Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

đề cương ôn thi môn nhà nước và pháp luật cho học viên trung cấp chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.82 KB, 22 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI MÔN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Trình độ trung cấp chính trị
Câu 1: Phân tích khái niệm, đặc điểm, cấu trúc của Hệ thống chính trị Việt Nam.
I. Khái niệm hệ thống chính trị và đặc điểm hệ thống chính trị Việt Nam.
1.Khái niệm HTCT: Có nhiều quan điểm khác nhau về Hệ thống chính trị:
- Theo quan điểm tuyệt đối hóa vai trò kinh tế thì Hệ thống chính trị là một chỉnh thể gồm các tổ chức
thể hiện bản chất, bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền.
- Hệ thống chính trị là tổng thể các tổ chức chính trị của xã hội được chính thức thừa nhận về mặt pháp lý
nhằm thực hiện quyền lực chính trị của xã hội đó. Hệ thống này bao gồm Nhà nước, các Chính đảng, các Nghiệp
đoàn và các tổ chức chính trị khác - trong đó Nhà nước là yếu tố cơ bản, trung tâm.
- Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức mà thông qua đó giai cấp thống trị thực hiện quyền lực
chính trị trong xã hội.
- Hệ thống chính trị là một cơ cấu, tổ chức bao gồm đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị
- xã hội tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật hiện hành (hệ thống pháp luật đó được chế định theo tư
tưởng và lợi ích giai cấp cầm quyền) nhằm duy trì, bảo vệ, và phát triển xã hội đó…
- Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức mà thông qua đó giai cấp thống trị thực hiện quyền lực
chính trị trong xã hội. Hệ thống chính trị là một cơ cấu, tổ chức bao gồm đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật hiện hành (hệ thống pháp luật đó được
chế định theo tư tưởng và lợi ích giai cấp cầm quyền) nhằm duy trì, bảo vệ, và phát triển xã hội đó.
- Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm nhà nước, các đảng
chính trị, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau nhằm tác
động vào mọi mặt của đời sống xã hội để củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời phù hợp với
lợi ích của chủ thể cầm quyền.
- Trên quan điểm hệ thống cấu trúc như trên có thể xem Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức
chính trị xã hội hợp pháp bao gồm cả các tổ chức do giai cấp cầm quyền lập nên và các tổ chức do giai cấp
khác lập nên theo quy định của pháp luật. Các Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị hợp pháp cùng quan
hệ qua lại trong sự tác động qua lại giữa các yếu tố đó để chi phối quá trình kinh tế xã hội nhằm bảo vệ, duy
trì và phát triển chế độ xã hội đương thời, bảo đảm quyền lực và lợi ích của giai cấp cầm quyền xã hội.
- Hệ thống chính trị Việt Nam là tổng thể các thể chế chính trị bao gồm Đảng CSVN, NN CHXHCN
VN, Mặt trận TQVN, 5 đoàn thể chính trị - xã hội: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Mình, Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt


Nam. Quần chúng nhân dân là thành viên của mặt trận tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN. Hệ thống
chính trị VN được tổ chức và hoạt động dựa trên nền tảng CN Mác Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mục tiêu
cơ bản của Hệ thống CTVN là độc lập dân tộc và CNXH nhằm xây dựng nước VN dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay:
- Tính nhất nguyên chính trị
+ Không có chính đảng đối lập: Chế độ chính trị ở Việt Nam là thể chế chính trị một đảng duy nhất cầm
quyền. Trong những giai đoạn lịch sử nhất định, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, còn có Đảng Dân chủ và
Đảng Xã hội. Tuy nhiên, hai đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của Đảng
Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ
thống chính trị ở Việt Nam là thể chế nhất nguyên chính trị, không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
+ Nhất nguyên về tổ chức (các thành phần đều là “cánh tay nối dài” của Đảng): Hệ thống chính trị ở
Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ
thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của
nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng
(Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội), vừa là tổ chức mà qua đó Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh
đạo chính trị đối với xã hội.
+ Nhất nguyên về tư tưởng: Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị được thể hiện ở tính nhất
nguyên tư tưởng. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tính thống nhất
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng khác nhau nhưng
có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng,
phong phú về tổ chức, phương thức hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát huy sức mạnh
1
tổng hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống.Tính thống nhất của hệ thống chính trị ở
nước ta được xác định bởi các yếu tố sau:
+ Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

+ Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân chủ.
+ Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương, với các bộ phận hợp
thành.
- Tính rộng khắp: HTCT VN được điều hành và tổ chức hoạt động thông suốt trên khắp 63 tỉnh thành
phố.
- Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân
Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đặc điểm này khẳng định hệ thống
chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính trị, mà còn gắn với xã hội. Trong hệ thống
chính trị, có các tồ chức chính trị (như Đảng, Nhà nước), các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã hội
(như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác). Do vậy, hệ thống chính trị không đứng trên xã
hội, tách khỏi xã hội (như những lực lượng chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc lột), mà là một bộ
phận của xã hội, gắn bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội chính là Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các yếu tố:
+ Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm quyền.
+ Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các tầng lớp
nhân dân.
+ Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị là
phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
- Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị
+ Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện cho nhiều giai cấp,
tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại diện bởi các tổ chức thành viên trong hệ thống
chính trị, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản
chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc.
+ Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và bắt đầu từ mục tiêu
giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các giai cấp, dân tộc đoàn kết trong đấu tranh giành và bảo vệ
nền độc lập dân tộc, hợp tác để cùng phát triển. Sự tồn tại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là thành
viên quan trọng của hệ thống chính trị là yếu tố quan trọng tăng cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc.
+ Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất của từng tổ chức thuộc

hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề
dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân
tộc và giai cấp mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.
- Hệ thống CT VN hiện nay còn rất non trẻ: Nền HC VN gồm các tổ chức, các cơ quan NN; Các thể chế
chính trị như các quy định của pháp luật; cơ sở vật chất và con người.
Nền HC VN còn non trẻ do đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trải qua một quá trình lịch
sử lâu dài với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vì vậy mà sự giao thoa giữa cái cũ và mới, giữa cơ chế hoạt
động vẫn còn ảnh hưởng nặng nề.
II. CẤU TRÚC CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM.
ở nước ta hiện nay, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang là chủ thể chân chính của quyền lực.
Vì vậy, hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao
động. Hệ thống chính trị của nước ta gồm nhiều tổ chức, mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau do chức năng,
nhiệm vụ của từng tổ chức, nhưng cùng tác động vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo
quyền lực của nhân dân.
a. Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt
2
nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu
sau:
Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội;
đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương,
quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính
sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của
Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán

bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính
trị - xã hội.
Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương, làm công tác vận động
quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ
b. Nhà nước:
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của
nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã
hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân, thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy
đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ
chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra, Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập ra Hiến pháp và luật pháp (lập hiến và lập pháp). Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về
đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của
bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp.
Chủ tịch nước là Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về đối nội và đối ngoại. (Điều 101 Hiến pháp 1992)
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp hành, chịu trách nhiệm trước
Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội. Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.
Cơ quan tư pháp gồm: Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra. Đây là những cơ quan được lập ra
trong hệ thống tổ chức Nhà nước để xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, đảm bảo việc thực thi
pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác.
Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà nước trước các vụ án

thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài
hình sự, không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực
pháp luật.
Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét xử đúng người đúng tội.
Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm
quyền của mình đối với các cơ quan khác của Nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động
điều tra, truy tố
Với ý nghĩa đó, các tổ chức Toà án, Viện kiểm sát được gọi là cơ quan tư pháp.
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
c. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội
Đây là những tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân
theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị, tuỳ theo
tính chất, tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân.
3
+ Mặt trận tổ quốc Việt Nam: là liên minh chính trị của các giai cấp, tầng lớp nhân dân, dân tộc và tôn
giáo, nhiệm vụ của MTTQVN là củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân,
động viên nhân dân tích cực tham gia và quản lý nhà nước.
+ Tổng liên đoàn lao động Việt Nam: là tổ chức của giai cấp công nhân và cán bộ viên chức nhà nước,
bảo đảm đời sống vật chất của các thành viên và bảo vệ lợi ích của họ.
+ Đoàn TNCSHCM là tổ chức rèn luyện và bồi dưỡng thế hệ trẻ, lực lượng xung kích trong lao động sản
xuất và nghiên cứu khoa học.
+ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam: là tổ chức của phụ nữ Việt Nam, có nhiệm vụ giáo dục thành viên
hiểu rõ vai trò của họ đối với Tổ quốc, động viên họ nâng cao tinh thần phấn đấu vương lên trong mọi lĩnh vực
xã hội.
+ Hội nông dân Việt Nam: là đại biểu của giai cấp nông dân, có nhiệm vụ động viên nông dân hăng hái
lao động sản xuất và tham gia xây dựng, quản lý nhà nước.
+Hội Cựu chiến binh Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, đại diện ý chí, nguyện vọng của Cựu chiến binh- đó là những người đã tham gia đơn vị vũ
trang chiến đấu chống ngoại xâm giải phóng dân tộc, làm nhiệm vụ quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã

nghỉ hưu, chuyển ngành, phục viên, xuất ngũ.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, 5 tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Mình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội
Cựu chiến binh Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và
bảo vệ đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ
cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể
hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; tuyên truyền
vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện giám sát của nhân dân với
cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng, động viên và phát
huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi
ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững
và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá
trình dân chủ hoá và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Cơ sở phân cấp
theo quản lý hành chính gồm có xã, phường, thị trấn. Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng,
Hội đồng Nhân dân xã, phường; Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã, phường và các tổ chức
chính trị-xã hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến
binh xã, phường, thị trấn… Tất cả các tổ chức trên đều có vị trí, vai trò và nhiệm vụ được quy định trong Luật
Tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta.
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân

4
Câu 2: Trình bày các đặc trưng, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCNVN. Nêu phương
hướng đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước ta?
1. Khái niệm theo quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ XI:Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết đúng

mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Nâng
cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ
luật, kỷ cương. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân.
Khái niệm: NN CHXHCN VN là NN thực sự của dân do dân và vì dân. Tất cả quyền lực NN thuộc về
nhân dân, bảo đảm tính tối cao của HP và Pl, quản lý Xh theo pháp luật nhằm phục vụ lợi ích và hạnh phúc của
ND do Đảng tiền phong của giai cấp nhân dân lãnh đạo, đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân và sự giám
sát của nhân dân.
2. Đặc trưng của NN PQXHCNVN
a. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quan điểm ấy có tính bản chất của Nhà nước ta đã được
khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp. Đặc biệt Hiến pháp 1992 được sửa đổi năm 2001 đã khẳng định:
"Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất
cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai của công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức".
Bản chất nhà nước ta là tính giai cấp gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc và tính nhân dân. Tư tưởng xây
dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân là do Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương bắt nguồn từ truyền
thống đại đoàn kết dân tộc của các thế hệ người Việt Nam trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Bài
học lấy dân làm gốc với tư tưởng bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hành đều của dân luôn nhất
quán trong lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Nhà nước ta do dân lập nên, do dân bầu ra, do dân
kiểm tra, giám sát.
Đó phải là nhà nước hoạt động vì dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất của mình. Sức
mạnh của Nhà nước ta bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân; phải xây dựng Nhà
nước trong sạch vững mạnh, gần dân, sát dân, thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của dân; đảm bảo trên thực tế
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Xây dựng CNXH là mục tiêu, khát vọng chung của toàn thể mọi giai
tầng, mọi tầng lớp trong xã hội ta. Nhưng khát vọng đó có trở thành hiện thực hay không thì phải có một liên
minh giai cấp vững mạnh đặt dưới sự lãnh đạo của một chính Đảng tiên tiến trong xã hội. Ở nước ta cơ sở để
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN phải trên cơ sở nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
b. Bộ máy Nhà nước được tổ chức trên cơ sở nguyên tác: quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân

công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Tại Hiến pháp 1992 xác định rõ: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; Chủ tịch nước là người
đứng đầu Nhà nước; Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất;Toà án nhân dân tối cao là cơ quan
xét xử cao nhất; Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan cùng với Tòa án nhân dân thực hành quyền tư pháp. Như
vậy điều hiển nhiên là mỗi một cơ quan nêu trên đều có chức năng riêng, quyền hạn riêng và có mối quan hệ
lẫn nhau.
Tuy nhiên cần thấy rằng, hoạt động lập hiến, lập pháp chi phối mạnh, trực tiếp tới hoạt động hành pháp
và tư pháp, vì vậy Quốc hội luôn ở một vị trí quan trọng đặc biệt. Qua nghiên cứu các quy định của Hiến pháp
1992 và các Luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở nước ta, đều nhận thấy sự phân công,
phân nhiệm về quyền hạn, nhiệm vụ chức năng giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được xác định.
Sự xác định này cũng chưa giải quyết được căn bản những nhu cầu của việc xây dựng một bộ máy chính quyền
thật sự có hiệu quả, đáp ứng các đòi hỏi của đất nước.
Dù sao trong một mức độ nào đó, sự phân công giữa các chế định quyền lực tối cao trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được thực hiện. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến và lập pháp.
Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Toà án thực hiện quyền tư pháp. Sự phân công quyền lực nhà nước
giữa các cơ quan của Nhà nước trong hiện nay ở nước ta không mang tính tuyệt đối. Bởi lẽ Quốc hội ngay bên
cạnh hoạt động lập pháp còn thực hiện một số nhiệm vụ hành pháp, Chính phủ bên cạnh hoạt động hành pháp
còn tham gia tích cực vào nhiệm vụ lập pháp của Quốc hội (xây dựng các dự án Luật). Tòa án bên canh nhiệm
vụ xét xử cũng còn tham gia vào hoạt động lập pháp Giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp có sự phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các quyền này. Hiến pháp đã quy định cho Quốc
hội là cơ quan có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước nhưng chưa có những
5
quy định về việc kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các nhánh quyền lực nhà
nước. Lần đầu tiên tại Đại hội lần thứ XI của Đảng mới đưa ra vấn đề kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà
nước gữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
c. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường
pháp chế XHCN.
Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp
chế ”. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật là nguyên tắc có tính hiến định xác lập các cơ
sở chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cơ bản trong xã hội giữa công dân với công dân, giữa công dân với Nhà

nước, giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội. Sự đổi mới pháp luật tăng cường pháp chế đang được tiến hành
trên cả ba lĩnh vực cơ bản: Xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật, bảo vệ pháp luật. Trong lĩnh vực xây dựng
pháp luật nhiệm vụ đang được đặt ra là: Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền và thủ tục ban hành các văn
bản pháp luật; đảm bảo pháp luật được xây dựng và ban hành đúng thẩm quyền, đúng thủ tục, đúng đối tượng;
hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Nhu cầu cải
cách bộ máy nhà nước hiện nay đòi hỏi phải đổi mới căn bản các quy định pháp luật về tổ chức, về phẩm
quyền; về lề lối làm việc, về cơ chế quan hệ quyền lực giữa các cơ quan nhà nước. Pháp luật trong lĩnh vực tổ
chức quyền lực nhà nước phải đáp ứng được yêu cầu: Xây dựng một bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hiệu lực và
hiệu quả, đủ khả năng tổ chức và quản lý các quá trình kinh tế - xã hội, đảm bảo trật tự và an toàn cho sự phát
triển đất nước, đồng thời đảm bảo khả năng kiểm soát quyền lực và việc thực thi quyền lực nhà nước trên thực
tế từ phía nhân dân và toàn thể xã hội. Việc xây dựng các cơ sở pháp luật để kiểm soát quyền lực, đặc biệt kiểm
sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước có ý nghĩa quyết định đối với tiến trình dân chủ hoá xã hội.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay là một đòi hỏi tất yếu mang tính khách quan để
nhà nước quản lý xã hội một cách thống nhất và hiệu quả. Bên cạnh đó chúng ta cần phải tăng cường pháp chế
XHCN tức là phải tổ chức thực thi và bảo vệ pháp luật một cách hiệu quả đảm bảo kỷ cương phép nước.
d. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của
nhân dân, tôn trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp
kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm
quyền dân chủ của; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm đến lợi ích của Tổ quốc
và của nhân dân.
Trong hoạt động của mình mọi cơ quan trong bộ máy nhà nước, mọi cán bộ công chức nhà nước đều
phải vì lợi ích của nhân dân và Tổ quốc, lấy tinh thần phục vụ hân dân làm phương châm cho việc thực thi công
vụ của mình và phải chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế để buộc cán bộ, công chức, viên chức nhà nước
phải thực sự gần gũi với người dân trong công tác cũng như trong sinh hoạt cuộc sông hàng ngày. Trong lĩnh
vực dân chủ và tự do của công dân, nhà nước phải ban hành pháp luật để tạo lập được một cơ chế pháp lý để
thúc đẩy và bảo đảm dân chủ của xã hội và của công dân. Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác
xây dựng pháp luật hiện nay là chú trọng đến việc đổi mới hoàn thiện pháp luật về dân chủ (cả dân chủ đại diện
và dân chủ trực tiếp). Cần phải xác định chế độ pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cán bộ công
chức nhà nước trong việc đảm bảo và tôn trọng quyền công dân. Nhà nước phải xây dựng và hoàn thiện những
thể chế, cơ chế về phòng chống, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vô trách nhiệm, lạm quyền Cần

phải quy định rõ chế độ trách nhiệm và các hình thức xử lý nghiêm đối với cán bọ, công chức, viên chức có
nhũng hành vi về qun liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm và xử lý nghiêm minh những hành vị này
không kể người đó là ai, giữ chức vụ cao hay thấp. Có như vậy mới xây dựng được bộ máy nhà nước trong sạch
vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả.
đ. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công,
phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trở thành nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước. Nguyên tắc này pháp huy được trí tuệ tập thể trong chỉ đạo điều hành công việc của các cơ quan nhà
nước, tránh được việc các cá nhân lạm quyền gây nên tác hại xấu. Trong hoạt động của bộ máy nhà nước cần
có sự phân công phân cấp một cách hợp lý rõ ràng giữa các cấp các ngành bên cạnh đó gắn với chế độ chịu
trách nhiệm cho cá nhân tổ chức đã được phân cấp. Tuy nhiên sự phân cấp cần phải có sự chỉ đạo thống nhất
của Trung ương, sự kiểm tra giám sát chặt chẽ của Trung ương, tránh tình trạng phân công, phân cấp rồi buông
lỏng dẫn đến tự do vô tổ chức, bản vị, cục bộ địa phương, ngành xâm hại đến lợi ích chung của đất nước, của
nhân dân. Có thể nói trên đây là những quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN được
thể hiện trong Đại hội XI của Đảng là cơ sở để nhà nước ta hoàn thiện các thể chế để xây dựng nhà nước trong
thời gian tới, trước hết là cơ sở cho việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 sắp tới./.
3. Các yêu cầu với việc xây dựng NNPQ XHCNVN
6
- Bảo đảm thực hiện nền dân chủ XHCN: Bảo đảm NN thực sự của dân, do dân và vì dân. Cơ cấu tổ
chức và cơ chế hoạt động của NN phải bảo đảm tất cả quyền lực.
- Xây dựng NN có đủ năng lực kinh tế, quản lý xã hội hiệu quả, phát huy đươck tiềm năng của dân tộc,
tiếp thu hợp lý những thành tựu KHKT, công nghệ mới của thế giới và tinh hoa văn hóa của nhân loại.
- Xây dựng NN có bộ máy tinh gọn, cơ cấu hợp lý, có quy chế làm việc khoa học, bảo đảm việc kiểm
tra, giám sát và điều hành được hoạt động của XH, cũng như hđ của bản thân bộ máy NN.
- Xây dựng NN thực hiện đảm bảo bằng pháp luật: Hoạt động trên cơ sở pl, thực hiện quản lý XH bằng
pháp luật. Giữ vững kỷ cương NN và trật tự XH, bảo đảm an ninh quốc phòng, bảo vệ vững chắc thành quả
cách mạng.
- Xây dựng NN có đội ngũ cán bộ trong sạch, có trách nhiệm với dân, có bản lĩnh chính trị, đảm bảo yêu
cầu quản lý. Đồng thời loại trừ đi những bệnh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, vi phạm quyền làm
chủ của nhân dân.

- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với NN.
4. Phương hướng tổ chức và hoạt động của NN ta
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước luôn được xác định là vấn đề quan trọng trong tiến trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam của Đảng ta. Đặc biệt từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới (năm 1986), Đảng đã có nhiều
nghị quyết đặt vấn đề về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng (năm 2001) chính thức xác định rõ quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Báo cáo chính trị của hai kỳ đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng tiếp theo (Đại hội X năm 2006, Đại hội XI năm 2011).
Kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, nhìn lại 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2001 – 2010, trong phần về xây dựng Nhà nước, Báo cáo chính trị tại Đại hội XI khẳng định "Việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả quản lý được nâng
lên."Theo đó, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được kiện toàn, điều chỉnh sắp xếp lại cho phù hợp hơn,
trong đó có cả việc mạnh dạn từng bước thực hiện thí điểm thận trọng cách thức tổ chức bộ máy nhà nước ở
một số địa phương theo hướng phù hợp, tinh gọn hơn. Đồng thời Báo cáo chính trị tại Đại hội XI cũng thừa
nhận những hạn chế, tồn tại trong xây dựng Nhà nước: "Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước."Theo đó cả ba vấn đề thể chế pháp lý, tổ chức
bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức còn những điểm yếu kém, làm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nước chưa cao, nhất là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng.
Trên cơ sở kiểm điểm những thành tựu và những hạn chế, tồn tại kể trên, Báo cáo chính trị tại Đại hội XI đưa ra
bốn điểm về đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Một là, nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc và quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được đề cập
trong nhiều nghị quyết của Đảng, nhất là Báo cáo chính trị tại Đại Hội IX, Đại hội X của Đảng. Mặc dù vậy
chưa hẳn nội dung của các nguyên tắc, quan điểm đó đã được hiểu và nhận thức một cách đầy đủ trong cán bộ,
đảng viên và nhân dân, đồng thời có những điểm về các nguyên tắc, quan điểm đó khi triển khai thực hiện cũng
cần được tiếp tục nhận thức cho rõ thêm. Vì vậy cần thiết phải nâng cao nhận thức các nguyên tắc và quan điểm
về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XI yêu cầu nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần
thấy rõ đó phải thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; là Nhà nước do Đảng lãnh đạo; đó
là Nhà nước có năng lực quản lý, điều hành tốt bằng pháp luật và tôn trọng pháp luật, thực hiện được đầy đủ

các chức năng kinh tế cũng như xã hội và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, với
các tổ chức; qua đó bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của Nhà nước, bảo đảm phục vụ lợi ích
nhân dân, bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc cũng như thực hiện tốt các cam kết quốc tế.
Nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với điều kiện nước ta hiện tại cần phải sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp 1992 cho phù hợp với tình hình mới.
Hai là, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Qua nhiều kỳ đại hội Đảng và nhiều hội nghị trung ương, định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền
ngày càng rõ về lý luận và thực tiễn. Từ đó tổ chức và hoạt động của cả bộ máy nhà nước nói chung, từng hệ
thống cơ quan nhà nước nói riêng đã từng bước được kiện toàn, đổi mới phù hợp hơn, hoạt động hướng tới hiệu
lực, hiệu quả cao hơn, nhưng vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém. Vì vậy, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của
bộ máy nhà nước ta là điều hết sức cần thiết.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng xác định rõ hướng đổi mới trong tổ chức và hoạt động của tất
cả các hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước:
7
Đối với Quốc hội, hoàn thiện cơ chế bầu cử để bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu của nhân
dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, hướng tới hoạt động có hiệu quả, nhất là nâng cao chất
lượng công tác xây dựng pháp luật và thực hiện tốt chức năng giám sát của Quốc hội, bảo đảm đúng quy định
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân cả nước, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan
duy nhất thực hiện quyền lập pháp và thực hiện chức năng giám sát tối cao của Nhà nước.
Đối với chế định Chủ tịch nước cần xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm thể hiện vai trò nguyên
thủ quốc gia cũng như mối quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
Đối với Chính phủ hướng đến xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh,
được tổ chưc tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt là sắp xếp các cơ quan hành chính nhà nước
theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, đồng thời đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính nhà nước, nhất là
cải cách thủ tục hành chính hướng đến một nền hành chính gọn nhẹ, tiện lợi, phù hợp với cơ chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đối với các cơ quan tư pháp bảo đảm sự trong sạch, tính vững mạnh, hướng đến bảo vệ công lý, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người ngày càng được đầy đủ. Đẩy mạnh cải cách tư pháp, lấy hoạt động xét xử của
toà án làm trọng tâm, coi trọng đổi mới và kiện toàn các tổ chức bổ trợ tư pháp; gắn nâng cao trình độ chuyên

môn với đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp.
Đối với chính quyền địa phương một mặt phân cấp nhiều hơn quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
chính quyền địa phương, đồng thời nghiên cứu phân biệt sự khác nhau về tổ chức, thẩm quyền của chính quyền
các khu vực đô thị, nông thôn, hải đảo.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình
hình mới.
Dù đội ngũ cán bộ, công chức thời gian qua có nhiều đổi mới, nhất là chất lượng chuyên môn nghiệp vụ
ngày càng được nâng cao, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; vì vậy chú
trọng xây dựng đội ngũ này về phẩm chất, năng lực là điều hết sức quan trọng, trong đó chú trọng cả về bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức lẫn năng lực chỉ đạo, điều hành, quản lý; gắn chính sách đãi ngộ với chế độ kỷ
luật một cách rõ ràng; nghiên cứu, thực hiện nhất thể hoá một số chức vụ lãnh đạo trong cơ quan Đảng và Nhà
nước.
Bốn là, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XI khẳng định "Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết
kiệm là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài."[3] (3) Đây là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị, mà trước hết
là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, tổ chức. Trong đó cần phải tuyên truyền và nâng cao trên thực tế vai trò
của các cơ quan đại diện, của các tổ chức đoàn thể quần chúng nhân dân và của hệ thống các phương tiện thông
tin đại chúng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
8
Câu 3: Vị trí, vai trò, chức năng của HĐND và UBND?
1. HĐND:
a. Khái niệm: Khác với các nước theo chế độ tam quyền phân lập, ở nước ta “quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp” (Điều 2 Hiến pháp năm 1992). Như vậy, cho dù không thực hiện tam quyền phân lập
nhưng ở bộ máy Nhà nước ta cũng có ba hệ thống cơ quan để thực hiện ba loại quyền lực Nhà nước. Đó là
quyền lập pháp (ban hành pháp luật), quyền hành pháp (triển khai thực hiện pháp luật) và quyền tư pháp (hoạt
động xét xử). Do đó, tất cả các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương chỉ có thể nằm trong ba hệ
thống cơ quan nói trên. Vậy, HĐND thuộc hệ thống cơ quan nào và thực hiện quyền lập pháp hay hành pháp?
Đây là vấn đề cần phải nhận diện rõ mới có thể phát huy được vai trò, thực hiện đúng chức năng của mình.
Theo quy định tại Điều 119 Hiến pháp năm 1992 thì “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước

ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên”.
Điều 1 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 quy định “Hội đồng nhân
dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp
trên”.
b. Vai trò.
Như vậy, với vị trí pháp lý mà Hiến pháp quy định thì HĐND phải thực hiện hai vai trò. Vai trò thứ nhất
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương) và vai trò thứ
hai là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Hai vai trò này không độc lập
tuyệt đối mà có sự đan xen thể hiện qua hai chức năng của HĐND
c. Chức năng:
Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa
phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả
nước.
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của
Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.
Tại Điều 120 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và
pháp luật ở địa phương;…”.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND thì HĐND không chỉ chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương mà còn phải chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên (trong đó có
cơ quan hành chính cấp trên).
Như vậy, HĐND có thẩm quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, tuy nhiên các
quyết định đó là để đề ra các biện pháp triển khai thực hiện pháp luật, bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh Hiến
pháp và pháp luật ở địa phương và phải chịu trách nhiệm trước các cơ quan Nhà nước cấp trên về việc triển
khai thực hiện pháp luật. Mặc dù không có văn bản nào xác định rõ nhưng căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và

quyền hạn đã được Hiến pháp và Luật Tổ chức HĐND và UBND hiện hành quy định thì HĐND là cơ quan
thuộc hệ thống cơ quan hành pháp (một khâu trong việc triển khai thực hiện pháp luật) tại địa phương.
2. UBND
(Theo Điều 2 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003)
a. Khái niệm: Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân
dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ
quan nhà nước cấp trên.
b. Vai trò: Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn.
c. Chức năng: Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm
sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở.
Uỷ ban nhân dân cấp dưới chịu sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp trên. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu
sự chỉ đạo của Chính phủ.
9
Hiệu quả hoạt động của Uỷ ban nhân dân được bảo đảm bằng hiệu quả hoạt động của tập thể Uỷ ban
nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân và của các cơ quan chuyên môn
thuộc Uỷ ban nhân dân.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, Uỷ ban nhân dân ra quyết định, chỉ thị và tổ
chức thực hiện, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó.
10
Câu 5: Phân tích bản chất, vai trò của pháp luật XHCN ở nước ta?
1. Khái niệm pháp luật
- Pháp luật nói chung là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do NN ban hành hoặc thừa nhận, thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của NN, là yếu tố đảm
bảo sự ổn định trật tự xã hội.
- Pháp luật XHCN là hệ thống các quy tắc xử sự chung do NN CHXHCN VN ban hành hoặc thừa nhận,
thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và được đảm
bảo thực hiện bằng bộ máy NN và phương thức tác động của NN, trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và cưỡng
chế của NN nhằm xây dựng chế độ XHCN.

2. Bản chất pháp luật XHCN
1. Pháp luật XHCN mang tính nhân dân sâu sắc.
- Nội dung của nó thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nông dân, tầng lớp trí thức và những người
lao động khác chiếm tuyệt đại đa số trong bộ phận dân cư trong xã hội. Đây là điểm khác biệt cơ bản so với
kiểu pháp luật bóc lột- kiểu pháp luật chỉ phản ánh ý chí của giai cấp thống trị chiếm thiểu số dân cư.
- Pháp luật XHCN đưa người dân lao động từ thân phận tôi đòi, làm thuê, lệ thuộc trong xã hội cũ trở
thành những chủ nhân chân chính của xã hội mới, ghi nhận chủ quyền nhân dân, quy định một cách rộng rãi các
quyền tự do dân chủ cho công dân, tạo ra sự đảm bảo cho sự thực hiện quyền đó.
2. Pháp luật XHCN khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng, khuyến khích
các cá nhân, tổ chức nước ngoài đầu tư vào trong nước.
3. Pháp luật XHCN tuy mang tính cưỡng chế nhưng tính cưỡng chế đó đã chứa đựng những nội dung
mới, khác với các kiểu pháp luật bóc lột.
- Trong pháp luật XHCN cũng có những quy định bắt buộc, cấm đoán, dự liệu những biện pháp cưỡng
chế song do nội dung của pháp luật XHCN phù hợp với lợi ích, nhu cầu của đại đa số nhân dân nên nhìn chung
nó được thực hiện một cách tự giác.
- Về căn bản cưỡng chế được đặt ra đối với người vi phạm pháp luật và nó được tiến hành trong sự kết
hợp chặt chẽ với giáo dục, thuyết phục, trên cơ sở giáo dục thuyết phục.
4. Pháp luật XHCN có phạm vi điều chỉnh rộng. Không những nó quy định những vấn đề như tổ chức
quyền lực nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà còn điều chỉnh cả lĩnh vực trực tiếp tổ chức,
quản lý lao động như: định mức lao động, thống kê, kiểm tra
5. Pháp luật XHCN liên hệ mật thiết với các quy phạm xã hội khác, đặc biệt là các quy tắc đạo đức, tập
quán và các quy phạm của các tổ chức xã hội.
- Các tư tưởng và các quy tắc đạo đức tiến bộ luôn là cơ sở cho pháp luật XHCN . Đến lượt mình, pháp
luật lại củng cố và truyền bá các giá trị đạo đức đó. Giữa pháp luật XHCN và các tư tưởng, quy tắc đạo đức có
điều gì mâu thuẫn thì điều đó phải được giải quyết trên cơ sở đạo đức.
- Pháp luật XHCN bảo vệ những tập quán truyền thống tiến bộ. Mặt khác, nó cũng ngăn cản, hạn chế và
loại trừ những tập tục lạc hậu ( như tảo hôn, đa thê )
- Pháp luật có quan hệ mật thiết với các quy phạm của các tổ chức xã hội nhất là Nghị quyết, điều lệ của
Đảng cộng sản. Đường lối chính sách của Đảng là một trong những cơ sở của pháp luật. Mặt khác, pháp luật

cũng là một trong những cơ sở để Đảng hoạch định đường lối, chính sách (Điều 4 Hiến pháp 1992).
Pháp luật XHCN là một hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể
hiện ý chí của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác, được quy
định bởi cơ sở kinh tế của CNXH trong thời kỳ mới, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm mục đích
xây dựng một xã hội dân chủ và phồn vinh.
3. Vai trò của pháp luật XHCN.
a. Vai trò của pháp luật đối với kinh tế: Đối với kinh tế pháp luật có vai trò rất quan trong thể hiện ở
một số khía cạnh sau đây:
- Pháp luật tao ra các khung pháp lý để cho các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế tiến hành hoạt động
quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý vĩ mô nền kinh tế. Đồng thời, cũng là cở sở để cho các chủ thể
sản xuất kinh doanh căn cứ vào đó để hoạt động.
- Pháp luật là công cụ hữu hiệu giúp cho nhà nước khắc phục được các nhược điểm của nền kinh tế thị
trường, tạo ra sự công bằng xã hội.
- Pháp luật là công cụ giúp nhà nước giải quyết có hiệu quả các tranh chấp kinh tế nảy sinh trong nền
kinh tế thị trường.
11
b. Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý xã hội: Nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã
hội, vì vậy, nhà nước có chức năng quản lý xã hội. Đối với nhà nước pháp luật có các vai trò sau đây:
- Pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh nhất,
đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn nhất.
- Pháp luật là công cụ để cho nhà nước kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các tổ chức, các cơ quan, các
nhân viên nhà nước và mọi công dân.
- Pháp luật là công cụ để bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân
phẩm của các cá nhân, tài sản, danh dự, uy tín của các tổ chức.
c. Vai trò của pháp luật đối với hệ thống chính trị:
- Thứ nhất, đối với nhà nước. Pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý, khung pháp lý cho tổ chức và hoạt động
của Bộ máy nhà nước. Điều đó thể hiện ở chỗ Bộ máy nhà nước là một thiế chế phức tạp bao gồm nhiều loại cơ
quan. Để cho bộ máy đó hoạt động được có hiệu quả đòi hởi phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách
nhiệm của mỗi loại cơ quan, mỗi cơ quan; phải xác lập mối quan hệ đúng đắn giữa chúng; phải có những
phương pháp tổ chức và hoạt động phù hợp để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực thi

quyền lực của nhà nước.
Thực tiễn đã chỉ ra rằng khi chưa có một hệ thống pháp luật về tổ chức đầy đủ và đồng bộ, phù hợp làm cơ sở
cho việc củng cố và hoàn thệin bộ máy nhà nươc thì dễ dẫn đến tình trang trùng lặp, chồng chéo, thực hiện
không đúng chức năng, thẩm quyền của một số cơ quan nhà nước, bộ máy nhà nước sẽ cồng kềnh hoạt động
kém hiệu quả.Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên cơ sở vững chắc của những nguyên
tắc và quy định của pháp luật.
- Thứ hai, Đối với Đảng cộng sản Việt Nam:
+ Pháp luật là phương tiện để thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng làm cho đường lối đó có hiệu
lực thi hành và bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội.
+ Pháp luật cũng là phương tiện để Đảng kiểm tra tính đúng đắn trong đường lối lãnh đạo chỉ đạo của
mình đối với xã hội. Ví dụ: Thông qua đường lối mở cửa của Đại hội VI chúng ta thấy chủ trương trên là đúng
đắn đã thúc đẩy kinh tế phát triển đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế.
- Thứ ba, Đối với các tổ chức chính trị - xã hội: Pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý để bảo đảm cho các tổ
chức này tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội.Ví dụ: Trong phiên họp của Chính phủ khi bàn vế
các vấn đề liên quan thì phải mời các tổ chức có liên quant ham gia.
d. Vai trò của pháp luật đối với đạo đức: Pháp luật sẽ là cơ sở để bảo vệ và bảo đảm cho đạo đức xã hội
chủ nghiã phát triển, củng cố các chuẩn mực luân lý tiến bộ, sự công bằng xã hội.
đ. Vai trò của pháp luật đối với tư tưởng: Pháp luật làm cho tư tưởng của con người trong xã hội được
thống nhất hơn.
e. Pháp luật với quá trình hội nhập quốc tế.
Pháp luật góp phần tạo dựng các quan hệ xã hội mới, tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các
mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia.
Mối quan hệ giữa PL và PC:
- PL và Pc là 2 hiện tượng pháp lý khác nhau, độc lập tưong đối với nhau, nhưng có mối liên hệ phổ
biến mật thiết với nhau, tác động qua lại.
- PL là cơ sở của PC, nhưng có PL chưa hẳn đã có PC vì PL đã có hiệu lực thi hành nhưng mọi người
không thực hiện nghiêm chỉnh thì sẽ ko có PC.
- Ngược lại có PL nhưng PL ấy ko đồng bộ, ko kịp thời, ko phản ánh đc ĐK khách quan của những ĐK
KT-XH ko thể hiện đc ý chí, nguyện vọng của ND thì PC sẽ ko đc chấp nhận.
- PL chỉ có hiệu lực thực sự khi dựa trên cơ sở vững chắc của PC.

- PC đc bảo đảm khi có HTPL hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và kịp thời.
- PC XHCN đc quy định bởi PL XHCN.
- Ko có PLXHCN thì ko thể có PCXHCN và ngược lại ko có PCXHCN thì PL cũng chẳng có ý nghĩa
gì.
Tăng cường PCXHCN trong giai đoạn hiện nay:
1/ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế.Đây là biện pháp cơ bản bao trùm,
xuyên suốt trong quá trình củng cố cà tăng cường pháp chế XHCN. Sự lãnh đạo của Đảng đề ra chiến lược tòan
diện về công tác pháp chế.
2. Đẩy mạnh công tác xây dựng và hòan thiện hệ thống pháp luật XHCN.Pháp chế chỉ có thể được củng
cố và tăng cường trên cơ sở của một hệ thống pháp luật ngày càng phát triển và hòan thiện, kịp thời thể chế hóa
12
các chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng. phản ảnh đúng những đặc điểm của kinh tế xã hội trong một
giai đoạn cụ thể.
3. Tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật.Đây là biện pháp lớn bao gồm nhiều mặt hoạt động, nhằm
đảm bảo cho pháp luật được tân trọng và thực hiện nghiêm chỉnh.
4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh những hành vi vi pham pháp luật.Đây là
biệp pháp nhằm bảo đảm cho pháp luật đuợc thực hiện nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật chỉ có thể thực hiện tốt khi có sự chỉ đạo
của Đảng, sự chủ động của các cơ quan thẩm quyền và sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân. Kết
hợp chặt chẽ kiểm tra giám sát trong Đảng với thanh tra của nhà nước, thanh tra nhân dân. Phát huy mạnh mẽ
vai trò trách nhiệm của cá đoàn thể chính trị xã hội, các cơ quan báo chí và quần chúng nhân dân dể làm tốt
công tác kiểm tra giám sát phòng chống tham nhũng.
13
Câu 7: Trình bày cấu trúc của quy phạm pháp luật. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật?
1. Khái niệm .
- Pháp luật XHCN là hệ thống các quy tắc xử sự chung do NN CHXHCN VN ban hành hoặc thừa nhận,
thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và được đảm
bảo thực hiện bằng bộ máy NN và phương thức tác động của NN, trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và cưỡng
chế của NN nhằm xây dựng chế độ XHCN.
- Quy phạm pháp luật là quy tắc sử dụng chung do NN ban hành và bảo đảm thực hiện thể hiện ý chí và

bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động để điều chỉnh các quan hệ XH theo định hướng nhất định.
2. Cấu trúc của quy phạm pháp luật là cơ cấu bên trong, là các bộ phận hợp thành của quy phạm
pháp luật.
Trong khoa học pháp lý có hai quan điểm về cấu trúc của quy phạm pháp luật.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: quy phạm pháp luật bao gồm ba bộ phận: giả định, quy định và chế tài.
Quan điểm thứ hai cho rằng bất kỳ quy phạm pháp luật nào cũng chỉ gồm hai bộ phận: những điều kiện
tác động của quy phạm pháp luật và hậu quả pháp lý. Hậu quả pháp lý có thể là phần quy định và cũng có thể là
phần chế tài.
Phần lớn các nhà nghiên cứu ủng hộ quan điểm thứ nhất.
a. Giả định: Là một bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu lên những hoàn cảnh, điều kiện có
thể xảy ra trong cuộc sống và cá nhân hay tổ chức nào ở vào những hoàn cảnh, điều kiện đó phải chịu sự tác
động của quy phạm pháp luật đó.
- Trong giả định của quy phạm pháp luật cũng nêu lên chủ thể nào ở vào những điều kiện, hoàn cảnh
đó.
Ví dụ: “người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm về an toàn giao thông
đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gật thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì
bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6
tháng đến 5 năm” (khoản 1, Điều 202 Bộ luật hình sự 1999), bộ phận giả định của quy phạm là: “người nào
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính
mạng hoặc gật thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác”.
Trường hợp khác, “con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con
chung của vợ chồng. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của
vợ chồng” (khoản 1, Điều 63 Luật hôn nhân gia đình 2000), bộ phận giả định của quy phạm là: “con sinh ra
trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó; con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và
được cha mẹ thừa nhận ”.
Bộ phận giả định của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Tổ chức, cá nhân nào? Khi nào? Trong
những hoàn cảnh, điều kiện nào?
- Giả định của quy phạm pháp luật có thể giản đơn (chỉ nêu một hoàn cảnh, điều kiện), ví dụ: “Người
có quốc tịch Việt Nam là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sau đây gọi là công dân Việt
Nam)” (khoản 1, Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam 1998); hoặc có thể phức tạp (nêu lên nhiều hoàn cảnh, điều

kiện), ví dụ: “Người nào dùng bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm” (khoản 1, Điều 247 Bộ luật hình sự 1999).
b. Quy định: là một bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu cách xử sự mà tổ chức hay cá nhân
ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã nêu trong bộ phận giả định của quy phạm pháp luật được phép hoặc buộc phải
thực hiện.
Bộ phận quy định của quy phạm pháp luật trả lời câu hỏi: Phải làm gì? Được làm gì? Không được làm
gì? Làm như thế nào?
Ví dụ: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” (Điều 57 Hiến pháp 1992), bộ phận
quy định của quy phạm là “có quyền tự do kinh doanh” (được làm gì).
Mệnh lệnh được nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật có thể dứt khoát (chỉ nêu một cách xử
sự và các chủ thể buộc phải xử sự theo mà không có sự lựa chọn.
Ví dụ khoản 1, Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định: “Khi việc kết hôn trái pháp luật bị
hủy thì hai bên nam nữ phải chấm dứt quan hệ vợ chồng”.
Cũng có những quy phạm cho phép lựa chọn (nêu ra 2 hoặc nhiều cách xử sự và cho phép các tổ chức
hoặc cá nhân có thể lựa chọn cho mình cách xử sự thích hợp từ những cách xử sự đã nêu.
ví dụ: Điều 12 Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định: “Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư
trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn.
14
Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công
dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài”.
c. Chế tài (ngành luật): là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác động mà
nhà nước dự kiến để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh.
- Các biện pháp tác động nêu ở bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật sẽ được áp dụng với tổ chức hay
cá nhân nào vi phạm pháp luật, không thực hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu ở bộ phận quy định của
quy phạm pháp luật.
Ví dụ: “Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo,
cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm” (khoản 1, Điều 121 Bộ luật hình sự
1999, bộ phận chế tài của quy phạm là: “…thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt
tù từ 3 tháng đến 2 năm”.

- Bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Hậu quả sẽ như thế nào nếu vi phạm pháp
luật, không thực hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật.
- Các biện pháp tác động mà nhà nước nêu ra trong chế tài pháp luật rất đa dạng, đó có thể là:
+ Thứ nhất, những biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính trừng phạt có liên quan tới trách nhiệm
pháp lý. Loại chế tài này gồm có:
Chế tài hình sự: Áp dụng các hình phạt (tù có thời hạn, tử hình,…)
Chế tài hành chính: Phạt vi phạm (tước giấy phép lái xe, phạt tiền, )
Chế tài dân sự: Phạt hợp đồng, bồi thường thiệt hại,…
Chế tài kỷ luật: khiển trách, buộc thôi việc,…
+ Thứ hai, chế tài có thể chỉ là những biện pháp chỉ gây ra cho chủ thể những hậu quả bất lợi như đình
chỉ, bãi bỏ các văn bản sai trái của cơ quan cấp dưới, tuyên bố hợp đồng vô hiệu và các biện pháp khác (tuyên
bố hợp đồng mua bán đất vô hiệu buộc các bên phải trả cho nhau tình trạng ban đầu, tuyên bố văn bản dưới luật
trái với luật,…)
- Chế tài quy phạm pháp luật có thể là cố định hoặc không cố định.
+ Chế tài cố định là chế tài quy định chính xác, cụ thể biện pháp tác động cần phải áp dụng đối với chủ
thể vi phạm quy phạm pháp luật đó.
+ Chế tài không cố định là chế tài không quy định các biện pháp tác động một cách dứt khoát hoặc chỉ
quy định mức thấp nhất và mức cao nhất của biện pháp tác động.
Ví dụ: “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật
từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo, cải
tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm” (khoản 1, Điều 106 Bộ luật hình sự 1999).
Việc áp dụng biện pháp nào? mức độ bao nhiêu là do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng lựa
chọn cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của vụ việc cần áp dụng.
- Cần phải nói thêm rằng, ngoài những biện pháp tác động gây hậu quả bất lợi cho chủ thể, nhà nước xã
hội chủ nghĩa còn dự kiến cả các biện pháp tác động khác mang tính khuyến khích để các chủ thể tự giác thực
hiện pháp luật (biện pháp khen thưởng cho chủ thể có thành tích trong việc thực hiện pháp luật).
Ví dụ: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, người tố cáo có
công trong việc ngăn ngừa thiệt hại cho nhà nước, tổ chức, cá nhân thì được khen thưởng theo quy định của
pháp luật ” (Điều 95 Luật khiếu nại tố cáo 1998), biện pháp tác động ở đây là: “thì được khen thưởng theo quy
định của pháp luật ”.

3. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật:
a. Khái niệm: (Điều 1 Chương 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành ngày
03/06/2008) Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức thể hiện của các quyết định pháp luật do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự và dưới hình thức nhất định, có chứa đựng các quy tắc xử sự chung
nhằm điều chỉnh một loại quan hệ xã hội nhất định, được áp dụng nhiều lần, trong thực tiễn đời sống và việc
thực hiện văn bản không làm chấm dứt hiệu lực của nó.
+ Văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành: không phải mọi văn
bản pháp luật đều là văn bản quy phạm pháp luật. VBQPPL được thực hiện theo 1 trình tự luật định.
+ VBQPPL là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung (mang tính quy phạm phổ biến).
+ VBQPPL được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội, áp dụng trong mọi trường hợp khi có sự
kiện pháp lý xảy ra.
b. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật:
(Điều 2 chương 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành ngày 03/06/2008)
1. Quốc hội: + Hiến pháp
15
+ Luật
+ Nghị quyết.
Hiến pháp là luật cơ bản, quy định những vấn đề cơ bản nhất của quốc gia.
Luật điều chỉnh các loại quan hệ trong đời sống nhà nước và xã hội.
Nghị quyết giải quyết những vấn đề cụ thể, nhất thời.
2. UBTVQH: + Pháp lệnh
+ Nghị quyết
Nhiều pháp lệnh mang tính chất luật, điều chỉnh quan hệ xã hội chưa được pháp điển hóa thành luật.
Nghị quyết giải quyết những vấn đề cụ thể.
3. Chủ tịch nước: + Lệnh
+ Quyết định
Có hiệu lực pháp lý gần như ngang với văn bản của UBTVQH, cao hơn các văn bản của Chính phủ và
các cơ quan khác ở trung ương.
4. Chính phủ: + Nghị quyết
+ Nghị định

Có hiệu lực pháp lý thấp hơn văn bản của Chủ tịch nước.
5. Thủ tướng Chính phủ: + Quyết định
+ Chỉ thị
Sử dụng quá trình điều hành Chính phủ.
6. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ: + Quyết định
+ Chỉ thị
+ Thông tư
Giới hạn trong phạm vi của 1 bộ, hoặc cùng các bộ, ban ngành, tổ chức xã hôi cùng thực hiện một vấn
đề chung.
7. Hội đồng thẩm phán TANDTC: + Nghị quyết
8. Viện trưởng VKSNDTC: + Quyết định
+ Chỉ thị
+ Thông tư
9. HĐND: + Nghị quyết.
10. UBND: + Quyết định
+ Chỉ thị
Hệ thống VBQPPL ở Việt Nam theo Hiến pháp 1992 và luật ban hành VBQPPL bao gồm:
- Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, luật, Nghị quyết.
- Văn bản do UBTVQH ban hành: Pháp lệnh, Nghị quyết.
- Văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thi hành VBQPPL của Quốc hội và
UBTVQH:
+ Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
+ Nghị quyết, nghị định của Chính phủ. Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
+ Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
+ Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC.
+Nghị quyết, chỉ thị, thông tư của Viện trưởng VKSNDTC.
+ Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giữa các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền với các tổ chức chính trị- xã hội.
- Văn bản do HĐND, UBND để thi hành VBQPPL của Quốc hội, UBTVQH và văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên. Văn bản do UBND ban hành còn để thi hàng Nghị quyết của HĐND cùng cấp.

+ Nghị quyết của HĐND.
+ Quyết định, chỉ thị của UBND.
Điều 2. Luật ban hành hệ thống văn bản pháp luật ngày 3/6/2008 quy định Hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật
1. Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
2. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
3. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
4. Nghị định của Chính phủ.
5. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
16
6. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao.
7. Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
8. Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
9. Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước.
10. Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương
của tổ chức chính trị - xã hội.
11. Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
12. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân.)
17
Câu 8: Pháp chế XHCN là gì? Các nguyên tắc, các biện pháp tăng cường pháp chế XHCN ở nước
ta hiện nay?
Điều 12 Hiến pháp 1992: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến
pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị

xử lý theo pháp luật.
1. Khái niệm pháp chế XHCN: Pháp chế XHCN là chế độ đặc biệt của đời sống chính trị – xã hội,
trong đó mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, nhân viên nhà nước, nhân viên của các tổ chức
xã hội và mọi công dân đều phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác. Mọi vi phạm
pháp luật đều bị xử lý theo các quy định của pháp luật.
Nội dung của pháp chế XHCN:
- Pháp chế XHCN là nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
- Pháp chế XHCN là nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị, chính trị xã hội.
- Pháp chế XHCN là nguyên tắc trong xử sự của công dân.
Ý nghĩa của pháp chế: pháp chế là điều kiện cơ bản để phát huy dân chủ.
2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp chế XHCN
- Tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và Luật.
- Đảm bảo tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc.
- Các cơ quan xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật phải
hoạt động một cách tích cực, chủ động và có hiệu quả.
- Nguyên tắc phải chịu trách nhiệm pháp lý bắt buộc khi vi phạm pháp luật (theo 4 loại vi phạm: Hình
sự, Hành chính, dân sự và vi phạm kỷ luật)
- Không tách rời pháp chế với văn hóa và văn hóa pháp lý.
3. Các biện pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
a. Ý nghĩa :
Tăng cường pháp chế XHCN trong cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay là nhằm thực hiện những mục tiêu của
công cuộc đổi mới về phát triển kinh tế, dân chủ hóa đời sống xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền, của dân,
do dân và vì dân, bảo đảm xây dựng xã hội dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh Cho
nên việc tăng cường nền pháp chế trong công cuộc đổi mới ở đất nước ta hiện nay là nhiệm vụ vừa cấp bách,
vừa lâu dài. Tăng cường pháp chế XHCN là vấn đề mang ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt.
- Đối với nhân dân : tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là điều kiện, biện pháp bảo đảm quyền dân
chủ của nhân dân, bởi vì các quyền dân chủ của công dân chỉ có thể được pháp luật quy định và được pháp luật
bảo vệ.
- Đối với nhà nước : nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, hiệu lực quản lý nhà nước được thể hiện
ở chổ pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất trong toàn xã hội

- Đối với Đảng : tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là biện pháp đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối
với nhà nước và xã hội, nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng bằng pháp luật, pháp
luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất, cũng chính là đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
được thực hiện trong thực tế.
b. Các biện pháp :
Tăng cường pháp chế XHCN là một trong những yêu cầu khách quan và cấp thiết của công cuộc đổi
mới toàn diện và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực đời sống XH hiện nay. Thông qua tăng cường pháp chế
XHCN, các quyền và tự do, lợi ích hợp pháp của công dân cũng như những thể chế dân chủ khác mới trở thành
thực tế đời sống. Tăng cường pháp chế cũng sẽ tác động trực tiếp đếm công cuộc cải cách và nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nươc. Nó cũng ngăn chặn và loại trừ những vị phạm pháp luật đặc biệt là tệ tham nhũng đang phổ
biến. Nó thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường phát triển năng động
và hiệu quả hơn. Trong giai đoạn hiện nay để tăng cường pháp chế XHCN, chúng ta phải thực hiện tốt một số
biện pháp như sau:
- Một là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế: Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
trong công tác pháp chế là nhân tố quyết định việc tăng cường pháp chế XHCN ở nước ta. Đảng lãnh đạo công
tác pháp chế nhưng không bao biện, làm thay cho cơ nhà nước mà sự lãnh đạo ấy thể hiện thông qua:
18
5-4
+ Đảng đề ra chủ trương, phương hướng xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp
luật trong từng thời kỳ của sự nghiệp đổi mới.
+ Đảng chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ là công tác pháp chế, giáo dục năng cao ý thức pháp luật cho
đảng viên.
+ Đảng kiểm tra các tổ chức Đảng và đảng viên chấp hành đường lối chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà nước; kết hợp chặt chẽ sự kiểm tra của Đảng với công tác thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân nhằm
phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, kịp thời xử lý đảng viên vi phạm pháp luật.
- Hai là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật: Pháp luật XHCN là cơ sở tiền đề của pháp chế
XHCN, vì vậy muốn tăng cường pháp chế XHCN phải xây dựng pháp luật đầy đủ và thành hệ thống, bảo đảm
cho tất cả hoạt động nhà nước đều dựa trên cơ cấu thích hợp và cơ chế chặt chẽ, bảo đảm cho tất cả các hoạt
động của công dân điều có pháp luật làm cơ sở.
Hiện nay hệ thống pháp luật của ta chưa hoàn chỉnh, có những nhóm quan hệ xã hội quan trọng nhưng

chưa được pháp luật điều chỉnh đầy đủ. Trong số các văn bản hiện hành có nhiều văn bản chồng chéo với nhau
hoặc đã lỗi thời. Công tác tập hợp hoá và pháp điểm hoá pháp luật tiến hành còn chậm.
Nghị quyết Đại hội XI đã nhấn mạnh rằng: “Xây dựng đồng bộ, nâng cao chất lượng và tổ chức thực
hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật,….đẩy mạnh cải cách lập pháp, hành pháp và tư pháp, đổi mới tư duy và
quy trình xây dựng pháp luật, nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật. Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hoàn thiện cơ chế để
tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Điều 12 hiến pháp 1992 quy định “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Để tạo tiền đề cho pháp chế XHCN, phải đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
bao gồm:
Một là thể chế hoá kịp thời đường lối chính sách của Đảng thành pháp luật;
Hai là quá trình xây dựng pháp luật phải xuất phát từ nhu cầu khách quan của các điều kiện kinh tế xã
hội ở thời điểm tồn tại của nó và công tác xây dựng pháp luật phải nhạy bén và khoa học;
Ba là phải có kế hoạch xây dựng phù hợp với mỗi giai đọan và mang tính khả thi cao, trong từng giai đọan
cần có trọng tâm, trọng điểm để ban hành các văn bản kịp thời đối với sự phát triển của các quan hệ XH. Đồng
thời cần tránh khuynh hướng chủ quan nóng vội muốn có ngay hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, từ đó dẫn đến
tình trạng pháp luật xa lạ với nhu cầu của XH; hoặc khuynh hướng bảo thủ trì trệ không thấy hết những nhân tốt
mới điều kiện mới, không nhận thức đúng vai trò của pháp luật dẫn đến chờ đợi hoặc dùng những biện pháp
khác để dẫn đến quan hệ XH.
Để thực hiện tốt các vấn đề này, Quốc hội phải đổi mới tiêu chuẩn đai biểu Quốc hội (am hiểu Hiến
pháp, pháp luật, nghị quyết và thực tiễn cuộc sống), tăng cường đại biểu hoạt động chuyên trách của Quốc hội,
bảo đảm đổi mới điều kiện làm việc của đại biểu Quốc hội trong hoat động lập pháp, có chiến lược xây dựng
pháp luật lâu dài, toàn diện, bảo đảm cơ chế giám sát, kiểm tra trước, sau của việc ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật, tăng cường chất lượng của cán bộ hoạt động lập pháp và lập quy, bảo đảm tính dân chủ rộng
rãi, thủ tục dễ dàng hơn trong hoạt động lập pháp, lập quy.
- Ba là tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống xã hội: Tổ chức thực hiện pháp luật
là biện pháp đặc biệt quan trọng để tăng cường pháp chế XHCN ở nước ta hiện nay. Biện pháp này gồm nhiều
hoạt động nhằm bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện, cụ thể là:

+ Tăng cường công tác cụ thể hoá luật, pháp lệnh để triển khai thực hiện nhanh chóng, có hiệu quả khắc
phục tình trạng chậm trễ trong việc cụ thể hoá luật, pháp lệnh:
Hiện nay tình trạng thường xuyên ở nước ta trong quá trình triển khai thi hành Luật là: Mặc dù Luật đã
có hiệu lực thi hành nhưng do nội dung quy định của Luật phần lớn là những quy định “khung”, do đó không
thể triển khai áp dụng ngay mà phải chờ các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ (Nghị định), các Bộ
(Thông tư, Thông tư liên tịch ), thậm chí có nơi còn phải chờ hướng dẫn của UBND tỉnh, thành phố và các Sở,
ngành Điều này tác động không tốt đến sự phát triển kinh tế - xã hội và cũng là nguyên nhân làm tính thống
nhất và tính kỷ cương của pháp luật chưa cao.
+ Tăng cường công tác giải thích pháp luật, làm sáng tỏ nội dung ý nghĩa của các quy định pháp luật để
mọi chủ thể hiểu và thực hiện đúng.
+ Tăng cường khả năng thông tin tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật bằng mọi biện pháp, hiểu
biết pháp luật, ý thức tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong cán bộ, quần chúng nhân dân.
19
5-5
5-7
+ Nâng cao ý thức pháp luật, năng lực pháp luật cho công viên chức nhà nước để áp dụng đúng pháp
luật trong quản lý nhà nước, quản lý XH. Kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục pháp luật XHCN. Chú trọng
công tác bồi dưỡng đào tạo năng lực pháp lý.
- Bốn là tăng cường công tác kiểm tra giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước Quốc hội, HĐND,
đặc biệt là hiệu quả giám sát của Quốc hội trong lập pháp và lập quy :
+ Để phát huy vai trò, vị trí của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội phải được kiện toàn, tổ
chức, đặc biệt là làm tốt chức năng giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, trước
mắt tập trung vào những vấn đề bức xúc như : sử dụng vốn và tài sản của nhà nước, chống tham nhũng, quan
liêu, vấn đề bắt giam, điều tra, truy tố, xét xử
+ Mặt khác để nâng cao hiệu quả giám sát, xử lý kịp thời các vi phạm hiến pháp và pháp luật trong hoạt
động của các cơ quan nhà nước trong thời gian Quốc hội không họp, cần phải có chương trình, kế hoạch giám
sát hàng năm của Quốc hội, tăng thẩm quyền cho UB thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của
Quốc Hội trong lĩnh vực giám sát. Về lâu dài cần thành lập Hội đồng giám sát Hiến pháp với chức năng và
quyền hạn giống như Tòa án Hiến pháp ở một nước, có nhiệm vụ xem xét và trình UB thường vụ Quốc hội khi
Quốc hội không họp, Quyết định về tính hợp Hiến của các văn bản pháp quy do Chính phủ, Chủ tịch nước, Toà

án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành trong thời gian Quốc hội không họp.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan hành chính nhà nước.
- Năm là tăng cường đấu tranh, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh những vi phạm pháp luật,
bảo đảm mọi vi phạm pháp luật không thoát khỏi bị xử lý. Bảo đảm nguyên tắc mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật. Xử lý đúng người đúng tội trước pháp luật, không thể xảy ra trường hợp bao che. Đẩy mạnh
cuộc đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng trong cơ quan nhà nước, tổ chức Đảng, xã hội.
- Sáu là tăng cường các hoạt động hỗ trợ tư pháp, giải quyết kịp thời các khiếu nại tố cáo của công
dân
Về công tác này, Nghị quyết ĐH IX đã xác định rõ một số giải pháp, đổi mới cụ thể như :
Một là cải cách, kiện toàn và nâng cao hoạt động của các cơ quan tư pháp theo nguyên tắc : nâng cao
tinh thần trách nhiệm, làm tốt các công tác điều tra, bắt giam, giữ, truy tố, xét xử, không để xảy ra những trường
hợp oan sai.
Hai là Viện kiểm sát nhân dân không thực hiện chức năng kiểm sát chung mà tập trung làm tốt chức
năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Ba là sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân, phân định thẩm quyền một cách hợp lý
Bốn là tổ chức lại các cơ quan điều tra theo nguyên tắc gọn đầu mối, có sự chỉ đạo tập trung thống nhất;
Kiện toàn cơ quan thi hành án và thành lập cảnh sát tư pháp; cải cách và kiện toàn các cơ quan bổ trợ tư pháp,
cơ quan quản lý hành chính tư pháp.
Kết luận :
“Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội
bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức” có vai trò hết sức quan trọng và cấp thiết
nhằm xây dựng một nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân - một trong những nhiệm vụ cơ
bản của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Hiểu rõ và làm tốt những biện
pháp tăng cường pháp chế, coi trọng giáo dục và nâng cao đạo đức xã hội mà Đảng và nhà nước đã xác định
chính là yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay
20
Câu 13: Trình bày nội dung pháp luật thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Nội dung này được quy định trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Ban hành ngày
20/04/2007 cuả UBTV QH gồm 6 chương và 28 điều
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Pháp lệnh này quy định những nội dung phải công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và
quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội
dung nhân dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là cấp xã), của cán bộ thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc (sau đây gọi chung là thôn), tổ dân phố, khu phố,
khối phố (sau đây gọi chung là tổ dân phố), của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của nhân dân trong
việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Điều 2. Nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cấp xã
1. Bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
2. Bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý kiến, quyết định, thực hiện và giám sát việc thực hiện
dân chủ ở cấp xã.
3. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
4. Công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã.
5. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
1. Nội dung công khai:
Điều 5. Những nội dung công khai
1. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán
ngân sách hằng năm của cấp xã.
2. Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt
bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết
và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.
3. Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân.
4. Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã;
các khoản huy động nhân dân đóng góp.
5. Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá đói, giảm nghèo; phương thức
và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp
thẻ bảo hiểm y tế.
6. Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp
tới cấp xã.
7. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã,
của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch

và Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.
8. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định
của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này.
9. Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp
thu.
10. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân
do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.
11. Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.
Điều 6. Hình thức công khai
1. Những nội dung quy định tại Điều 5 của Pháp lệnh này được công khai bằng các hình thức sau đây:
a) Niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã;
b) Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã;
c) Công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân.
2. Chính quyền cấp xã có thể áp dụng đồng thời nhiều hình thức công khai quy định tại khoản 1 Điều
này; thực hiện việc cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 32 của Luật phòng, chống tham nhũng.
2. Nội dung nhân dân bàn và quyết định.
Điều 10. Nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp
Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công
trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần
kinh phí và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật.
21
Điều 13. Những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết
1. Hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố.
2. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố.
3. Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
Điều 11. Hình thức nhân dân bàn và quyết định trực tiếp
1. Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp những nội dung quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh này bằng
một trong các hình thức sau đây:
a) Tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố;

b) Phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình.
Điều 14. Hình thức nhân dân bàn, biểu quyết
1. Nhân dân bàn và biểu quyết những nội dung quy định tại Điều 13 của Pháp lệnh này bằng một trong
các hình thức sau đây:
a) Tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố;
b) Phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình.
3. Nội dung để nhân dân tham gia ý kiến.
Điều 19. Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến
1. Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu
sản xuất; đề án định canh, định cư, vùng kinh tế mới và phương án phát triển ngành nghề của cấp xã.
2. Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ
đất của cấp xã.
3. Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã; chủ trương, phương án đền
bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư.
4. Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan
trực tiếp đến cấp xã.
5. Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.
Điều 20. Hình thức để nhân dân tham gia ý kiến
1. Họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố.
2. Phát phiếu lấy ý kiến cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình.
3. Thông qua hòm thư góp ý.
4. Những nội dung để nhân dân giám sát.
Điều 23. Những nội dung nhân dân giám sát
Nhân dân giám sát việc thực hiện các nội dung quy định tại các điều 5, 10, 13 và 19 của Pháp lệnh. Đó là:
những nội dung để dân biết, nội dung dân bàn và quyết định, nội dung dân tham gia ý kiến trước khi các cấp có
thẩm quyền quyết định.
Điều 24. Hình thức để thực hiện việc giám sát của nhân dân
1. Nhân dân thực hiện việc giám sát thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu
tư của cộng đồng.

Trình tự, thủ tục hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng được thực hiện theo
quy định của pháp luật.
2. Nhân dân trực tiếp thực hiện việc giám sát thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền hoặc kiến nghị thông qua Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên
của Mặt trận cấp xã, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
Trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật.
22

×