Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

TIỂU LUẬN THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THƯ VIỆN CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.61 KB, 48 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA ĐỊA LÝ
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học
Đề tài:
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THƯ VIỆN CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


Giảng viên hướng dẫn: Châu Văn Ninh
Nhóm nghiên cứu:
Họ và tên MSSV
Phạm Thị Aí 1356080001
Trần Thị Mai 1356080073
Trần Thị Bích Phưỡng 1356080105
Mai Thị Thanh Sương 1356080112
Phan Thị Tỉnh 1356080130
MỤC LỤC
1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài……………………………………………………………… 4
2.Giới hạn hay phạm vi nghiên cứu……………………………………………….4
3.Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………… 5
4.Nhiệm vụ………………………………………………………………………… 5
5.Ý kiến thực tiễn và giải pháp…………………………………………………… 5
6.Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………6
7.Tổng quan tình hình nghiên cứu……………………………………………… 6
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: THÔNG TIN THƯ VIỆN
I.Khái niệm………………………………………………………………………… 8
II.Nguồn gốc và vai trò của thư viện…………………………………………… 9


III.Mộtsố thư viện nổi tiếng trên thế giới…………………………………………14
IV.Một số thư viện ở Việt Nam……………………………………………………16
CHƯƠNG II: SINH VIÊN NHÂN VĂN SỬ DỤNG THƯ VIỆN
1.Số lượng sinh viên đã vào thư viện……………………………………………22
2.Mức độ thường xuyên vào thư viện………………………………………… 23
3.Lý do sinh viên vào thư viện……………………………………………………25
4.Việc đọc nội quy thư viện………………………………………………………27
5.Lý do mượn sách……………………………………………………………….28
2
6.Mục đích vào thư viện……………………………………………………… 29
7.Tài liệu thường xuyên được sinh viên sử dụng………………………………30
8.Sinh viên vào thư viện lúc nào……………………………………………… 33
9.Sách thư viện có đáp ứng được nhu cầu sinh viên không 34
10. Nơi sinh viên thường đọc sách……………………… …………………….35
11.Việc sử dụng các dịch vụ thư viện của sinh viên………………………… 36
12.Thời gian mở cửa của thư viện………………………………………………37
13.Thái độ của cán bộ quản lý thư viện……………………………………… 37
14.Đánh giá của sinh viên về điều kiện vật chất của thư viện……………… 39
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT……………………………………42
PHỤ LỤC
1.Bảng hỏi…………………………………………………………………………45
2.Tài liệu tham khảo…………………………………………………………… 50
PHẦN I: MỞ ĐẦU
3
1.Lí do chọn đề tài:
Hệ thống thư viện hiện nay ngày càng được mở rộng không chỉ ở các trường học
mà còn ở các xã, huyện, tỉnh trên khắp cả nước. Đặc biệt trong các trường đại học,
thư viện là nơi nắm giữ các nguồn tài nguyên trí tuệ phục vụ cho nhu cầu nghiên
cứu, giảng dạy và học tập của giáo viên, sinh viên, Và trong trường Khoa Học Xã
Hội và Nhân Văn ( Cơ sở Linh Trung – Thủ Đức), thư viện là nơi luôn được mở

rộng, nâng cấp với diện tích 1313 mét vuông với sức chứa 540 chỗ ngồi, gồm các
phòng: Phòng đọc tham khảo, phòng đọc tham khảo Hàn Quốc, trung tâm Hán học
Đài Loan, phòng mượn, phòng giáp trình, phong đọc báo – tạp chí, phòng tra cứu
dữ liệu, phòng tra cứu – Đa phương tiện, phòng đọc tự do, phòng thảo luận nhóm
và một lượng thông tin trên tài liệu giấy với 187252 bản sách, cơ sở dữ liệu trực
tuyến với 82617 biểu ghi, tài liệu điện tử với 3469 bản (tương ứng với 1968 tên tài
liệu), (theo thống kê của trung tâm thư viện trường Đại học Khoa Học Xã Hội và
Nhân Văn).Trên những điều kiện đó, thư viện trường Đại học Khoa Học Xã Hội
và Nhân Văn mong muốn tạo nên một môi trường tốt nhất để sinh viên học tập,
nghiên cứu. Nhưng trên thực tế, một số sinh viên trường Đại học Khoa Học Xã
Hội và Nhân Văn lại sử dụng thư viện không đúng mục đích cho phép như ngủ, ăn
uống, trò chuyện thỏa thích, sử dụng dịch vụ internet trong việc vui chơi
(facebook, game online, chat,…). Chính vì sự mâu thuẫn này, chúng tôi đã chọn đề
tài “Thực trạng sử dụng thư viện của sinh viên trường Đại học Khoa Học Xã Hội
và Nhân Văn” làm nghiên cứu.
2.Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Cơ sở 2, trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, khu phố 6, phường
Linh Trung, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích nghiên cứu
-Giúp nâng cao ý thức của sinh viên trong việc sử dụng thư viện cho đúng mục
đích.
4
-Tạo không gian thư viện lành mạnh, lịch sự, văn hóa.
4.Nhiệm vụ
-Khảo sát số lượng và thực trạng của sinh viên khi vào thư viện.
-Đánh giá mức độ thường xuyên và thái độ của sinh viên khi vào thư viện.
-Đề xuất giải pháp khắc phục và kiến nghị.
5.Ý nghĩa thực tiễn và giải pháp:
a.Ý nghĩa thực tiễn:
Giúp sinh nhận thức rõ việc sử dụng thư viện có hiệu quả nhất đồng thời tạo một

nét đẹp của sinh viên trong việc sử dụng thư viện.
Nâng cao chất lượng thư viện hơn trong việc truyền, lưu giữ thông tin cho sinh
viên.
b.Giải pháp:
- Tạo cho sinh viên cách sử dụng thư viện có hiệu quả bằng các lớp học hướng
dẫn sử dụng thư viện.
-Tổ chức các cuộc thi về thư viện (cách sử dụng,, ý thức,….)
-Quản lý thư viện chặc chẽ hơn, tăng cường nhắc nhở sinh viên nâng cao ý thức
sử dụng thư viện đúng mục đích.
-Tăng cường các đầu sách chuyên ngành và giải trí.
-Tổ chức lấy ý kiến đóng góp của sinh viên về việc sử dụng thư viện có hiệu quả
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng bằng cách thu thập dữ liệu
thông qua công cụ bảng hỏi.
Là phương pháp được sử dụng để lấy những thông tin trực tiếp của sinh
viên,nhằm hiểu biết được mức độ quan tâm của sinh viên về vấn đề nghiên cứu.
5
Bên cạnh đó đề tài còn sử dụng phương pháp thống kê mô tả và đưa ra kết quả
nghiên cứu.Từ kết quả nghiên cứu đề ra biện pháp khắc phục,cải cách ý thức sinh
viên đối với sử dụng thư viện.
7.Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Nhìn về mặt vĩ mô các vấn đề liên quan đến thư viện trong giai đoạn phát
triển như hiện nay. Sinh viên trong các trường Đại học có thể tiếp cận với nhiều
nguồn thông tin khác nhau: từ các giảng viên, từ các cuộc thảo luận, hội thảo khoa
học, từ các cơ sở thực nghiệm, từ thực tiễn xã hội và từ thư viện. Trong những
nguồn thông tin ấy, thông tin từ thư viện sẽ là quan trọng nhất, đầy đủ, toàn diện,
phong phú và đa dạng nhất. Thư viện trở thành nơi tìm đến của sinh viên tìm
hiểu,khai hác thông tin kiến thức, phục vụ cho nhu cầu học tập, nghiên cứu của họ.
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về nhìu vấn đề liên quan đến thư viện.
Đề tài khoa học thư viện “Giải pháp nguồn tin điện tử phục vụ công tác đào tạo

và nghiên cưú khoa học tại trường Đại học Ngoại Thương” của thạc sĩ Trần Thị
Kiều Phương hoàn thành vào tháng 11 năm 2011. Trên cơ sở khảo sát nguồn tin
điện tử của thư viên trường ĐH Ngoại Thương đề tài xác định được phương hướng
và xác định giải pháp nâng cao và phát triển nguồn tin điện tử của trường nhằm
phục vụ công tác học tập nghiên cứu cũng như học tập của sinh ciên và cán bộ
nhân viên trường.
Hay bài viết của thạc sĩ Lê Ngọc Oánh (2006), “Thư viện góp phần đổi mới
phương pháp giảng dạy và học tập ở bậc đại học”, Bản tin Thư viện – Công nghệ
thông tin Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TPHCM Bài viết bàn về vai trò, của
thư viên đối với nhà trường ngành giáo dục mục đích,chức năng, nhiệm vụ của thư
viện và các giải pháp nâng cao chất lượng thư viện trường học.
6
Bài viết “Thư viên đại học và việt đổi mới phương pháp học tập của sinh viên” của
Lê Quỳnh Chi được in trong tạp chí Khoa học Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí
Minh đăng ngày 07_9_2011.Bài viết nói về thư viện và việc đổi mới phương pháp
học tập của sinh viên, đưa ra nhiều phương pháp, thư viện tạo động cơ học tập,
hình thành thói quen tra cứu tham khảo tài liệu nhằm đổi mới phương pháp học tập
của sinh viên,từng bước hình thành kĩ thành kĩ năng đọc tài liệu, kĩ năng tìm kiếm,
khai thác nguồn thông tin đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp học tập. Thư viện
trường đại học là một nơi để sinh viên học tập nghiên cứu tham khảo tài liệu,
nghiên cứu.Là một môi trường rèn luyện không thể thiếu để sinh viên phát huy khả
năng độc lập tư duy, sáng tạo….
Nguyễn Thị Lan Thanh (2004), “Thư viện các trường đại học với việc nâng cao
chất lượng giáo dục đại học”, Tham luận tại Hội thảo “Đổi mới giáo dục đại học
Việt
Nam – Hội nhập và thách thức”, Hà Nội.Nói về vai trò của trường đại học với việc
nâng cao chất lượng nền giáo dục đồng thời đưa ra nhiều giải pháp nâng cao chất
lượng giáo dục ở Việt Nam….Tuy nhiên những đề tài nghiên cứu đó chỉ quan tâm
đến vai trò, định hướng phát triển thư viện.Những ảnh hưởng của thư viện đến nền
giáo dục đến sự phát triển của sinh viên chứ chưa tìm hiểu đến ý thức sử dụng của

sinh viên về sử dụng thư viện.
Ở góc độ vi mô, tại trường ĐHKHXH&NV cũng có những đề tài nghiên cứu của
sinh viên,…về vấn đề thư viện.Nhưng, vấn đề sử dụng thư viện của sinh viên chưa
được đề cập tới trong các tài liệu, nghiên cứu một cách rõ ràng và hệ thống.
Do đó, việc tìm hiểu và nghiên cứu để tìm ra các giải pháp, kiến nghị hữu hiệu để
nâng cao nhận thức của sinh viên về vấn đề sử dụng thư viện của sinh viên.
7
Các nội dung nghiên cứu trên, sẽ là những kiến thức căn bản và là nền tảng cho đề
tài nghiên cứu của chúng tôi được mở rộng và hoàn chỉnh những nội dung mà các
đề tài trước chưa tìm hiểu.
Phần II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: THÔNG TIN THƯ VIỆN
I. Khái niệm
1.1 Thư viện là gì?
Thư viện là nơi thông tin được tổ chức, nơi dễ dàng tìm thấy thông tin qúy vị
cần hoặc muốn. Thư viện chỉ có giá trị khi nó có thông tin và có người biến thông
tin trở nên hữu ích. Chúng ta có nhiệm vụ đảm bảo sự tiếp cận không hạn chế các ý
tưởng mà chúng ta thừa hưởng một cách hợp pháp, sau đó định hình và chuyển
giao cho thế hệ tiếp theo.
/> Định nghĩa mới nhất của UNESCO: Thư viện, không phụ thuộc vào tên gọi, là
bất kì bộ sưu tập có tổ chức của sách,báo, tài liệu các loại, ấn phẩm định kì Nhân
viên thư viện có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng tài liệu để nghiên cứu
thông tin, giáo dục & giải trí.
/>1.2 Thư viện số (thư viện trực tuyến là gì)?
Thư viện số hay thư viện trực tuyến là thư viện mà ở đó các bộ sưu tập được lưu
trữ dưới dạng số (tương phản với các định dạng in, vi dạng, hoặc các phương tiện
khác) và có thể truy cập bằng máy tính. Nội dung số có thể được lưu trữ cục bộ
8
hoặc truy cập từ xa qua mạng máy tính. Thư viện số là một loại hệ thống truy hồi
thông tin.

/>1.3 Thực trạng là gì?
Tình trạng là thực trạng có thật có thể phản ánh những tình trạng xấu ảnh
hưởng đến xã hội và cũng có thể là tình trạng mang tính tích cực.
http://www.từ-điển.com/thực trạng
II.Nguồn gốc và vai trò của thư viện
2.1 Nguồn gốc thư viện
Khoảng năm 290 TCN, pharaoh Ptolemy I Soter cho xây "Museion", trong đó
có một viện đại học, một viện hàn lâm và thư viện Alexandria với khoảng 400.000
cuộn (scroll) sách vào lúc bắt đầu hoạt động. Người ta thường ghi rằng thư viện chỉ
thực sự hoạt động dưới thời vua kế tiếp là Ptolemy II Philadelphus (285 - 246
TCN). Vua này đã định chỉ tiêu 500.000 cuộn sách cho Thư Viện.[1]
Theo nguồn tin xưa nhất, Bức thư của Aristeas (thế kỷ 2 TCN), Thư Viện vào
lúc đầu được tổ chức bởi Demetrius của Phaleron,[2] một môn đồ của triết gia
Aristotle, tức có thể là bạn học với pharaoh Ptolemy I Soter.
Có câu chuyện kể rằng: vua Ptolemy III Euergetes hạ lệnh rằng, ai đến
Alexandria có mang theo sách vở viết trên bất cứ chất liệu gì, bằng tiếng gì, theo
Galen (129 - 216), đều phải kê khai vào danh sách "sách tàu" (vì đi tàu đến); những
sách này đều được thư lại của nhà nước sao chép nhanh chóng. Có khi bản gốc
được đem vào Thư Viện, và bản sao giao lại cho "khổ chủ".
Trường hợp sách được viết bằng thứ tiếng khác thì ông cho dịch sang tiếng Hy
Lạp. Muốn dịch sách từ một thứ tiếng sang tiếng Hy Lạp, phải có người biết rành
cả hai thứ tiếng và có đủ trình độ hiểu biết về lãnh vực đề cập trong sách. Công
việc này hẳn đã động viên rất nhiều người trí thức đến từ nhiều nơi. Câu chuyện 72
giáo sĩ Do Thái giáo - mỗi bộ lạc của 12 bộ lạc Do Thái được đại diện bởi 6 vị giáo
9
sĩ - đã đóng cửa làm việc trong 72 ngày trên đảo Pharos để dịch Kinh Thánh Cựu
Ước sang tiếng Hy Lạp vẫn còn được lưu truyền đến ngày nay.
Vua Ptolemy III cũng rao mua sách từ khắp các nước mà ông biết đến, trong đó
có Rhodes và Athena.[3] Theo Galen, Ptolemy III Euergetes hỏi mượn người
Athena bản viết tay nguyên gốc của Aeschylus, Sophocles và Euripides; người

Athena đòi số tiền thế chân khổng lồ là 15 talent. Vua Ptolemy III giao đủ tiền,
nhưng giữ luôn sách lại, không thèm đổi lấy lại tiền thế chân.
Bằng những cách như vậy, Thư Viện dần dần có được đến 90.000 tài liệu được
coi là bản nguyên thủy.
Ban đầu, sách Thư Viện phần lớn là những cuộn giấy chỉ thảo (papyrus). Nhưng
ngày càng có thêm nhiều cuộn da thuộc, chất liệu thông dụng sau năm 300 TCN.
Người ta cho rằng Thư Viện thúc đẩy nhu cầu, khiến cho sách viết trên da thuộc
phát triển, vì nhà Ptolemy giữ giấy chỉ thảo dùng cho Thư Viện, nên xuất khẩu giấy
này rất ít, các xứ khác phải tìm tòi phát triển chất liệu khác để ghi chép lên.
Theo học giả Carl Sagan, Thư Viện có lúc có đến gần 1 triệu cuộn sách. Ngày
nay không còn thư mục nào tồn tại, nên khó biết thực hư ra sao. Nhiều học giả
đồng ý với con số xấp xỉ 700.000 cuộn sách trước vụ cháy năm 48 TCN. Vài trăm
ngàn cuộn sách có lẽ tương ứng với vài mươi ngàn tựa, vì nhiều tựa sách lại có
nhiều dị bản song song với nhau.
/>2.2 Vai trò của thư viện
2.2.1 Thư viện là động lực đóng góp vào việc đổi mới giáo dục, đào tạo nguồn
nhân lực
Trong trường đại học, thư viện góp phần đào tạo nguồn nhân lực có tri thức cho
đất nước, thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển sản xuất và các khoa học công nghệ.
Thư viện cung cấp cho xã hội những thông tin khoa học mới mẻ, đặc biệt là những
thành quả của các công trình nghiên cứu khoa học của cán bộ giảng viên và sinh
10
viên trong trường. Đây là dạng thông tin mang tính đặc thù và đôi khi là những
thông tin độc nhất, khó tìm thấy ở nơi khác.
Thư viện bổ sung và cập nhật những kiến thức mới, những phương pháp giảng
dạy tiên tiến làm cho việc học tập và giảng dạy thêm sinh động và hấp dẫn. Thư
viện mở rộng điều kiện học tập cho sinh viên cả về không gian, thời gian và các
lĩnh vực tri thức hơn so với khuôn khổ qui định về nội dung, chương trình và kế
hoạch đào tạo của nhà trường.
Công nghệ thông tin - truyền thông đang đưa đến một cuộc cách mạng giáo dục

- sư phạm thật sự, làm thay đổi nhiều khái niệm cơ bản của giáo dục, nghiên cứu
khoa học. Tại nhiều hội thảo bàn về vấn đề này, các ý kiến đã thống nhất hiệu quả,
tiện ích của áp dụng phương tiện thông tin hiện đại và công nghệ vi tính để soạn
giáo trình, dạy - học, khai thác các nguồn tư liệu trong dạy - học và nghiên cứu
khoa học. Tham gia quá trình ứng dụng công nghệ thông tin và Internet vào giảng
dạy - học tập, nghiên cứu khoa học, thư viện trở thành những trung tâm thông tin -
tư liệu thực sự, góp phần đắc lực biến thông tin thành tri thức bằng cách liên kết
các nguồn tài nguyên thông tin với nhau, đồng thời mở rộng khả năng đáp ứng nhu
cầu tin của mọi đối tượng qua sự hợp tác liên thông và chia sẻ nguồn lực thông tin
một cách nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm cả thời gian và vật chất cho người sử
dụng. Vai trò giáo dục, góp phần đào tạo nguồn nhân lực của cán bộ thư viện được
thể hiện rõ nét qua việc hướng dẫn, giảng dạy về các kỹ năng tìm kiếm và khai
thác thông tin để hỗ trợ cho người dùng tin khai thác hiệu quả nguồn thông tin sẵn
có.
2.2.2 Thư viện góp phần đổi mới phương pháp dạy - học, tạo môi trường tự học và
tự nghiên cứu, kích thích sự chủ động của người học
Mục tiêu quan trọng nhất đối với giáo dục đại học trong kỷ nguyên thông tin là
tạo ra những con người có khả năng tự định hướng học tập, tự học thường xuyên,
biết chọn lọc, xử lý thông tin và có khả năng sáng tạo tri thức, tự tin hội nhập vào
11
thị trường lao động “chất xám” quốc tế đầy tính cạnh tranh. Đây là xu thế tất yếu
trong xã hội thông tin.
Hoạt động giảng dạy, học tập thực chất là một quá trình truyền đạt và tiếp nhận
thông tin. Nếu giáo viên nắm bắt, cập nhật được những thông tin mới thường
xuyên và vận dụng phù hợp với quá trình giảng dạy thì bài giảng sẽ sinh động,
phong phú và đi sát với thực tế hơn. Nếu sinh viên tìm tài liệu, khai thác thông tin -
tư liệu hiệu quả thì chất lượng học tập và khả năng nghiên cứu khoa học sẽ được
nâng cao rõ rệt. Trong trường đại học, hoạt động khai thác thông tin đóng vai trò
tích cực vào việc nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới phương pháp dạy – học.
Phương pháp dạy và học mới đòi hỏi một số điều kiện tiên quyết cho phép người

học “phát huy nội lực” và người dạy “dạy cách phát huy nội lực”. Phương pháp
dạy - học mới sẽ rút ngắn thời gian giảng dạy lý thuyết trên cơ sở sinh viên được
cung cấp nguồn thông tin dồi dào trước khi lên lớp, tăng thời gian tự học của sinh
viên với sự trợ giúp của thư viện. Và cùng với học trò, người thầy lại tiếp thu
những kiến thức mà chính mình đang giảng dạy, nhìn nhận chúng qua lăng kính
của người học. Có thể nói đó là quá trình truyền thụ – tiếp thu kiến thức một cách
chủ động và có tính sáng tạo. Chính vì vậy, để thực hiện tốt sứ mệnh của mình,
người thầy không thể không đọc tài liệu, cập nhật và sử dụng thông tin. Cũng có
thể nói rằng, trường đại học sẽ không thể làm tốt nhiệm vụ đào tạo của mình nếu
không có vai trò đóng góp của thư viện.
Việc đào tạo bậc đại học chỉ thực sự có chất lượng khi hoạt động học tập của
sinh viên được thực hiện trong cả bốn môi trường: lớp học, thư viện, cơ sở thực
nghiệm và môi trường thực tế. Trong đó, thư viện có vai trò quan trọng trong việc
rèn luyện tính độc lập, sáng tạo của sinh viên. Người sinh viên phải học một cách
thông minh hơn, chủ động hơn qua việc phân tích, tổng luận những tài liệu tra tìm
được ở thư viện. Từ đó sẽ xóa bỏ lối học thụ động, khuyến khích việc tự học, tự
nghiên cứu, kích thích sự chủ động của sinh viên.
12
2.2.3 Vai trò của cán bộ thư viện đại học trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin của
người sử dụng
Trong tất cả các yếu tố góp phần làm tăng chất lượng, hiệu quả của hoạt động
quản lý và khai thác thông tin thư viện, yếu tố con người là quan trọng nhất và
mang tính quyết định. Cán bộ thư viện là cầu nối giữa nguồn tài nguyên thông tin
và người dùng tin. Chúng ta có thể nói một khiếm khuyết rất quan trọng của thư
viện đại học hiện tại là chưa chú trọng đúng mức tới việc hướng dẫn cụ thể sinh
viên phương pháp nghiên cứu, tìm tư liệu, cung cấp thông tin thư tịch để sinh viên
hứng khởi, ham thích trong công việc nghiên cứu.
Với vai trò đóng góp vào sự đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập tại
trường, cán bộ thư viện phải chủ động giới thiệu, cung cấp nguồn thông tin phong
phú, đa dạng. Đồng thời, cán bộ thư viện phải tạo môi trường thân thiện, thông

thoáng, chuyên nghiệp không chỉ bằng khả năng chuyên môn, nghiệp vụ giỏi mà
còn bằng khả năng giao tiếp tốt.
Các cán bộ thư viện ngày nay không thể chỉ bằng lòng là những người “thủ kho
giữ tài liệu” với phương châm “ vui vẻ, hòa nhã, nhiệt tình” mà còn phải là những
“ hoa tiêu” trong ”đại dương” thông tin; năng động, thạo nghề, có trình độ ngoại
ngữ, tin học để chỉ ra những tài liệu độc giả cần một cách nhanh nhất, chính xác
nhất. Bên cạnh đó, cán bộ thư viện phải luôn có ý thức trách nhiệm động viên, nuôi
dưỡng thói quen và sự hứng thú đọc sách cho sinh viên.
Để làm được điều này, nhà trường cần có một kế hoạch gửi các cán bộ thư viện
đi đào tạo lại, đào tạo mới không chỉ về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn cả về tin
học, ngoại ngữ bằng những khóa học ngắn hạn, dài hạn trong và ngoài nước. Đồng
thời, bổ sung những cán bộ trẻ có năng lực, có khả năng sáng tạo, có tâm huyết.
Ngoài các kiến thức về chuyên môn, ngoại ngữ, vi tính, người cán bộ thư viện còn
cần được đào tạo các kiến thức về tâm lý, kỹ năng giao tiếp… để biết vận dụng
13
khéo léo khả năng, trình độ của mình vào công việc và có những thái độ, cư xử
thích hợp với bạn đọc trong từng tình huống khác nhau.
Việc cán bộ thư viện biết cách cộng tác và tranh thủ sự ủng hộ của các cấp lãnh
đạo trong nhà trường và đội ngũ giảng viên là điều cơ bản nhất cho sự thành công
của các hoạt động thư viện. Cán bộ thư viện phải tìm những cơ hội để có quan hệ
mật thiết hơn với các giảng viên nhằm cung cấp thông tin, hỗ trợ họ trong công tác
nghiên cứu, giảng dạy và chính giảng viên lại là người cung cấp những thông tin
có giá trị để phát triển bộ sưu tập và các dịch vụ của thư viện.
Khi thiết lập được sự cộng tác tốt thì chắc chắn thư viện sẽ có một môi trường
làm việc thuận lợi. Công tác liên hệ tốt sẽ đưa giảng viên và sinh viên tham gia vào
các hoạt động của thư viện, chia sẻ, cảm thông với thư viện như chính người
“trong cuộc”.
/>luong-dao
III.Một số thư viện nổi tiếng trên thế giới
Thư viện Admont, Áo

Nằm trên dòng sông Enns thơ mộng, Admont là thư viện dành cho tu sĩ lớn nhất
thế giới. Xây dựng năm 1776, mái vòm thư viện được trang trí bằng những bức
bích họa của họa sĩ đại tài Bartolomeo Altomonte. Thư viện hiện lưu giữ hơn
200.000 đầu sách.
Thư viện Saint Gall, Thụy Sĩ
Thư viện được thành lập bởi Thánh Othmar, hiện nắm giữ bộ sưu tập sách cổ nhất
Thụy Sĩ với 2.100 bản thảo từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 15. Thư viện mạng
phong cách kiến trúc Rococo, do kiến trúc sư Peter Thumb thiết kế.
Thư viện Wiblingen, Đức
Wiblingen được xây dựng năm 1093. Ngày nay tu viện được trưng dụng làm Khoa
Y học của Đại học Ulm. Thư viện nằm trong tu viện này đặc biệt nổi tiếng với kiến
14
trúc đặc trưng của thế kỷ 18 và được mở cửa thường xuyên phục vụ người dân đến
tham quan và tra cứu tư liệu.
Thư viện tòa thánh Vatican
Thư viện Tòa Thánh Vatican được coi là một trong những thư viện lâu đời nhất thế
giới có niên đại từ thời giáo hoàng đầu tiên lên ngôi. Thư viện chứa nhiều tài liệu
bí mật của tòa thánh và được trùng tu lần mới nhất là vào năm 2010.
Thư viện của tu viện Melk, Áo
Được thành lập vào năm 1089, tu viện của dòng tu Benedictine Melk đã hoạt động
hơn 900 năm mà chưa từng bị gián đoạn. Thư viện trong tu viện là một căn phòng
làm bằng đá cẩm thạch vô cùng ấn tượng, được trang trí bởi những bức bích họa
nổi tiếng của họa sĩ Paul Troger, có thể nhìn ra sông Danube.
Thư viện Bảo tàng Morgan, New York
Pierpont Morgan (1837 - 1913) là một chuyên gia tài chính có ảnh hưởng ở New
York và cũng là một nhà sưu tập lớn mà bằng chứng là những bảo tàng và thư viện
do ông thành lập. Thư viện hiện lưu giữ rất nhiều tài liệu quý giá như Kinh Thánh
Gutenberg, bản thảo Symphony của nhà soạn nhạc nổi tiếng Mozart hay thư tín của
Oscar Wilde.
Thư viện của lâu đài Fontainebleau, Pháp

Thư viện của lâu đài Fontainebleau có thể coi là tổ tiên của thư viện quốc gia Pháp,
được thành lập vào năm 1808 nhưng theo thiết kế từ năm 1786. Ngay từ khi thành
lập, thư viện đã có 4.500 cuốn sách liên quan đến lịch sử, địa lý và khoa học.
Thư viện Chethams, Manchester, Anh
Thư viện Chethams là một trong những thư viện lâu đời nhất nước Anh, được
thành lập năm 1653 hiện phục vụ cho sinh viên nghiên cứu học tập. Thư viện chứa
hơn 100.000 cuốn sách, trong đó 60.000 cuốn xuất bản trước năm 1851.
Thư viện Bảo tàng Victoria và Albert, London, Anh
15
Thư viện này nằm trong Bảo tàng Victoria và Albert ở London, là công trình được
xây dựng dành riêng cho nghệ thuật trang trí và nằm trong khu phố South
Kensington.
Thư viện Alexandrina, Ai Cập
Được xây dựng để ghi nhớ sự tồn tại của thư viện cổ Alexandria, thư viện mới
được khánh thành vào năm 2002 sau 7 năm xây dựng tại chính khu đất cũ của thư
viện cổ Alexandria. Thư viện có thể lưu trữ đến 5 triệu cuốn sách.
/>gioi-2884
IV. Thư viện ở Việt Nam
4.1 Một số thư viện lớn
Thư viện Quốc Gia Hà Nội là thư viện Quốc gia lớn nhất cả nước, nằm trên phố
Tràng Thi. Được thành lập năm 1919, thư viện lúc đó có tên là thư viện Pierre
Pasquier. Năm 1939, thư viện chứa 92.163 cuốn sách, chiếm 20% số lượng sách tại
Việt Nam có lúc đó.
Sau 1954, thư viện được đổi tên thành thư viên trung tâm. Ngày 26/6/1957, đổi
tên thành thư viên Quốc gia.
Hàng năm thư viện Quốc gia luôn tiếp nhận sách mới sản xuất tại Việt Nam và
nước ngoài. Tổng số sách trong thư viện lên đến hơn một triệu cuốn sách, hơn 7
tạp chí, báo của Việt Nam và nước ngoài. Các luận văn tiến tiến sĩ và thạc sĩ của
các nhà khoa học Việt Nam đều được giữ ở đây. Thư viện Quốc gia thường xuyên
trao đổi sách với hơn 300 thư viện, các viện nghiên cứu lớn của hơn 100 nước trên

thế giới và là thành viên của Hiệp hội Thư viện Quốc tế.
Thư viện Quốc gia đã lưu trữ hàng trăm cuốn sách quý từ khắp nơi trên thế giới.
Thư viện lưu giữ sách theo các chủ đề lớn về đời sống, kinh tế, khoa học, lịch sử,
và kĩ thuật.
16
Các thư viện khác ở Hà Nội là thư viện Khoa học và Kĩ thuật, thư viện Khoa học
xã hội (26 Lý Thường Kiệt), thư viện Quân Đội (phố Lý Nam Đế) và thư viện Hà
Nội (47 Bà Triệu)
/>gia-3476.html
Thư viện khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
Phòng có kích thước lớn nhất trong các phòng phục vụ của thư viện, có hơn 400
chỗ ngồi.
Phục vụ cho bạn đọc đến nghiên cứu và học tập. (Tầng 1)
Trang thiết bị:
02 máy tính dành cho bạn đọc tra cứu CSDL của Ngân hàng Thế Giới.
04 máy tính cho bạn đọc tra cứu cơ sở dữ liệu của Thư viện
Với hơn 20.000 bản, sách được xuất bản từ năm 2007 trở lại đây, thuộc các lĩnh
vực KHTN, KHKT, KHXH, TPVH, sách tham khảo. Gồm các ngôn ngữ: Việt,
Anh, Trung hoa, v.v
Từ điển chuyên ngành
Sách tiếng Anh của Quỹ Châu Á
Góc Thông tin Ngân hàng thế giới
thuvienkhth.blogspot.com
4.2 Thư viện trường Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh
4.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Thư viện Đại học KHXH & NV TP. HCM có lịch sử hơn 53 năm. Tiền thân là
thư viện trường Đại học Văn Khoa thuộc Đại học Sài Gòn(thành lập năm 1955),
phục vụ cho công tác đào tạo 7 ngành: Văn chương Việt Nam, Hán Nôm, Lịch sử,
Địa lý, Triết học, Anh văn, Pháp văn.
17

Tháng 04/1977 Thư viện trường Đại học Văn Khoa hợp nhất với thư viện trường
Đại học Khoa Học thành thư viện trường Đại học Tổng hợp TP HCM phục vụ cho
công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học cơ bản lớn nhất ở các tỉnh phía Nam.
Vào tháng 03/1996, nhằm đổi mới, sắp xếp lại mạng lưới các trường Đại học
trên phạm vi cả nước, theo quyết định 1233/GD–ĐT ngày 30/03/1996 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo, trường Đại học KHXH & NV được thành lập (tách
ra từ trường Đại học Tổng hợp TP HCM), là trường thành viên của Đại học Quốc
Gia TP HCM. Trên cơ sở này, Thư viện được tách ra từ thư viện Đại học Tổng hợp.
Từ năm 1997 đến nay, thư viện phục vụ theo hướng mở, tiến hành tin học hóa
thư viện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên, nghiên cứu sinh, sinh viên
tiếp cận dễ dàng vốn tài liệu – nguồn lực thông tin của thư viện.
Hiện nay Thư viện ĐHKHXH & NV là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu tổ
chức của trường Đại học KHXH & NV - Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
(ĐHQG TP HCM). Thư viện giữ một vị trí quan trọng trong việc góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo tại 14 khoa và 8 bộ môn trực thuộc trường với 31 ngành
khác nhau thuộc các lĩnh vực KHXH & NV. Vốn tài liệu – nguồn lực thông tin của
thư viện được bổ sung và cập nhật theo các chuyên ngành đào tạo của trường và đã
đáp ứng được một phần nhu cầu ngày càng tăng lên của cán bộ, giảng viên, học
viên cao học, nghiên cứu sinh và sinh viên của trường. Đồng thời vốn tài liệu -
nguồn lực thông tin của thư viện cũng thu hút được sự chú ý của nhiều cán bộ
thuộc cơ quan đơn vị khác trong và ngoài thành phố Hồ Chí Minh.
Thư viện phục vụ các bậc đào tạo Đại học về các ngành: Triết học, Ngữ văn,
Báo chí, Lịch sử, Địa lý, Thư viện – Thông tin học, Đông phương học, Xã hội học,
Giáo dục học, Việt Nam học, Ngữ văn Anh, Ngữ văn Pháp, Ngữ văn Nga, Ngữ văn
Trung Quốc, Ngữ văn Đức, Văn hóa học, Nhân học, Quan hệ quốc tế.
Bên cạnh đó vốn tài liệu - nguồn lực thông tin của thư viện phục vụ đắc lực cho
các bậc đào tạo cao học về các ngành: Văn học Việt Nam; Ngôn ngữ học so sánh;
18
Ngôn ngữ Nga – Slave; Lịch sử Việt Nam; Dân tộc học; Địa lý học; Bảo vệ, sử
dụng hợp lý và tái tạo tài nguyên thiên nhiên; Triết học; Giảng dạy tiếng Anh; Xã

hội học; Khoa học Thư viện – Thông tin.
Ngoài ra thư viện cũng giữ vai trò quan trọng trong việc phục vụ đào tạo bậc
tiến sĩ về các ngành: Ngôn ngữ học so sánh; Lý thuyết và lịch sử văn học; Ngôn
ngữ Nga – Slave; Lịch sử Việt Nam; Lịch sử cận hiện đại; Dân tộc học; Lịch sử
triết học; Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
4.2.2. Chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu
Chức năng:
Thư viện là trung tâm thông tin, trung tâm văn hóa, khoa học của trường ĐH
KHXH & NV. Thư viện có chức năng cung cấp tri thức và thông tin – tu liệu về
các lĩnh vực KHXH & NV trong và ngoài nước, phục vụ hoạt động đào tạo, nghiên
cứu khoa học của trường. Thư viện có trách nhiệm tổ chức, quản lý, bổ sung, thu
thập, bảo quản các tài liệu, sách, báo, tạp chí, băng, đĩa, các luận án đã bảo vệ tại
trường, các ấn phẩm của trường và các tài liệu lưu trữ khác, hướng dẫn và quản lý
công tác quyền sở hữu trí tuệ của trường.
Nhiệm vụ:
Nghiên cứu đề xuất phương hướng, chủ trương, kế hoạch phát triển nguồn tài
nguyên thông tin về các lĩnh vực KHXH & NV trong và ngoài nước phù hợp với
nhiệm vụ đào tạo và NCKH của trường ĐH KHXH & NV đồng thời chịu trách
nhiệm bảo quản nguồn tài nguyên thông tin đó.
Tổ chức cho đội ngũ giảng viên, cán bộ công nhân viên, nghiên cứu sinh, học
viên cao học, sinh viên của trường khai thác, sử dụng thuận lợi và có hiệu quả
nguồn tài nguyên thông tin do thư viện quản lý:
- Tổ chức kho mở theo môn loại tri thức, phân loại và sắp xếp tài liệu theo
từng chuyên ngành khoa học - công nghệ;
19
- Xây dựng và hoàn thiện bộ máy tra cứu điện tử để bạn đọc - người dùng
tin tìm tài liệu nhanh chóng;
- Thông báo kịp thời những tài liệu mới, nguồn tin mới;
- Tổ chức các hình thức tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi các tài liệu, sách
báo, tạp chí, các nguồn tin điện tử;

- Tổ chức các CSDL giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ đào tạo theo học
chế tín chỉ.
- Biên soạn các loại hình thư mục, ấn phẩm thông tin phục vụ công tác
nghiên cứu khoa học, đào tạo và tự học;
- Tổ chức hệ thống các phòng phục vụ: phòng đọc sách, báo - tạp chí tại chỗ,
phòng mượn, phòng tra cứu dữ liệu, phòng đọc đa phương tiện, phòng đọc tài liệu
hạn chế
Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và nghiên cứu những vấn đề lý luận của công
tác thư viện - thư mục - thông tin trong nước và ngoài nước để góp phần xây dựng
lý luận thư viện học, thư mục học và thông tin học của Việt Nam.
Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ thư viện trở thành các chuyên
gia thông tin; chủ động thường xuyên tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, công nghệ thông tin cho cán bộ thư viện để không
ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ.
Đặt quan hệ đối ngoại với thư viện các nước để trao đổi tài liệu, kinh nghiệm
chuyên môn nghiệp vụ. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với thư viện
đại học nước ngoài.
Có trách nhiệm phối hợp, hợp tác tốt về mặt nghiệp vụ với các thư viện, Trung
tâm thông tin lớn ở trung ương như Viện Thông tin KHXH VN, Trung tâm thông
tin KH&CN quốc gia và Liên hiệp Thư viện các trường đại học; liên thông với hệ
thống thông tin-thư viện của cả nước.
20
Thu nhận những ấn phẩm do trường xuất bản, các luận văn cao học, luận án tiến
sĩ được bảo vệ tại trường hoặc người viết luận văn, luận án là cán bộ của trường.
Kiểm kê tài liệu theo định kỳ hàng năm.
Phối hợp chặt chẽ với các Khoa, các phòng ban chức năng trong trường để hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Mục tiêu:
Đảm bảo Thư viện hoạt động theo chiến lược phát triển chung của Nhà trường
và được quản lý một cách khoa học, hiệu quả và có trách nhiệm.

Phát triển và duy trì các chính sách và kế hoạch hướng tới người sử dụng và lấy
người sử dụng thư viện làm trung tâm.
Phát huy tối đa khả năng và tiềm lực của các cán bộ thư viện để họ có thể làm
việc một cách hiệu quả, có trách nhiệm và sáng tạo.
Sử dụng thích hợp, thành thạo và sáng tạo chuyên môn nghiệp vụ thư viện.
Duy trì và phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị thư viện nhằm phát huy tối đa
hiệu quả và hiệu suất phục vụ để cung cấp và phân phối các dịch vụ thông tin.
Hỗ trợ và mở rộng quá trình dạy và học thông qua việc phân phối và đẩy mạnh
việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực thông tin.
Cung cấp môi trường thông tin phong phú, đa dạng để hỗ trợ và khuyến khích
tốt nhất cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Đẩy mạnh vị thế và danh tiếng của trường đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn
– ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh thông qua sự đa dạng của các sản phẩm và dịch
vụ thông tin thư viện, sự hợp tác với các tổ chức ở trong và ngoài nước và sự đóng
góp của các cán bộ thư viện cho xã hội.
/>CHƯƠNG II: SINH VIÊN NHÂN VĂN SỬ DỤNG THƯ VIỆN
21
Bảng: Tương quan về giới tính trong 100 người vào thư viện
Giới tính
Tần
số
Phần
trăm
Phần
trăm
hợp lệ
Phần
trăm
tích
lũy

Giá trị
Nam 34 34.0 34.0 34.0
Nữ 66 66.0 66.0 100.0
Tổng 100 100.0 100.0
Qua bảng thì trong số 100 người được hỏi thì có 34 nam và 66 nữ.
1.Số lượng sinh viên đã vào thư viện
: Kết quả thu thập được như sau:
Bảng: Số lượng sinh viên đã vào thư viện:
Đã vào thư viện
Tần suất Phần
trăm
Giá trị
phần
trăm
Phần trăm
tích lũy
Giá
trị
Có 86 86.0 86.0 86.0
Không 14 14.0 14.0 100.0
Tổng 100 100.0 100.0
Từ kết quả trên cho thấy số lượng sinh viên đã vào thư viện là 86 bạn chiếm
86% chiếm đa số. 14 bạn chưa vào thư viện chiếm 14%.
2.Mức độ thường xuyên vào thư viện
Bảng: Mức độ thường xuyên vào thư viện của sinh viên:
Mức độ vào thư viện
22
Tần suất Phầntrăm Giá trị
phần
trăm

Phần trăm
tích lũy
Giá
trị
Thường
xuyên
14 14.0 16.7 16.7
Thờng 20 20.0 23.8 40.5
Thỉnh
thoảng
42 42.0 50.0 90.5
Hiếm
khi
8 8.0 9.5 100.0
Tổng 84 84.0 100.0
Tổng 16 16.0
Tổng 100 100.0
Biểu đồ thể hiện mức độ thường xuyên mượn sách thư viện của sinh viên
trường ĐHKHXH & NV :
Từ kết quả trên, trong tổng số 84 bạn vào thư viện có 14 bạn thường xuyên vào
thư viện, chiếm 16,3%. 20 bạn thường vào thư viện, chiếm 23,8%. 42 bạn thường
và thư viện, chiếm 50% và 8 bạn hiếm khi vào thư viện, chiếm 9,5%.
23
Trường đại học sẽ không thể làm tốt nhiệm vụ đào tạo của mình nếu không có
vai trò đóng góp của thư viện. Đặc biệt trường ĐHKHXH & NV là trường học theo
hệ thống tín chỉ, thời gian sinh viên lên lớp rút ngắn đi nhiều, chủ yếu là thời gian
sinh viên tự học tập. Hơn nữa, những tiết học trên lớp chỉ là thời gian giảng viên
hướng dẫn sinh viên nghiên cứu, đọc sách… Chính vì vậy, vào những tiết tự học
thì thư viện là lựa chọn hàng đầu của sinh viên. Việc đào tạo bậc đại học chỉ thực
sự có chất lượng khi hoạt động học tập của sinh viên được thực hiện trong cả bốn

môi trường: lớp học, thư viện, cơ sở thực nghiệm và môi trường thực tế. Trong đó,
thư viện có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tính độc lập, sáng tạo của sinh
viên. Người sinh viên phải học một cách thông minh hơn, chủ động hơn qua việc
phân tích, tổng luận những tài liệu tra tìm được ở thư viện. Từ đó sẽ xóa bỏ lối học
thụ động, khuyến khích việc tự học, tự nghiên cứu, kích thích sự chủ động của sinh
viên.
Có thể, trên giảng đường, sinh viên đi học một cách uể oải, gượng ép để… điểm
danh! Nhưng khi bước chân vào thư viện bạn sẽ thấy mọi người lên thư viện đều là
tự nguyện, xuất phát từ niềm đam mê đọc sách và ham tìm tòi, nghiên cứu… Đến
đó, thấy mọi người học hành nghiêm túc, chăm chỉ, say sưa… Và tự nhiên sinh
viên được tiếp thêm một nguồn động lực để học tập. Có nhiều người không lên để
đọc sách mà để tìm cảm hứng học tập ở đây.
3.Lý do sinh viên không vào thư viện
Bảng: Lý do sinh viên không vào thư viện:
Lý do sinh viên không vào thư viện
Tần suất Phần
trăm
Giá trị
phần
trăm
Phần trăm
tích lũy
Giá trị không có 8 8.0 57.1 57.1
24
thời gian
không
gian
không
thỏai mai
6 6.0 42.9 100.0

Tổng 14 14.0 100.0
Hệ thống bị thiếu 86 86.0
Tổng 100 100.0
Qua kết quả điều tra cho thấy có 14/100 bạn sinh viên chưa vào thư viện. Trong
đó có 8 bạn cho rằng không có thời gian, chiếm 57,1%. 6 bạn cho rằng không gian
không thoải mái, chiếm 42,9%.
Lên thư viện một số bạn sinh viên cảm thấy gò bó, thiếu năng động. Một ngày sẽ
tẻ nhạt biết bao nếu sinh viên chỉ biết cắp cặp lên thư viện, ngồi đọc sách cả ngày
rồi lại cắp cặp về. Vì thế, sinh viên cần lên kế hoạch lên thư viện hợp lí, không cần
phải lúc nào cũng chăm chăm lên đó đọc sách.
Một số sinh viên ngày nay không mấy mặn mà, hứng thú với việc đọc sách,
nghiền ngẫm những cuốn sách, tài liệu trên thư viện…Sự phong phú, tràn ngập của
vô số kênh thông tin trên mạng Internet, trên truyền hình… đã làm cho họ không
còn đủ sự kiên nhẫn để tìm kiếm những cuốn sách hay, những tư liệu tốt. Sinh viên
ngày nay có rất nhiều phương tiện thông tin giải trí khác ngoài việc học. Nhiều bạn
sinh viên mất hàng giờ ngồi trong quán Game – Internet vì cho rằng ở đó không
gian thoải mái hơn. Nhờ tính cập nhật, nhanh và giao diện bắt mắt kèm theo những
hình ảnh minh họa độc đáo mà các phương tin thông tin ngày nay được giới trẻ rất
ưa chuộng. Họ lên mạng Internet tìm kiếm thông tin, đápứng nhu cầu giải trí.
Nhiều sinh viên thường chỉ có thói quen tìm kiếm những thông tin giải trí, mà
không tận dụng được hết những tiện ích, những mặt tích cực của Internet đem lại
25

×