giáo của nhà nước XHCN.

4


Phần II
CHỦ TRƢƠNG, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TƠN GIÁO CỦA ĐẢNG
VÀ NHÀ NƢỚC TA HIỆN NAY
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
1. Do những đặc điểm riêng về địa lý, dân cư, lịch sử, văn hóa,... Việt Nam là
quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tơn giáo. Các tơn giáo ở Việt Nam có tơn
giáo ổn định về tổ chức và nề nếp sinh hoạt tôn giáo, đã có đường hướng tiến bộ, có
tơn giáo hoạt động chưa ổn định như Phật giáo, Công giáo, Cao đài, Phật giáo Hịa
Hảo, Tin lành, Hồi giáo cịn có một số nhóm tơn giáo địa phương, hoặc mới được
thành lập có liên quan đến Phật giáo hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào như: Bửu
Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh độ Cư sỹ, Bàlamôn, Baha’i và các hệ phái
Tin lành.
Thực tế trên đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta phải có chủ trương, chính sách một
cách thỏa đáng đối với tơn giáo nói chung và đối với từng tơn giáo nói riêng.
2. Ở Việt Nam cịn có một bộ phận đồng bào các dân tộc thiểu số ở khu vực
miền núi phía Bắc (Tây Bắc), Tây Nguyên và Tây Nam Bộ theo tôn giáo. Ở khu vực
Tây Nam bộ có trên một triệu người Khơ-me theo Phật giáo Nam tông. Ở Tây
Nguyên và Tây Bắc có bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo Công giáo, Tin
lành,...
Việc một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo đặt ra cho
chúng ta là cùng một lúc phải giải quyết cả hai vấn đề vốn rất phức tạp, nhạy cảm là

dân tộc và tơn giáo.
3. Tín đồ các tơn giáo ở Việt Nam đa số là nơng dân lao động, trong đó chủ
yếu là nơng dân, có tinh thần u nước. Đồng thời họ cũng có niềm tin tơn giáo sâu
sắc và có nhu cầu sinh hoạt tơn giáo bình thường. Cho nên tín đồ các tơn giáo ở Việt
Nam vừa gắn bó với dân tộc, đất nước, đi theo sự lãnh đạo của Đảng và đóng góp
quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của tồn dân, vừa duy trì các sinh hoạt tơn
giáo, gắn bó với giáo hội theo phương châm “tốt đời, đẹp đạo”. Tuy nhiên, đời sống
dân sinh, trình độ dân trí ở một số vùng đồng bào tơn giáo cịn thấp so với mặt bằng
chung.
Với đặc điểm này, cơng tác tơn giáo vừa phải phát huy mặt tích cực trong tín
đồ các tơn giáo, vừa phải tơn trọng tự do tín ngưỡng, tơn giáo của tín đồ; đồng thời
nâng cao đời sống dân sinh, trình độ dân trí cho quần chúng và xoá đi những mặc
cảm với cách mạng do lịch sử để lại.
4. Ở Việt Nam có một lực lượng chức sắc, nhà tu hành - những người hoạt
động tôn giáo chuyên nghiệp - khá đông đảo. Chức sắc, nhà tu hành, chức việc đang
hoạt động trong các tổ chức giáo hội là người hướng dẫn quản lý sinh hoạt tín
5


ngưỡng, tơn giáo của tín đồ và là đầu mối để Nhà nước thực hiện việc quản lý đối
với hoạt động tơn giáo.
5. Ở Việt Nam, các tơn giáo có mối quan hệ quốc tế rộng rãi. Giáo hội Công
giáo Việt Nam trong mối quan hệ về mặt tổ chức là bộ phận của Giáo hội Cơng giáo
hồn vũ do Giáo triều Vatican lãnh đạo điều hành. Các hệ phái Tin lành ở Việt Nam
có mối quan hệ với các tổ chức Tin lành quốc tế và trong khu vực, vừa có quan hệ
về mặt tổ chức theo hệ thống, vừa có mối quan hệ đồng đạo theo xu hướng “đại kết”
Ki-tơ giáo. Giáo hội Phật giáo Việt Nam có mối quan hệ với Phật giáo các nước
trong khu vực, như Phật giáo Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Ấn Độ,... và
với các tổ chức Phật giáo quốc tế như tổ chức Phật giáo châu Á vì Hịa bình ABCP, Tổ chức Thân hữu phật tử thế giới - WFB. Hồi giáo ở Việt Nam tuy ít
nhưng có mối quan hệ khá chặt chẽ với Hồi giáo thế giới và Hồi giáo các nước trong

khu vực. Ngoài những mối quan hệ nói trên, các tơn giáo ở Việt Nam cịn chịu sự
tác động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo của người Việt Nam ở nước ngồi (hiện
nay có khoảng gần ba triệu người Việt Nam ở nước ngoài mà đa số là tín đồ, chức
sắc của các tơn giáo).
Vấn đề quan hệ quốc tế của các tổ chức tơn giáo như nói trên, sẽ phải được
xem xét giải quyết tương xứng với đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng và Nhà
nước ta trong xu hướng toàn cầu hóa.
6. Hiện nay, vấn đề tơn giáo ln bị các thế lực thù địch lợi dụng để phục vụ
lợi ích chính trị của chúng. Việc lợi dụng tơn giáo của các thế lực thù địch được gắn
với vấn đề dân tộc, nhân quyền và lợi dụng một số sai sót ở cơ sở trong việc thực
hiện chính sách tơn giáo để xun tạc tình hình tơn giáo trong nước. Chúng cịn lơi
kéo những phần tử ly khai trong các tơn giáo gây mất ổn định nội bộ tôn giáo. Việc
lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải
giải quyết.
Do vậy, công tác tôn giáo hiện nay vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng của quần
chúng tín đồ, vừa phải cảnh giác đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng tơn giáo của
các thế lực thù địch hịng chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CƠ BẢN CỦA ĐẢNG TA VỀ TÔN GIÁO
VÀ CƠNG TÁC TƠN GIÁO TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
Năm 1986, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện trên các mặt kinh
tế, văn hóa, xã hội với Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Đổi mới
chính sách đối với tơn giáo là một nội dung rất quan trọng trong đường lối đổi mới
của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, tôn giáo là vấn đề rất quan trọng và rất khó,
cần phải tổng kết từ thực tiễn, nên đến năm 1990, Đảng và Nhà nước ta có chính
sách đổi mới về tơn giáo qua Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16/10/1990 của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng với tựa đề Về tăng cường cơng tác tơn
giáo trong tình hình mới. Sau 13 năm thực hiện chính sách đổi mới đối với tơn
giáo, lại từ thực tiễn, đồng thời xem xét những vấn đề mới nảy sinh, đặt trong hồn
cảnh thế giới có nhiều thay đổi quan trọng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 Về công tác tôn giáo.

6


Nghị quyết 25 là sự phát triển nâng cao và hồn chỉnh Nghị quyết 24 trở thành
quan điểm chính thức về đổi mới đối với công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước
ta. Tư tưởng đổi mới thể hiện qua các nội dung chủ yếu sau đây:
1. Về phƣơng hƣớng
Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai đoạn mới phải nhằm tăng
cường đoàn kết đồng bào các tơn giáo trong khối đại đồn kết tồn dân tộc, phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Về quan điểm, chủ trƣơng có những nội dung chủ yếu sau đây
Một là, tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Đồng
bào các tôn giáo là một bộ phận trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào, quyền sinh hoạt tơn giáo
bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật, bình đẳng trước pháp luật.
Hai là, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất qn chính sách đại đồn kết dân
tộc, khơng phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo.
Các tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, hoạt động trong khn khổ pháp
luật. Đồn kết đồng bào theo các tơn giáo khác nhau: đồn kết đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực
của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tơn vinh những người có công với Tổ quốc và
nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với cơng dân vì lý do tín ngưỡng, tơn
giáo. Đồng thời, nghiêm cấm việc lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt động mê
tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ
nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.

Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm
tương đồng để gắn bó đồng bào các tơn giáo với sự nghiệp chung. Mọi cơng dân
khơng phân biệt tín ngưỡng, tơn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu
cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc; thơng qua
việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi
ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tơn
giáo.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.

7


Nước ta hiện có hàng chục triệu tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của các tôn
giáo, phân bố ở mọi vùng, miền, địa phương trong cả nước. Công tác tơn giáo có
liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, và nhiều cấp, nhiều ngành.
Làm tốt công tác tơn giáo là trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo, trong đó có đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là
lực lượng tham mưu nòng cốt. Tổ chức bộ máy làm cơng tác tơn giáo cần được
củng cố, kiện tồn, nhất là ở những địa bàn trọng điểm có đơng đồng bào tôn giáo.
Công tác tôn giáo thực chất là công tác vận động quần chúng. Công tác quản lý nhà
nước đối với tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế
độ, chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành
đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp
luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức
sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự

của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tơn giáo tun truyền tà đạo, hoạt
động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo.
III. NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI TÍN
NGƢỠNG, TƠN GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
1. Những nguyên tắc cơ bản của chính sách đối với tơn giáo
Bước vào thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, để phát huy sức
mạnh tồn dân tộc, Bộ Chính trị u cầu các cấp uỷ Đảng và chính quyền động
viên đồng bào các tôn giáo phát huy truyền thống yêu nước, hăng hái tham gia
công cuộc đổi mới, làm tốt việc đạo, làm trịn nghĩa vụ cơng dân, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; đồng thời tiếp tục thực hiện tốt chính sách của Nhà nước về tín
ngưỡng, tơn giáo theo những nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và tự do khơng tín
ngưỡng tơn giáo của cơng dân. Mọi cơng dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền
lợi trước pháp luật, không phân biệt người theo đạo và không theo đạo cũng như
giữa các tôn giáo khác nhau.
- Đồn kết gắn bó đồng bào theo các tơn giáo và khơng theo tơn giáo trong
khối đại đồn kết tồn dân.
- Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo phải tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật, có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; giữ gìn độc lập chủ quyền quốc gia.
- Những hoạt động tơn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và
lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp của tơn giáo được tôn trọng và phát huy.
8


- Mọi hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo làm mất trật tự an toàn xã hội,
phương hại nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đồn kết toàn dân, chống lại

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây tổn hại các giá trị đạo đức lối
sống, văn hóa của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa
vụ công dân đều bị xử lý theo pháp luật. Hoạt động mê tín dị đoan bị phê phán và
loại bỏ.
- Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
tổ chức xã hội và các tổ chức tơn giáo có trách nhiệm làm tốt cơng tác vận động quần
chúng và thực hiện đúng đắn chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
2. Những nhiệm vụ của cơng tác tơn giáo trong tình hình hiện nay
Công tác tôn giáo hiện nay cần tập trung vào các nhiệm vụ sau:
Một là, cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp phải bảo đảm sinh hoạt tín
ngưỡng, tơn giáo bình thường, lành mạnh, hợp pháp, thường xuyên chăm lo đời
sống vất chất, văn hoá, tinh thần và nâng cao trình độ mọi mặt cho nhân dân nói
chung, trong đó có đồng bào các tơn giáo. Vận động tín đồ chức sắc, nhà tu hành
trong các tôn giáo thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ cơng dân, tích cực tham gia
nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng cuộc
sống mới ở cơ sở, ở các khu dân cư.
Hai là, các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội phải tích cực tuyên truyền, phổ biến, giải
thích chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước trong nhân dân, nhất là với tín đồ và
chức sắc tơn giáo. Hướng dẫn các tôn giáo hoạt động theo hướng: phát huy những
giá trị văn hoá, đạo đức lành mạnh, hướng thiện của tơn giáo phù hợp với truyền
thống văn hố.
Ba là, Nhà nước, Chính phủ bổ sung, hồn thiện văn bản pháp luật về tôn
giáo, tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo pháp luật.
Bốn là, tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ các tín đồ và chức sắc
tôn giáo nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động ngăn ngừa và đấu tranh làm thất
bại âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống lại sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Năm là, xây dựng, củng cố tổ chức Đảng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu lãnh
đạo các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng ở các địa phương,

địa bàn đồng bào có tơn giáo. Cán bộ, đảng viên nói chung và đảng viên theo tơn
giáo nói riêng phải gương mẫu thực hiện và vận động các tín đồ tơn giáo thực hiện
tốt những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Sáu là, kiện toàn bộ máy làm cơng tác tơn giáo các cấp, các ngành. Có quy
hoạch, kế hoạch đào tạo cán bộ làm công tác tôn giáo ở các cấp, các ngành.
Bảy là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã
hội tăng cường cơng tác vận động tín đồ, chức sắc tơn giáo hồ nhập cùng cộng
đồng trong cơng cuộc đổi mới; thực hiện cơng cuộc vận động “Tồn dân đoàn kết
xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”; xây dựng, củng cố tổ chức của Mặt trận và
9


các đồn thể; ủng hộ các nhân tố tích cực và phong trào thi đua yêu nước của đồng
bào các tơn giáo, thực hiện “tốt đời đẹp đạo”, góp phần ổn định và phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh ở từng cơ sở, địa phương và cả nước.
3. Những chính sách cụ thể đối với tơn giáo hiện nay
3.1. Đối với các tín đồ tơn giáo
- Tín đồ có quyền thực hiện các hoạt động tơn giáo khơng trái với chủ
trương chính sách và pháp luật của nhà nước, tiến hành các nghi thức thờ cúng, cầu
nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức,
phục vụ nghi lễ tôn giáo tại cơ sở thờ tự.
- Tín đồ khơng được lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo làm trái pháp luật, khơng
được hoạt động mê tín dị đoan.
- Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được sinh hoạt tôn giáo
theo pháp luật Việt Nam.
3.2. Đối với chức sắc, nhà tu hành tôn giáo
- Chức sắc, nhà tu hành tơn giáo có quyền:
+ Được thực hiện các chức trách, chức vụ tôn giáo của mình trong phạm vi
trách nhiệm đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
+ Chức sắc, nhà tu hành với tư cách công dân được Nhà nước khuyến khích

tổ chức hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo theo quy định của pháp luật.
+ Được thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế theo quy định của hiến
chương, điều lệ hoặc giáo luật của tổ chức tôn giáo phù hợp với pháp luật Việt
Nam.
+ Chức sắc, nhà tu hành thuộc cơ sở tôn giáo đã xếp hạng di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh được hoạt động tơn giáo bình thường như tại cơ sở
tôn giáo khác.
+ Được nhà nước xét khen thưởng cơng lao đóng góp trong sự nghiệp đồn
kết tồn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Được hưởng các quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của cơng dân.
- Chức sắc, nhà tu hành có nghĩa vụ:
+ Chức sắc, nhà tu hành tơn giáo có trách nhiệm thực hiện mọi nghĩa vụ
cơng dân.
+ Có trách nhiệm thường xun giáo dục cho tín đồ lịng u nước, thực
hiện quyền, nghĩa vụ công dân và ý thức chấp hành pháp luật.
+ Chức sắc, nhà tu hành sau khi hồn thành khóa đào tạo về tơn giáo ở
nước ngồi, nếu được tổ chức tơn giáo ở nước ngồi phong chức, phong phẩm, bổ
nhiệm, bầu cử, suy cử, khi về Việt Nam hoạt động tôn giáo, tổ chức tôn giáo quản
lý trực tiếp có trách nhiệm đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật.
10


+ Chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài được giảng đạo tại cơ sở tôn
giáo của Việt Nam sau khi được cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở Trung
ương chấp thuận, phải tôn trọng quy định của tổ chức tôn giáo của Việt Nam và
tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam.
+ Khi thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế chức sắc, nhà tu hành phải
bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau, tơn trọng độc lập, chủ quyền và công việc nội bộ
của các quốc gia.
+ Thực hiện đúng chức trách, chức vụ tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm

tôn giáo đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chấp nhận và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động tơn giáo trong phạm vi trách nhiệm đó.
- Người mạo danh chức sắc, nhà tu hành tôn giáo bị xử lý hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Người đang chấp hành án phạt tù hoặc đang bị quản chế hành chính khơng
được thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo. Việc phục hồi chức trách, chức vụ tơn
giáo khi đã hết hạn hình phạt trên phải do tổ chức tơn giáo quản lý người đó đề
nghị và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
- Việc mở trường đào tạo các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo phải được phép
của Thủ tướng Chính phủ. Tổ chức và hoạt động của các trường thực hiện theo các
quy định của Ban Tơn giáo Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các trường thực
hiện các quy chế chính sách, pháp luật của nhà nước theo sự hướng dẫn, giám sát
kiểm tra của các cơ quan chức năng của Nhà nước và Ủy ban nhân dân sở tại.
- Việc phong giáo phẩm, phong chức cho các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo,
việc bổ nhiệm, thuyên chuyển những chức sắc phải được sự chấp thuận của Thủ
tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (tùy theo giáo phẩm).
Đối với các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo được tổ chức, cá nhân ở nước ngoài
phong giáo phẩm, phong chức, bổ nhiệm phải được sự chấp thuận của Thủ tướng
Chính phủ.
3.3. Đối với các tổ chức tôn giáo
- Tổ chức tôn giáo có tơn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ
chức phù hợp với pháp luật và được Thủ tướng Chính phủ cho phép hoạt động thì
được pháp luật bảo hộ.
- Tổ chức tôn giáo hoạt động trái với tơn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo,
cơ cấu tổ chức đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thì bị đình chỉ hoạt động. Các
cá nhân chịu trách nhiệm về những vi phạm đó bị xử lý theo pháp luật.
- Chức sắc, nhà tu hành và tổ chức tôn giáo hoạt động từ thiện theo quy định
và hướng dẫn của Nhà nước và các cơ quan chức năng.
3.4. Đối với các hoạt động tôn giáo
- Các hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự đã đăng ký hàng năm và thực hiện

trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì khơng phải xin phép.
11


- Những hoạt động tôn giáo vượt ra khỏi khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc chưa
đang ký hàng năm phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Các cuộc tĩnh tâm của linh mục trong giáo phận, của các tu sĩ tập trung từ
nhiều cơ sở, dịng tu của Cơng giáo, các cuộc bồi linh của mục sư và truyền đạo
của đạo Tin lành, các kỳ an cư của tăng ni đạo Phật và các sinh hoạt tôn giáo tương
tự khác thực hiện theo quy định của cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh về tơn giáo.
- Các đại hội, hội nghị cấp tồn quốc hoặc có liên quan đến nhiều tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương thì phải được phép của Thủ tướng Chính phủ. Những
đại hội, hội nghị tôn giáo ở các cấp địa phương phải được phép của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh.
- Việc in, xuất bản các loại kinh sách và các xuất bản giáo phẩm tôn giáo,
việc sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tơn giáo, đồ dùng trong
việc đạo thực hiện theo quy chế của Nhà nước về in, xuất bản, sản xuất kinh
doanh, xuất nhập nhập khẩu văn hóa phẩm, hàng hóa. Cấm in, sản xuất, kinh
doanh, lưu hành và tàng trữ sách báo, văn hóa phẩm có nội dung chống lại Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây chia rẽ tơn giáo, chia rẽ dân tộc,
gây mất đồn kết trong nhân dân.
3.5. Đối với nơi thờ tự và tài sản của các tổ chức tôn giáo
- Nhà nước bảo hộ nơi thờ tự của tổ chức tôn giáo. Các tổ chức tơn giáo có
trách nhiệm giữ gìn, tu bổ nơi thờ tự.
- Nhà đất và các tài sản khác đã được các tổ chức cá nhân, tôn giáo chuyển
giao cho các cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng hoặc tặng, hiến cho Nhà nước đều
thuộc quyền sở hữu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Việc tu bổ và sửa chữa nhỏ, không làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc cơng
trình thuộc cơ sở thờ tự thì tổ chức thực hiện sau khi thơng báo cho Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã sở tại. Việc sửa chữa lớn làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc cơng

trình tại cơ sở thờ tự, việc khơi phục cơng trình thờ tự bị hoang phế, bị hủy hoại do
chiến tranh, thiên tai, rủi ro, việc tạo lập cơ sở thờ tự mới, xây dựng các cơng trình
thờ tự (nhà, tượng, đài, bia, tháp…) phải được phép của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh.
- Tổ chức tôn giáo được nguồn tài chính từ sự ủng hộ tự nguyện của các cá
nhân, tổ chức, từ những thu nhập hợp pháp khác. Việc tổ chức quyên góp (kể cả
quyên góp vì mục đích xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự) phải được thơng báo với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Nghiêm cấm việc ép buộc tín đồ đóng góp. Việc
quản lý, sử dụng các nguồn tài chính có được từ các nguồn trên đây thực hiện theo
quy định của pháp luật.
3.6. Đối với hoạt động đối ngoại của tôn giáo
- Hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo phải tuân thủ pháp
luật và phù hợp với chính sách đối ngoại của của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trên cơ sở tơn trọng độc lập chủ quyền quốc gia, vì hịa bình, ổn
định, hợp tác và hữu nghị.
12


- Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước mời tổ chức, cá nhân tơn giáo ở
nước ngồi vào Việt Nam phải được sự chấp thuận của Ban Tôn giáo Chính phủ.
- Tổ chức, cá nhân tơn giáo ở trong nước tham gia làm thành viên của tổ
chức tôn giáo nước ngồi, tham gia các hoạt động tơn giáo hoặc có liên quan đến
các tơn giáo nước ngồi thực hiện theo quy định của Ban Tơn giáo Chính phủ.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài, kể cả tổ chức, cá nhân tôn giáo vào Việt
Nam để hoạt động ở các lĩnh vực khơng phải là tơn giáo thì khơng được tổ chức,
điều hành hoặc tham gia tổ chức điều hành các hoạt động truyền bá tôn giáo.
- Các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nước muốn nhận viện trợ thuần t tơn
giáo phải xin phép Chính phủ.
Phần II
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LỆNH TÍN NGƢỠNG, TƠN

GIÁO
Ngày 18 tháng 6 năm 2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI ban hành
Pháp lệnh Tín ngưỡng, tơn giáo, Pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 15 tháng 11
năm 2004, nội dung Pháp lệnh quy định về hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo như
sau:
I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1
Cơng dân có quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào.
Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của cơng dân. Không ai
được xâm phạm quyền tự do ấy.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
Cơng dân có tín ngưỡng, tơn giáo hoặc khơng có tín ngưỡng, tơn giáo cũng
như cơng dân có tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau.
Điều 2
Chức sắc, nhà tu hành và cơng dân có tín ngưỡng, tơn giáo được hưởng mọi
quyền cơng dân và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ cơng dân.
Chức sắc, nhà tu hành có trách nhiệm thường xun giáo dục cho tín đồ lịng
u nước, thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân và ý thức chấp hành pháp luật.
Điều 3
Trong Pháp lệnh này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm
và tơn vinh những người có cơng với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh,
13


biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu
biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.
2. Cơ sở tín ngưỡng là nơi thực hiện hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng,
bao gồm đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ và những cơ sở tương tự khác.

3. Tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống giáo
lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công
nhận.
4. Tổ chức tôn giáo cơ sở là đơn vị cơ sở của tổ chức tôn giáo bao gồm ban
hộ tự hoặc ban quản trị chùa của đạo Phật, giáo xứ của đạo Công giáo, chi hội của
đạo Tin lành, họ đạo của đạo Cao đài, ban trị sự xã, phường, thị trấn của Phật giáo
Hoà Hảo và đơn vị cơ sở của tổ chức tôn giáo khác.
5. Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi,
quản lý tổ chức của tơn giáo.
6. Hội đồn tơn giáo là hình thức tập hợp tín đồ do tổ chức tơn giáo lập ra
nhằm phục vụ hoạt động tôn giáo.
7. Cơ sở tôn giáo là nơi thờ tự, tu hành, nơi đào tạo người chuyên hoạt động
tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và những cơ sở khác của tơn giáo được Nhà
nước cơng nhận.
8. Tín đồ là người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận.
9. Nhà tu hành là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng
theo giáo lý, giáo luật của tơn giáo mà mình tin theo.
10. Chức sắc là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tơn giáo.
Điều 4
Chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất, đình, đền, miếu, trụ sở tổ chức tôn
giáo, các cơ sở đào tạo của tổ chức tôn giáo, những cơ sở tín ngưỡng, tơn giáo hợp
pháp khác, kinh bổn và các đồ dùng thờ cúng được pháp luật bảo hộ.
Điều 5
Nhà nước bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy
định của pháp luật; tôn trọng giá trị văn hố, đạo đức tơn giáo; giữ gìn và phát huy
những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm và tơn vinh
những người có cơng với nước, với cộng đồng nhằm góp phần củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân.
Điều 6
Quan hệ giữa Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các quốc

gia, tổ chức quốc tế về vấn đề có liên quan đến tôn giáo phải dựa trên nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng, các bên cùng có lợi, phù hợp với pháp luật mỗi bên, pháp luật và thông lệ
quốc tế.
14


Điều 7
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
a) Tập hợp đồng bào có tín ngưỡng, tơn giáo và đồng bào khơng có tín
ngưỡng, tơn giáo xây dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc;
b) Phản ảnh kịp thời ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân về các vấn
đề có liên quan đến tín ngưỡng, tơn giáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
c) Tham gia tuyên truyền, vận động chức sắc, nhà tu hành, tín đồ, người có
tín ngưỡng, các tổ chức tơn giáo và nhân dân thực hiện pháp luật về tín ngưỡng,
tơn giáo;
d) Tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng, tơn giáo.
2. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan nhà nước chủ
động phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
của Mặt trận trong việc tuyên truyền, vận động và thực hiện các chính sách, pháp
luật về tín ngưỡng, tơn giáo.
Điều 8
1. Khơng được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo; vi phạm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
2. Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo để phá hoại hồ
bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến
tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân,

chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự cơng cộng, xâm hại đến tính
mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành
vi vi phạm pháp luật khác.
II. VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN NGƢỠNG, CỦA NHỮNG NGƢỜI CĨ TÍN
NGƢỠNG VỀ HOẠT ĐỘNG TƠN GIÁO CỦA TÍN ĐỒ, NHÀ TU HÀNH,
CHỨC SẮC
Điều 9
1. Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ, thực hành các nghi thức
thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi
tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo.
2. Trong hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo, người có tín ngưỡng, tín đồ có
trách nhiệm tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và quyền tự do khơng tín
ngưỡng, tơn giáo của người khác; thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo
khơng cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động tín ngưỡng,
tơn giáo theo đúng quy định của pháp luật.
15


Điều 10
Người tham gia hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo phải tơn trọng quy định của
cơ sở tín ngưỡng, tơn giáo, của lễ hội và hương ước, quy ước của cộng đồng.
Điều 11
1. Chức sắc, nhà tu hành được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ
trách, được giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở tôn giáo.
2. Trường hợp thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo ngoài quy
định tại khoản 1 Điều này phải có sự chấp thuận của Uỷ ban nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp huyện) nơi
thực hiện.
Điều 12

1. Người phụ trách tổ chức tơn giáo cơ sở có trách nhiệm đăng ký chương
trình hoạt động tơn giáo hàng năm diễn ra tại cơ sở đó với Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp xã); trường hợp tổ
chức hoạt động tơn giáo ngồi chương trình đã đăng ký thì phải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền chấp thuận.
2. Thẩm quyền chấp thuận việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng do Chính phủ quy
định.
Điều 13
1. Người đang chấp hành án phạt tù hoặc đang bị quản chế theo quy định
của pháp luật thì khơng được chủ trì lễ nghi tôn giáo, truyền đạo, giảng đạo, quản
lý tổ chức của tơn giáo và chủ trì lễ hội tín ngưỡng.
2. Đối với người đã chấp hành xong các hình phạt hoặc biện pháp xử lý hành
chính quy định tại khoản 1 Điều này, chỉ sau khi được tổ chức tôn giáo đăng ký
hoạt động và được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được
chủ trì lễ nghi tôn giáo, truyền đạo, giảng đạo và quản lý tổ chức của tơn giáo.
Điều 14
Hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo phải bảo đảm an toàn, tiết kiệm, phù hợp với
truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, giữ gìn, bảo vệ mơi trường.
Điều 15
Hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo bị đình chỉ nếu thuộc một trong các trường
hợp sau:
1. Xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công
cộng hoặc môi trường;
2. Tác động xấu đến đồn kết nhân dân, đến truyền thống văn hố tốt đẹp
của dân tộc;
3. Xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người
khác;
16



4. Có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác.
III. VỀ TỔ CHỨC TÔN GIÁO VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC
TƠN GIÁO
Điều 16
1. Tổ chức được cơng nhận là tổ chức tơn giáo khi có đủ các điều kiện sau
đây:
a) Là tổ chức của những người có cùng tín ngưỡng, có giáo lý, giáo luật, lễ
nghi khơng trái với thuần phong, mỹ tục, lợi ích của dân tộc;
b) Có hiến chương, điều lệ thể hiện tơn chỉ, mục đích, đường hướng hành
đạo gắn bó với dân tộc và khơng trái với quy định của pháp luật;
c) Có đăng ký hoạt động tôn giáo và hoạt động tôn giáo ổn định;
d) Có trụ sở, tổ chức và người đại diện hợp pháp;
đ) Có tên gọi khơng trùng với tên gọi của tổ chức tôn giáo đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cơng nhận.
2. Thẩm quyền cơng nhận tổ chức tơn giáo:
a) Thủ tướng Chính phủ cơng nhận tổ chức tơn giáo có phạm vi hoạt động ở
nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
b) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương công
nhận tổ chức tơn giáo có phạm vi hoạt động chủ yếu ở một tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương.
3. Việc đăng ký hoạt động tôn giáo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này;
hoạt động tôn giáo của tổ chức đã đăng ký và trình tự, thủ tục cơng nhận tổ chức
tơn giáo do Chính phủ quy định.
Điều 17
1. Tổ chức tôn giáo được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất các tổ
chức trực thuộc theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo.
2. Việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo cơ sở phải
được sự chấp thuận của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh).
3. Việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo không

thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này phải được sự chấp thuận của Thủ
tướng Chính phủ.
Điều 18
1. Việc tổ chức hội nghị, đại hội của tổ chức tơn giáo cơ sở được tiến hành
sau khi có sự chấp thuận của Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi diễn ra hội nghị, đại
hội.

17


2. Việc tổ chức hội nghị, đại hội cấp trung ương hoặc tồn đạo của tổ chức
tơn giáo được tiến hành sau khi có sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về
tôn giáo ở trung ương.
3. Việc tổ chức hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo không thuộc các
trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được tiến hành sau khi có sự
chấp thuận của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi diễn ra hội nghị, đại hội.
Điều 19
1. Hội đoàn tôn giáo được hoạt động sau khi tổ chức tôn giáo đăng ký với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Việc đăng ký hội đồn tơn giáo được quy định như sau:
a) Hội đồn tơn giáo có phạm vi hoạt động trong một huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh đăng ký với Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi hội đồn hoạt
động;
b) Hội đồn tơn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều huyện, quận, thị xã,
thành phố trong một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đăng ký với Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh nơi hội đoàn hoạt động;
c) Hội đồn tơn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung ương.
Điều 20
Dòng tu, tu viện và các tổ chức tu hành tập thể khác của tôn giáo được hoạt

động sau khi đã đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Việc đăng ký hoạt động của dịng tu, tu viện và các tổ chức tu hành tập thể
khác của tôn giáo được áp dụng như đối với hội đồn tơn giáo quy định tại khoản 2
Điều 19 của Pháp lệnh này.
Điều 21
1. Người đi tu tại các cơ sở tôn giáo phải trên cơ sở tự nguyện, không ai
được ép buộc hoặc cản trở. Người chưa thành niên khi đi tu phải được cha, mẹ
hoặc người giám hộ đồng ý.
2. Người phụ trách cơ sở tôn giáo khi nhận người vào tu có trách nhiệm
đăng ký với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tôn giáo.
Điều 22
1. Việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử trong tôn giáo
được thực hiện theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và đảm bảo điều
kiện quy định tại khoản 2 Điều này; trường hợp có yếu tố nước ngồi thì cịn phải
có sự thỏa thuận trước với cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung ương.
2. Người được phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử phải đáp
ứng các điều kiện sau đây mới được Nhà nước thừa nhận:
a) Là cơng dân Việt Nam, có tư cách đạo đức tốt;
18


b) Có tinh thần đồn kết, hồ hợp dân tộc;
c) Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
3. Việc cách chức, bãi nhiệm chức sắc trong tôn giáo được thực hiện theo
hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo.
4. Tổ chức tơn giáo có trách nhiệm đăng ký về người được phong chức,
phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử; thông báo về việc cách chức, bãi nhiệm
chức sắc trong tôn giáo với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
Điều 23
Khi thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành, tổ

chức tơn giáo có trách nhiệm thông báo với Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đi và
đăng ký với Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đến.
Trường hợp chức sắc, nhà tu hành vi phạm pháp luật về tơn giáo đó bị Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xử lý vi phạm hành chính hoặc đã bị xử lý về hình
sự thì khi thun chuyển nơi hoạt động tơn giáo cịn phải được sự chấp thuận của
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi đến theo quy định của Chính phủ.
Điều 24
1. Tổ chức tôn giáo được thành lập trường đào tạo, mở lớp bồi dưỡng những
người chuyên hoạt động tôn giáo.
2. Việc thành lập trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo
phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
Việc chiêu sinh của trường đào tạo tôn giáo phải thực hiện theo ngun tắc
cơng khai, tự nguyện của thí sinh và điều lệ hoạt động của trường đã được phê
duyệt.
Môn học về lịch sử Việt Nam, pháp luật Việt Nam là các mơn học chính
khố trong chương trình đào tạo tại trường đào tạo những người chuyên hoạt động
tôn giáo.
3. Việc mở các lớp bồi dưỡng những người chuyên hoạt động tôn giáo phải
được sự chấp thuận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi mở lớp.
4. Trình tự, thủ tục thành lập, giải thể trường đào tạo, mở lớp bồi dưỡng tơn
giáo do Chính phủ quy định.
Điều 25
Các cuộc lễ của tổ chức tôn giáo diễn ra ngồi cơ sở tơn giáo được thực hiện
theo quy định sau đây:
1. Cuộc lễ có sự tham gia của tín đồ trong phạm vi một huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh phải được Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi diễn ra cuộc lễ
chấp thuận;
2. Cuộc lễ có sự tham gia của tín đồ đến từ nhiều huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh trong phạm vi một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc từ
19



nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
nơi diễn ra cuộc lễ chấp thuận.
IV. VỀ TÀI SẢN THUỘC CƠ SỞ TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO VÀ
HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI CỦA TỔ CHỨC TÔN GIÁO, TÍN ĐỒ, NHÀ TU
HÀNH, CHỨC SẮC
Điều 26
Tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưỡng, tơn giáo được pháp luật bảo hộ,
nghiêm cấm việc xâm phạm tài sản đó.
Điều 27
1. Đất có các cơng trình do cơ sở tơn giáo sử dụng gồm đất thuộc chùa, nhà
thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện, trường đào tạo những người chuyên hoạt
động tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà
nước cho phép hoạt động được sử dụng ổn định lâu dài.
2. Đất có các cơng trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được
sử dụng ổn định lâu dài.
3. Việc quản lý và sử dụng đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này
được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai.
Điều 28
1. Cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tơn giáo được tổ chức quyên góp, nhận tài sản
hiến, tặng, cho trên cơ sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá
nhân ngoài nước theo quy định của pháp luật.
2. Việc tổ chức quyên góp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tơn giáo phải cơng
khai, rõ ràng mục đích sử dụng và trước khi qun góp phải thông báo với Uỷ ban
nhân dân nơi tổ chức quyên góp.
3. Khơng được lợi dụng việc qun góp để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc
thực hiện những mục đích trái pháp luật.
Điều 29
Hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo tại cơ sở tín ngưỡng, tơn giáo là di tích lịch

sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh được bảo đảm bình thường như các cơ sở tín
ngưỡng, tơn giáo khác.
Việc quản lý, sử dụng, cải tạo, nâng cấp cơng trình thuộc cơ sở tín ngưỡng,
tơn giáo là di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh thực hiện theo quy định
của pháp luật về di sản văn hóa và pháp luật có liên quan.
Điều 30
Việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới các cơng trình thuộc cơ sở tín ngưỡng,
tơn giáo phải thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng.
Khi thay đổi mục đích sử dụng của các cơng trình thuộc cơ sở tín ngưỡng
phải có sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp huyện; khi thay đổi mục đích sử
20


dụng của các cơng trình thuộc cơ sở tơn giáo phải có sự chấp thuận của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh.
Điều 31
Việc di dời các cơng trình thuộc cơ sở tín ngưỡng, tơn giáo do u cầu của
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải được trao đổi trước với người đại diện
của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo và thực hiện đền bù theo quy định của pháp
luật.
Điều 32
Việc xuất bản, in, phát hành các loại kinh, sách, báo, tạp chí và các xuất bản
phẩm khác về tín ngưỡng, tơn giáo; kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu văn hố
phẩm về tín ngưỡng, tơn giáo; sản xuất đồ dùng phục vụ hoạt động tín ngưỡng, tơn
giáo được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Điều 33
1. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức tơn giáo tham gia
ni dạy trẻ em có hồn cảnh đặc biệt; hỗ trợ cơ sở chăm sóc sức khoẻ người
nghèo, người tàn tật, người nhiễm HIV/AIDS, bệnh nhân phong, tâm thần; hỗ trợ
phát triển các cơ sở giáo dục mầm non và tham gia các hoạt động khác vì mục đích

từ thiện nhân đạo phù hợp với hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và quy
định của pháp luật.
2. Chức sắc, nhà tu hành với tư cách cơng dân được Nhà nước khuyến khích
tổ chức hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo theo quy định của pháp luật.
V. VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA TỔ CHỨC TƠN GIÁO, TÍN ĐỒ,
NHÀ TU HÀNH, CHỨC SẮC
Điều 34
Tổ chức tơn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc có quyền thực hiện các hoạt
động quan hệ quốc tế theo quy định của hiến chương, điều lệ hoặc giáo luật của tổ
chức tôn giáo phù hợp với pháp luật Việt Nam.
Khi thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế, tổ chức tơn giáo, tín đồ, nhà tu
hành, chức sắc phải bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền và
công việc nội bộ của các quốc gia.
Điều 35
Khi tiến hành các hoạt động quan hệ quốc tế sau đây phải có sự chấp thuận
của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung ương:
1. Mời tổ chức, người nước ngoài vào Việt Nam hoặc triển khai chủ trương
của tổ chức tôn giáo nước ngoài ở Việt Nam;
2. Tham gia hoạt động tơn giáo, cử người tham gia khóa đào tạo về tơn giáo
ở nước ngồi.
Điều 36
21


Chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo
của Việt Nam sau khi được cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung ương
chấp thuận, phải tôn trọng quy định của tổ chức tôn giáo của Việt Nam và tuân thủ
quy định của pháp luật Việt Nam.
Điều 37
Người nước ngoài khi vào Việt Nam phải tuân thủ pháp luật Việt Nam; được

mang theo xuất bản phẩm tôn giáo và các đồ dùng tôn giáo khác để phục vụ nhu
cầu của bản thân theo quy định của pháp luật Việt Nam; được tạo điều kiện sinh
hoạt tôn giáo tại cơ sở tơn giáo như tín đồ tơn giáo Việt Nam; được mời chức sắc
tôn giáo là người Việt Nam để thực hiện các lễ nghi tơn giáo cho mình; tơn trọng
quy định của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam.
Phần IV
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 92/2012/NĐ-CP
NGÀY 08/11/2012 CỦA CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH CHI TIẾT
VÀ BIỆN PHÁP THI HÀNH PHÁP LỆNH TÍN NGƢỠNG, TƠN GIÁO
I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tƣợng áp dụng
Nghị định này quy định về hoạt động tín ngưỡng; về tổ chức tơn giáo; hoạt
động tơn giáo của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc và tổ chức tôn giáo; trách nhiệm
của cơ quan nhà nước trong việc quản lý hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo.
Điều 2. Quyền tự do tín ngƣỡng, tơn giáo của cơng dân
Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tơn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân,
không ai được xâm phạm quyền tự do ấy.
Nghiêm cấm việc ép buộc công dân theo đạo, bỏ đạo hoặc lợi dụng quyền tự
do tín ngưỡng, tơn giáo để phá hoại hịa bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích
động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính
sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối
trật tự cơng cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản
của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê
tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Mọi tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo
đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
II. VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN NGƢỠNG
Điều 3. Hoạt động tín ngƣỡng tại cơ sở tín ngƣỡng
1. Cộng đồng dân cư nơi có cơ sở tín ngưỡng bầu, cử người đại diện hoặc

ban quản lý cơ sở tín ngưỡng của cộng đồng.
22


Người đại diện hoặc thành viên ban quản lý cơ sở tín ngưỡng là cơng dân
Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có uy tín trong cộng đồng dân cư và
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm thơng báo
bằng văn bản, trong đó nêu rõ họ và tên, tuổi, nơi cư trú của những người được
bầu, cử đến Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban
nhân dân cấp xã) trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày có kết quả bầu, cử.
2. Trước ngày 15 tháng 10 hàng năm, người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở
tín ngưỡng có trách nhiệm gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã bản thông báo dự kiến
hoạt động tín ngưỡng diễn ra vào năm sau tại cơ sở. Nội dung bản thông báo nêu
rõ tên cơ sở tín ngưỡng, người tổ chức, chủ trì hoạt động; dự kiến số lượng người
tham gia nội dung, hình thức tổ chức sinh hoạt, thời gian diễn ra hoạt động tín
ngưỡng.
Sau 10 ngày làm việc kể từ ngày gửi bản thông báo hợp lệ, nếu Ủy ban nhân
dân cấp xã không có ý kiến khác thì cơ sở tín ngưỡng được hoạt động theo nội
dung đã thông báo, trừ trường hợp quy định tại Khoản 5 Điều 4 Nghị định này.
3. Người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng chịu trách nhiệm trước
pháp luật về hoạt động tín ngưỡng diễn ra tại cơ sở.
Người tham gia hoạt động tín ngưỡng tại các cơ sở tín ngưỡng có trách
nhiệm thực hiện nếp sống văn minh, tuân thủ pháp luật và các quy định của cơ sở
tín ngưỡng.
4. Đối với những cơ sở tín ngưỡng là từ đường, nhà thờ họ thì khơng áp
dụng theo quy định tại các Khoản 1 và 2 Điều này.
Điều 4. Lễ hội tín ngƣỡng và việc tổ chức lễ hội
1. Lễ hội tín ngưỡng là hình thức hoạt động tín ngưỡng có tổ chức, thể hiện
sự tôn thờ, tưởng niệm và tôn vinh những người có cơng với nước, với cộng đồng,

thờ cúng tổ tiên, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân
gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.
2. Những lễ hội tín ngưỡng sau đây khi tổ chức phải được sự chấp thuận của
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh) nơi diễn ra lễ hội:
a) Lễ hội tín ngưỡng được tổ chức lần đầu;
b) Lễ hội tín ngưỡng được khơi phục lại sau thời gian gián đoạn;
c) Lễ hội tín ngưỡng được tổ chức định kỳ nhưng có thay đổi về nội dung,
thời gian, địa điểm so với trước.
3. Đối với những lễ hội quy định tại Khoản 2 Điều này, người đại diện có
trách nhiệm gửi hồ sơ đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Hồ sơ gồm:
23


a) Văn bản đề nghị về việc tổ chức lễ hội, trong đó nêu rõ tên lễ hội, nguồn
gốc lịch sử của lễ hội, phạm vi, thời gian, địa điểm, chương trình, nội dung lễ hội.
Đối với lễ hội tín ngưỡng được quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều này, nội dung
văn bản đề nghị không nêu lại nguồn gốc lịch sử của lễ hội;
b) Danh sách Ban Tổ chức lễ hội.
4. Trong thời hạn 20 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản; trường hợp không chấp
thuận phải nêu rõ lý do.
5. Đối với những lễ hội tín ngưỡng khơng thuộc quy định tại Khoản 2 Điều
này, trước khi tổ chức 15 ngày làm việc, người tổ chức có trách nhiệm thông báo
bằng văn bản đến Ủy ban nhân dân cấp xã về thời gian, địa điểm, nội dung, hình
thức tổ chức lễ hội và danh sách Ban Tổ chức lễ hội. Trường hợp do thiên tai, dịch
bệnh hoặc an ninh, trật tự, việc tổ chức lễ hội có thể tác động xấu đến đời sống xã
hội ở địa phương, Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định việc tổ chức lễ hội.
III. VỀ TỔ CHỨC TÔN GIÁO

Điều 5. Đăng ký sinh hoạt tơn giáo
1. Cơng dân có nhu cầu tập trung để thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu
nguyện, bày tỏ đức tin về tơn giáo mà mình tin theo thì người đại diện gửi hồ sơ
đăng ký sinh hoạt tôn giáo đến Ủy ban nhân dân cấp xã.
2. Hồ sơ đăng ký, thời hạn trả lời:
a) Văn bản đăng ký sinh hoạt tơn giáo, trong đó nêu rõ tên tơn giáo, tơn chỉ,
mục đích, họ và tên người đại diện, nơi cư trú, nội dung, hình thức tổ chức sinh
hoạt, địa điểm, thời gian, số lượng người sinh hoạt tại thời điểm đăng ký;
b) Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy
ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm trả lời bằng văn bản; trường hợp không chấp
thuận phải nêu rõ lý do.
3. Điều kiện để được chấp thuận sinh hoạt tơn giáo:
a) Tơn chỉ, mục đích, nội dung sinh hoạt không vi phạm các quy định tại
Khoản 2 Điều 8 và Điều 15 của Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo;
b) Có địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo;
c) Người đại diện phải là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần đồn kết, hịa hợp dân tộc.
Điều 6. Đăng ký hoạt động tơn giáo
1. Để được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo, tổ chức phải có đủ các điều kiện
sau:
a) Có sinh hoạt tôn giáo ổn định từ hai mươi năm trở lên kể từ ngày được Ủy
ban nhân dân cấp xã chấp thuận sinh hoạt tôn giáo, không vi phạm các quy định tại
Khoản 2 Điều 8 và Điều 15 Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo;
24


b) Là tổ chức của những người có cùng niềm tin; có giáo lý, giáo luật, lễ
nghi, đường hướng hành đạo và hoạt động gắn bó với dân tộc, khơng trái với thuần
phong, mỹ tục và quy định của pháp luật;
c) Không thuộc tổ chức tôn giáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền

cơng nhận;
d) Tên gọi của tổ chức không trùng với tên các tổ chức tôn giáo đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cơng nhận hoặc tên các danh nhân, anh hùng dân
tộc;
đ) Có địa điểm hợp pháp để hoạt động tơn giáo;
e) Có người đại diện là cơng dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ, có uy tín trong tổ chức và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
2. Tổ chức khi có đủ các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều này nếu có
nhu cầu đăng ký hoạt động tơn giáo, có trách nhiệm gửi hồ sơ đăng ký đến cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quy định tại Khoản 3 Điều này.
Hồ sơ gồm:
a) Văn bản đăng ký hoạt động tơn giáo, trong đó nêu rõ tên tôn giáo, tên tổ
chức, họ và tên người đại diện tổ chức, nơi cư trú, nguồn gốc hình thành, quá trình
phát triển ở Việt Nam, tơn chỉ, mục đích, cơ cấu tổ chức, phạm vi hoạt động, dự
kiến nơi đặt trụ sở chính;
b) Giáo lý, giáo luật, lễ nghi;
c) Danh sách dự kiến những người đại diện tổ chức được Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi cư trú hợp pháp xác nhận;
d) Số lượng người tin theo.
3. Thẩm quyền cấp đăng ký và thời hạn trả lời:
a) Trong thời hạn 45 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ
quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở Trung ương có trách nhiệm cấp đăng ký cho
tổ chức có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
trường hợp từ chối cấp đăng ký phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do;
b) Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ
quan quản lý nhà nước về tơn giáo cấp tỉnh có trách nhiệm cấp đăng ký cho tổ
chức có phạm vi hoạt động chủ yếu ở một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
trường hợp từ chối cấp đăng ký phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Điều 7. Hoạt động tôn giáo của tổ chức sau khi đƣợc cấp đăng ký
1. Tổ chức đã đăng ký hoạt động tôn giáo được:

a) Tổ chức các cuộc lễ tôn giáo, thực hiện lễ nghi, truyền đạo, giảng đạo tại
địa điểm sinh hoạt tôn giáo đã đăng ký;
b) Tổ chức đại hội thông qua hiến chương, điều lệ và các nội dung có liên
quan trước khi đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cơng nhận;
25


×