Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG Ở VÙNG THAN QUẢNG NINH VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.07 KB, 24 trang )

I. MỞ ĐẦU

Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên là một trong những nhân tố để thúc đẩy
nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia trên thế giới. Nước ta là một trong những
nước có trữ lượng tài nguyên khoáng sản vào loại lớn và đa dạng trên thế giới.
Tuy nhiên lượng khoáng sản này lại nằm rải rác trong các khu vực với trữ lượng
nhỏ nên không kinh tế trong việc khai thác. Đồng thời, việc khai thác khoáng sản
đã và đang để lại những hệ lụy về môi trường, một phần lý do là do quy mô khai
thác nhỏ khiến cho việc đầu tư công nghệ không lớn, dẫn đến hiệu suất khai thác
thấp mà môi trường bị ảnh hưởng nặng nề. Bên cạnh việc đổ thải ra một lượng
chất thải rắn khổng lồ thì vấn đề ô nhiễm bởi các kim loại nặng và các tác nhân
hóa học là một vấn đề hết sức nghiêm trọng hiện nay.
Trong tự nhiên có khoảng hơn 70 kim loại nặng, đó là các kim loại có tỷ khối lớn
hơn 5 gam/cm
3
. Kim loại nặng có hầu hết trong các mỏ khoáng sản với hàm lượng
khác nhau, tùy thuộc vào từng loại khoáng sản và từng vùng địa chất khác nhau.
Trong các kim loại nặng thì chỉ có một số nguyên tố là cần thiết cho các sinh vật ở
một ngưỡng nào đấy, chúng là các nguyên tố vi lượng như: Cu, Zn, Mn, B, Mo,
Đa số các kim loại nặng với đặc tính bền vững trong môi trường, khả năng gây
độc ở liều lượng thấp và tích lũy lâu dài trong chuỗi thức ăn, được thế giới xem là
một chất thải nguy hại.
1
Tuy nhiên khả năng gây độc của các kim loại nặng hoàn toàn phụ thuộc vào trạng
thái tồn tại của chúng. Theo nguyên lý bảo toàn vật chất thì vật chất không tự
nhiên sinh ra và không tự nhiên mất đi mà chúng chỉ chuyển hóa từ dạng này sang
dạng khác. Trong hoạt động khai thác khoáng sản con người đã làm biến đổi trạng
thái tồn tại của các kim loại nặng, chuyển chúng thành các dạng ion tự do đi vào
môi trường nước hoặc các hạt bụi có kích thước nhỏ bé trong không khí đã và
đang làm suy giảm chất lượng môi trường.
Việc khai thác khoáng sản hầu hết ở các mỏ kim loại, về kỹ thuật chưa được chú


ý, đa số áp dụng hệ thống khai thác lộ thiên với công nghệ ôtô - máy xúc. Đây là
loại hình công nghệ cổ điển, giá thành cao. Các thông số kỹ thuật của hệ thống
khai thác và vận tải không đảm bảo. Từ khi có chủ trương khai thác mỏ nhỏ, khai
thác tận thu, hàng loạt các công trường khai thác thủ công mọc lên như khai thác
vàng, đá quý, thiếc, mangan, sắt, In-me-nhít Phương pháp khai thác thủ công
hầu như không có cơ sở khoa học về công nghệ. Một số xí nghiệp khai thác cơ
giới cũng chuyển sang khai thác thủ công như mỏ thiếc Tĩnh Túc, Sơn Dương,
Bắc Lũng, Crômit Cổ Định, do cạn kiệt tài nguyên hoặc do quy mô khai thác
giảm, không chịu nổi chi phí của khai thác cơ giới. Phương pháp khai thác thủ
công và bán cơ giới đã tác động xấu đến môi trường sinh thái và gây lãng phí tài
nguyên. Chính vì những lý do trên chúng tôi xin lựa chọn chủ đề ''ô nhiễm kim
loại nặng và các tác nhân hóa học tại các vùng khai thác khoáng sản''. Tiểu luận
này chọn khu mỏ than Quảng Ninh để phân tích, chứng minh cho vấn đề đó.
2

II. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Công nghệ, thiết bị tuyển quặng
Chúng tôi xin nêu ví dụ bằng công nghệ khai thác titan ở miền trung nước ta. Do
đặc điểm các thân quặng nằm lộ thiên hoặc bị phủ dưới lớp cát mỏng, nên công
nghệ khai thác ở hầu hết các khu mỏ là lộ thiên, không nổ mìn, tuyển thô bằng vít
đứng.
Công nghệ tuyển thô sa khoáng là tuyển trọng lực trên hệ thống tuyển vít xoắn,
tuyển côn và bàn đói. Tùy thuộc vào qui mô và công nghệ sử dụng, cụm vít xoắn
thường có từ 4-12 vít đặt trên bè, trên bờ hoặc xưởng cố định.
Thiết bị khai thác chủ yếu là máy xúc, súng thủy lực. Thiết bị vận chuyển quặng là
ô tô tự đổ, thải cát bằng hệ thống bơm cát và đường ống hoặc vận chuyển quặng
và thải cát bằng hệ thống bơm cát và đường ống. Thiết bị tuyển khoáng là hệ
thống vít đứng cố định hoặc di chuyển theo moong khai thác. Dây chuyền thiết bị
tuyển là dây chuyền bán tự động gồm các thiết bị chính sau: Hệ thống bàn đói
nước tuyển trọng lực; Sân phơi và máy sấy quay; Hệ thống băng, gầu tải quặng;

Hệ thống máy tuyển từ; Hệ thống tuyển tĩnh điện; Hệ thống bàn đói khí hoặc gió;
Hệ thống máy đóng gói sản phẩm.
3
2.2. Ảnh hưởng của hoạt động khai thác khoáng sản đến môi trường
2.2.1. Tác động đến đất, không khí, nguồn nước
Phương pháp khai thác áp dụng tại các mỏ và khu vực mỏ chủ yếu là lộ thiên, một
số ít mỏ than khai thác bằng phương pháp hầm lò ở Quảng Ninh, Bắc Thái. Những
năm gần đây, phương pháp khai thác hầm lò cũng đã được áp dụng để khai thác
một số mỏ quặng antimon, chì-kẽm
Bảng 01. Kết quả phân tích mẫu nước thải khu khai thác mỏ titan điển hình
[3]
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Kết quả phân tích mẫu nước thải
M1 M2 M3 M4
pH - 5,68 -5,77 4,29-5,47 5 - 5,5 6,66
Chất rắn lơ lửng mg/l 210 -360 70-120 28 - 70 38 – 74
S sắt mg/l 16,3 - 20,18 0,98-97,3 0,11-0,98 0,22 - 0,36
H
2
S mg/l 1,02 0,56 0,55 0,17-0,255
Tổng độ cứng mg/l 15 - 30 7,5-22,5 7,5-22,5 22,5-295
Tổng khoáng hóa mg/l 122 - 440 132-160 51-272 272-1466
Hoạt độ phóng xạ mg/l 0,03-0,06 0,02-0,03 0,02-0,03 0,01 - 0,02
Ghi chú: M1 - Nước thải từ xưởng tuyển; M2 - Nước trong các moong khai thác; M4 -
Nước ngầm xung quanh mỏ; M5 - Nguồn nước mặt tiếp nhận thải.
Yếu tố chính gây tác động đến môi trường là khai trường của các mỏ, bãi thải, khí
độc hại, bụi và nước thải. Nhiều mỏ, khu vực khai thác mỏ đã gây ra những vấn đề
nghiêm trọng về ô nhiễm nguồn nước do nước thải của mỏ trong quá trình sản

4
xuất không được xử lý. Nhiều bãi thải không có các công trình xử lý đã bồi lấp
ruộng vườn, sông, suối, làm ô nhiễm nguồn nước, lòng sông bị bồi lắng gây ra lũ
lụt. Năm 2006 các mỏ than của Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt
Nam đã thải vào môi trường tới 182,6 triệu m
3
đất đá và khoảng 70 triệu m
3
nước
thải từ mỏ. Khối lượng chất thải rắn và nước thải mỏ gây ô nhiễm nặng cho vùng
đến mức báo động như: Mạo Khê, Uông Bí, Cẩm Phả…
Trong việc khai khoáng công nghiệp thì khó khăn lớn nhất là xử lý chất thải dưới
dạng đất đá và bùn. Trong chất thải này có thể có các hóa chất độc hại mà người ta
sử dụng để tách quặng khỏi đất đá. Trong chất thải ở các mỏ thường có các hợp
chất sulfid-kim loại, chúng có thể tạo thành a xít, với khối lượng lớn chúng có thể
gây hại đối với đồng ruộng và nguồn nước ở xung quanh. Bùn từ các khu mỏ chảy
ra sông suối có thể gây ùn tắc dòng chảy từ đó gây lũ lụt.
Bảng 02. Mức độ ô nhiễm đất nông nghiệp do khai thác mỏ
5
Nguồn: Nguyễn Đức Quý, Tạp chí Hoạt động Khoa học, số 4, 1996
Hiện nay trong khu vực Hòn Gai - Cẩm Phả có khoảng 30 mỏ than lớn nhỏ đang
hoạt động, bình quân khoảng 2.000ha, có 1 mỏ với tổng diện tích là 175km
2
,
chiếm 28,7% tổng diện tích đất tự nhiên của thành phố Hạ Long và thị xã Cẩm
Phả. Ở Hòn Gai, Nam đường 18A (Cẩm Phả) trong giai đoạn 1970 - 1997, các
hoạt động khai thác than đã làm mất khoảng 2.900ha (trung bình mỗi năm mất 100
- 110ha) đất rừng các loại, trong đó khoảng 2.000ha bị mất do mở vỉa, đổ đất đá
thải. Độ che phủ rừng tự nhiên từ 33,7% năm 1970 giảm xuống 6,7% (1985) và
4,7% (1997) .

Tại khu vực Cẩm Phả, trước năm 1975 việc khai trường được mở rộng chủ yếu về
phía tây - nam (khoảng 100ha) và phía tây (25ha). Sau 1975 việc khai trường và
bãi thải phát triển về phía bắc khoảng 435ha, phía tây - bắc 265ha và phía đông
75ha
6
Bảng 03.Diện tích khai trường, bãi thải và diện tích đổ thải ra biển vùng Cẩm Phả
Đơn vị: ha;Nguồn: Nguyễn Địch Dĩ, 2003
Do đặc thù của khai thác mỏ là một hoạt động công nghiệp không giống các hoạt
động công nghiệp khác về nhiều mặt, như phải di dời một khối lượng lớn đất đá ra
khỏi lòng đất tạo nên một khoảng trống rất lớn và rất sâu. Một khối lượng lớn chất
thải rắn được hình thành do những vật liệu có ích thường chỉ chiếm một phần nhỏ
của khối lượng quặng được khai thác, dẫn đến nhiều khi khối lượng đất đá thải
vượt khối lượng quặng nằm trong lòng đất. Quá trình bốc xúc, tuyển rửa quặng,
làm đất tơi xốp tạo điều kiện thuận lợi cho phong hoá và hoá tách các khoáng vật
kim loại chứa trong đó. Vì vậy, có ảnh hưởng lớn đến môi trường, không chỉ khi
cơ sở đang hoạt động mà còn tiếp diễn về lâu dài sau khi cơ sở ngừng hoạt động.
Quá trình san lấp mặt bằng, xây dựng nhà tạm hoặc thủ công, hoặc cơ giới đều gây
tiếng ồn, gây bụi làm ô nhiễm môi trường không khí, ô nhiễm nguồn nước cũng
như làm đảo lộn môi trường đất tạo nên một vùng "đất mượn". Vùng "đất mượn"
7
khi có mưa lớn thường gây ra các dòng bùn di chuyển xuống vùng thấp, vùng đất
canh tác, gây tác hại tới hoa màu, ruộng vườn, nhà cửa, vào mùa mưa lũ thường
gây ra lũ bùn đá, gây thiệt hại tới môi trường kinh tế và môi trường xã hội.
2.2.2. Ảnh hưởng của các nhân tố hóa học tới nguồn nước tại các khu khai
mỏ
Sự phá vỡ cấu trúc của đất đá chứa quặng khi tiến hành đào bới và khoan
nổ sẽ thúc đẩy các quá trình hòa tan, rửa lũa các thành phần chứa trong quặng và
đất đá, quá trình tháo khô mỏ, đổ các chất thải vào nguồn nước, chất thải rắn, bụi
thải không được quản lý, xử lý chặt chẽ, tham gia vào thành phần nước mưa, nước
chảy tràn cung cấp cho nguồn nước tự nhiên, là những tác động hóa học làm

thay đổi tính chất vật lý và thành phần hoá học của nguồn nước xung quanh các
khu mỏ.
Mức độ ô nhiễm hóa học các nguồn nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đặc điểm
thân quặng, thành phần thạch học và độ bền vững của đất đá chứa quặng, phương pháp
và trình độ công nghệ khai thác, chế biến quặng, biện pháp quản lý và xử lý chất thải
Nước ở các mỏ than thường có hàm lượng cao các ion kim loại nặng, á kim, các
hợp chất hữu cơ, các nguyên tố phóng xạ cao hơn so với nước mặt và nước biển
khu vực đối chứng và cao hơn tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) từ 1-3 lần. Đặc biệt
8
là khu vực từ Quảng Yên đến Cửa Ông. Sự biến đổi chất lượng nguồn nước, tải
lượng một số chất thải trong nước tháo khô các mỏ than.
Trong các mỏ thiếc sa khoáng, biểu hiện chính của ô nhiễm hoá học là làm đục
nước bởi bùn - sét lơ lửng, tăng hàm lượng các ion sắt và một số khoáng vật nặng.
Việc khai thác và tuyển quặng vàng phải dùng đến thuốc tuyển chứa Hg, CN
-
;
ngoài ra, các nguyên tố kim loại nặng cộng sinh như asen, antimoan, các loại
quặng sunfua, có thể rửa lũa hòa tan vào nước. Vì vậy, ô nhiễm hóa học do khai
thác và tuyển quặng vàng là nguy cơ đáng lo ngại đối với nguồn nước sinh hoạt và
nước nông nghiệp. Tại những khu vực này, nước thường bị nhiễm bẩn bởi bùn sét
và một số kim loại nặng và hợp chất độc như CN
-
, Hg, As, Pb v.v mà nguyên
nhân chính là do nước thải, chất thải rắn không được xử lý đổ bừa bãi ra khai
trường và khu vực tuyển.
Nguồn nước mặt và nước ngầm xung quanh các khu vực HĐKS sử dụng làm
nguồn cấp cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt đang bị suy giảm về trữ lượng và
ô nhiễm, suy thoái về chất lượng do 2 nhóm nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân về quản lý: Từ những năm 80 đến nay, hoạt động khai khoáng phát
triển mạnh, nhưng thiếu tổ chức và quản lý chặt chẽ, xuất hiện nhiều tổ chức

không chuyên và nạn khai thác tự do, các địa phương chưa có quy hoạch sử dụng
khoáng sản phù hợp, lực lượng quản lý tài nguyên và môi trường quả mỏng,
9
phương thức và biện pháp quản lý chưa thích hợp, dân trí thấp, kinh tế chưa phát
triển dẫn đến tình trạng khai thác khoáng sản tràn lan, thiếu tổ chức , không quản
lý được quá trình khai thác và đổ thải.
- Nguyên nhân về kĩ thuật và công nghệ: Trong khai khoáng hầu hết đều dùng
những thiết bị và công nghệ cũ, lạc hậu, chưa chú ý đến sự đồng bộ về thiết bị và
công nghệ bảo vệ môi trường. Hầu hết các mỏ thiết kế và xây dựng từ những thập
niên 60 - 70 với qui mô về sản lượng quặng và khối lượng đất đá thải ít hơn nhiều
so với hiện nay. Sau quá trình khai thác 30 - 40 năm, các bãi thải được quy hoạch
với quy mô nhỏ, chưa tính đến các biến cố về quá tải đối với các bãi thải. Một
lượng chất thải rất lớn bao gồm chất thải rắn, nước thải và bùn thải hàng năm,
không được quản lý và xử lý, gây ô nhiễm môi trường.
2.2.3. Ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao động và cộng đồng dân cư
Hoạt động khai thác khoáng sản đã làm cho không khí bị ô nhiễm do khí thải và
bụi từ các hoạt động khoan nổ mìn, xúc bốc, vận tải và chế biến gây ra. Kết quả
kiểm tra hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn một số tỉnh cho thấy, tại tất
cả các khâu sản xuất của dây chuyền công nghệ khai thác và chế biến đều gây ra
hàm lượng bụi vượt tiêu chuẩn cho phép, đặc biệt ở các mỏ than, mỏ đá. Kết quả
kiểm tra ở một số mỏ cho thấy nồng độ bụi lớn hơn giới hạn cho phép từ 30 đến
100 lần; riêng tỷ lệ hạt bụi < 5 m chiếm từ 41,6 - 83,3 mg/m
3
không khí và có hàm
lượng SiO
2
từ 3% - 12%. Môi trường lao động bị ô nhiễm nghiêm trọng nhất tại
10
các vùng nhà sàng than, trạm nghiền đá, trong các lò chợ và các đường lò độc đạo,
tại các vùng khoan nổ mìn, xúc bốc, dọc đường vận tải quặng, đất đá.

Ảnh hưởng đến sức khỏe: Thường rất đa dạng và gây hại kéo dài như: đau mắt,
gây hại đối với hệ thống hô hấp, tiêu hóa, tim mạch, thận, gan và hệ thần kinh. Do
bị ô nhiễm bụi nên tỷ lệ các bệnh ở hệ hô hấp của công nhân mỏ chiếm tỷ lệ khá
cao so với toàn quốc. Gần một nửa số người mắc bệnh bụi phổi silic trong toàn
quốc tập trung tại các vùng khai thác mỏ. Ngoài ra, các bệnh khác như viêm phế
quản mãn tính chiếm tới 60%, lao 4 - 5%. Kết quả đo kiểm tra cho thấy, tiếng ồn ở
nhiều mỏ lên cao từ 97 - 106 dBA, vượt tiêu chuẩn cho phép nên đã làm nhiều
công nhân mỏ bị bệnh điếc nghề nghiệp. Rung cục bộ do điều khiển búa khoan
cầm tay cũng đã gây các tổn thương đến xương, khớp và hệ thần kinh của người
lao động.
Qua kiểm tra hoạt động khai thác tại một số mỏ chì, kẽm đã phát hiện nhiều công
nhân bị nhiễm độc chì nặng phải chuyển nghề, một số khác có biếu hiện nhiễm
độc chì mãn tính. Có những khu vực khai thác, nhà sàng tuyển than, trạm xay
nghiền đá phát ra nguồn bụi lớn, nằm gần khu dân cư và khu đô thị nên đã ảnh
hưởng đến cuộc sống của cộng đồng dân cư.
Các chất độc hại, kim loại nặng theo các nguồn nước từ mỏ gây ô nhiễm nước
mặt, nước ngầm khu vực dân cư xung quanh. Các mỏ hiện đang khai thác của
nước ta thường ở cạnh khu vực dân cư, có khi rất gần thậm chí có sự xen kẽ với
11
khu vực dân cư sinh sống và thường chưa có các biện pháp bảo vệ hữu hiệu, nên
các chất độc hại được thải từ khu khai thác, ảnh hưởng trực tiếp không chỉ với
công nhân mà cả cư dân sống tiếp giáp với khu vực khai thác và chế biến.
Các kết quả nghiên cứu của Viện Y học lao động và vệ sinh môi trường cho thấy
môi trường các khu vực khai thác, chế biến kim loại màu ở phía Bắc nước ta như
mỏ chì-kẽm Lang Hích, mỏ chì-kẽm Bản Thi, mỏ mangan Cao Bằng, mỏ thiếc
Sơn Dương thường có hàm lượng kim loại nặng vượt giới hạn cho phép từ 2-10
lần về chì, 1,5-5 lần về asen, 2-15 lần về kẽm Tại mỏ than lộ thiên Khánh Hòa
nồng độ bụi than và bụi đá trong môi trường có lúc lên tới 42mg/m
3
. Hậu quả là có

tới 8-10% công nhân trong khu vực này bị nhiễm độc chì, asen, hoặc bị bệnh bụi
phổi hàng năm phải đi điều trị.
Theo đánh giá của Viện Y học lao động và vệ sinh môi trường thì việc khoan khô,
bắn mìn, nhiệt luyện trong khai thác, chế biến mangan, chì, sắt ở các mỏ khoáng
của ta rất dễ gây ô nhiễm mangan cho môi trường. Số lượng người tiếp xúc nghề
nghiệp với thuỷ ngân ở nước ta ngày càng tăng.
Mười năm vừa qua tại khu khai thác, chế biến kim loại mầu đã xảy ra những
trường hợp nhiễm độc cấp tính asen gây tử vong. Hiện nay, nhằm hạn chế thấp
nhất tình trạng ô nhiễm môi trường do chì, a-xít và các chất độc hại khác gây ra
cho người lao động, nhiều cơ quan, doanh nghiệp đã thực hiện tốt việc mua sắm
trang thiết bị phòng hộ cá nhân. Tuy nhiên, đó mới chỉ là giải pháp trước mắt. Để
12
phát triển bền vững và bảo vệ môi trường trong nền kinh tế nói chung và trong sản
xuất công nghiệp, ngành Công nghiệp cần phải có những kế hoạch nhằm giảm
thiểu tác động tiêu cực lên môi trường sinh thái và sức khoẻ người lao động.

III. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG Ở VÙNG THAN QUẢNG NINH
3.1. Tổng quan về khai thác than ở Quảng Ninh
Hoạt động khai thác than chủ yếu do Tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam
(TKV) thực hiện, gồm 13 đơn vị chuyên khai thác lộ thiên, 04 đơn vị chuyên khai
thác hầm lò, 24 đơn vị khai thác hầm lò + lộ thiên và 07 đơn vị chế biến, sàng
tuyển than. Ngoài ra Công ty Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh và Công ty PT
Vietmindo Energitama cũng có hoạt động khai thác than.
Trong những năm gần đây sản lượng than khai thác của TKV tăng nhanh, cao hơn
nhiều so với quy hoạch được Chính phủ phê duyệt, cụ thể: năm 2003 tăng 123%,
năm 2004 tăng 155% và năm 2005 tăng 175%, đạt sản lượng của quy hoạch đến
năm 2020. Than xuất khẩu tăng nhanh từ 4,2 triệu tấn, chiếm 32% tổng lượng than
tiêu thụ, năm 2001 lên 14,8 triệu tấn, chiếm 49% năm 2005.
Than khai thác lộ thiên có sản lượng chiếm 63-:-65% tổng lượng than khai thác,
tăng từ 9,5 triệu tấn năm 2001 lên 21 triệu tấn năm 2005 (gấp 2,21 lần). Hiện tại có

13
5 mỏ lộ thiên lớn với công suất khoảng 3 triệu tấn than nguyên khai/năm
(TNK/năm) đó được đầu tư đồng bộ các thiết bị khoan, bốc xúc, vận tải ở mức công
nghệ trung bình tiên tiến; 15 đơn vị và công trường có quy mô vừa với công suất từ
100.000 - 700.000 TNK/năm và nhiều điểm khai thác lộ vỉa chưa được đầu tư đồng
bộ.
Than khai thác hầm lò năm 2005 đạt 12,5 triệu TNK, tăng 2,5 lần so với năm
2001. Hiện có 8/28 mỏ hầm lò có sản lượng đạt 0,9 - 1,3 triệu TNK/năm với công
nghệ khai thác và cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh. Các mỏ còn lại có sản
lượng khoảng 500 ngàn TNK/năm, nhìn chung chưa được đầu tư hoàn chỉnh. Các
mỏ hầm lò đó triển khai cơ giới hóa trong đào, chống lũ và khấu than.
Sàng tuyển than: Có 02 Công ty sàng tuyển lớn được xây dựng gắn với các cảng
xuất than lớn tại Cửa Ông và Nam Cầu Trắng. Sản lượng than sàng tuyển năm 2005
tại các nhà sàng đạt 13,2 triệu tấn chiếm 39,7% tổng lượng than nguyên khai khai
thác. Lượng đổ xít thải từ 1,0 - 1,34 triệu tấn/năm. Tại nhiều mỏ sử dụng cụm sàng
có công suất đến 500.000 T/năm. Tại nhiều bến bãi có hoạt động sàng than thủ
công.
Ở các mỏ lộ thiên (5 mỏ lớn và hàng chục điểm khai thác lộ vỉa nhỏ ở tỉnh Quảng
Ninh) hàng năm người ta bóc từ 25 triệu đến 40 triệu mét khối đất, đá sử dụng
hàng chục ngàn tấn thuốc nổ. Đó là những nguồn gây ô nhiễm không khí, là
nguyên nhân tàn phá môi trường, đa dạng sinh học, tàn phá rừng, là nguồn phát
14
thải bụi, làm bồi lấp sông hồ. Các mỏ hầm lò (7 mỏ lớn và hàng chục mỏ hầm lò
nhỏ) với hệ thống đường lò dài hàng trăm km dưới sâu lòng đất có thể gây ra nứt
nẻ bề mặt địa hình, hạ thấp mực nước ngầm hoặc làm mất nước mặt ở một số nơi
trong khu vực khai thác. Khí thải từ hệ thống thông gió của hầm lò thoát ra là
nguồn phát thải khí CO, CH
4
. Nước thải từ lò và các mỏ lộ thiên chảy ra là nguồn
ô nhiễm nước mặt. Các nhà máy tuyển than với công suất hàng triệu tấn than

nguyên khai một năm là nguồn phát thải tiếng ồn, bụi và ô nhiễm nước mặt ảnh
hưởng đến đời sống sinh hoạt của dân cư khu vực lân cận. Hệ thống cảng, bến bãi
chế biến, xuất than và tiêu thụ than nằm ở bờ biển và rải rác dọc theo các bờ sông
cũng là nguồn phát thải gây ô nhiễm môi trường.
Trong sản xuất than hiện nay ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước và các tác động
xấu làm thay đổi cảnh quan cần được ưu tiên để giải quyết.
3.2. Ô nhiễm do khai thác than ở Quảng Ninh
3.2.1. Ô nhiễm không khí
Ở vùng than Quảng Ninh mức độ ô nhiễm không khí biến đổi theo mùa và cường
độ khai thác mỏ. Chỉ trong mùa mưa hay ở thời kỳ các mỏ than ngừng hoạt động
do không tiêu thụ được sản phẩm thì chất lượng không khí mới đạt tiêu chuẩn cho
phép. Tuy nhiên, phần lớn thời gian trong năm ô nhiễm không khí và bụi đã gây
hậu quả rất xấu cho con người và môi trường. Tại nhiều khu vực ở Quảng Ninh
15
bụi nhiều đến nỗi người dân nói rằng họ "sống trong bụi và chết vùi trong bụi".
Theo thống kê, gần một nửa số người mắc bệnh bụi phổi trên toàn quốc tập trung
ở tỉnh này.
Tiến hành quan trắc môi trường không khí xung quanh các khu chế biến than, các
khai trường và cảng than cho thấy:
Tại khu vực nhà sàng Công ty than Mạo Khê, tuyến đường vào khu vực sàng
tuyển được rải nước thường xuyên, mật độ phương tiện vận chuyển và chế biến
than hoạt động với cường độ cao. Kết quả quan trắc cho thấy: hàm lượng bụi vượt
quá giới hạn cho phép (GHCP) của TCVN 5937:2005 là 2,86 lần; hàm lượng SO
2

vượt 2,4 lần.
Bảng 04: Kết quả quan trắc môi trường không khí khu chế biến, vận chuyển
than
TT Vị trí quan trắc SPM
(mg/m

3
)
CO
(mg/m
3
)
NO
2
(mg/m
3
)
SO
2
(mg/m
3
)
1 Nhà sàng công ty than Mạo Khê
0,860 10,550 0,136 0,842
2 Cảng than phường Hà Khánh
0,502 5,201 0,093 0,185
3 Khai trường công ty than Hà Tu
0,912 4,810 0,115 0,205
4 Khai trường Công ty than cọc 6
0,121 5,103 0,071 0,155
5 Công ty tuyển than Cửa ông
0,286 6,401 0,142 0,136
6 Cảng 10 – 10 0,305 5,312 0,089 0,167
16
7 Vàng Danh 0,925 9,70 0,142 0,377
8 Khe Ngát 0,827 8,15 0,095 0,284

9 Ngã 3 Km6 – Quang Hanh 0,386 6,107 0,081 0,120
10 Ngã 3 Mông Dương 0,627 7,705 0,120 0,148
11 TCVN 5937 – 2005
0,3 30 0,2 0,35
(Nguồn: Trung tâm Quan trắc và Phân tích Môi trường Quảng Ninh, 2006)
Tại khu vực sàng tuyển của Công ty tuyển than Cửa Ông, hàm lượng bụi xấp xỉ
mức giới hạn cho phép của TCVN.
Trên tuyến đường vận tải vào khai trường Công ty than Cọc 6 cũng thấy hàm
lượng bụi vượt GHCP tới 4 lần
Tuyến đường vào cảng than của Công ty than Hà Tu tại phường Hà Khánh thường
xuyên được phun nước khống chế bụi song kết quả quan trắc cho thấy hàm lượng
bụi vượt GHCP là 1,67 lần. Tại khu vực khai trường, vào thời điểm quan trắc trời
nắng hanh, hàm lượng bụi quan trắc vượt GHCP là 3,04 lần.
Tại khu vực cảng 10 - 10, trên tuyến đường đi vào cảng thường xuyên được tưới
nước, môi trường không khí bị ảnh hưởng chủ yếu bởi các hoạt động vận tải, bốc
rót than, diễn ra trong khu vực. Hàm lượng bụi lơ lửng tại vị trí quan trắc cũng
bằng mức GHCP.
Trên các tuyến vận chuyển than Vàng Danh, Khe Ngát (Uông Bí), Ngã 3 km 6 –
Quang Hanh và ngã 3 Mông Dương (Cẩm Phả), vẫn diễn ra tình trạng ô nhiễm
17
bụi, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân trong khu vực và người tham gia giao
thông. Kết quả quan trắc, hàm lượng bụi vượt GHCP từ 1,2 lần (km 6 - Cẩm Phả)
đến 3,1 lần (Vàng Danh).
3.2.2. Ô nhiễm nước
Ô nhiễm nước cũng là một vấn đề nghiêm trọng không kém. Mức độ ô nhiễm
nước biến đổi theo mùa, theo độ sâu và diện tích khai thác than. Xu thế tăng dần
tính axit của nước thải được thấy rõ khi chuyển từ mùa mưa sang mùa khô. pH
nước thải chưa qua xử lý có lúc xuống tới mức 4 - 4,5. Tình trạng nước thải thì
thừa trong khi đó nước sinh hoạt lại thiếu vẫn đang tiếp diễn. Một vấn đề nữa mà
thiên nhiên phải đối mặt là sản xuất than đã gây tác động xấu đến môi trường cảnh

quan.
Ở Quảng Ninh các bãi thải đất đá từ khai thác than đã chiếm diện tích và phá hoại
các điều kiện tự nhiên (thực vật, thổ nhưỡng, nguồn nước) trên hàng ngàn hecta.
Ngoài ra, dưới tác động của mưa lũ ở các sườn dốc bãi thải xuất hiện hiện tượng
bào xói, cuốn trôi đất đá làm bồi lấp đất canh tác, làng xóm, đường giao thông
Nước thải mỏ than Vàng Danh đổ trực tiếp vào lưu vực đầu nguồn sông Vàng
Danh qua hệ thống cống ngầm, nước thải đục và có màu đen vàng. Kết quả đo pH
thấp (5,1) do nước bị axit hóa, nằm ngoài dải giới hạn B của TCVN 5945:2005.
Thông số TSS cao (mùa mưa vượt 11.55 lần, mùa khô vượt 3,24 lần theo tiêu
18
chuẩn TCVN 5945 – 2005. Coliform vượt giới hạn cho phép của TCVN 6980 –
2001: 14.33 lần.
3.3. Một số giải pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại các khu khai
thác khoáng sản
3.3.1. Giải pháp về quản lý
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường, thực hiện thường xuyên
liên tục các quan trắc, giám sát chất lượng môi trường tại các khu vực khai thác
khoáng sản đối với các yếu tố gây ô nhiễm, đặc biệt là các kim loại nặng.
Buộc các chủ cơ sở khai thác phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của luật
Bảo vệ môi trường về xử lý chất thải cũng như đền bù thiệt hại môi trường do xả
thải.
3.3.2. Giải pháp về công nghệ kỹ thuật
Nhằm hạn chế tình trạng gây ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác khoáng
sản cần phải đầu tư công nghệ tiến tiến nhằm hạn chế tối đa việc gây ô nhiễm môi
trường trên nguyên tắc lấy phòng ngừa là chính bởi lẽ chi phí ban đầu để đầu tư
cho công nghệ khai thác có thể tốn kém nhưng nó sẽ không tốn kém bằng việc
phải xử lý ô nhiễm tại các khu mỏ.
19
Từ việc đánh giá mức độ ô nhiễm và nguyên nhân gây ra các sự cố môi trường đối
với môi trường nước trong các khu khai khoáng nêu trên, có thể nhận thấy rằng

nguồn gây ô nhiễm nước ở các khu mỏ gồm: Nước mưa chảy tràn qua khu mỏ,
nước ngấm từ các bãi thải rắn; nước tháo khô mỏ; nước thải do tuyển khoáng. Các
mỏ cần có hệ thống xử lý các nguồn gây ô nhiễm nói trên theo các sơ đồ công
nghệ như sau:
- Đối với nguồn nước chảy tràn qua khu mỏ và nước ngầm từ bãi chứa chất thải
rắn: Xung quanh khu mỏ và bãi chứa chất thải rắn cần xây dựng hệ thống mương
thu gom nước dẫn về hồ chứa nước. Tại đây nước thải được xử lý bằng phương
pháp hóa học (thông thường dùng bột vôi để trung hòa), sau đó kiểm tra độ pH và
một số ion kim loại đạt tiêu chuẩn cho phép mới được đổ thải ra môi trường.
- Đối với nước tháo khô mỏ: Sau khi bơm tập trung vào hồ chứa để lắng sơ bộ,
một phần được bơm trở lại phục vụ sản xuất của mỏ (tuyển quặng, tưới ẩm, ),
phần còn lại bơm lên bể xử lý bằng phương pháp hóa học và sinh học làm nguồn
nước cung cấp cho nhu cầu sinh hoạt của khu mỏ.
Bảng 05. Một số loài thực vật có khả năng tích luỹ kim loại nặng cao [2]
Tên loài
Nồng độ kim loại tích luỹ trong
thân (µg/g trọng lượng khô)
Tác giả và năm công bố
Arabidopsis halleri 13.600 Zn Ernst, 1968
20
(Cardaminopsis halleri)
Thlaspi caerulescens 10.300 Zn Ernst, 1982
Thlaspi caerulescens 12.000 Cd Mádico et al, 1992
Thlaspi rotundifolium 8.200 Pb Reeves & Brooks, 1983
Minuartia verna 11.000 Pb Ernst, 1974
Thlaspi geosingense 12.000 Ni Reeves & Brooks, 1983
Alyssum bertholonii 13.400 Ni Brooks & Radford, 1978
Alyssum pintodasilvae 9.000 Ni Brooks & Radford, 1978
Berkheya codii 11.600 Ni Brooks, 1998
Psychotria douarrei 47.500 Ni Baker et al., 1985

Miconia lutescens 6.800 Al Bech et al., 1997
Melastoma-
malabathricum
10.000 Al Watanabe et al., 1998

Vấn đề đang được rất nhiều các nhà khoa học quan tâm hiện nay trong việc xử lý ô
nhiễm kim loại nặng tại các vùng khai thác khoáng sản là sử dụng khả năng tích
lũy kim loại nặng của thực vật. Có thể nói đây là một giải pháp rất có tính khả thi,
thân thiện về môi trường bởi lẽ giải pháp này vừa có tác dụng làm di chuyển các
nguyên tố kim loại nặng trong đất vào sinh khối thực vật, vừa có tác dụng làm
tăng vốn dự trữ tài nguyên (tài nguyên rừng) và hấp thụ khi nhà kính, cải tạo các
tính chất của đất. Có thể nói đây là một giải pháp rất được các nhà khoa học hiên
nay quan tâm, tuy nhiên việc lựa chọn loài cây nào là cả một vấn đề cần phải
nghiên cứu. Các loài cây được sử dụng vừa phải đảm bảo có khả năng tích tụ cao
các kim loại nặng đồng thời phải có giá trị kinh tế, cải tạo đất. Đó là một hướng
nghiên cứu rất mới hiện đang đuợc các nhà khoa học quan tâm.
21
Tập đoàn TKV cũng đã có quỹ dành riêng cho bảo vệ môi trường, trong đó có việc
trồng cỏ Vertiver tại các khu hoàn nguyên đất. Giải pháp này đã được thực hiện ở
một số mỏ như Núi Béo, Hà Tu và bước đầu cho kết quả khích lệ.
Bảng 5 thống kê một số loài thực vật có khả năng tích lũy kim loại nặng cao đã
được các tác giả trên thế giới nghiên cứu.

IV. KẾT LUẬN
1. Bản thân các nguyên tố hóa học trong môi trường là không đổi về trữ lượng mà
nó chỉ biến đổi về trạng thái tồn tại (dạng hòa tan hoặc kết tủa, bay hơi ). Mỗi
dạng tồn tại của kim loại nặng có tác động độc đối với cơ thể và môi trường rất
khác nhau. Hiện tượng ô nhiễm kim loại nặng xảy ra khi một dạng tồn tại của nó
có hàm lượng vượt quá ngưỡng cho phép.
2. Trong các mỏ khoáng sản là nơi tích tụ một hoặc một nhóm nguyên tố có hàm

lượng lớn thường có nhiều kim loại nặng kèm theo. Khi khai thác khoáng sản,
người ta sử dụng các loại hóa chất để tuyển quặng đã làm biến đổi trạng thái tồn
tại của các kim loại nặng và các tác nhân hóa học khác, chuyển chúng thành các
ion hòa tan gây ô nhiễm đất và nước. Đồng thời, một lượng lớn vật chất được khai
thác cùng với khoáng sản nhưng không được sử dụng và bị thải bỏ ra môi trường.
22
Đó là những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường tại các khu khai thác mỏ mà
vùng mỏ Quảng Ninh là một ví dụ điển hình.
3. Việc xử lý ô nhiễm các kim loại nặng tại các khu vực khải thác khoáng sản là
một việc cấp bách hiện nay mà việc sử dụng khả năng tích lũy kim loại nặng của
thực vật là một hướng nghiên cứu khả thi, có tính thực tiễn cao. Vì vậy nên đầu tư
cho hướng nghiên cứu này để lựa chọn được một số loài cây thich hợp nhất.




23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu Đức Hải. Nguyên lý khoa học môi trường. giáo trình, Hà Nội, 2009.
2. Võ Văn Minh, Võ Tuấn. Nghiên cứu xử lý một số kim loại nặng trong đất.
Hà Nội, 2004.
3. PGS.TS. Nguyễn Xuân Tặng, ThS. Phan Văn Trường. Khai thác sử dụng
sa khoáng Titan ven biển miền Trung và bảo vệ môi trường mỏ.
4. Lê Văn Thành. Khai thác khoáng sản và tác động đến môi trường.
5. Trung tâm Quan trắc và phân tích môi trường Quảng Ninh. Báo cáo hiện
trạng môi trường. Hạ Long, 2006.
6. Trung tâm Quan trắc và phân tích môi trường Quảng Ninh. Báo cáo kết
quả quan trắc môi trường mùa khô 2007, Hạ Long, 2007
7. Hội bảo vệ thiên nhiên môi trường VN. Tài nguyên môi trường và sự sống
.NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004

24

×