Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

CÁI NHÌN VỀ THUẬT TOÁN TRÊN QUAN ĐIỂM CÁC NGUYÊN TẮC SÁNG TẠO KHOA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.88 KB, 54 trang )

A → B
giả thiết giải pháp mục tiêu
PHƯƠNG PHÁP TRỰC TIẾP
PHƯƠNG PHÁP GIÁN TIẾP
Phương pháp trực tiếp
Phương pháp thử sai
Phương pháp Heuristic
Phương pháp trí tuệ nhân tạo
…. .…
…. .…
GT(2)
…. .…
GT(2)
GT(1)
BOTTOM-TOP
OVERLAPPING -SUBPROBLEMS
TOP-DOWN
OPTIMAL SUBSTRUCTURE
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
---------------  ---------------
BÀI THU HOẠCH MÔN HỌC
PHƯƠNG PHÁP LUẬN SÁNG TẠO KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:
CÁI NHÌN VỀ THUẬT TOÁN TRÊN QUAN ĐIỂM CÁC NGUYÊN TẮC
SÁNG TẠO KHOA HỌC
GVHD :GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
SV :Nguyễn Lâm Tú –06520525
Niên khóa : 2006 - 2010
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 2
LỜI NÓI ĐẦU


Như Lê-Nin từng nói:”học, học nữa, học mãi” – có lẽ sự học là một quá trình lâu
dài và gắn liền với mỗi con người. Xung quanh chúng ta còn rất nhiều điều cần tìm hiểu,
còn nhiều thứ đang đợi ta khám phá. Những phát minh, sáng chế của con người đã thay đổi
rất lớn cách sống, cách sinh hoạt của con người. Tất cả những thứ đó đều từ nghiên cứu
khoa học, sáng tạo của bộ óc con người mà ra. Nghiên cứu khoa học thật sự quan trọng và
cần thiết, nó thúc đẩy nền văn minh của con người.
Chắc không ít người trong chúng ta đã từng cầm trên tay quyên sách “thế giới phẳng
”(The World is flat) của tác giả Thomas Friedman . Quyển sách khẳng định chúng ta đang
sống trong một kỷ nguyên mới , kỷ nguyên mà con người có thể xích lại gần nhau hơn, kỷ
nguyên thông tin. Công nghệ thông tin là một nghành đang trực tiếp ảnh hưởng đến đời
sống của mỗi người chúng ta.
Như vậy việc nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực Công nghệ thông tin là một việc
làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa to lớn. Với những nghiên cứu đi đôi với ứng dụng tốt sẽ
làm nên những thay đổi cho cuộc sống của con người, đẩy mạnh và bắt kịp quá trình thông
tin hóa đang diễn ra hiện nay của thế giới.
Môn học “Phương pháp luận sáng tạo khoa học” thực sự có ý nghĩa và cần thiết. Đây
là môn học mang lại những định hướng cần thiết và quan trong cho sinh viên khi còn đang
ngồi trên ghế giảng đường đại học cũng như khi ra trường. Dựa vào các nguyên tắc và mũ
tư duy sẽ giúp cho mỗi sinh viên khi đứng trước một vấn đề nghiên cứu sẽ nhanh chóng
tìm ra được giải pháp để giải quyết vấn đề.
Bài luận này cá nhân tôi viết nhằm tổng kết, đúc rút cũng như thực hành việc nghiên
cứu dựa trên những lý thuyết được giảng giải trên lớp. Qua đây xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm đã tận tình dạy bảo và hướng dẫn tôi làm bài luận
này.
Nội dung bài luận ngoài việc tham khảo tài liệu, nội dung hoàn toàn mang quan điểm của
cá nhân, viết theo văn phong cá nhân. Do đó sẽ không thể tránh khỏi những sai sót. Rất
mong thầy và các bản thông cảm
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Lâm Tú
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525

Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 3
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 4
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bài giảng môn học “Phương pháp luận sáng tạo khoa học” .
Giảng viên : GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
[2] Giải một bài toán trên máy tính như thế nào(1,2,3)
- GS.TSKH. Hoàng Kiếm
[3]
[4] Phương pháp luận sáng tạo khoa học – kỹ thuật.
- GS.TS Phan Dũng.
Trung tâm sáng tạo khoa học – kỹ thuật.
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên TP.HCM
[5] Thuật toán và Thuật giải
- GS.TSKH. Hoàng Kiếm
- Ths. Đinh Nguyễn Anh Dũng
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525

Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 5
MỤC LỤC
I. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC – NHỮNG KHÁI NIỆM MỞ ĐẦU
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động xã hội, hướng vào việc tìm kiếm những điều
mà khoa học chưa biết hoặc là phát hiện bản chất sư vật, phát triển nhận thức khoa học về
thế giới hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế giới.
Có nhiều cách phân loại nghiên cứu khoa học. Ở đây ta đề cập đến phân loại theo
chức năng nghiên cứu và theo tính chất của sản phẩm tri thức khoa học thu được nhờ kết
quả nghiên cứu.
1. Phân loại theo chức năng nghiên cứu :
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 6
• Nghiên cứu mô tả, là những nghiên cứu nhằm đưa ra một hệ thống tri thức về nhân
dạng sư vật, giúp con người phân biệt được sự khác nhau, về bản chất giữa sự vật này
với sự vật khác. Nội dung mô tả có thể bao gồm mô tả hình thái, động thái, tương tác;
mô tả định tính tức là các đặc trưng về chất của sự vật; mô tả định lượng nhằm chỉ rõ
các đặc trưng về lượng của sự vật.
• Nghiên cứu giải thích, là những nghiên cứu nhằm làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự
hình thành và quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật. Nội dung của giải thích
có thể bao gồm giải thích nguồn gốc; động thái; cấu tr1uc; tương tác; hậu quả; quy
luật chung chi phối quá trình vận động của sự vật.
• Nghiên cứu dự báo, là những nhiên cứu nhằm nhận dạng trạng thái của sự vật trong
tương lai. Mọi dự báo đều phải chấp nhận những sai lệch, kể cả trong nghiên cứu tự
nhiên và xã hội. Sự sai lệch trong kết quả dự báo có thể do nhiều nguyên nhân : sai
lêch khách quan trong kết quả quan sát: sai lệch do những luận cứ bị biến dạng trong
sự tác động của các sự khác; mội trường cũng luôn có thể biến động, …
• Nghiên cứu sáng tạo, là nghiên cứu nhằm làm ra một sự vật mới chưa từng tồn tại.
Khoa học không bao giờ dừng lại ở mô tả và dự báo mà luôn hướng vào sự sáng tạo
các giải pháp cải tạo thế giới.
2. Phân loại theo tính chất của sản phẩm nghiên cứu :

Theo tính chất của sản phẩm, nghiên cúu được phân loại thành nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu ứng dụng và ghiên cứu triển khai.
Nghiên cứu cơ bản (Fundamental research) là những nghiên cứu nhằmphát hiện
thuộc tính, cấu trúc, động thái các sự vật, tương tác trong nội bộ sự vật và mối liên hệ
giữa sư vật với các sư vật khác. Sản phẩm nghiên cứu cơ bản có thể là các khám phá,
phát hiện, phát minh, dẫn đến viêc hình thành một hệ thống lý thuyết có giá trị tổng
quát, ảnh hưởng đến một hoặc nhiều lĩng vực khoa học, chẳng hạn Newton phát minh
định luật hấp dẫn vũ trụ; Marx phát hiện quy luật giá trị thặng dư. Nghiên cứu cơ bản
được phân thành hai loại : nghiên cứu cơ bản thuần túy và nghiên cứu cơ bản định
hướng.
 Nghiên cứu cơ bản thuần túy, cò được gọi là nghiên cứu cơ bản tự do hoặc nghiên
cứu cơ bản không định hướng, là những nghiên cứu về bản chất sự vật để nâng cao nhận
thức, chưa có hoặc chưa bàn đến ý nghĩa ứng dụng.
 Nghiên cứu cơ bản định hướng, là những nghiên cứu cơ bản đã dự kiến trước mục
đích ứng dụng. các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên, kinh tế, xã hội, … đều có thể xem
là nghiên cứu cơ bản định hướng. Nghiên cứu cơ bản định hướng được phân chia thành
nghiên cứu nền tảng (background research) và nghiên cứu chuyên đề (thematic research).
 Nghiên cứu nền tảng, là những nghiên cứu về quy luật tổng thể của một hệ thống
sự vật. Hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên và các điều kiện thiên nhiên như địa chất,
nghiên cứu đại dương, khí quyển, khí tượng; điều tra cơ bản về kinh tế, xã hội đều thuộc
loại nghiên cứu nền tảng.
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 7
 Nghiên cứu chuyên đề, là nghiên cứu về một hiên tượng đặc biệt của sự vật, ví dụ
trạng thái plasma của sự vật, bức xạ vũ trụ, gien di truyền. Nghiên cứu chuyên đề vừa dẫn
đến hình thành những cơ sở lý thuyết, mà còn dẫn đến những ứng dụng có ý nghĩa thực
tiễn.
Nghiên cứu ứng dụng (Applied research) : là sự vận dụng quy luật được phát hiện từ
nghiên cứu cơ bản để giải thích một sự vật, tạo ra những nguyên lý mới về các giải
pháp và áp dụng chúng vào sản xúât và đời sống. Giải pháp được hiểu theo nghĩa rộng

có thể là một giải pháp về công nghệ, về vật liệu, về tổ chức và quản lý. Một số giải
pháp công nghệ có thể trở thành sáng chế. Kết quả nghiên cứu ứng dụng thì chưa ứng
dụng được, để có thể đưa kết quả nghiên cứu ứng dụng vào sử dụng thì còn phải tiến
hành một loại hình nghiên cứu khác có tên gọi lả triển khai.
Nghiên cứu triển khai (Development research) : còn gọi là nghiên cứu triển khai
thực nghiệm hay triển khai thực nghiệm kỹ thuật, là sự vận dụng các quy luật (thu được
từ nghiên cứu cơ bản) và các nguyên lý (thu được từ nghiên cứu ứng dụng) để đưa ra
các hình mẫu với những tham số khả thi về kỹ thuật. Kết quả nghiên cứu triển khai thì
chưa triển khai được: sản phẩm của triển khai chỉ mới là những hình mẫu khả thi về kỹ
thuật, nghĩa là không còn rủi ro về mặt kỹ thuật, để áp dụng được còn phảitiến hành
nghiên cứu những tính khả thi khác như khả thi tài chính, khả thi kinh tế, khả thi môi
trường, khả thi xã hội. Hoạt động triển khai bao triển khai trong phòng thí nghiệm và
triển khai bán đại trà.
 Triển khai trong phòng thí nghiệm : là loại hình triển khai nhằm khẳng định
kết quả sao cho ra được sản phẩm, chưa quan tâm đến quy mô áp dụng. trong
những nghiên cứu về công nghệ, loại hình này được thực hiện trong các phòng thí
nghiệm, labô công nghệ, nhà kính. Trên một quy mô lớn hơn, hoạt động triển khai
cũng được tiến hành trong các xưởng thực nghiệm thuộc viện hoặc xí nghiệp sản
xuất.
 Triển khai bán đại trà : trong các nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học kỹ
thuật và khoa học công nghệ là một dạng triển khai nhằm kiểm chứng giả thuyết
về hình mẫu trên một quy mô nhất định, thường là quy mô áp dụng bán đại trà,
hay quy mô bán công nghiệp.
Khái niệm triển khai được áp dụng cả trong nghiên cứu khoa học kỹ thuật và xã hội;
trong các nghiên cứu về khoa học kỹ thuật, hoạt động triển khai được áp dụng khi chế tạo
một mẫu công nghệ mới hoặc sản phẩm mới; trong các nghiên cứu khoa học xã hội có thể
lấy ví dụ về thử nghiệm một phương pháp giảng dạy ở các lớp thí điểm; chỉ đạo thí điểm
một mô hình quản lý mới tại một cơ sở được lựa chọn.
Toàn bộ các loại hình nghiên cứu và mối liên hệ giữa các loại hình nghiên cứu được
trình bày trong sơ đồ bên dưới. Sự phân chia loại hình nghiên cứu như trên đây được áp

dụng phổ biến trên thế giới. Phân chia là để nhận thức rõ bản chất của nghiên cứu khoa
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 8
học, để có cơ sở lập kế hoạch nghiên cứu, cụ thể hóa các cam kết trong hợp đồng nghiên
cứu giữa các đối tác. Tuy nhiên trên thực tế, trong một đề tài có thể tồn tại cả ba loại hình
nghiên cứu, hoặc tồn tại hai trong ba loại hình nghiên cứu.
II. LÀM THẾ NÀO ĐỂ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐẠT HIỆU QUẢ
1. Trình tự các bước cần tiến hành trong nghiên cứu khoa học
Rất nhiều nghiên cứu viên gặp khó khăn trong giai đoạn đầu nghiên cứu vì không
biết làm gì trước, làm gì sau. Do vậy họ thường bố trí công việc nghiên cứu lôn xộn,
không có tổ chức. Điều này trái ngược hoàn toàn với yêu cầu của nghiên cứu khoa học
là phải được tổ chức một cách khoa học, bài bản. Dẫu rằng tùy từng nghiên cứu cụ thể
mà sẽ có các bước tiến hành cụ thể, nhưng tác giả cho rằng người nghiên cứu nên tiến
hành một số bước bắt buộc theo trình tự thể hiện trên hình :
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 9
Bước 1: Mô tả các khó khăn trên thực tế
Trong thực tế khi gặp khó khăn thì lúc đó mới cần tiến hành nghiên cứu khoa học
với mục đích là giải quyết các khó khăn đó. Vậy có thể nói việc mô tả các khó khăn
đang gặp phải chính là sự mở đầu cho một nghiên cứu. Có rất nhiều nghiên cứu
không chỉ ra được các khó khăn hiệu hữu vì vậy tác giả không biết được tại sao
những nghiên cứu này lại được tiến hành và nhằm mục đích gì.
Bước 2: Tổng quan về các nghiên cứu liên quan
Đây là thời gian tìm hiểu xem vấn đề dự định nghiên cứu đã và đang được nghiên
cứu bởi các học giả khác chưa, ở mức độ nào qua đó có thể học những điều hay và
tránh được việc lặp lại trong nghiên cứu trước. Tuy nhiên tác giả thấy có rất nhiều
nghiên cứu viên không tìm hiểu về các nghiên cứu đã thực hiện mà bắt tay vào
nghiên cứu ngay, dẫn đến việc không có một cái nhìn tổng quan về cần nghiên cứu.
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 10

Bước 3: Xác định mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là những dự định đặt ra để giải quyết được các khó khăn đã
chỉ ra ở bước 1. Nghiên cứu viên phải luôn bám theo các mục tiêu đã đề ra trong
suốt quá trình và phải hoàn thành chúng trước khi nghiên cứu được khép lại. Các
nghiên cứu hiện nay thường thể hiện rất rõ ràng phần này
Bước 4: Phương pháp nghiên cứu
Đây là phần chỉ ra hướng nghiên cứu mà nghiên cứu viên muốn tiến hành để đạt
được mục tiêu đề ra trong bước 3. Thông thường, các phương pháp thu thập dữ liệu
hay thí nghiệm và phân tích chúng phải được thể hiện rõ. Ngoài ra, các giả thuyết và
phạm vi nghiên cứu, kinh phí và thời gian cần thiết, các đề xuất dự định, … cũng
cần phải được chỉ ra một cách rõ ràng.
Bước 5: Dữ liệu thực tế hoặc giả định cụ thể
Dữ liệu là phần rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Chúng có thể được thu
thập qua quá trình điều tra tại hiện trường hoặc là dữ liệu giả định thu được từ thí
nghiệm, mô phỏng. Những dữ liệu này có thể chỉ ra những phát triển của thực tế
trong quá khứ và hiện tại, qua đó có thể dự đoán tương lai, so sánh với lý thuyết,…
Thông thường, giai đoạn thu thập dữ liệu tiêu tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc của
người nghiên cứu và sự chính xác của dữ liệu sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả cuối
cùng của nghiên cứu.
Bước 6: Phân tích dữ liệu hoặc chạy chương trình
Đến đây nghiên cứu khoa học sẽ có 2 hướng đi. Một là phân tích các dữ liệu thu
thập được để có các kết luận cho những điều đã và đang xẩy ra trong thực tế, từ đó
có các đề xuất cho tương lai. Một cách khác là lập ra các chương trình máy tính để
mô phỏng, tính toán lý thuyết dựa vào hoặc so sánh với các dữ liệu thực tế. Phần
này thường liên quan tới các chuyên môn sâu nên chỉ có những người có cùng lĩnh
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 11
vực nghiên cứu mới hiểu và quan tâm đến, còn độc giả thông thường nói chung
không chú ý đến.
Bước 7: Phát hiện hoặc đề xuất cái mới

Thường mỗi nghiên cứu khoa học sẽ tiến đến kết thúc sau khi một vài phát hiện
hoặc đề xuất mới được đưa ra. Những điều mới này chính là kết quả cuối cùng của
nghiên cứu có thể áp dụng làm cho thực tế hiện tại và tương lai tốt hơn và phải thỏa
mãn được các mục tiêu nghiên cứu đề ra trong bước 3. Nhiều nghiên cứu không thể
hiện rõ phần này sẽ gây khó hiểu cho người đọc. Tác giả đề nghị phần này phải tách
ra riêng biệt, không nên gộp vào phần phân tích dữ liệu hoặc phần kết luận.
Bước 8: Kết luận
Đây là phần cuối cùng và được độc giả chú ý đến trước tiên để xem kết quả của
nghiên cứu rồi sau đó mới đến các phần khác nếu có quan tâm. Từ “kết luận” cũng
đã thể hiện rõ ý nghĩa của nó. Từ “kết” có nghĩa là kết thúc, tổng kết. Người nghiên
cứu phải đúc kết lại toàn bộ nghiên cứu theo một trình tự khoa học và ngắn nhất để
người đọc có thể hình dung tổng thể toàn bộ quá trình. Từ “luận” là bình luận các
kết quả thu được về thực tế nghiên cứu xem tốt hay xấu, thỏa mãn hay chưa thỏa
mãn, … . Tác giả thấy đa phần các nghiên cứu chỉ chú trọng đến phần “kết” và chưa
có phần “luận”.
Ngoài phần kết luận, các nghiên cứu nên có thêm các phần bổ trợ như đề xuất áp dụng kết
quả nghiên cứu vào thực tế, các nghiên cứu cần được tiến hành trong tương lai, những hạn
chế của nghiên cứu, … . Các phần bổ trợ này dùng để nhấn mạnh phần nghiên cứu chính,
thể hiện tính khả thi và khả năng áp dụng kết quả đạt được để củng cố / làm tốt hơn thực tế
hiện tại và tương lai.
2. Các khó khăn thường gặp phải và cách khắc phục
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 12
Thông thường, mọi nghiên cứu đều có khó khăn trong quá trình thực hiện do nhiều
nguyên nhân và người nghiên cứu phải nỗ lực giải quyết chúng để có được thành công cuối
cùng. Tác giả thống kê lại một số khó khăn điển hình trong nghiên cứu khoa học.
Mối quan hệ với thầy giáo hướng dẫn
Các giáo sư hướng dẫn thì mỗi người một tính, người thì khắt khe, người thì dễ dàng,
người thì chẳng để tâm đến sinh viên,… Nói chung họ là những người cá tính và nhiều khi
gây khó chịu cho sinh viên trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong nghiên cứu.

Các giáo sư thì cũng là con người và có các tính cách khác nhau, nhưng nói chung là họ
luôn thương sinh viên, chỉ có cách dạy bảo là khác nhau thôi. Khi vượt qua được rào cản
trong các yêu cầu và tính cách của giáo sư hướng dẫn cũng chính là lúc ta đã học được
trường phái nghiên cứu của họ.
Khó khăn trong thu thập dữ liệu thực tế
Các dữ liệu thực tế trong quá khứ và hiện tại thường rất khó xin được, đặc biệt là các số
liệu nhạy cảm, có liên quan tới các cơ quan khác.
Để vượt qua khó khăn này, việc đầu tiên là phải nghĩ đến điều này ngay trong giai đoạn
thiết kế cách thu thập dữ liệu để tránh các dữ liệu không thể có được. Nghĩa là nghiên cứu
chỉ tập trung đến các dữ liệu có sẵn hoặc có thể thu thập được. Ngoài ra, nguồn dữ liệu có
sẵn không chỉ một nơi mà thường có ở nhiều nơi khác nhau. Vì vậy người nghiên cứu cần
đa dạng cách thu thập dữ liệu, tập trung vào nhiều nguồn khác nhau.
Không xác định được hướng nghiên cứu
Nhiều người nghiên cứu phải loay hoay tìm hướng nghiên cứu trong thời gian dài hoặc
phải đổi đề tài và hướng nghiên cứu sau một thời gian. Điều này làm ảnh hưởng đến toàn
bộ quá trình nghiên cứu do thời gian và nguồn lực cho phép bị giảm đi.
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 13
Trước khi bắt tay vào nghiên cứu cần phải đọc thật nhiều các nghiên cứu có sẵn về chủ
đề liên quan để có được hiểu biết tổng quan về lĩnh vực đấy. Phần phương pháp nghiên
cứu phải được chú ý đúng mức để chỉ ra các bước tuần tự thực hiện của đề tài với mục
đích đạt được mục tiêu đề ra ban đầu. Việc tham khảo, tranh luận với giáo sư hướng dẫn,
đồng nghiệp nghiên cứu, bạn bè, … cũng rất quan trọng để củng cố, chỉnh sửa hướng
nghiên cứu cho phù hợp.
Đăng báo không được chấp nhận hoặc phải đợi lâu
Nhiều nghiên cứu viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc đăng báo để đủ tiêu chuẩn tốt
nghiệp. Thông thường yêu cầu là bài báo quốc tế cũng tương đối khó cho nhiều người vì
nhiều lý do. Bài báo của hội thảo thì dễ hơn và nhiều người dễ dàng có được.
Thường các yêu cầu đầu tiên là phải đúng chủ đề của tạp chí đấy. Trước khi gửi bài đi
đăng thì cần phải kiểm tra xem bài báo có đúng chủ đề yêu cầu không, đã có ai đăng

nghiên cứu tương tự chưa, v.v… Một lời khuyên là nên gửi bài đến tạp chí càng sớm càng
tốt vì quá trình xem xét thường mất ít nhất là 6 tháng đến 1 năm. Ngoài ra nên viết bài theo
các hướng khác nhau và gửi cho nhiều tạp chí vì tiêu chí lựa chọn của các tạp chí thường
khác nhau nên nếu may mắn thì sẽ được một tạp chí chấp nhận cho đăng.
Khả năng tiếng Anh kém
Người Việt nói chung khả năng tiếng Anh kém hơn các nước khác nên cũng gây ra
nhiều khó khăn trong nghiên cứu và viết báo vì hầu hết tài liệu tham khảo hoặc các hội
thảo, tạp chí đều yêu cầu tiếng Anh cả.
Nên tìm kiếm những người nói tiếng Anh gốc để giúp chỉnh sửa bài viết. Một cách nữa
là lựa chọn những đoạn viết trong các sách báo đã đăng để đưa vào bài viết của mình,
nhưng sử dụng cho hợp lý với hoàn cảnh và chủ đề nghiên cứu. Một lời khuyên nữa là câu
văn cần đơn giản vì trong nghiên cứu khoa học một đoạn viết chỉ có mục đích truyền đi ý
nghĩa nghiên cứu. Không nên để một câu văn là tập hợp của vài câu văn, nghĩa là chỉ nên
có 1 chủ ngữ - vị ngữ và không nên dài quá 3 dòng viết.
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 14
Bị áp lực, quá lo lắng, mất ngủ trong giai đoạn đầu nghiên cứu
Nhiều người nghiên cứu thường bị áp lực trong nghiên cứu và ảnh hưởng tới cuộc sống
hàng ngày như mất ngủ, lo lắng ra mặt, trầm cảm,… Những điều này nếu xảy ra trong thời
gian dài và lặp lại nhiều lần dễ gây ra các bệnh về thần kinh hoặc tâm lý.
Lời khuyên là dù có lo lắng thêm nữa thì việc nghiên cứu cũng không thể tiến triển
thêm được. Vì vậy khi có biểu hiện của áp lực nghĩa là nghiên cứu đang đi vào hướng bế
tắc. Lúc này nên dừng nghiên cứu trong một thời gian ngắn để nghỉ ngơi, chơi thể thao,
dành thời gian cho gia đình và bạn bè,… để có thể tạm thời quên đi các khó khăn hiện tại.
Khi đã vượt qua giai đoạn áp lực này thì dành thời gian kiểm tra tổng thể nghiên cứu để
xác định lại hướng đi cho đúng hơn và có thể xin ý kiến của giáo sư hướng dẫn.
3. Những điều nên và không nên làm trong nghiên cứu khoa học
Khi tiến hành nghiên cứu khoa học, việc định hướng ban đầu và chỉnh sửa hướng đi là
rất quan trọng cho thành công cuối cùng. Có nhiều điều nên làm nhưng cũng có nhiều điều
không nên làm. Tác giả đề xuất các điểm quan trọng về việc cần làm gì và không cần làm

gì.
Trung thực trong nghiên cứu
Nghiên cứu khoa học phải phản ánh trung thực và đầy đủ các kết quả, phát hiện, dẫu
rằng chúng có thể không giống với các dự định ban đầu. Việc che đậy những thiếu sót, sai
lầm hay sửa đổi dữ liệu, kết quả phải tuyệt đối không bao giờ được cho phép. Trích dẫn, số
liệu lấy từ các nghiên cứu khác cần phải chỉ rõ nguồn gốc để thể hiện chúng là tài liệu
tham khảo, không phải kết quả của nghiên cứu này và cũng là cách tôn trọng những nghiên
cứu trước.
Ứng xử có đạo đức trong nghiên cứu
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 15
Có những điều nếu người nghiên cứu làm hoàn toàn không phạm luật nhưng không có
tính đạo đức nghề nghiệp, vì vậy nên tránh nếu có thể. Phạm phải điều cấm này có thể vô
tội trước pháp luật, nhưng sẽ bị lên án, coi thường bởi đồng nghiệp, bạn bè và bị day dứt
lương tâm. Điều này sẽ làm ảnh hưởng tới uy tín của người nghiên cứu, thái độ nghi ngờ
và thiếu hợp tác của mọi người, dẫn đến việc gặp phải nhiều khó khăn, ảnh hưởng tới chất
lượng của các nghiên cứu sau này.
Chọn đề tài nghiên cứu hợp lý
Nên tiến hành các nghiên cứu có tính thực tiễn cao, có thể áp dụng vào thực tế để tạo
ra lợi ích cho bản thân và xã hội. Không nên tiến hành những nghiên cứu vô bổ, tốn kém
nhưng lợi ích thấp, mục đích để đánh bóng tên tuổi chứ không có ý nghĩa khoa học và kinh
tế,… Thông thường sức nghiên cứu đến mức nào thì nên tiến hành nghiên cứu ở mức đấy
mà thôi, theo kiểu “tuổi nhỏ làm việc nhỏ”, đừng tiến hành những dự án quá tham vọng
vượt quá khả năng, thời gian và nguồn tài chính cho phép. Tác giả đã thấy nhiều người
chọn đề tài mà kết quả chỉ có thể áp dụng sau 20-50 năm nữa do hạn chế về kinh tế, xã hội
và kỹ thuật. Có nghiên cứu lại đề xuất các ý tưởng mới với các yêu cầu thực hiện tốn kém
hơn nhiều lần so với giải pháp đã có hiện tại. Nhiều nghiên cứu sinh lại thực hiện đề tài
quá tham vọng, dẫn đến việc không hoàn thành đúng hạn và phải gia hạn, tốn kém thời
gian và tiền bạc.
Thời gian nghiên cứu

Hiện vẫn còn chưa rõ ràng về việc tiêu tốn thời gian thế nào là hợp lý trong nghiên cứu
khoa học. Nhiều người dành quá nhiều thời gian cho nghiên cứu do vậy phải giảm thời
gian nghỉ ngơi. Ngược lại, có nhiều người dành rất ít thời gian cho nghiên cứu. Trước tiên,
tác giả cho rằng một nghiên cứu cần phải được tiến hành liên tục và không có nhiều gián
đoạn dài để tránh tốn thời gian cho việc tái khởi động và xem xét lại các phần đã làm. Dẫu
rằng chưa có nghiên cứu chính thức nào trong nghiên cứu, nhưng có thể coi như giống thời
gian làm việc của người lao động và đã được kiểm chứng qua nhiều thời đại. Thời gian
nghiên cứu thì khoảng 8-10 tiếng 1 ngày và 5 ngày 1 tuần là hợp lý. Ngoài ra, người nghiên
cứu còn cần thời gian cho ngủ 8 tiếng, các sinh hoạt cá nhân và giải trí 8 tiếng.
Tránh hao phí thời gian vô ích
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 16
Quãng đời nghiên cứu rất ngắn nên tránh hao phí thời gian nghiên cứu (8 tiếng 1 ngày)
vào những việc vô ích. Nhiều người tốn quá nhiều thời gian trên phòng nghiên cứu cho các
việc vô bổ như chat, xem phim, ngủ, nghe nhạc, tán chuyện, … dẫu rằng những việc đó có
thể làm vào 16 tiếng còn lại trong ngày. Một số người khác lại hay bị gián đoạn nghiên cứu
do phải ra ngoài để làm thêm, hoạt động xã hội, du lịch,… Những thời gian vô ích đấy cần
phải tránh trong thời gian 8 tiếng nghiên cứu. Cần nhớ rằng bạn là người nghiên cứu nên
mục đích đầu tiên và quan trọng nhất là nghiên cứu, các hoạt động khác chỉ là phụ mà thôi.
Ngoài ra, người nghiên cứu đã có 16 tiếng 1 ngày và 2 ngày cuối tuần để giải quyết các
hoạt động yêu cầu của bản thân và xã hội.
Công bố kết quả nghiên cứu
Các kết quả nghiên cứu cần được công bố nhiều nhất và sớm nhất có thể. Đây chính là
cách thông báo cho ra công chúng những gì đề tài nghiên cứu đã thực hiện để nhận được
các phê bình, nhận xét phục vụ cho việc hoàn thiện nghiên cứu hơn nữa. Việc công bố rộng
rãi là cách chứng minh sự trung thực, không cóp nhặt từ nghiên cứu khác hoặc cũng là
cách đóng góp trở lại cho khoa học, giúp những người đi sau có tài liệu tham khảo và trả
ơn những người đi trước mà đề tài đã tham khảo đến. Tác giả đã thấy nhiều người nghiên
cứu đã không công bố hoặc luôn cố gắng giữ bí mật kết quả do nhiều lý do. Tuy nhiên khi
nghiên cứu qua đi thì kết quả của nghiên cứu đấy đã không được áp dụng do không ai biết

đến và gây lãng phí về mặt khoa học.
Giáo sư hướng dẫn
Như đã nói ở trên thì các giáo sư mỗi người một tính cách do vậy mối quan hệ với giáo
sư không phải lúc nào cũng tốt đẹp cả. Một điều nên tránh là gây ra xung đột với giáo sư
hướng dẫn vì dẫu có kết quả thế nào thì nghiên cứu sinh sẽ vẫn là người chịu thiệt thòi
nhất. Một khi bạn đã chấp nhận giáo sư là người hướng dẫn thì bạn bắt buộc chịu sự hướng
dẫn của họ, dù đúng hay sai. Tác giả cho rằng thời gian nghiên cứu thường không dài,
trung bình khoảng 3 năm, nên sự chịu đựng là chấp nhận được. Điều quan trọng là bạn có
thể nhận ra được những điều chưa đúng để khi trở thành người nghiên cứu độc lập bạn
tránh được những sai lầm đó.
Bảo vệ kết quả nghiên cứu
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 17
Khi nghiên cứu chưa hoàn thành và chưa được công bố, người nghiên cứu nên có
những biện pháp cần thiết để bảo vệ những thông tin nhạy cảm hoặc những kết quả có thể
bị sử dụng bởi người khác. Điều này là cần thiết để tránh những điều đáng tiếc sau này có
thể dẫn đến tranh chấp không cần thiết. Ngoài ra, việc lưu giữ số liệu cần được làm theo
định kỳ và cất giữ ở ít nhất 2 nơi để tránh việc mất dữ liệu trong máy tính hoặc các bản in
ra. Việc xuất bản, ấn hành hay đăng báo cũng là cách tốt để đỡ mất công trong việc bảo vệ
dữ liệu hoặc các kết quả nghiên cứu.
Dịch tài liệu nước ngoài
Nhiều người nghiên cứu chỉ đơn thuần dịch tài liệu nước ngoài, sửa đổi chút ít và coi
như đấy là nghiên cứu của chính họ. Vậy câu hỏi đặt ra là đấy có phải các nghiên cứu khoa
học không hay chỉ là những sự cóp nhặt, ăn cắp của người khác? Theo tác giả thì đấy
không phải là các nghiên cứu khoa học vì những người đó không hề có nghiên cứu, không
có mục tiêu rõ ràng và cũng không giải quyết được khó khăn của thực tế. Những bài dịch
đấy chỉ có tác dụng phổ biến kiến thức và hướng vào những độc giả kém
hiểu biết hơn. Tác giả thấy ngạc nhiên là nhiều người có học hàm học vị tương đối cao như
giáo sư, phó giáo sư hay tiến sỹ lại hay làm những việc này. Những “việc nhỏ” đấy nên để
cho những người “tuổi nhỏ” làm.

III.VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA CÁ NHÂN
1. Giới thiệu
Bài luận này không có tham vọng trình bày lại tất cả các luận điểm của các thuật toán,
mà chỉ có mục đích khái quát lại các thuật toán, nguyên tắc, xen kẽ những lập luận, nhưng
ý kiển chủ quan của cá nhân về các nguyên tắc xuất hiện trong các thuật toán đồng thời
đưa ra các ví dụ cụ thể để làm sáng rõ các thuật toán này.
2. Các bước giải quyết một vấn đề bài toán và áp dụng nguyên lý
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 18
Trong bất cứ hoạt động gì của cuộc sống, kể cả học tập, làm việc đến những hoạt động
hàng ngày chúng ta luôn phải đối mặt với các vấn đề. Bạn đang lo lắng làm sao để học kì
này đạt được một suất học bổng, bạn đang lo lắng ngày mai là sinh nhật người bạn thân,
phải mua gì đây? Làm sao xin được tiền của ba mẹ để đi tham quan cùng lớp… Như tôi
khi viết bài báo cáo này cũng rất đang lo lăng: làm sao viết được bài báo cáo thật rõ ràng,
đáp ứng yêu cầu đề ra, lượng kiến thức cũng như khả năng lập luận, khả năng viết bài
được nâng cao, làm sao truyền tải được hết ý của mình đến người đọc đặc biệt là người
thầy sẽ chấm điểm môn này :D
Kỹ năng giải quyết vấn đề là một điểm mấu chốt trong nghiên cứu khoa học, để đạt được
những kết quả tốt trong quá trình nghiên cứu và học tập của mình người làm khoa học cần
rèn luyện cho mình khả năng giải quyết công việc và vấn đề.
Khi đối mặt với các vấn đề, mỗi người trong chúng ta lại có cách giải quyết riêng của
mình, tùy vào đặc tính và khả năng cá nhân, nhưng nhìn chung cách giải quyết đểu được
đưa ra dưới dạng mô hình sau:

Cần xác định A, B, các thao tác để đi từ A đến B.
 A, B không rõ ràng?
 Các điều kiện của cách
giải không minh bạch?
Chúng đa đưa ra một tiến trình để giải quyết các vấn đề nói chung như sau:
Bước 1: Xác định vấn đề - bài toán.

Bước 2: Lựa chọn phương pháp giải.
Bước 3: Xây dựng thuật toán hoặc thuật giải.
Bước 4: Cài đặt chương trình.
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 19
Bước 5: Hiệu chỉnh & Thực hiện chương trình.
Bước 6: Lưu trữ, Bảo trì.
3. Khái quát về các thuật toán, thuật giải, cấu trúc dữ liệu
Trong tin học chúng ta có thể chia các phương pháp giải quyết bài toán thành hai mảng
lớn: phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 20
Chúng ta sẽ đi vào từng thuật toán và giải quyết các bài toán tin học cụ thể từ các thuật
toán này.
1. Phương pháp trực tiếp
Phương pháp này chủ yếu tận dụng khả năng tính toán của máy tính, giải quyết bài toán
bàng cách đưa dữ liệu vào, còn những thao tác thực thi hoàn toàn do máy tính thực hiện.
a) Chính xác
Giải phương trình bậc nhất một ẩn: y = ax+b
Phương trình trên được giải quyết theo toán học như sau:
TH1: a = 0
Nếu y = b: phương trình có vô số nghiệm
Nếu y<>b: phương trình vô nghiệm
TH2: a<>0
Phương trình có nghiệm duy nhất x = (y-b)/a
Việc giải quyết bài toán chỉ là việc thực hiện lại một cách trưc tiếp các chỉ dẫn toán
học trên
Cài đặt cụ thể: code
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 21

b) Gần đúng
Các bài toán dạng này thường là các bài toán đã biết khoảng kết quả sẵn, chúng ta
dùng một thủ thuật nào đó để đi gần đến kết quả nhất có thể.
Bài toán tìm nghiệm của phương trình f(x) trong khoảng (a;b)
 Xác định vấn đề bài toán:
Lấy f(x) = 2x^2 +3 x -2
Tìm một giá trị của x làm cho f(x) = 0;
Bài toán không yêu cầu phải tìm đầy đủ 2 nghiệm của phương trình.
Vấn đề đầu tiên là, phương trình đã cho liệu có nghiệm không?
Rõ ràng ta thấy rằng tich a*c của phương trình trên <0, do đó phương trình trên có
nghiệm.
 Phương án giải
Phương trình có nghiệm ở đâu?
Mặt khác ta lại thấy f(-1)*f(-3)<0
=>nghiệm của phương trình nằm trong khoảng [-3;1]
Tìm bằng cách nào khi đã biết nghiệm ?
Ở đây chúng ta sẽ dùng một phương pháp ước lượng ngiệm gần đúng. Tức là
chúng ta sẽ thắt chặt nghiệm từ 2 đầu đã biết trước này.
 Thuật toán:
Thuật toán được đưa ra đó là phân đôi và xét f(x) tại giá trị ở giữ này. Cụ thể:
B1: xác định đoạn [a;b] chứa nghiệm
B2: xét f(c) với c=(a+b)/2
• F(c) = 0 => nghiệm là c; đến B3
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 22
• F( c ) >0 => nghiệm nằm trong [c;b]; gán a = c; quay lại B2
• F(c) <0 => nghiệm nằm trong [a;c]; gán b =c; quay lại B2
B3: nghiệm là c
 cài đặt:
code

Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 23
c) Đệ quy
Đệ quy là một trong những thủ thuật nổi tiếng nhất trong tin học thuật toán.
Chúng ta chắc đã đôi lần “chạm chán ” với bài toán tháp Hà Nội hay tìm giai thừa,
dãy Fibonaci, chúng đều được giải dưới dạng đệ quy.
Bài toán giai thừa:
long GT(int n) {

// finished condition
if(n==0||n==1)
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 24
return 1;
// recursion
return n*GT(n-1);
}
Chúng ta hãy bàn luận một chút về bản chất của đệ quy.
Mỗi thuật toán đệ quy mô hình chung đều có 2 phần: phần điều kiện dừng và phần
đệ quy. Như ví dụ về tính giai thừa phía trên phần điều kiện dừng chính là khi tham
số đầu vào là 1 hoặc 0. Còn phần để quy là n*GT(n-1).
Bản chất về cấu trúc của thuật toán đệ quy là stack hóa. Sau mỗi lần thực hiện hàm,
kết quả lại được lưu vào trong stack.Quá trình thực hiện stack với hàm GT(3):
Đệ quy được chia làm các loại sau:đệ quy đuôi, đệ quy rẽ nhánh, đệ quy hỗ tương.
 Đệ quy đuôi: là dạng đệ quy mà trong một cấp đệ quy, chỉ có một lời gọi đệ quy
duy nhất xuống cấp thấp. (ví dụ về hàm tính giai thừa phía trên)
 Đệ quy nhánh: là dạng đệ quy mà trong suốt quá trình thực hiện hàm đệ quy, lời
gọi đệ quy được thực hiện nhiều hơn một lần.
Một ví dụ điển hình là bài toán tháp Hà Nội:
Bài toán: Bài toán tháp Hà Nội (tiếng Anh gọi là Tower of Hanoi hay Towers of

Hanoi) xuất phát từ trò chơi đố Tháp Hà Nội.
Mục đích của bài toán là thực hiện được yêu cầu của trò chơi. Dạng bài toán thông
dụng nhất là: "Người chơi được cho ba cái cọc và một số đĩa có kích thước khác
nhau có thể cho vào các cọc này. Ban đầu sắp xếp các đĩa theo trật tự kích thước
vào một cọc sao cho đĩa nhỏ nhất nằm trên cùng, tức là tạo ra một dạng hình nón.
Người chơi phải di chuyển toàn bộ số đĩa sang một cọc khác, tuân theo các quy tắc
sau:
+ một lần chỉ được di chuyển một đĩa
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525
Phương pháp luận sáng tạo khoa học Trang 25
+ một đĩa chỉ có thể được đặt lên một đĩa lớn hơn (không nhất thiết hai đĩa này phải
có kích thước liền kề, tức là đĩa nhỏ nhất có thể nằm trên đĩa lớn nhất)".
Phân tích phương án giải:
Với trường hợp 2 đĩa,giả sử 3 cột lần lượt là A,B,C;Với A là cột chứa các đĩa theo
thứ tự nhỏ đến lớn; ta chỉ cần chuyển: 1. đĩa trên cùng qua B, 2.dĩa còn lại qua C; 3.
Đĩa từ B qua C là đã thỏa mãn yêu cầu bài toán.
Trường hợp 3 đĩa:
1. AB
2. AC
3. BC
4. AB
5. CA
6. CB
7. AB
Trường hợp 4 đĩa:
1. AB
2. AC
3. BC
4. AB
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin – Sinh Viên: Nguyễn Lâm Tú 06520525

×