Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Ảnh hưởng của lãi suất đến nền kinh tế của nước ta trong giai đoạn gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.18 KB, 38 trang )

Page | 1
Nguyễn Văn Cương
LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất là một trong những biến số kinh tế vĩ mô hết sức quan trọng trong nền
kinh tế thị trường, một công cụ trong việc điều hành chính sách tiền tệ của
quốc gia. Mỗi sự thay đổi của lãi suất đều tác động trực tiếp hay gián tiếp
đến các hoạt động của nền kinh tế như các hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, hành vi tiết kiệm và đầu tư của công chúng, hoạt
động xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài. Do đó kéo theo sự thay đổi của
các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác như lạm phát, tăng trưởng thất nghiệp Bên
cạnh đó lãi suất còn được xem như là một công cụ để điều hoà mối quan
hệ lợi ích giữa các chủ thể trong nền kinh tế, mỗi sự tăng hay giảm của lãi
suất sẽ kéo theo sự khuyến khích lợi ích vật chất đối với chủ thể kinh tế
này đồng thời hạn chế lợi ích của chủ thể kinh tế khác. Lãi suất có thể sẽ
thúc đẩy sự phát triển của ngành, lĩnh vực này đồng thời kiềm chế sự phát
triển của các ngành lĩnh vực khác, tăng lợi ích của nhóm người này, giảm
lợi ích của nhóm người kia. Lãi suất còn là công cụ tạo ra các kênh chu
chuyển nguồn lực xã hội từ ngành lĩnh vực này, sang ngành lĩnh vực khác,
từ vùng này sang vùng khác. Do đó tạo ra sự thay đổi cơ cấu vùng, cơ cấu
ngành của nền kinh tế
Page | 2
Nguyễn Văn Cương
Chính vì lãi suất có một vai trò hết sức quan trọng như vậy vì thế tình
hình biến động lãi suất là một vấn đề mà hầu hết mọi người đều rất quan
tâm và được theo dõi hằng ngày.
A. KHÁI NIỆM VỀ LÃI SUẤT,CÁC LOẠI LÃI SUẤT VÀ VAI TRÒ
CỦA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ
I. KHÁI NIỆM VỀ LÃI SUẤT
-Lãi suất: là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một
khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng
tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì


hoãn chi tiêu.
II. CÁC LOẠI LÃI SUẤT CHỦ YẾU
-Lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản (prime rate), còn gọi là prime được các ngân hàng thương mại
tầm cỡ tại các trung tâm tài chính chủ lực của một nền kinh tế công bố và áp dụng
đối với các khoản nợ dành cho các doanh nghiệp là khách hàng lớn.
-Lãi suất tiết kiệm
Page | 3
Nguyễn Văn Cương
Lãi suất tiết kiệm (passbook rate): là lãi suất được xác lập bởi hoạt động tiết
kiệm giữa khách hàng ký thác với ngân hàng hoặc các tổ chức phát triển gia cư.
Các định chế tài chính này được lập ra chủ yếu huy động vốn để cho vay phục vụ
cho mục đích phát triển bất động sản.
-Lãi suất huy động nóng
Lãi suất huy động nóng hay có thể gọi là lãi suất qua đêm (federal funds rate):
là loại lãi suất được xác lập bởi thị trường cho vay tạm thời các khoản nợ để đáp
ứng cân đối dự trữ theo luật định mà các ngân hàng thương mại phải duy trì tại
Ngân hàng Trung ương. Những ngân hàng có cân đối dự trữ vượt yêu cầu có thể
sử dụng khoản vượt này để cho các ngân hàng bị hụt vay tạm.
-Lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Trung ương
Lãi suất chiết khấu (discount rate): là lãi suất được thu trên các khoản tiền mà
Ngân hàng Trung ương cho các ngân hàng thành viên trong hệ thống vay.
-Lãi suất danh nghĩa
Lãi suất danh nghĩa, là thuật ngữ tài chính và kinh tế học để chỉ tỷ lệ lãi trên
giá trị danh nghĩa của một khoản tiền vay hoặc đầu tư với hàm ý nó là tỷ lệ lãi
chưa được điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát hoặc ảnh hưởng của việc tính lãi
kép.
Page | 4
Nguyễn Văn Cương
III.VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ

1.Lãi Suất với quá trình huy động vốn
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy để phát triển kinh tế cần phải có vốn và
thời gian. Các nước tư bản phát triển phải mất hàng trăm năm phát triển công
nghiệp và quá trình lâu dài tích tụ vốn từ sản xuất và tiêu dùng. Đối với Việt Nam
trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ và sử dụng vốn có tầm quan
trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính
sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi
trong xã hội và định các tổ chức kinh tế đảm bảo đúng định hướng vốn trong nước
là quyết, vốn ngoài nước là quan trọng trong chiến lược CNH-HĐH nước ta hiện
nay.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất phải
bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích luỹ cho cả người cho vay và người đi
vay.
Cụ thể:
+Tỷ lệ lạm phát lãi suất tiền gửi ( lãi suất tiền vay) tỷ suất lợi nhuận bình quân.
+Lãi suất ngắn hạn lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay)
2.Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi họ dự
tính lợi nhuận thu được từ taì sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho các
Page | 5
Nguyễn Văn Cương
khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các hãng kinh doanh có điều
kiện tiến hành mở rộng đâu tư và ngược lại. Trong môi trường tiền tệ hoàn chỉnh,
ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh
hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho việc đầu tư vào mở rộng sản xuất doanh nghiệp
có thể mua chứng khoán hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suât của nó cao
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị đình trệ, hàng hoá ứ đọng và xuống giá, có
dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì nguyên tắc cơ bản
là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ tạo
động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư.

Mối quan hệ giữa đầu tư và lãi suất được thể hiện qua đồ thị sau:
Hình 1
3.Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng
và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn
Page | 6
Nguyễn Văn Cương
đề hàng hoá lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó lãi suất
có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó.
4.Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu
Tỷ giá chịu ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự
thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa. Nếu
lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát tăng (lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá
giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát không
đổi) thì tỷ giá tăng. khi tỷ giá đồng ngoại tệ tăng đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá
giảm) và ngược lại.
+Vai trò của lãi suất trong nước với quá trình Xuất Nhập Khẩu: khi lãi suất
thực tế tăng lên làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. tỷ giá hối đoái cao hơn làm hàng
hoá của nước đó ở nước ngoài trở nên đắt hơn lên và hàng hoá nước ngoài ở nước
đó sẽ trở nên rẻ hơn, dẫn đến giảm xuất khẩu ròng. Mối quan hệ này được biểu thị
bởi đồ thị sau:
Page | 7
Nguyễn Văn Cương
Hình 2
+Vai trò của lãi suất nước ngoài với xuất khẩu ròng:
Khi lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ tăng lên, đường lợi tức dự tính của đồng
ngoại tệ dịch chuyển sang phải làm giảm tỷ giá hối đoái. Hàng xuất khẩu trở nên
rẻ hơn so với các quốc gia khác.
5.Lãi suất với lạm phát
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và lạm

phát. Fishes chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát, do đó lãi suất
được sử dụng để điều chỉnh lạm phát cụ thể tăng lãi suất, thu hẹp được lượng tiền
trong lưu thông, lạm phát được kìm chế
6.Lãi suất với quá trình phân bổ các nguồn lực
Page | 8
Nguyễn Văn Cương
Tất cả các nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã hội phải phân bổ và
sử dụng các nguồn lực sao cho hiệu quả. Nghiên cứu trong nền kinh tế thị trường
cho thấy giá cả đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực
giữa các ngành kinh tế. Như ta đã biết, lãi suất là một loại giá cả, nghĩa là lãi suất
có vai trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Để quyết định
đầu tư vào một ngành kinh tế một dự án hay một tài sản nào đó chúng ta đều phải
quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu được với chi phí ban
đầu. Có nghĩa là phải xem việc đầu tư này có mang lại lợi nhuận hay không và có
đảm bảo hiệu quả kinh doanh để trả khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban
đầu hay không. Khi quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế, một dự án hay một
tài sản ta phải quan tâm tới chênh lệch giữa lợi nhuận đem lại và số tiền vay phải
trả. Khi chênh lệch này là dương, thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới đó và là sự
phân bổ hiệu quả.
7.Lãi suất vai trò của nó đối với Ngân Hàng Thương mại
NHTM với hai nghiệp vụ chính trong hoạt động kinh doanh của mình là huy
động vốn và sử dụng vốn đã phản ánh quy mô hoạt động của các NHTM. Với
phương châm “đi vay để cho vay”, NHTM huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong
các doanh nghiệp và dân cư để cho vay phát triển kinh tế và các nhu cầu tiêu dùng
khác của nhân dân. Để huy động vốn và cho vay có hiệu quả, NHTM phải xác
định lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách hợp lý. Nếu lãi suất huy động
tiền gửi quá thấp thì không khuyến khích các doanh nghiệp và dân cư gửi tiền vào,
Page | 9
Nguyễn Văn Cương
dẫn đến NHTM không đủ vốn cho vay để đáp ứng yêu cầu khách hàng. Lãi suất

Ngân hàng là nhân tố quan trọng quyết định kết quả hoạt động kinh doanh của
NHTM và khách hàng. Nếu lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản
xuất lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại.
B. DIỄN BIẾN LÃI SUẤT Ở NƯỚC TA TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2010
I. Lãi suất cơ bản
Năm 2007
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra Thông báo số 11359/TB-NHNN về một số
mức lãi suất bằng đồng Việt Nam, áp dụng từ ngày 1-1-2007. Theo đó, lãi suất cơ
bản bằng VND là 0,6875%/tháng (8,25%/năm).
Như vậy, lãi suất cơ bản của VND trong năm 2006 không thay đổi, và tiếp tục
được giữ ổn định trong tháng đầu tiên của năm 2007.
Lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng từ
ngày 1-1-2007 cũng được giữ ổn định ở mức 6,5%/năm; lãi suất chiết khấu của
Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 4,5%/năm.
Tính đến thời điểm cuối năm, mức lãi suất huy động cao nhất đối với VND
được các ngân hàng thương mại áp dụng là 0,82%/tháng đối với kỳ hạn 1 năm.
Năm 2008
Page | 10
Nguyễn Văn Cương
Năm 2007, lãi suất cơ bản được giữ ở mức ổn định không biến động nhiều.
Đến năm 2008, do nền kinh tế thế giới khủng hoảng đã tác động mạnh mẽ đến nền
kinh tế Việt Nam, đặc biệt là ảnh hưởng đến lãi suất.
Thị trường ngân hàng trong nước đã trải qua những biến động chưa từng có
về lãi suất, tỷ giá
Đây cũng là một năm đáng nhớ trong hoạt động của các ngân hàng, khi phải
trải qua những khó khăn không nhỏ.
Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008
chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng những tháng cuối năm. Đi cùng với
quá trình này là tần suất điều chỉnh các công cụ điều hành chưa từng có của Ngân
hàng Nhà nước, tập trung ở các lãi suất chủ chốt, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và biên độ

tỷ giá.
Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất
cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh
tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3
tháng cuối năm (2 lần giảm đối với dự trữ bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự trữ
bắt buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm).
Page | 11
Nguyễn Văn Cương
Cơ chế điều hành tỷ giá cũng ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong
lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/-0,75% lên +/-3%; tỷ giá bình quân liên
ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và cuối tháng 12.
Một công cụ được Ngân hàng Nhà nước sử dụng đến, cũng là một sự kiện nổi
bật trong năm 2008, là đợt phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc (17/3). Đi
cùng với kế hoạch này, nhà điều hành đã 2 lần điều chỉnh lãi suất cho tín phiếu, 1
lần tăng từ 7,8% lên 13%, tháng 12 giảm xuống còn 4,5%.
Nếu chỉ nhìn đơn giản thì lãi suất cơ bản chỉ tăng nhẹ từ 8,25% vào tháng
12/2007 lên 8,5% cuối năm 2008. Tuy nhiên nhìn biểu đồ lãi suất cơ bản năm
2008 thì rõ ràng đây không phải sự điều chỉnh "cơ học" giản đơn như vậy.
Page | 12
Nguyễn Văn Cương
Diễn biến lãi suất năm 2008
Năm 2008 có thể được coi là năm của lãi suất khi lãi suất biến động trái chiều
với một biên độ lớn chỉ trong vòng 12 tháng. Diễn biến lãi suất trong năm 2008
gồm 2 giai đoạn chính: Cuộc đua tăng lãi suất của các ngân hàng vào nửa đầu năm
2008 và một cuộc đua khác theo chiều hướng ngược lại, đua giảm lãi suất, dù mức
độ quyết liệt kém hơn. Những sự kiện lớn đối với diễn biến lãi suất năm 2008 diễn
ra như sau:
6 tháng đầu năm 2008, lãi suất tăng mạnh :
Từ mức lãi suất tháng 1 là 8,5%, các ngân hàng bắt đầu vào cuộc đua lãi suất,
khởi đầu là các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh.

Cuối tháng 4, đầu tháng 5/2008 một loạt ngân hàng gặp khó khăn thanh khoản.
Cùng với việc nâng lãi suất cơ bản từ 8,75% (ngày 1/2) lên 12% (ngày 19/5),
NHNN đã ấn định lãi suất kinh doanh bao gồm lãi suất huy động vốn và lãi suất
cho vay bằng VNĐ không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản mà NHNN công bố
áp dụng cho từng thời kỳ.
Page | 13
Nguyễn Văn Cương
Đến ngày 20/5, đã có 100% ngân hàng thương mại tăng lãi suất. Trong ngày
19/5, ngày đầu tiên thực hiện cơ chế mới, như dự báo trước đó, đỉnh lãi suất liên
tục bị đánh đổ.
Đỉnh đầu tiên phổ biến ở mức 14%/năm, tập trung ở khối ngân hàng cổ phần có
quy mô lớn. Đỉnh nối tiếp là 15%/năm, phổ biến trên thị trường lúc đó và tập trung
ở phần lớn các ngân hàng cổ phần, nhiều thành viên đồng loạt đẩy mức huy động
trong dân cư lên tới trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp áp tới 20%/năm. Các
ngân hàng quốc doanh còn lại chủ yếu áp 13,8%/năm là mức cao nhất.
Lãi suất tăng cao đến đỉnh điểm vào tháng 6 năm 2008 là 18,5%. Hiện tượng
người dân rút tiền từ ngân hàng có lãi suất thấp chuyển sang ngân hàng có lãi suất
cao xuất hiện. Đây là lý do để có ngân hàng buộc phải cấp tốc điều chỉnh lãi suất.
Có nhiều nguyên nhân khác nhau:
Nguyên nhân: Do rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường… do lạm
phát trong nước cao 19.39% vào 1/2008. Ảnh hưởng khủng hoảng tài chính Mỹ
làm khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các NH không muốn đẩy
mạnh cho vay mà chú trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động.
Mặc khác kinh tế Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên vật liệu thế
giới. Cú sốc giá lương thực thực phẩm, giá dầu, giá phôi thép, giá phân bón…
khiến hàng nội địa tăng giá chóng mặt trong nửa đầu năm 2008. Trước tình hình
đó NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10%
lên 11%/năm và nâng lãi suất cơ bản từ 8.25% lên 8.75%/năm kể từ 01/02/2008
Page | 14
Nguyễn Văn Cương

lãi suất huy động có lúc lên trên 20%, lãi suất cho vay cũng tăng lên ở mức tương
ứng, rút tiền khỏi thị trường thông qua việc phát hành 20,300 tỷ đồng tín phiếu bắt
buộc 17/03/2008, đồng thời buộc Kho bạc rút 50.000 tỷ từ các Ngân hàng Thương
mại làm cho tính thanh khoản của các ngân hàng bị chặn đột ngột điều này gây ra
tình trạng thiếu vốn trầm trọng thể hiện rõ qua làn sóng đua nhau tăng lãi suất huy
động vốn trong toàn hệ thống ngân hàng.
Mặc dù tùy thuộc vào chiến lược của từng ngân hàng nhưng nhìn chung các
ngân hàng đều gặp phải sự mất cân đối giữa các kỳ hạn vốn huy động và cho vay.
Trong tổng số dư tiền gửi tại các ngân hàng, có tới 80% là tiền gửi có kỳ hạn ngắn
(dưới 6 tháng). Nhưng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển
lại rất lớn với kỳ hạn thường kéo dài từ 1 năm trở lên. Trong khi đó, thị trường
chứng khoán và thị trường trái phiếu chưa phát triển nên gánh nặng về nguồn vốn
trung và dài hạn chủ yếu dồn lên vai các ngân hàng thương mại. Để thu hút nguồn
vốn các ngân hàng đã tăng lãi suất để thu hút vốn.
Thêm vào đó, sự ấm lên của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản
cũng có tác động nhất định đến nguồn vốn huy động của các ngân hàng. “Một
nguồn vốn không nhỏ đã dịch chuyển từ ngân hàng sang các kênh đầu tư này”. Và
cũng không phải ngẫu nhiên có những khoản vay trong các chương trình cho vay
tiêu dùng của các ngân hàng với lãi suất khá cao đổ vào thị trường chứng khoán và
thị trường bất động sản. Đó là chưa kể những đợt sóng trên thị trường vàng và thị
trường ngoại hối cũng khiến nhà đầu tư “sốt sắng” tham gia.
Page | 15
Nguyễn Văn Cương
Không chỉ vậy vào cuối năm 2007 đầu năm 2008 nhằm phục vụ cho các nhu
cầu tiêu dùng và nhu cầu kinh doanh mùa cuối năm của khách hàng, nếu các ngân
hàng cổ phần không tăng lãi suất sẽ khó thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong
dân chúng, vì lạm phát tăng cao đã khiến người gửi tiết kiệm phải chịu lãi suất
âm
6 tháng cuối năm lãi suất giảm mạnh:
Bắt đầu từ tháng 7 trở đi, các ngân hàng lại bước vào cuộc đua lãi suất mới

nhưng với xu hướng ngược lại so với 6 tháng đầu năm. Cuộc đua ban đầu chỉ mới
nhích nhẹ từ 18,5% xuống còn 17,5% và bắt đầu giảm mạnh từ tháng 10 năm
2008.
Đặc biệt từ tháng 9 đến cuối năm, gắn với những điều chỉnh các lãi suất chủ
chốt của Ngân hàng Nhà nước, cả lãi suất huy động và cho vay dồn dập giảm; ít
nhất có 8 đợt điều chỉnh trên diện rộng. Từ đỉnh điểm trên 19%/năm, lãi suất huy
động VND rút về quanh mốc 8%/năm; lãi suất cho vay tối đa từ 21%/năm về còn
12,75%/năm.
Tín hiệu tích cực từ lạm phát và chuyển biến kinh tế vĩ mô cũng là cơ sở để có
được sự điều chỉnh này. Lạm phát có chiều hướng giảm - Do dư nợ tăng thấp nên
vốn khả dụng VND dư thừa tương đối nhiều, cộng thêm tình hình kinh tế có dấu
hiệu giảm phát, các Ngân hàng đã liên tục hạ Lãi suất tiền gửi VND. Từ 16,5%-
17,5%/năm giảm về từ 10,5%-14,5%/năm.
Page | 16
Nguyễn Văn Cương
Trên cơ sở xem xét các nhu cầu tín dụng, cân đối khả năng huy động cũng như
yêu cầu quản trị…, các ngân hàng đã có quyết định phù hợp với trường hợp của
Năm 2009
Năm 2009, lãi suất huy động và cho vay bằng VNĐ có xu hướng tăng. Trong
đó, lãi suất huy động tăng cao hơn so với mức tăng lãi suất cho vay, dẫn đến chênh
lệch giữa lãi suất huy động-cho vay có xu hướng bị thu hẹp
Lãi suất huy động VNĐ trong 2 tháng đầu năm 2009 có xu hướng giảm khoảng
1-2%/năm so với cuối năm 2008. Tuy nhiên, từ cuối tháng 2-2009, lãi suất huy
động VNĐ luôn có xu hướng tăng, chủ yếu do nhu cầu vay vốn tín dụng lớn để
triển khai các cơ chế hỗ trợ lãi suất, các doanh nghiệp và hộ sản xuất thực hiện các
phương án sản xuất-kinh doanh, dự án đầu tư theo chương trình kích thích đầu tư
của chính phủ, các NHTM khó khăn trong việc cân đối vốn huy động từ thị trường
để cho vay. Đến 31/12/2009 mặt bằng lãi suất huy động của các kỳ hạn một tháng
trở lên ở mức 10-10,49%/năm
Lãi suất cho vay VNĐ trong 2 tháng đầu năm 2009 giảm khoảng 1,5-2.5%/năm

so với cuối năm 2008 và tương đối ổn định đến hết tháng 11-2009, nhưng luôn sát
mức lãi suất cho vay tối đa là 10,5%/năm. Từ ngày 1/12/ 2009, sau khi NHNN
điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8%/năm, các tổ chức tín dụng điều chỉnh
lãi suất cho vay lên mức tối đa 12%/năm. Đối với các nhu cầu phục vụ vốn, đời
sống và cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, lãi suất
Page | 17
Nguyễn Văn Cương
cho vay ở mức cao hơn lãi suất cho vay thông thường khoảng 3-5%/năm. Đến
31/12/2009, lãi suất cho vay thông thường phổ biến ở mức 12%/năm, lãi suất cho
vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống cho vay thông qua thẻ tín dụng phổ biến ở
mức 15-17%/năm
Năm 2010
Do nhà nước có những chính sách hợp lý nên Lãi suất cơ bản tiền Đồng VN
năm 2010 tiếp tục ở mức 8%/năm.
NHNN quy định mức lãi suất cơ bản của Đồng Việt Nam là 8%/năm và có hiệu
lực thi hành từ ngày 1/10/2010. Đây là tháng thứ 11 liên tiếp, lãi suất cơ bản bằng
đồng Việt Nam được duy trì ổn định ở mức 8%/năm.
Chiều ngày 27/9/2010 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành
quyết số 2281/QĐ-NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam.
Page | 18
Nguyễn Văn Cương
Ngày 24/6/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký Quyết định
số 1565/QĐ-NHNN quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam.
Theo đó, kể từ ngày 1/7/2010, mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam sẽ là
8%/năm.
Như vậy, kể từ ngày 1/12/2009 đến nay, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam
liên tục được duy trì ổn định.
Cùng ngày, theo Thông báo số 220/TB-NHNN ngày 24/6/2010, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam thông báo một số mức lãi suất áp dụng từ ngày 1/7/2010.
Cụ thể: lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín

dụng là 8,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ
chức tín dụng là 6,0%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên
ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đối với các ngân hàng là 8%/năm.
II. Lãi suất ngoại tệ
Năm 2007
Page | 19
Nguyễn Văn Cương
+4 tháng đầu năm 2007: Lãi suất huy động USD: Lãi suất huy động USD tăng
khoảng 0,1-0,3%/năm so với cuối năm năm 2006, chủ yếu do nhu cầu vay vốn
bằng ngoại tệ tăng , lãi suất cho vay ít biến động. Cụ thể là
+6 tháng đầu năm 2007: lãi suất huy động USD tăng do một số NHTM phát
hành giấy tờ có giá với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn từ 0,05%-
0,45%/năm , tháng 7/2007, nhiều NHTM cổ phần điều chỉnh tăng lãi suất huy
động từ 0,05-0,15%/năm nhằm mở rộng huy động vốn đáp ứng nhu cầu vay ngoại
tệ ngày càng tăng. tháng 8, một số NHTM có mức lãi suất tương đối cao so với
mặt bằng lãi suất chung đã điều chỉnh giảm nhẹ 0,1%/năm. 4 tháng cuối năm lãi
suất huy động USD trong nước vẫn tương đối ổn định do các TCTD tiếp tục huy
động vốn bằng ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ đang có xu
hướng gia tăng, lãi suất huy động USD phổ biến của nhóm NHTM nhà nước kỳ
hạn 3 tháng là 4,2%/năm, 6 tháng là 4,5%/năm, 12 tháng là 4,85%/năm; lãi suất
huy động của nhóm NHTM cổ phần kỳ hạn 3 tháng là 4,6%/năm, 6 tháng là
4,8%/năm, 12 tháng là 5,1%/năm.
Lãi suất cho vay:
Lãi suất cho USD tương đối ổn định. Lãi suất cho vay USD từ đầu năm đến
nay vẫn giữ ở mức 6%-7%/năm đối với cho vay ngắn hạn và 6,5%-8%/năm đối
với cho vay trung, dài hạn.
Page | 20
Nguyễn Văn Cương
Năm 2008

Lãi suất tiền gửi bằng USD ở Việt Nam đang ở mức 7,2%/năm, cao hơn 1,95%
so với mức lãi suất của trái phiếu chính phủ 1 năm của Mỹ là 5,25%. Chênh lệch
lãi suất quá lớn so với thị trường quốc tế đã tạo ra những bất cập đòi hỏi sự can
thiệp bằng chính sách.
Cuộc đua tăng lãi suất tiền gửi USD đã được phát động từ giữa tháng 3/2008,
nhiều ngân hàng thương mại đã đẩy mức lãi suất tiền gửi bằng USD lên mức cao
kỷ lục là 7,2%/năm, sau nhiều năm lãi suất tiền gửi bằng USD thấp và ổn định, lãi
suất tiền gửi ngoại tệ có xu hướng tăng mạnh. Dường như cuộc đua lần này cũng
quyết liệt không kém cuộc đua lãi suất đồng nội tệ trước đó. Đồng thời đối với
ngoại tệ cũng lặp lại tình trạng lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn và cũng
bắt đầu từ các ngân hàng thương mại nhỏ. Điều này đã được một số nhà phân tích
kinh tế dự báo. Về cơ bản, hiện tượng tăng lãi suất đồng ngoại tệ chỉ là hệ quả tất
yếu của việc tăng lãi suất đồng nội tệ và VND đang tăng giá. Với mức lãi suất tiền
gửi ngoại tệ từ 6 – 6,5%/năm thì lãi suất vay phải ở mức 10-10,5%/năm. Điều gì
sẽ xảy ra đối với các doanh nghiệp? Khó có thể tưởng tượng được các doanh
nghiệp lại có thể vay với lãi suất này để đầu tư, ngoại trừ vay để nhập hàng tiêu
dùng, dược liệu, vật tư nông nghiệp và một số vật liệu xây dựng đang có mức tăng
giá đến chóng mặt. Hoặc là, các ngân hàng thương mại, chủ yếu là các ngân hàng
nhỏ đang gặp khó khăn về thanh khoản ngoại tệ trong đó có việc tăng dự trữ bắt
buộc đối với tiền gửi ngoại tệ. Thật may mắn nếu đó chỉ là di chứng của cú sốc
Page | 21
Nguyễn Văn Cương
tiền tệ vừa qua. Còn nếu làn sóng này kéo dài, thì hậu quả cũng tai hại không kém,
thậm chí còn tệ hơn lãi suất nội tệ, bởi vì rủi ro hối đoái trong trường hợp USD
mạnh lên là rất lớn.
Lãi suất tiền gửi bằng USD tăng cao không làm cải thiện nhiều dòng vốn chảy
vào Việt Nam do ba nguyên nhân:
Một là, dòng vốn đầu tư gián tiếp (FII) vẫn đang bị quản lý chặt do vậy lãi suất
cao vẫn tiếp tục được duy trì do cung ngoại tệ vẫn khan hiếm trong khi cầu ngoại
tệ cho nhập khẩu tiếp tục leo thang.

Hai là, mục đích chuyển tiền qua tài khoản vãng lai chủ yếu để gửi tiền cho
người thân ở trong nước hoặc đang học tập ở nước ngoài, quy mô đầu cơ lãi suất
thông qua tài khoản vãng lai là rất thấp so với hoạt động đầu cơ lãi suất của các tổ
chức tài chính quốc tế được thực hiện qua tài khoản vốn.
Ba là, cuộc đua tăng lãi suất tiền gửi bằng USD gây rối loạn hoạt động huy
động ngoại tệ của ngân hàng thương mại. Lượng ngoại tệ vào nền kinh tế không
tăng mạnh do tài khoản vốn vẫn đang được kiểm soát chặt chẽ trong khi các ngân
hàng thương mại cổ phần thường đưa ra mức lãi suất cao để thu hút ngoại tệ làm
nguồn ngoại tệ có khuynh hướng rút khỏi các ngân hàng có mức lãi suất tiền gửi
bằng USD thấp (ngân hàng thương mại quốc doanh) chuyển sang các ngân hàng
thương mại cổ phần.
Page | 22
Nguyễn Văn Cương
Năm 2009
Cung cầu ngoại tệ năm 2009 luôn có những diễn biến phức tạp, tạo nhiều sức
ép lên tỷ giá hối đoái, nguyên nhân chủ yếu là do tác động của các yếu tố
-Thâm hụt cán cân thương mại
-Khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động đến tâm lý nắm giữ ngoại tệ: nhiều
doanh nghiệp xuất khẩu găm giữ, không bán ngoại tệ nên NHTM không đủ ngoại
tệ điều hòa cho nền kinh tế
-Tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghiệp vay bằng
VNĐ: do lãi suất vay VNĐ thấp, phạm vi và thời gian cho vay được mở rộng, một
số doanh nghiệp có ngoại tệ không muốn bán ngoại tệ, muốn vay VNĐ
-Các nguồn thu như từ xuất khẩu, kiều hối, du lịch, FDI, FII đều giảm so với
các năm trước
Lãi suất liên ngân hàng
Năm 2010
Đối với đồng USD, các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng phát sinh chủ
yếu đối với các kỳ hạn ngắn (dưới 6 tháng). Lãi suất giao dịch bình quân cũng có
xu hướng tăng nhẹ, với mức tăng không nhiều, từ 0,05% đến 2,17%/năm. Riêng

lãi suất bình quân qua đêm và kỳ hạn 1 tuần có xu hướng giảm. Lãi suất bình quân
cao nhất là 2,63%/năm, lãi suất các kỳ hạn còn lại dao động từ 0,77% đến
1,42%/năm.
Page | 23
Nguyễn Văn Cương
Về doanh số giao dịch trên thị trường này, NHNN cho biết, doanh số đạt xấp xỉ
78.687 tỷ VND và 1.513 triệu USD, bình quân đạt khoảng 15.737 tỷ VND/ngày và
302 triệu USD/ngày. So với tuần trước nữa, doanh số giao dịch trên thị trường liên
ngân hàng tăng 12.834 tỷ VND và giảm 92 triệu USD. Doanh số giao dịch qua
đêm bằng VND ở mức 30.462 tỷ, chiếm tỷ trọng 39% so với tổng doanh số giao
dịch cả tuần.
NHNN công bố lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng ngày
08/12/2010 đã lên tới 13,08%, tăng 4,59% so với thời điểm 30/11.
III. Lãi suất liên ngân hàng
Năm 2007
10 tháng đầu năm 2007, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng có xu hướng
giảm từ 1-2,3%/năm so với cuối năm 2006, do vốn khả dụng toàn hệ thống dư
thừa. Tuần đầu của nửa cuối tháng 11/2007, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân
hàng tăng đột biến ở một vài thời điểm, có thời điểm lãi suất thị trường liên ngân
hàng qua đêm ở mức 10-12,6%, Từ ngày 3/12 đến nay, NHNN thực hiện chào
mua giấy tờ có giá theo phương thức đấu thầu khối lượng và công bố lãi suất ở
mức 8% nhằm hạn chế tình trạng bỏ thầu lãi suất không phù hợp với lãi suất thị
trường, gây tâm lý phản ứng tác động không thuận đối với điều hành CSTT của
NHNN. Vì vậy, đến nay tình trạng thiếu hụt vốn khả dụng của NHTM đã cơ bản
được khắc phục, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng đã ổn định và có xu
hướng giảm khoảng 0,5-2%/năm so với cuối tháng 11/2007.
Page | 24
Nguyễn Văn Cương
Lãi suất VNIBOR:
Trong 5 tháng đầu năm 2007, lãi suất VNIBOR giảm ở tất cả các kỳ hạn, với

mức giảm từ 2,1 - 3,8%/năm so với cuối năm 2006; tuy nhiên, trong những ngày
đầu tháng 6/2007, lãi suất VNIBOR ở các kỳ hạn có xu hướng tăng mạnh, mức
tăng từ 0,5 - 2,5%/năm so với cuối tháng 5/2007, chủ yếu do ảnh hưởng của việc
NHNN điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng cho kỳ duy trì dự trữ bắt
buộc từ tháng 6/2007 trở đi.
Lãi suất thị trường mở:
6 tháng đầu năm 2007, lãi suất trúng thầu bán trên thị trường mở dao động ở
mức 0,7-2,8%/năm đối với các kỳ hạn 14, 28 và 56 ngày; đặc biệt, từ đầu tháng
5/2007, nghiệp vụ thị trường mở thực hiện các phiên đấu thầu theo khối lượng,
theo đó lãi suất chào bán trên thị trường mở được ấn định ở mức 1,85% - 2,95% -
3,95% đối với kỳ hạn 28 ngày, 56 ngày và 84 ngày; lãi suất trúng thầu mua kỳ hạn
14 ngày dao động ở mức 5 - 6%/năm.
Lãi suất thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc có xu hướng tăng nhẹ so với
cuối năm 2006, mức tăng khoảng 0,75%/năm.
Lãi suất trái phiếu Chính phủ:
3 tháng đầu năm 2007, lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm giảm mạnh
khoảng 1,4 - 1,7%/năm so với cuối năm 2006 và đạt mức thấp nhất là 6,5%/năm
vào thời điểm cuối tháng 3/2007. Từ tháng 4/2007 đến nay, lãi suất trái phiếu
Chính phủ kỳ hạn 5 năm đã có xu hướng tăng nhẹ và dao động ở mức 7% -
Page | 25
Nguyễn Văn Cương
7,1%/năm. Ngoài ra, trong 6 tháng đầu năm 2007, Chính phủ đã phát hành 3 đợt
trái phiếu lô lớn với lãi suất danh nghĩa là 7,8%/năm.
Lãi suất trái phiếu doanh nghiệp:
Trong 6 tháng đầu năm 2007, một số doanh nghiệp phát hành trái phiếu như
Tổng Công ty Tàu thuỷ Việt Nam (lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm là
10,5%/năm), Tổng Công ty Thép Việt Nam (lãi suất trái phiếu kỳ hạn 5 năm là
9,5%/năm). Các mức lãi suất này tương đương lãi suất trái phiếu doanh nghiệp
cùng kỳ hạn năm 2006.
Tóm lại, trong 6 tháng đầu năm 2007, lãi suất huy động và cho vay của TCTD

đối với khách hàng dao động nhẹ và không có biến động đột biến, lãi suất thị
trường thị trường liên ngân hàng và lãi suất trái phiếu Chính phủ ở mức thấp hơn
so với cuối năm 2006. Lãi suất VND chênh lệch dương so với lạm phát khoảng
+1,3%, so với lãi suất USD và mức tăng tỷ giá USD/VND chênh lệch dương
+3,6%.
Năm 2008
Lãi suất liên ngân hàng biến động trong thời gian này là diễn biến hoàn toàn
bình thường. Lãi suất liên ngân hàng phải cao hơn lãi suất huy động vốn của các tổ
chức tín dụng. Điều đó phản ánh đúng bản chất của thị trường. Sự biến động của
lãi suất liên ngân hàng có 2 cách hoặc là đột biến hoặc lập lại trật tự, không có lý

×