Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Luận văn thạc sỹ: Phân tích tình hình tài chính với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.38 KB, 115 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hội nhập và tồn cầu hố là xu thế phát triển hiện nay trên thế giới. Nền kinh
tế Việt Nam đang từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, tích cực tham gia vào các tổ
chức quốc tế như WTO, APEC, AFTA, … và ký kết thành công nhiều hiệp định
thương mại song phương và đa phương. Những diễn biến này đang tạo ra một môi
trường kinh doanh năng động và một thị trường rộng lớn vượt ra ngoài biên giới
quốc gia cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội phát
triển kinh doanh cịn có những thách thức lớn. Có thể nói chưa bao giờ bài học về
tính khắc nghiệt của kinh tế thị trường, của cạnh tranh lại sâu sắc và rõ nét đến thế.
Trong bối cảnh hiện tại, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển khơng cịn con
đường nào khác là phải phát huy tối đa nội lực của mình, tức là phải khơng ngừng
tích lũy tăng cường tiềm lực tài chính, tiềm lực kỹ thuật cơng nghệ và con người.
Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam (tên gọi tắt LILAMA) là doanh nghiệp Nhà
nước được thành lập năm 1960 với nhiệm vụ khôi phục nền công nghiệp của đất
nước sau chiến tranh. Tổng Công ty đã vượt lên muôn vàn khó khăn của kinh tế hậu
chiến trong cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, tiếp đó khơng ngừng đổi mới, khẳng
định mình trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, tạo đà vươn lên
trở thành một tập đồn cơng nghiệp xây dựng hàng đầu của Việt Nam. Cho tới nay,
Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam đã lắp đặt thành công và đưa vào sử dụng hàng
nghìn cơng trình lớn nhỏ trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế, góp phần quan trọng
trong q trình khơi phục, phát triển nền cơng nghiệp nói riêng và nền kinh tế đất
nước nói chung. Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt với sự tham gia của ngày càng nhiều các tập
đồn xây dựng cơng nghiệp hàng đầu thế giới, Tổng Công ty đang đứng trước
những yêu cầu mới cấp thiết về nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh
tranh.Trong bối cảnh đó, Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam đặt ra mục tiêu tiếp tục
đổi mới tổ chức, đổi mới cơ chế quản lý, cơ cấu sản xuất kinh doanh và đầu tư, huy
động mọi nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và phát triển đa dịch vụ. Đồng
thời, đẩy mạnh liên kết đào tạo, hợp tác quốc tế và từng bước đầu tư ra nước ngoài.
Hoạt động trong lĩnh vực cơng nghiệp xây dựng địi hỏi phải có vốn lớn, khả


năng huy động vốn linh hoạt để đảm bảo đủ khả năng tài chính cho việc thực hiện


các dự án mới trong điều kiện vốn bị chiếm dụng thường xuyên và trong thời gian
dài. Bởi thế, để đạt mục tiêu phát triển thành một tập đồn cơng nghiệp xây dựng,
Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam luôn quan tâm đến việc quản lý hoạt động kinh tế
và tài chính, đặc biệt là quản lý vốn. Hơn bao giờ hết, Tổng Cơng ty hiểu rõ tích
lũy, tăng cường tiềm lực tài chính có vai trị vơ cùng quan trọng trong quá trình thực
hiện mục tiêu cao nhất của mình.
Vì vậy, đề tài “Phân tích tình hình tài chính với việc nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn tại Tổng Cơng ty Lắp máy Việt Nam” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận chung về phân tích tình hình tài chính
doanh nghiệp và hiệu quả sử dụng vốn, thực hiện phân tích tình hình tài chính tại
Tổng Cơng ty Lắp máy Việt Nam để làm cơ sở đưa ra đánh giá về tình trạng tài
chính của Tổng Cơng ty và đề xuất các giải pháp cải thiện tình hình tài chính và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu là
phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp giữa logic và lịch sử, phân tích và tổng
hợp; sử dụng các phương pháp của khoa học thống kê; khảo sát thực tế để phân tích
đánh giá từng vấn đề, trên cơ sở đó rút ra kết luận một cách chính xác.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn hệ thống hố cơ sở lý luận về phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp nhằm tạo ra những cơ sở khoa học để vận dụng phân tích tình hình tài chính
của Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm cải
thiện tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Tổng Cơng ty Lắp
máy Việt Nam.
Với ý nghĩa đó, luận văn được xây dựng với kết cấu ngoài phần mở đầu và
kết luận gồm ba phần chính như sau:

Chương 1: Lý luận chung về phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp và
hiệu quả sử dụng vốn
Chương II: Phân tích tình hình tài chính ở Tổng Cơng ty Lắp máy Việt Nam
Chương III: Các giải pháp tăng cường hoạt động tài chính và hiệu quả sử
dụng vốn ở Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
1.1. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

1.1.1. Khái qt về hoạt động tài chính của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thái
tiền tệ, phản ánh thước đo giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng
các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ cho các quá trình sản xuất, tái sản xuất và góp phần
tích luỹ vốn trong mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức kinh tế, đồng thời góp phần đóng
góp cho ngân sách Nhà nước.
Nội dung của quan hệ kinh tế tài chính giữa doanh nghiệp với các tổ chức và
cá nhân gồm:
- Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với Nhà nước: thể hiện trong quá trình
doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước. Trong quá trình
hoạt động, tất cả các doanh nghiệp đều phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà
nước đúng thời hạn và đầy đủ. Ngược lại, ngân sách Nhà nước cũng có sự tài trợ về
mặt tài chính thơng qua việc cấp vốn cho một số doanh nghiệp để hoạt động kinh
doanh hoặc để thực hiện chính sách kinh tế vĩ mơ của mình, hồn thuế hoặc tham
gia với các cơng ty liên doanh.
- Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với thị trường (thị trường vốn, thị
trường sức lao động, thị trường các yếu tố sản xuất): Đặc trưng cơ bản của kinh tế

thị trường là các mối quan hệ kinh tế đều được thực hiện thông qua thị trường. Với
tư cách là người kinh doanh, hoạt động của doanh nghiệp không thể tách rời thị
trường. Thị trường càng phát triển và có tính đồng bộ cao thì doanh nghiệp càng có
nhiều khơng gian để phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
- Quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp: đó là quan hệ thanh tốn lương,
phân chia cổ tức, lợi nhuận… Những quan hệ này đảm bảo lợi ích hài hồ giữa
doanh nghiệp với mỗi bộ phận và cá nhân, tạo điều kiện cho sự ổn đinh về hoạt


động tài chính của doanh nghiệp, góp phần phát triển hoạt động kinh doanh.
Các quan hệ kinh tế trên thể hiện trong sự vận động của tài sản và nguồn vốn
trong mỗi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế để đạt được sự tăng trưởng bền vững.
1.1.1.2. Chức năng của hoạt động tài chính doanh nghiệp
Với các mối quan hệ tài chính trên, chức năng của hoạt động tài chính bao gồm:
* Tạo vốn đảm bảo thỏa mãn nhu cầu cho hoạt động của sản xuất kinh doanh.
Muốn tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, doanh nghiệp
cũng cần có vốn. Tài chính doanh nghiệp có chức năng tính tốn vốn, huy động, lựa
chọn các nguồn vốn phù hợp, sử dụng đúng mục đích, tính chất nhằm khai thác tối
đa hiệu quả của vốn.
* Giám đốc, kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tài chính doanh nghiệp thực hiện việc kiểm tra thơng qua phân tích các chỉ
tiêu tài chính. Thơng qua phân tích tỉ trọng, cơ cấu nguồn vốn, các nhà quản lý có
thể đánh giá sự phù hợp về việc trài trợ nguồn vốn đối với đặc điểm của họat động
kinh doanh. Qua các mối quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với người mua,
người bán, Ngân sách Nhà nước, ngân hàng, cán bộ CNV về việc thanh toán để
kiểm tra việc chấp hành tài chính, kỷ luật thanh tốn của đơn vị. Từ những thơng tin
đó giúp cho chủ thể quản lý phát hiện những khâu mất cân đối trong quan hệ thanh
toán để có biện pháp ứng xử kịp thời nhằm duy trì và nâng cao hiệu quả của hoạt
động kinh doanh. Thông qua doanh thu, chi phí và lợi nhuận để đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn của doanh nghiệp.

Chức năng giám đốc (kiểm tra) của tài chính doanh nghiệp là chức năng cơ
bản, xun suốt tồn bộ q trình hoạt động kinh doanh. Thơng qua q trình kiểm
tra phát hiện các hiện tượng tài chính khơng lành mạnh, từ đó có biện pháp ngăn
chặn kịp thời nhằm mang lại lợi nhuận cao và uy tín cho doanh nghiệp.
* Phân phối lợi nhuận của hoạt động tài chính doanh nghiệp.
Thu nhập bằng tiền của doanh nghiệp thông qua chức năng phân phối của tài
chính doanh nghiệp trước hết sẽ bù đắp cho các chi phí bỏ ra trong q trình sản
xuất như bù đắp hao mịn máy móc thiết bị, trả lương cho người lao động, trả tiền


mua nguyên, nhiên vật liệu trong kỳ kinh doanh và mua dự trữ cho kỳ tiếp theo, nộp
thuế cho nhà nước… Phần cịn lại doanh nghiệp dùng hình thành các quỹ của doanh
nghiệp nhằm thực hiện bảo toàn và phát triển vốn cho doanh nghiệp hoặc trả cổ tức
cho cổ đơng (nếu có).
Chức năng này nếu được vận dụng linh hoạt và hợp lý sẽ tạo ra các động lực
kinh tế tác động tích cực tới năng suất lao động, kích thích tăng cường tích tụ và thu
hút vốn, thúc đẩy tăng vịng quay vốn, kích thích tiêu dùng xã hội.
1.1.1.3. Vai trị của tài chính doanh nghiệp
Với bản chất, chức năng kể trên, tài chính doanh nghiệp thể hiện vai trị hết
sức quan trọng thơng qua các mặt chủ yếu sau:
* Vai trò huy động và khai thác mọi nguồn lực tài chính nhằm đảm bảo yêu
cầu kinh doanh của doanh nghiệp và tổ chức sử dụng vốn một cách có hiệu quả.
Doanh nghiệp cần vốn để hoạt động kinh doanh. Khi nền kinh tế đã có nhu
cầu về vốn thì tất yếu nảy sinh việc cung ứng vốn, thị trường vốn được hình thành
và các quy luật cung, cầu về vốn có mơi trường hoạt động. Trong điều kiện này các
doanh nghiệp chủ động trong việc khai thác, thu hút các nguồn vốn trên thị trường
đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh. Do vậy, các nhà quản lý cần phải xác định
chính xác nhu cầu vốn, lựa chọn các phương án đầu tư hiệu quả cao, sử dụng các
đòn bẩy kinh tế như lợi tức cổ phần, lãi suất tiền vay, ưu tiên đầu tư… như vậy mới
huy động vốn một cách tối đa. Mặt khác doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp tăng

nhanh vịng quay của vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn, tiết kiệm các khoản
chi phí, bảo đảm vốn sử dụng có hiệu quả. Đó chính là vai trị của tài chính doanh
nghiệp trong việc huy động và sử dụng vốn.
* Vai trị là địn bẩy kích thích và điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để điều hịa lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong tổng thể môi trường kinh
doanh phải có vai trị điều tiết của tài chính doanh nghiệp. Thơng qua các kế hoạch
tài chính, thực lực về vốn để tạo ra sức mua hợp lý các yếu tố sản xuất, thua hút
nguồn lao động đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh. Căn cứ vào giá thành sản
xuất và các yếu tố khác về tài chính để xây dựng giá bán hợp lý, góp phần thúc đẩy


q trình tiêu thụ, tăng nhanh vịng quay của vốn. Chính sách phân phối lợi nhuận,
chế độ tiền lương, tiền thưởng góp phần tăng năng suất lao động. Vai trị kích thích
hoặc điều tiết hoạt động kinh doanh của tài chính phát huy ngay trong từng quyết
định tác nghiệp của chủ thể quản lý.
Như vậy vai trị của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động
đối với hoạt động kinh doanh là do tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ
quan. Nhân tố chủ quan phụ thuộc vào khả năng, trình độ điều hành của người
quản lý đối với chất lượng của các quyết định. Nhân tố khách quan phụ thuộc vào
môi trường kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh và mức độ can thiệp của Nhà nước
vào nền kinh tế.
1.1.1.4. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động tài chính doanh nghiệp
Các hoạt động tài chính của doanh nghiệp được vận hành tuân theo các
nguyên tắc cơ bản sau đây:
* Nguyên tắc kế hoạch
Tài chính doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của các nhân tố bên trong và bên
ngoài tới từng nội dung, kết quả hoạt động. Việc kế hoạch hoá khâu huy động và sử
dụng vốn giúp doanh nghiệp không những chủ động trong việc cung ứng đủ vốn và
kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà cịn kiểm sốt được việc sử dụng
vốn đúng mục đích, đúng tính chất.

* Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả
Vốn là một trong những nguồn lực cơ bản của mọi doanh nghiệp. Tuy nhiên
khả năng huy động nguồn lực này của bất kỳ doanh nghiệp nào là có hạn tại những
thời điểm cụ thể trong khi nhu cầu vốn ln cao hơn rất nhiều. Vì thế, sử dụng vốn
một cách tiết kiệm và có hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi
doanh nghiệp.
* Nguyên tắc pháp lý
Tài chính doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính quốc
gia, là cơng cụ quan trọng để quản lý sản xuất kinh doanh của bất cứ tổ chức kinh tế
nào. Do vậy hoạt động tài chính của doanh nghiệp muốn có hiệu quả đúng pháp luật
phải tuân thủ chế độ tài chính Nhà nước.


Hoạt động tài chính của doanh nghiệp, bên cạnh những đặc điểm chung chi
phối bởi các nguyên tắc hoạt động và chức năng của nó, cịn mang những đặc thù
của lĩnh vực, ngành mà doanh nghiệp đó tham gia. Đối với hoạt động xây dựng cơ
bản, những đặc thù của ngành đã tạo nên những đặc trưng của hoạt động tài chính
trong các doanh nghiệp xây dựng.
1.1.1.5. Một số đặc trưng của hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp
xây dựng cơ bản
Hoạt động xây lắp là một loại hình sản xuất kinh doanh phức tạp và khó quản
lý. Sản phẩm của ngành xây lắp thường có đặc điểm là có tính đơn chiếc, cố định,
quy mơ lớn, kết cấu phức tạp, thời gian thi công kéo dài và chịu ảnh hưởng rất lớn
của yếu tố thời tiết. Tất cả những đặc thù này đã làm hình thành nên những đặc thù
của hoạt động tài chính của doanh nghiệp xây lắp:
- Vòng quay vốn dài, tốc độ thu hồi vốn chậm: Do thời gian thi cơng kéo
dài có thể tới hàng năm, việc thanh toán của chủ đầu tư cho nhà thầu phải được
thực hiện thành nhiều lần. Theo quy định về quản lý đầu tư hiện hành, chủ đầu
tư, ngồi phần ứng trước, sẽ thanh tốn cho nhà thầu theo từng khối lượng cơng
việc hồn thành quy ước. Việc thanh toán phải dựa trên hợp đồng xây dựng, biên

bản nghiệm thu kỹ thuật. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn hoàn thành quy ước này cũng
có thể kéo dài từ vài tháng đến vài năm. Vì thế, việc thiếu vốn xẩy ra trong
ngành xây dựng rất phổ biến.
- Hoạt động của doanh nghiệp xây dựng cơ bản chủ yếu dựa trên nguồn vốn
vay-nợ. Đây là điều tất yếu vì giá trị các cơng trình thi cơng rất lớn, việc thanh tốn
lại nhỏ giọt và phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong khi vốn chủ sở hữu không thể đáp
ứng được nhu cầu vốn. Do đó, cấu trúc tài chính của các doanh nghiệp xây dựng
thường không vững chắc, doanh nghiệp chịu áp lực thanh toán lớn.
- Hiệu quả hoạt động thấp: do địa bàn sản xuất phân tán, do thói quen công
trường chưa chú trọng nhiều đến hiệu quả kinh tế, cơng tác quản trị chi phí-giá
thành cịn yếu và gặp nhiều khó khăn. Tỷ suất lợi nhuận thấp.


- Nợ tồn đọng trong xây dựng cơ bản rất lớn: Nhà thầu vừa là chủ nợ vừa là
con nợ. Nợ xây dựng cơ bản ngày càng tăng và kéo dài thành vòng luẩn quẩn: chủ
đầu tư nợ nhà thầu, nhà thầu nợ ngân hang, nợ thuế, nợ các đơn vị cung cấp vật liệu
xây dựng, nợ công nhân viên, nhà thầu chính nợ nhà thầu phụ; các doanh nghiệp.
Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các doanh nghiệp. Một thực
trạng phổ biến trong ngành xây dựng là nhiều doanh nghiệp lãi to trên báo cáo
nhưng lại khơng có tiền để trả nợ, có doanh nghiệp đứng trên bờ phá sản vì vừa là
chủ nợ vừa là con nợ.
Tóm lại, tài chính doanh nghiệp là bức tranh sinh động phản ánh chân thực
trạng thái tồn tại và xu hướng cũng như tiềm năng phát triển của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, để có được những thơng tin cuối cùng cung cấp cho những người quan tâm
cần phải thông qua một q trình thu thập, phân tích, xử lý thơng tin – đó là q
trình phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.1.2. Phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp
* Khái niệm
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và

các công cụ cho phép xử lý các thơng tin kế tốn và các thơng tin khác về quản lý
nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và
chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.
* Ý nghĩa, mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh
doanh và có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Do đó, phân tích tài chính có một vai trị quan trọng, thể hiện trên hai mặt sau:
- Phân tích tình hình tài chính cho phép đánh giá đầy đủ, chính xác tình hình
phân phối, sử dụng và quản lý các loại vốn, nguồn vốn, vạch rõ khả năng tiềm tàng
về vốn của xí nghiệp. Trên cơ sở đó đề ra biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,
tích luỹ và tăng cường tiềm lực tài chính.


- Phân tích tài chính giúp cho cơng tác quản lý Nhà nước về kinh tế và phục
vụ cho các đối tượng quan tâm khác.
Ngày nay, phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong mọi đơn
vị kinh tế thuộc các loại hình kinh tế khác nhau với quy trình thực hiện có tính khoa
học và linh hoạt. Sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của các đơn vị kinh tế
nói riêng đang bộc lộ rõ nét tính đa dạng và phức tạp của hoạt động tài chính. Do
đó, một mặt tạo cơ hội cho phân tích tài chính phát triển và ngày càng hồn thiện
với tư cách là cơng cụ phân tích có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển lành
mạnh và bền vững của tài chính doanh nghiệp, mặt khác đặt ra yêu cầu ngày càng
cao đối với công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Theo đó, mục tiêu trước hết
của phân tích tài chính doanh nghiệp là cung cấp kịp thời, trọng tâm và tồn diện
nhất thơng tin tài chính cho người sử dụng tin. Những người phân tích tài chính ở
những cương vị khác nhau nhằm tới các mục tiêu khác nhau.
- Đối với nhà quản trị doanh nghiệp: là người trực tiếp quản lý doanh nghiệp,
người quản lý cần thơng tin tài chính để phục vụ cho việc ra các quyết định quản lý.
Cụ thể các mục tiêu sau:
+ Tạo ra những chu kỳ đều đặn để đánh giá hoạt động quản lý trong giai đoạn

đã qua, việc thực hiện cân bằng tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh tốn,
rủi ro tài chính doanh nghiệp…
+ Định hướng các quyết định của Ban giám đốc phù hợp với tình hình thực tế
của doanh nghiệp như quyết định đầu tư, tài trợ, phân phối lợi nhuận…
+ Làm cơ sở cho những dự đốn tài chính
+ Là một cơng cụ để kiểm tra, kiểm sốt hoạt động, quản lý trong doanh nghiệp.
- Đối với những đối tượng quan tâm ngoài doanh nghiệp:
+ Các nhà đầu tư: là những người giao vốn của mình cho doanh nghiệp quản
lý và thu lời dựa trên kết quả hoạt động của doanh nghiệp (lợi tức và thặng dư giá
trị của vốn). Do đó, các nhà đầu tư quan tâm tới hoạt động tài chính doanh nghiệp
trên giác độ hiệu quả sử dụng vốn, khả năng sinh lời của doanh nghiệp là chủ yếu vì
nó liên quan trực tiếp nhất đến lợi ích trước mắt và lâu dài cũng như mức độ rủi ro


có thể gặp phải khi đầu tư của nhà đầu tư, đồng thời là cơ sở để nhà đầu tư đưa ra
quyết định có tiếp tục đầu tư hay khơng và phương thức đầu tư như thế nào. Các
nhà đầu tư dựa vào những nhà chuyên môn trung gian (chuyên gia phân tích tài
chính) nghiên cứu những thơng tin kinh tế tài chính, làm rõ triển vọng phát triển của
doanh nghiệp và đánh giá các cổ phiếu trên thị trường tài chính.
+ Người cho vay (cá nhân, tổ chức tín dụng, ngân hàng…): đây là những
người cho doanh nghiệp vay vốn để đảm bảo nhu cầu sản xuất kinh doanh. Thu
nhập của họ là lãi suất tiền vay – là khoản thu nhập hình thành trong tương lai, do
đó phân tích tài chính đối với người cho vay khơng chỉ đơn giản là xác định khả
năng hoàn trả nợ của khách hàng mà còn là đánh giá hiệu quả hoạt động và hiệu quả
sinh lời của doanh nghiệp để làm cơ sở đánh giá rủi ro cho vay.
Đối với những khoản cho vay ngắn hạn: vì nguồn trả là doanh thu mà doanh
nghiệp thu được trong thời hạn tồn tại của khoản vay nên người cho vay luôn quan
tâm trước hết đến tình hình kinh doanh (hoạt động) của doanh nghiệp vì nó ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Đối với các khoản cho vay dài hạn: vì nguồn trả lấy từ lợi nhuận và khấu hao

hàng năm nên người cho vay quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoàn trả trong
tương lai và khả năng phát triển thể hiện qua hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
+ Đối với nhân viên của doanh nghiệp: đây là những người có nguồn thu
nhập duy nhất là tiền lương được trả. Tuy nhiên, trong một số doanh nghiệp cổ
phần, người hưởng lương có một phần cổ phiếu nhất định trong doanh nghiệp. Đối
với những doanh nghiệp này, người hưởng lương có thu nhập từ tiền lương được trả
và tiền lời được chia. Cả hai khoản thu nhập này phụ thuộc vào kết quả của hoạt
động sản xuất kinh doanh. Do vậy, phân tích tài chính giúp họ định hướng việc làm
ổn định của mình và yên tâm dốc sức vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp tùy theo công việc được phân công đảm nhiệm.
Như vậy, phân tích tài chính là cơng cụ hữu ích được dùng để xác định giá trị
kinh tế, để đánh giá các mặt mạnh, mặt yếu của một doanh nghiệp, tìm ra nguyên
nhân khách quan và chủ quan, giúp cho từng đối tượng lựa chọn và đưa ra được
những quyết định phù hợp với mục đích mà họ quan tâm.


1.1.2.2. Các phương pháp phân tích tài chính trong doanh nghiệp
Hoạt động tài chính là nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh, do vậy,
phân tích tài chính là công cụ đắc lực cho mọi quyết định kinh doanh của doanh
nghiệp. Để thơng tin phân tích mang tính tổng hợp và toàn diện, thể hiện khách
quan thực trạng tài chính doanh nghiệp và phát huy tối đa vai trị của nó đối với việc
ra quyết định kinh doanh, nên sử dụng kết hợp nhiều phương pháp phân tích, kết
hợp phân tích tổng hợp với phân tích trọng điểm, chuyên đề.
Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp là hệ thống các phương pháp
nhằm tiếp cận nghiên cứu đánh giá các sự kiện, hiện tượng, quan hệ, các luồng
chuyển dịch và biến đổi tài chính trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay có sáu phương pháp phân tích tài chính thơng dụng:
a) Phương pháp chi tiết:
Trong phân tích tài chính, phương pháp chi tiết là phương pháp phân chia đối
tượng phân tích theo một tiêu thức phù hợp và thực hiện phân tích trên các đơn vị

được phân chia đó nhằm thu được thơng tin tồn diện về mọi mặt của đối tượng
phân tích. Phương pháp này thích hợp với những đối tượng phân tích có tính phức
tạp và chịu ảnh hưởng của yếu tố thời vụ.
- Chi tiết theo các bộ phận cấu thành chỉ tiêu: Mọi kết quả kinh doanh biểu
hiện trên các chỉ tiêu đều bao gồm nhiều bộ phận. Chi tiết các chỉ tiêu theo các bộ
phận cùng với sự biểu hiện về lượng của các bộ phận đó sẽ giúp ích rất nhiều trong
việc đánh giá chính xác các kết quả đạt được. Với ý nghĩa đó phương pháp chi tiết
theo bộ phận cấu thành được sử dụng rộng rãi trong phân tích mọi mặt hoạt động tài
chính. Chẳng hạn, khi phân tích giá thành, chỉ tiêu giá thành, chỉ tiêu giá thành đơn
vị sản phẩm gồm nhiều khoản mục chi phí… Phương pháp phân tích như sau:
+ Xây dựng mối quan hệ giữa chỉ tiêu tổng thể và các bộ phận cấu thành chỉ tiêu:
y = y1 + y2 + y3 + …
+ Xem xét mức độ biến động của từng chỉ tiêu bộ phận và ảnh hưởng của các
chỉ tiêu đó đến chỉ tiêu tổng thể.


- Chi tiết theo thời gian: Chi tiết theo thời gian ( Ví dụ: tháng, quý, năm…)
giúp cho việc đánh giá tình hình tài chính được sát đúng và tìm được giải pháp có
hiệu quả cho cơng việc kinh doanh.
- Chi tiết theo địa điểm: Phân xưởng, tổ đội… nhằm:
+ Đánh giá kết quả thực hiện hạch toán kinh doanh nội bộ
+ Phát hiện đơn vị tiên tiến hoặc lạc hậu
+ Khai thác các khả năng tiềm tàng về sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn, đất
đai… trong kinh doanh
Phương pháp chi tiết được sử dụng rộng rãi trong phân tích mọi mặt hoạt
động tài chính của doanh nghiệp.
b) Phương pháp so sánh:
So sánh cũng là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để xác
định xu hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Vì vậy để tiến hành so
sánh, phải giải quyết những vấn đề cơ bản sau: Xác định số gốc để so sánh, xác định

điều kiện so sánh, và xác định mục tiêu so sánh.
Xác định số gốc để so sánh phụ thuộc và mục đích cụ thể để phân tích
+ Khi nghiên cứu nhịp độ biến động của các chỉ tiêu, số gốc để so sánh là trị
số của chỉ tiêu kỳ trước.
+ Khi nghiên cứu nhịp điệu thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong từng
khoảng thời gian trong một năm thường so sánh với cùng kỳ năm trước.
+ Khi đánh giác mức độ biến động so với mục tiêu đã dự kiến, trị số thực tế
sẽ được so sánh với mục tiêu đã đề ra (Kế hoạch, dự toán…)
+ Khi nghiên cứu khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường có thể so sánh số
thực tế với mức hợp đồng hoặc tổng nhu cầu…
Các trị số kỳ trước, kế hoạch, hoặc cùng kỳ năm trước gọi chung là kỳ gốc.
Thời kỳ chọn để phân tích gọi tắt là kỳ phân tích.
Điều kiện so sánh được:
+ Bảo đảm tính thống nhất về nội dung kinh tế của chỉ tiêu. Chẳng hạn nội
dung kinh tế có thể bị thu hẹp hay mở rộng phân ngành sản xuất kinh doanh do
phân chia đơn vị thì các chỉ tiêu cần được tính toán lại cho phù hợp.


+ Bảo đảm tính thống nhất về phương pháp tính các chỉ tiêu.
+ Bảo đảm tính thống nhất về đơn vị tính các chỉ tiêu cả về số lượng, thời
gian và giá trị.
Mục tiêu so sánh trong phân tích tài chính là xác định mức biến động tuyệt
đối và mức biến động tương đối cùng xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích.
Mức biến động tuyệt đối được xác định dựa trên cơ sở so sánh trị số của chỉ tiêu
giữa 2 kỳ: kỳ phân tích và kỳ gốc. Mức biến động tương đối là kết quả so sánh giữa
số thực tế với số gốc đã được điều chỉnh theo một hệ số của chỉ tiêu có liên quan
theo hướng quyết định quy mơ của chỉ tiêu phân tích.
Phương pháp phân tích:
- Xác định mức độ biến động giữa trị số kỳ phân tích (y1) và trị số kỳ gốc (y0):
Mức độ biến động tuyệt đối: ∆y = y1 – y0

Mức độ biến động tương đối: ∆ytđ = y1/y0 -1
- Nhận xét tình hình biến động và xu hướng biến động của yếu tố phân tích.
c) Phương pháp loại trừ:
Là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả
kinh doanh bằng cách loại trừ ảnh hưởng của nhân tố khác. Phương pháp này cho
phép xác định rõ ràng nguyên nhân của sự biến động chỉ tiêu phân tích và thích hợp
với việc phân tích mối quan hệ nguyên nhân – kết quả.
Điều kiện để áp dụng phương pháp loại trừ:
+ Các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích dưới dạng một tích số hoặc
một thương số.
+ Việc sắp xếp xác định ảnh hưởng các nhân tố theo quy luật “Lượng biến
dẫn đến chất biến”
Phương pháp phân tích như sau:
+ Xây dựng mối quan hệ giữa các chỉ tiêu theo dạng hàm số:
y = f(X) = A x X1 x X2 x …
+ Đặt giả thuyết các nhân tố khác không thay đổi, xem xét sự ảnh hưởng của
từng nhân tố riêng biệt với trị số so sánh là của kỳ gốc và kỳ phân tích:


∆y1 = A x (X11 – X10) x X20 x …
∆y2 = A x X11 x (X21- X20) x …
………
+ Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố để xác định ảnh hưởng của toàn bộ
nhân tố đến nhân tố phân tích.
∑∆y = ∆y1 + ∆y2 + …
Phương pháp này dùng để nghiên cứu đánh giá sự ảnh hưởng của các yếu tố
cá biệt tới sự nghiên cứu trong điều kiện giả định sự biến động nhân tố diễn ra lần
lượt từ nhân tố số lượng đến nhân tố chất lượng và khi một nhân tố biến động thì
các nhân tố khác cịn lại khơng biến động. Nhưng trong thực tế mỗi sự kiện kinh tế
thị trường bị ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố, đặc biệt là nhân tố khách quan. Các

nhân tố ảnh hưởng không xảy ra tuần tự và lần lượt, khi một nhân tố ảnh hưởng
biến đổi, các nhân tố khác khơng vì thế mà khơng biến động. Từ sự phân tích trên,
cơ sở khoa học của sự giả định là chưa đủ tính thuyết phục, và do đó phương pháp
loại trừ chỉ nên sử dụng như một phương pháp tham khảo trong phân tích tài chính.
d) Phương pháp tỷ lệ:
Phương pháp phân tích tỉ lệ là phương pháp dựa trên ý nghĩa tỷ lệ của các
lượng tài chính trong các quan hệ tài chính, sự biến đổi của các tỷ lệ do sự biến đổi
của các lượng tài chính để đánh giá các hoạt động tài chính và hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong phân
tích tài chính vì nó dễ sử dụng và cho phép đánh giá tồn bộ tình hình tài chính và
các nội dung tài chính quan trọng trong thời gian ngắn với độ chính xác cao.
Các tỷ lệ thường dùng trong phân tích tài chính:
- Các tỷ lệ phản ánh khả năng thanh toán: Tỷ lệ thanh toán, Tỷ lệ thanh toán
nợ ngắn hạn, Tỷ lệ thanh toán nhanh (Tức thời) …
- Các tỷ lệ phản ánh hiệu quả kinh doanh: Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn bình quân,
Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân, Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu, Tỷ lệ lợi
nhuận trên TSCĐ, Tỷ lệ doanh thu trên TSCĐ…
Phương pháp phân tích: so sánh tỷ lệ kỳ phân tích với kỳ gốc để xác định xu
hướng biến động và quy mô biến động của chỉ tiêu.


e) Phương pháp liên hệ:
Mọi kết quả kinh doanh đều có mối quan hệ mật thiết với nhau giữa các mặt,
các bộ phận… Do đó, khi phân tích khơng thể tách rời từng mặt, bộ phận mà phải
đặt chúng trong mối liên hệ với các mặt, bộ phận khác. Có các liên hệ phổ biến sau:
- Liên hệ cân đối: Có cơ sở là sự cân bằng về lượng giữa hai mặt của các yếu
tố và quá trình kinh doanh: giữa tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn, giữa nhu cầu
và khả năng thanh toán, giữa thu với chi và kết quả kinh doanh…
- Liên hệ trực tuyến: Là mối quan hệ theo một hướng xác định giữa các chỉ
tiêu phân tích. Chẳng hạn, lợi nhuận có quan hệ cùng chiều với lượng hàng bán ra,

và có quan hệ ngược chiều với giá thành, tiền thuế…
- Liên hệ phi tuyến: là mối liên hệ giữa các chỉ tiêu, trong đó mức độ liên hệ
khơng được xác định theo tỉ lệ và chiều hướng luôn biến đổi. Chẳng hạn liên hệ
giữa lượng vốn sử dụng với sức sinh lời của vốn
g) Phương pháp hồi quy tương quan:
Là phương pháp quan sát mối quan hệ giữa tiêu thức kết quả với một hay
nhiều tiêu thức nguyên nhân. Mối liên hệ được biểu hiện bằng biểu thức toán học.
Ngày nay với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều phần mềm máy tính được
sử dụng cho phương pháp hồi quy. Tuy nhiên cũng sẽ có những nhược điểm cần
phải khắc phục vì phương pháp này dựa trên quy luật số lớn và phụ thuộc nhiều vào
nội dung của mẫu được chọn.
Ngồi ra, doanh nghiệp có thể sử dụng phương pháp khác như phương pháp
đồ thị, phương pháp DUPONT… Trong đó, phương pháp DUPONT được coi là
phương pháp phân tích hiện đại và hữu ích đối với cơng tác quản trị tài chính, đặc
biệt là quản trị vốn. Phương pháp Dupont được Cơng ty Dupont (Mỹ) tìm ra và sử
dụng đầu tiên để phân tích các chỉ số tài chính. Phương pháp này sử dụng phương
trình Dupont hay cịn gọi là phương trình hồn vốn (ROI) để phân tích.
Phương trình Dupont được xây dựng như sau:
Tỷ suất lợi nhuận
sau thuế vốn
kinh doanh

Tỷ suất lợi nhuận sau
= thuế trên doanh thu

Vịng quay
x

tồn bộ vốn



Mơ hình phân tích như sau:
TỶ LỆ SUẤT LỢI NHUẬN
SAU THUẾ TRÊN VỐN
KINH DOANH

Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế trên doanh thu

Lợi nhuận
sau thuế

chia

Doanh thu
thuần

Doanh thu
thuần

trừ

Giá vốn hàng
bán

Thuế thu
nhập doanh
nghiệp

Vòng quay tổng vốn


nhân

Doanh thu
thuần

chia

Tổng vốn sản
xuất

Tổng chi phí

Vốn lưu động

cộng

Vốn cố định

Chi phí quản


Vốn bằng tiền

Giá trị cịn lại của
tài sản cố định

Các khoản phải
thu


Các khoản phải
thu dài hạn

Vật tư hàng
hoá

Bất động sản đầu


Đầu tư tài
chính ngắn hạn

Đầu tư tài chính
dài hạn

Tài sản ngắn
hạn khác

Tài sản dài hạn
khác

Chi phí bán
hàng
Chi phí hoạt
động tài
chính
Chi phí bất
thường

- Bên phải: thiết lập mối liên hệ giữa các khoản mục qua các phép toán đại số

để nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến vòng quay của vốn.
- Bên trái: thiết lập mối liên hệ giữa các khoản mục qua các phép toán đại số
nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ lãi thuần.


Các phương pháp phân tích tài chính rất phong phú và đa dạng, sử dụng thành
thạo các phương pháp phân tích góp phần nâng cao hiệu quả của phương pháp phân
tích tài chính và khi đó chất lượng nội dung phân tích sẽ được nâng cao hơn.
1.1.2.3. Tài liệu và nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính là cơng cụ quan trọng giúp các đối tượng đưa ra quyết
định phù hợp với mục tiêu mà họ quan tâm. Thơng tin phân tích phải đảm bảo tính
tồn diện và xác thực. Việc lựa chọn tài liệu phân tích có ảnh hưởng lớn đến giá trị
của các thơng tin phân tích.
a) Các tài liệu dùng trong phân tích tài chính của doanh nghiệp
Để tiến hành phân tích tài chính, người ta sử dụng nhiều tài liệu khác nhau.
Tài liệu quan trọng nhất được sử dụng trong phân tích tình hình tài chính của doanh
nghiệp là báo cáo tài chính. Theo chuẩn mực kế tốn quốc tế số 01, báo cáo tài
chính là sự trình bày có tính cấu trúc vị trí tài chính và tình hình tài chính của một
đơn vị; mục đích tổng quát của báo cáo tài chính là cung cấp thơng tin về vị trí tài
chính và tình hình tài chính cũng như các luồng tiền của một đơn vị mà giúp ích
đáng kể cho người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế; báo cáo tài
chính cũng phản ánh hiệu quả quản lý các nguồn lực của đơn vị của nhà quản trị
đơn vị đó; để đạt được mục đích này, báo cáo tài chính cung cấp thơng tin về tài
sản, nợ, vốn chủ sở hữu, thu nhập và chi phí (bao gồm cả lãi và lỗ), các sự thay đổi
về vốn chủ sở hữu và luồng tiền; những thông tin này, cùng với các thông tin khác
trong Thuyết minh báo cáo tài chính, giúp người sử dụng báo cáo tài chính dự đốn
được dịng tiền tương lai. Một bộ báo cáo tài chính đầy đủ bao gồm: bảng cân đối
kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo
cáo tài chính và báo cáo về tình hình biến động vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, hệ
thống báo cáo tài chính của Việt Nam hiện nay chưa tách riêng báo cáo về tình hình

biến động vốn chủ sở hữu mà gộp nội dung này vào trong thuyết minh báo cáo tài
chính.
Các báo cáo sử dụng trong phân tích phải có tính liên tục và thống nhất về
mặt thời gian để đảm bảo tính so sánh được, đồng thời phải là báo cáo lập ở cấp cao


nhất để đảm bảo thơng tin trình bày trong báo cáo là những thơng tin phản ánh tổng
qt, tồn diện tình hình tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu ở thời điểm lập
báo cáo tài chính, tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ báo cáo của
toàn đơn vị. Cụ thể, đối với các khách thể phân tích là cơng ty mẹ và tập đồn, báo
cáo tài chính sử dụng để phân tích là các báo cáo tài chính hợp nhất, bao gồm bảng
cân đối kế toán hợp nhất, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất, báo cáo
lưu chuyển tiền tệ hợp nhất và bản thuyết minh báo cáo tài chính hợp nhất; với
khách thể phân tích là các đơn vị kế tốn trực thuộc hoặc Tổng Cơng ty nhà nước
thành lập và hoạt động theo mơ hình khơng có cơng ty con, cần thu thập báo cáo tài
chính tổng hợp, gồm bảng cân đối kế toán tổng hợp, báo cáo kết quả kinh doanh
tổng hợp, báo cáo lưu chuyển tiền tệ tổng hợp và bản thuyết minh báo cáo tài chính
tổng hợp. Theo chuẩn mực kế tốn quốc tế số 27, báo cáo tài chính hợp nhất hay
báo cáo tài chính tổng hợp là báo cáo trong đó tổng hợp tồn bộ vốn đầu tư trong
các cơng ty con/cơng ty thành viên. Nội dung trình bày ở các báo cáo này như sau:
• Bảng cân đối kế tốn:
Bảng cân đối kế tốn là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng qt tồn
bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp tại một
thời điểm nhất định. Bảng cân đối kế toàn có ý nghĩa rất quan trọng trong cơng tác
quản lý doanh nghiệp. Khi xem xét bảng cân đối kế toán được lập tại một thời điểm
nào đó, người đọc thu được thơng tin về tồn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh
nghiệp theo cơ cấu của tài sản, nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn hình thành các tài
sản tại thời điểm đó; khi so sánh bảng cân đối kế toán được lập tại các thời điểm
liên tục, người đọc thu được thông tin về sự biến động tài sản và nguồn vốn của
doanh nghiệp, tình hình tài chính thể hiện qua năng lực tài chính, cấu trúc tài chính,

… của doanh nghiệp. Với vai trị đó, người phân tích tài chính sử dụng bảng cân đối
kế tốn làm cơ sở cho việc tính tốn các chỉ tiêu phân tích như chỉ tiêu về khả năng
thanh tốn, chỉ tiêu về tình hình đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, cấu
trúc tài chính, từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá về khái quát tình hình tài chính của
doanh nghiệp cũng như phân tích tình hình sử dụng vốn, khả năng huy động nguồn
vốn vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.


Cấu trúc của bảng cân đối kế toán gồm hai phần phản ánh vốn (tài sản) và
nguồn vốn (nguồn hình thành tài sản).
- Phần tài sản: phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có tại thời điểm lập báo
cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Về mặt kinh tế, phần tài sản
phản ánh quy mô và kết cấu các tài sản của doanh nghiệp đang tồn tại dưới mọi
hình thức hữu hình và vơ hình. Về mặt pháp lý, số lượng của các chỉ tiêu bên phần
tài sản thể hiện số vốn đang thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp.
Kết cấu phần tài sản gồm:
+ Tài sản ngắn hạn là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp mà
thời gian sử dụng, thu hồi luân chuyển trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh,
bao gồm tiền và các khoản tương đương tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn,
các khoản phải thu ngắn hạn, hàng tồn kho và các tài sản ngắn hạn khác.
+ Tài sản dài hạn gồm những tài sản tồn tại trong doanh nghiệp trong một
thời gian dài mà giá trị của chúng chuyển dần vào sản phẩm trong nhiều chu kỳ
kinh doanh và những tài sản khác không được phản ánh trong chỉ tiêu tài sản ngắn
hạn. Tài sản dài hạn gồm các khoản phải thu dài hạn, tài sản cố định (tài sản cố định
hữu hình, vơ hình, hao mịn tài sản cố định, chi phí xây dựng cơ bản dở dang), bất
động sản đầu tư, các khoản đầu tư tài chính dài hạn và tài sản dài hạn khác.
- Phần nguồn vốn: phản ánh những nguồn vốn mà doanh nghiệp quản lý và
đang sử dụng vào thời điểm lập báo cáo. Về mặt kinh tế, khi xem xét phần nguồn
vốn các nhà quản lý có thể thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp đang
quản lý và sử dụng, tiềm lực và khả năng tài chính cũng như mức độ độc lập trong

kinh doanh của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý, thể hiện trách nhiệm pháp lý của
doanh nghiệp đối với số vốn được hình thành từ những nguồn khác nhau.
Kết cấu nguồn vốn gồm:
+ Nợ phải trả (nợ ngắn hạn và nợ dài hạn): đây là số vốn mà doanh nghiệp
huy động được từ những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp và phải trả lại cho chủ nợ
sau một thời gian sử dụng nhất định.
+ Vốn chủ sở hữu (vốn chủ sở hữu và nguồn kinh phí và quỹ khác): thuộc sở
hữu của chủ doanh nghiệp hay những bên góp vốn, khơng phải là những khoản nợ,


khơng phải cam kết thanh tốn, sử dụng được vơ kỳ hạn. Thuộc vốn chủ sở hữu có
vốn đầu tư của chủ sở hữu, thặng dư vốn cổ phần, vốn khác của chủ sở hữu, cổ
phiếu quỹ, chênh lệch đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá hối đoái, các quỹ và dự
trữ, lợi nhuận sau thuế chưa phân phối, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
• Báo cáo kết quả kinh doanh:
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp, bao gồm kết quả kinh
doanh và kết quả khác. Số liệu trên báo cáo này cung cấp những thông tin tổng hợp
nhất về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động kỹ thuật và
kinh nghiệm quản lý của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu trình bày trên báo cáo kết quả
kinh doanh gồm doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, các khoản giảm trừ doanh
thu, doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ, giá vốn hàng bán, lợi nhuận
gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ, doanh thu hoạt động tài chính, chi phí tài
chính (trong đó có chi phí lãi vay), chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp,
lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh, thu nhập khác, chi phí khác, lợi nhuận
khác, tổng lợi nhuận kế tốn trước thuế, chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện
hành, chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hoãn lại, lợi nhuận sau thuế thu nhập
doanh nghiệp và lãi cơ bản trên cổ phiếu.
Người phân tích tài chính sử dụng báo cáo kết quả kinh doanh làm cơ sở cho
việc tính tốn các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là hiệu

quả sử dụng vốn.
• Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh tình hình luồng tiền từ tất cả các hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm hoạt động kinh doanh, hoạt động tài
chính và hoạt động đầu tư. Chuẩn mực kế toán quốc tế số 07 đã nêu rõ: Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ, khi được sử dụng kết hợp với các báo cáo tài chính khác, cung cấp
thơng tin cho phép người sử dụng đánh giá được sự thay đổi của tài sản thuần của
đơn vị, cấu trúc tài chính (bao gồm khả năng thanh toán) và khả năng tác động tới số
tiền và phương pháp đo lường thời điểm của luồng tiền nhằm thích nghi với sự thay


đổi của hồn cảnh và các cơ hội. Thơng tin về luồng tiền rất hữu ích trong việc đánh
giá khả năng tạo ra tiền và các khoản tương đương tiền của một tổ chức cũng như cho
phép người sử dụng so sánh được giá trị hiện tại của luồng tiền tương lai của các tổ
chức khác nhau. Nó đồng thời, bằng cách loại trừ những ảnh hưởng của việc sử dụng
các phương pháp hạch toán khác nhau cho cùng một nghiệp vụ kế toán, tăng cường
khả năng so sánh các báo cáo hoạt động của các tổ chức khác nhau.
Cũng theo chuẩn mực này, báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh các luồng tiền
trong suốt kỳ báo cáo và phân loại theo nội dung hoạt động là hoạt động kinh doanh,
hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Mỗi tổ chức sẽ trình bày báo cáo lưu chuyển
tiền tệ theo một mẫu riêng phù hợp nhất với đặc điểm kinh doanh của mình. Việc
phân chia theo nội dung hoạt động cho phép người sử dung đánh giá được tác động
của những nội dung hoạt động đó đến vị trí tài chính của tổ chức và quy mơ của các
khoản tiền và tương đương tiền. Trong một số trường hợp, thơng tin này có thể được
sử dụng để đánh giá mối tương quan giữa các hoạt động của tổ chức.
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam, báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể được
lập theo hai phương pháp trực tiếp và gián tiếp.
- Phương pháp trực tiếp tính toán ra lưu chuyển tiền thuần cuối kỳ báo cáo
dựa trên phép cộng đại số lưu chuyển tiền thuần từ các hoạt động khác nhau của
doanh nghiệp có tính tới ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá hối đoái quy đổi ngoại tệ.

Trong phương pháp này, luồng tiền được phản ánh theo quy mô thực tế phát sinh từ
mỗi hành vi kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh bao gồm hai luồng tiền lưu
chuyển trong lĩnh vực kinh doanh: luồng tiền thu là tổng hợp của thu từ bán hàng và
thu khác từ hoạt động kinh doanh; luồng tiền chi là tổng hợp của chi trả cho người
cung cấp hàng hóa và dịch vụ, chi trả cho người lao động, chi trả lãi vay, chi nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp và chi khác từ hoạt động kinh doanh.
+ Lưu chuyển từ hoạt động đầu tư gồm hai luồng tiền lưu chuyển trong lĩnh
vực hoạt động đầu tư: luồng tiền thu là tổng hợp của thu từ thanh lý, nhượng bán tài
sản cố định và các tài sản dài hạn khác, thu hồi cho vay, bán lại các công cụ nợ của


đơn vị khác và thu lãi cho vay, cổ tức và lợi nhuận được chia; luồng tiền chi là tổng
hợp của chi để mua sắm, xây dựng tài sản cố định và các tài sản dài hạn khác, chi cho
vay, mua các công cụ nợ của đơn vị khác và chi đầu tư góp vốn vào đơn vị khác.
+ Lưu chuyển từ hoạt động tài chính gồm hai luồng tiền lưu chuyển trong lĩnh
vực hoạt động tài chính: luồng tiền thu từ phát hành cổ phiếu, nhận vốn góp của chủ
sở hữu và vay ngắn hạn, dài hạn nhận được; luồng tiền chi là tổng hợp của chi trả vốn
góp cho các chủ sở hữu, mua lại cổ phiếu của doanh nghiệp đã phát hành, tiền chi trả
nợ gốc vay, trả nợ thuê tài chính và cổ tức, lợi nhuận đã trả cho chủ sở hữu.
- Phương pháp gián tiếp cũng xác định lưu chuyển tiền thuần dựa trên cơ sở
phép cộng đại số lưu chuyển tiền thuần của các nội dung hoạt động của doanh
nghiệp là hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Tuy
nhiên, nó có điểm khác với phương pháp trực tiếp là lưu chuyển tiền thuần từ hoạt
động kinh doanh được xác định dựa trên gốc là lợi nhuận trước thuế sau khi điều
chỉnh cho các khoản khấu hao tài sản cố định, các khoản dự phòng, lãi, lỗ chênh
lệch tỷ giá hối đoái chưa thực hiện, lãi, lỗ từ hoạt động đầu tư, chi phí lãi vay; và lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh trước thay đổi vốn lưu động.
• Thuyết minh báo cáo tài chính:
Bản thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành khơng thể tách

rời của báo cáo tài chính doanh nghiệp dùng để mơ tả mang tính tường thuật hoặc
phân tích chi tiết các thơng tin số liệu đã được trình bày trong bảng cân đối kế toán,
báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng như các
thơng tin cần thiết khác giúp cho việc trình bày trung thực, hợp lý báo cáo tài chính.
Các thơng tin trình bày trên bản thuyết minh báo cáo tài chính gồm thông tin
về đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, kỳ kế toán, đơn vị tiền tệ sử dụng trong kế
toán, chuẩn mực và chế độ kế toán áp dụng, các chính sách kế tốn áp dụng (ngun
tắc ghi nhận các khoản tiền và tương đương tiền, nguyên tắc ghi nhận hàng tồn kho,
nguyên tắc ghi nhận và khấu hao tài sản cố định…), thông tin bổ sung cho các
khoản mục trình bày trong bảng cân đối kế tốn, thơng tin bổ sung cho các khoản
mục trình bày trong báo cáo kết quả kinh doanh, thông tin bổ sung cho các khoản
mục trình bày trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ và các thông tin khác.


Bên cạnh các báo cáo tài chính, người phân tích cần thu thập thêm các thơng
tin kế tốn tài chính khác sử dụng trong phân tích để kết quả phân tích trọn vẹn và
tồn diện.
Thu thập đủ tài liệu cần thiết là điều kiện tiên quyết để công việc phân tích
đạt kết quả tốt. Sau khi đã thu thập được các tài liệu cần thiết, người phân tích sẽ
tiến hành phân tích tài chính.
b) Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Để đánh giá và dự đốn tài chính, phân tích tài chính cần thực hiện bốn nội
dung cơ bản sau:
Thứ nhất, đánh giá khái qt tình hình tài chính doanh nghiệp
Để phân tích đánh giá khái qt tình hình tài chính doanh nghiệp, ta sử dụng
các báo cáo tài chính (bao gồm Bảng cân đối kế tốn, Báo cáo kết quả Kinh doanh,
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính) và các tài liệu kế tốn
khác. Trong đó, báo cáo tài chính là nguồn tài liệu quan trọng nhất vì nó cung cấp
khá đầy đủ thơng tin về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền
của một doanh nghiệp. Mục đích của việc phân tích, đánh giá nhằm cung cấp các

thơng tin cho các đối tượng về tính chủ động tài chính, tình hình thanh tốn, hướng
phát triển của doanh nghiệp. Từ đó có các nhận xét khái quát về hoạt động tài chính
của doanh nghiệp là mạnh, bình thường hoặc yếu kém để đưa ra các quyết định xử
lý phù hợp.
Để phân tích, ta lập Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh ở dạng có thể so sánh được. Số tổng cộng trên bảng cân đối kế tốn phản ánh
quy mơ về tài sản mà doanh nghiệp sử dụng trong kỳ, phản ánh khả năng huy động
vốn từ các nguồn khác nhau của doanh nghiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh. Sở
dĩ như vậy vì kết quả của quá trình luân chuyển vốn của doanh nghiệp tại một thời
điểm nhất định thể hiện trên bảng cân đối kế toán lập tại thời điểm đó. Do đó, nhìn
vào bảng cân đối kế tốn ta có thể biết sau một kỳ kinh doanh quy mơ doanh nghiệp
mở rộng ra hay thu hẹp lại (thể hiện trên quy mô vốn mà doanh nghiệp huy động cho
sản xuất kinh doanh). Như thế, sau nhiều kỳ kinh doanh liên tiếp, ta có thể khái quát
được xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Công việc này được thực hiện như sau:


+ So sánh số cuối kỳ với số đầu năm của tổng số Tài sản và Tổng số nguồn
vốn để xác định xu hướng biến động và quy mô biến động tài sản và nguồn vốn của
doanh nghiệp.
+ So sánh số cuối kỳ với số đầu năm của từng khoản mục ở cả hai bên tài sản
và nguồn vốn trên bảng cân đối kế toán. Sự so sánh này cho ta biết nguyên nhân của
sự gia tăng hay giảm đi của Tổng số tài sản và Tổng số nguồn vốn.
Số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả lũy kế mà doanh
nghiệp đạt được từ đầu năm đến cuối kỳ báo cáo. Do báo cáo này mang tính chất
thời kỳ nên việc so sánh phải đảm bảo yếu tố cùng kỳ, tức là thống nhất về mặt thời
gian so sánh (chẳng hạn so sánh kết quả kinh doanh của sáu tháng đầu năm nay với
sáu tháng đầu năm trước…). Như thế kết quả so sánh mới có ý nghĩa, đặc biệt đối
với những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực có tính thời vụ
(chẳng hạn hoạt động kinh doanh vật liệu xây dựng chịu ảnh hưởng lớn của “mùa”
xây dựng, do đó thường kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian này tốt hơn

các khoảng thời gian khác trong năm…).
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào sự tăng lên hay giảm đi về số tuyệt đối và tương
đối thì chưa thể đánh giá đúng và tồn diện tình hình tài chính. Bởi vậy cần phải
phân tích cấu trúc tài chính bao gồm cấu trúc tài sản và cấu trúc nguồn vốn.
Cấu trúc tài chính phản ánh cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn và mối quan hệ
cân bằng cấu trúc tài sản và cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp. Phân tích cấu
trúc tài chính là phân tích khái qt tình hình đầu tư và huy động vốn của doanh
nghiệp, chỉ ra các phương thức tài trợ tài sản để làm rõ những dấu hiệu về cân bằng
tài chính. Nội dung phân tích cấu trúc tài chính bao gồm phân tích cấu trúc tài sản
và phân tích cấu trúc nguồn vốn.
- Phân tích cấu trúc tài sản cho thấy mức độ biến động của từng loại tài sản
trong tổng tài sản, trên cơ sở đó, nhận ra khoản mục nào có sự biến động lớn để tập
trung phân tích và tìm ngun nhân. Mặt khác, cịn phải tìm hiểu xu hướng biến
động các loại tài sản để đánh giá mức hợp lý của việc đầu tư.
Khác với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tiến hành sản xuất ở nơi cố
định, sản phẩm có tính đại trà dẫn đến giá trị đầu tư cho nhà xưởng, dây chuyền


công nghệ hiện đại rất lớn, dẫn đến tài sản cố định chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài
sản, giá trị đầu tư tài sản cố định trong doanh nghiệp xây lắp nhỏ hơn rất nhiều.
Điều này xuất phát từ đặc điểm của hoạt động xây dựng là sản phẩm có tính đơn
chiếc và độc nhất, cố định, khơng được lưu thông trên thị trường, sản xuất phân tán
nên hoạt động đầu tư trong ngành xây lắp chủ yếu tập trung vào máy thi công, gồm
máy bán cơ giới và máy cơ giới. Giá trị của các máy thi công và công cụ thi công
thường nhỏ hơn giá trị của máy móc, dây chuyền sản xuất trong doanh nghiệp sản
xuất công nghiệp. Hơn nữa, trong cơ cấu giá trị của sản phẩm xây lắp, giá trị nhân
công chiếm tỷ trọng lớn. Do vậy, tính hợp lý tổng thể của cấu trúc tài chính của
doanh nghiệp xây lắp được thể hiện trước hết ở tài sản dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ
hơn trong tổng tài sản, tiếp đến là mức độ giá trị đầu tư đáp ứng được nhu cầu sản
xuất. Người ta sử dụng hệ số đầu tư để đánh giá mức độ đầu tư:

Tài sản cố định
Hệ số đầu tư =
Tổng số tài sản
Người ta đã tính tốn rằng với doanh nghiệp xây dựng quy mô lớn, tỷ trọng
của tài sản cố định trong tổng tài sản phải đạt đến 40% thì doanh nghiệp xây dựng
mới tạo ra được năng lực sản xuất đủ để đáp ứng tốt nhất cho nhu cầu sản xuất. Đối
với các doanh nghiệp xây dựng ở Việt Nam, trước đây, phần lớn máy thi công đều
là máy bán cơ giới nên tỷ trọng trung bình của tài sản cố định trong tổng tài sản của
các doanh nghiệp này chỉ trên dưới 10%. Gần đây, do sự đầu tư vào các máy cơ giới
như các loại cẩu với trọng tải lớn, các máy hàn, v.v…, tỷ trọng trung bình của tài
sản cố định trong tổng tài sản của các doanh nghiệp xây dựng đã tăng lên đến trên
dưới 20%, cá biệt có doanh nghiệp đạt đến gần 30%. Tuy nhiên, nhìn vào tổng thể
ngành, mức độ đầu tư của doanh nghiệp xây lắp ở Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn,
chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất.
Sau khi phân tích tính hợp lý tổng thể của cấu trúc tài sản, ta sẽ đi sâu phân
tích tính hợp lý của sự phân bố từng khoản mục tài sản, sự biến động của mỗi khoản
mục đó và ảnh hưởng của nó đến tính hợp lý tổng thể của cấu trúc tài sản. Để phân
tích, ta lập Bảng phân tích sau:


×