Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

BÀI tập lớn môn tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.33 KB, 17 trang )

rfc. cE
; p

^
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TÉ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN Tư TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tên đề tài: Tìm kiêu về tư tưởng thân dân của chủ tịch Hô Chí Minh so với
các bậc tiền bổi. vẩn đề này được Đảng và nhà nước hiện nay giải quyết như
thể nào.
Hà nội ngày: 11-11-2010
1
LỜI MỞ ĐẰƯ
Trong nên kinh tê thị trượng định hướng xã hội chù nghĩa của đât nước ta hiện
nay với rất nhiều biến chuyên theo từng phút, từng giờ và chịu tác động mạnh mẽ của
nền kinh tế thế giới. Sự hội nhập của chúng ta vào nền kinh tế thế giới ngày càng
manh mẽ và sâu rộng, đặc biệt khi chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới
WTO. Hơn thế nữa xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới việc
phụ thuộc lẫn nhau cả về kinh tế và chính trị giữa các quốc gia là không thế tránh
khỏi. Đặc biệt là những năm gần đây khi mà những cuộc khủng hoảng về kinh tế diễn
ra ngày một phức tạp và có những tín hiệu không tốt có sức ảnh hường trẽn toàn thế
giới. Tại Việt Nam kinh tế thị trường đâ thúc đẩy làm cho kinh tế có sức tăng trưởng
và sự cạnh tranh song nó cũng kéo theo nhiều vấn đề phức tạp về xã hội. Đặc biệt khi
con người quá chạy theo đồng tiền mà quên đi những giá trị cốt lõi của bản thân. Với
quan điếm của đảng và nhà nước ta về hội nhập là “hội nhập chứ không hỏa tan”
chủng ta đã làm được một số việc song còn ton tại rất nhiều bất cập. Neu những vấn
đề về giáo dục đạo đức nhân cách chưa được đề cao thì những mặt trái của nền kinh
tế thị trường sẽ vẫn tiếp tục ảnh hướng lớn đến xã hội. vì vậy việc giáo dục nhân cách
đạo đức và đặc biệt là giáo dục về tư tường và đạo đức Hồ Chí Minh cho lớp trẻ hiện
nay là một vấn đề vô cùng quan trọng và đòi hòi sự quan tâm nhiều hơn của các cấp,
các ngành và toàn xã hội. Một vẩn đề quan trọng trong tư tưởng Hồ chí Minh mà
chúng ta càn nhắc tới đó chính là quan điểm về dân của người và mối quan hệ giữa


Đàng và Dân trong việc thúc đấy sự nghiệp phát triến đất nước. Đây được coi là điểm
sang trong tư tường Hồ Chí Minh và là kim chỉ nan hành động cho Đảng và nhà nước
ta hiện nay. Dưới sự giúp đõ của giảng viên hướng dần em đà tìm hiểu và viết ra
những luận điểm sau đây về sự hiểu biết của mình. Em xin chân thành cảm ơn cô và
rất mong nhận được sự góp ý của cô đế hoàn thiện thêm kiến thức của mình.
NỘI DUNG
I. Tư tưởng thân dân của chủ tịch Hồ Chí Minh so vói các bậc tiền bối
ỉ, Khải quát khái niệm về dân và việc hình thành quan niệm về dân trong tư tưởng
Hớ Chí Minh
Khái quát khái niệm về dân: Dân là một khái niệm xuất hiện và tồn tại trong xã hội đã
có giai cẩp, có nhà nước; đó là khái niệm chỉ những người lao động bình thường,
đông đảo, không có chức quyền và đối diện những người cầm quyền cai trị ở các địa
bàn lãnh thổ, các nghề nghiệp khác nhau trong các lĩnh vực sàn xuất vật chất và hoạt
động tinh thần của một xã hội nhất định. Do đó khái niệm dân mang màu săc và ý
nghĩa chính tri khá rõ rệt, phân nào phản ánh môi quan hệ giữa các giai cấp trong xã
hội.
Tư tưởng vê dân ờ Hô Chí Minh không phải tự nhiên xuât hiện, cũng không phải
hoàn toàn do người sáng tạo ra, mà chính là do người đã nghiên cứu, thấm nhuần, phê
phán, chọn lọc, kế thừa những tư tường quan điểm về dân trong lịch sử dân tộc ta và
2
nhân loại. VI vậy, rất cần thiết phải điếm qua những tư tưởng chú yểu về dân trong
lịch sử để từ đó có cơ sở hiểu sâu thêm tư tường Hồ Chí Minh về dân.
Trong các học thuyết lớn về xã hội, nhất là trong các giới cầm quyền và những
người có chức, có quyền xưa nay đều nói về dân và về vai trò của dân với những quan
điểm và thái độ rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Vì vậy chúng ta sẽ đi xem xét
các quan điếm đối lập này đế đánh giá sự tiến bộ hay bảo thú, phản động của một học
thuyết, một giai cấp, một chính đảng, một nhà hoạt động chính trị xã hội nhất định.
2, Những quan điểm và thải độ khác nhau về dân trong lịch sử.
2. ỉ: Những quan điểm và thái đô sai lầm về dân.
Thứ nhất, coi nhân dân lao động đông đảo không nằm trong thành phần dân

cư, thậm chí không được coi là con người.
Tư tưởng này xuất hiện tù' thời cổ đại ở phương Tây, cách đây hơn 2000
năm. Giới chủ nô quý tộc Hy Lạp, đại diện là platong, đã chia dân cư thành 3
hạng người: 1. những người cầm quyền, cai trị đất nước gồm những nhà triết học
tức là trí thức, những người có học vấn trong giai cấp chủ nô thời đó; 2. Những vệ
binh có nhiệm vụ bảo vệ chính quyền và giai cấp chu nô; 3.Những công dân tự do
gốm nông dân và thợ thù công, có nhiệm vụ sản xuất ra thức ăn, đồ dùng đế nuôi
sống xã hội. Còn những người nô lệ rất đông đảo trong xã hội cổ đại thì không
được giai cấp chủ nô coi là người, mà chỉ được coi là công cụ biết nói bên cạnh
những công cụ câm và công cụ nửa câm mà giai cấp chủ nô muốn mua bán, chém
giết thế nào cũng được.
Thứ hai: tư tưởng khinh dân, ức dân coi những người lao động chân tay
chiếm số đông trong dần cư là hạng tiếu nhân, hèn kém, ngu dốt, chi đế sai khiển,
Cuối thời Trần, nô tỉ chiếm số lượng khá đông trong dân cư. Nhiều người đà
từng có cồng lao, lập công xuất sắc trong các cuộc chiến tranh báo vệ vương triêu,
nhưng vân bị bạc đãi. Vua Trân Hiên Tông đã nói: “bọn gia nô dù cỏ chiến công
cũng không được dự vảo hang quan tước của triều đình”. Hơn nữa tầng lớp quan
lại quý tộc sổng xa hoa, tha hồ chà đạp nhũng nhiều thường dân, coi việc hối lộ,
tham ô, vơ vét tài sản của dân là những hành động tự nhiên và họp pháp. Lịch sử
đã ghi lại câu nói của Trần Khánh Dư, một vị tướng quý tộc đời Tran, có công
trong cuộc kháng chiến giữ nước nhưng lại rất khinh thường dân chúng: “Tướng
là chim ưng, quân dân là vịt; lấy vịt mà nuôi chim ưng thì có gì là lạ”.
Thứ ba: coi quần chúng nhân dân chi là một đám đông vô nghĩa, là sức ỳ của
lịch sử, hoặc chỉ là phương tiện để giai cấp thống trị sử dụng cho mục đích của
chúng.
Thời cận đại, vẫn có không ít những nhà lý luận và chính khách thể hiện
những quan điếm rất sai lầm vả phản động về quần chúng nhân dân. Hitle, tên
trùm phát xít Đức coi quần chúng chỉ là đám người đơn sơ, mơ hồ, yếu đuối và
coi các dân tộc khác ngoài dân tộc Đức chi là lũ người hạ đắng, chi xứng đáng là
nô lệ và bị thong trị. Nitxo coi quần chúng nhân dân không phải là mục đích mà là

phương tiện để đi đến mục đích, có nghĩa là quần chúng nhân dân không phải đối
tượng phục vụ mà chỉ là đổi tượng sử dụng.
3
2,2: Quan điếm (rom dân, coi dân ỉà gốc cùa môt nước trons tư tướng triết hoc cổ
đai truns hoa.
Vai trò của dân trong quan hệ với nước với vua đã được một số nhà triểt học tiêu
biểu của nho giáo nêu cao trona tư tưởng chính trị phương đông cách đây hơn
2000 năm.
Khổng Tử, nhà triết học lớn của Trung Quốc thời Xuân Thư, một người có học
vẩn uyên bác, được tôn sừng là bậc thánh nhân cửa nho giáo, đã có tư tưởng đề
cao vai trò của dân, đồng thời nêu rõ trách nhiệm của vua đối với dân. Ông coi
điều kiện quan trọng nhất đối với nhà cầm quyền là phải được lòng dân. Và muốn
được lòng dân nhà cầm quyền phải biết dưỡng dân, tức là chăm lo cải thiện đời
sống cho dân, và phải biết giáo dân tức là dạy dân lấy nghĩa hiếu đễ, thì những
người đàu đã hoa râm không đến nỗi phái vác đội vất vả ở đường sá, người trẻ
không đến nỗi đói rét như thế nước sẽ hưng thịnh.
Tuân Tử cũng có tư tường đề cao dân. Ông cho rằng trời sinh dân không phăi
vì vua mà trời lập ra vua để vì dân. Mặc Tử cũng có tư tưởng đề cao dân và lấy
vấn đề của dân chúng làm trọng.
2.3: Quan điểm cua chu nghĩa Mac-lenin về vai trò của quần chúng nhăn dân
Quan niệm cùa chủ nghĩa Mác- Lê nin vê dân và quân chúng nhân dân là quan
điếm đúng đắn nhất, khoa học nhất, phù hợp với thực tiễn lịch sử. Đây là một cuộc
cách mạng trong việc giải phòng con người khỏi ách áp bức thông trị và đê cao vai
trò của quân chúng nhân dân. Nhân dân là mục tiêu là đối tượng được hướng đến
trên hết trong việc đấu tranh nhằm mạng lại những lợi ích thiết thực cho nhân dân.
chủ nghĩa Mac- Lenin khẳng định quần chúng nhân dân giũ một vai trò quan trọng
và quyết định sụ thành bại của cách mạng. Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân sẽ đua cuộc cách mạng đi tới thắng lợi.
2.2: Những tư tưởng nổi kâí về vai trỏ và sức manh của dãn tronng, lịch sứ Việt Nam.
Lịch sử Việt Nam có những tu tưởng truyền thống và tiến bộ về vai trò và sức

mạnh của dân,, coi dân lả gốc của nước.
Dân gian Việt Nam từ xưa đã có câu: “ Quan nhất thời, dân vạn đại” thể hiện
một quan niệm triêt lý, một tư tường triêt lý, một tư tưởng triêt học sâu sắc. “ Dân vạn
đại” nghĩa là dân gán với xã hội loài người; có dân, còn dân thì mới có xã hội. Còn ‘
quan nhất thời” nghĩa là quan chi xuất hiện, chi trở thành một tầng lớp xã hội đã có
giai, có nhà nước, và trong tầng lớp quan lại thỉ mỗi một ông quan cũng chỉ tồn tại vài
năm hoặc vài ba chục năm, nhưng dù sao sự tồn tại đó cũng chỉ là nhất thời so với sự
tồn tại “vạn đai” của dân, của xã hội. Xét về gốc tích thi quan lại cũng không phải từ
trên trời rơi xuống mà đều gắn với dân, đều từ dân: “Quan sang củng ờ làng mà ra”.
Vì là “nhất thời” nên đối với bất kỳ một ông quan nào, dù quan nhố hay quan to thì
cũng đều là: “ hết quan hoàn dân”, nghĩa là khi thôi làm quan, nếu còn sổng - dù lả về
hưu hay thất súng hoặc bất mãn với thời cuộc — cũng đều về sống với dân, trở thành
dân.
Nhân dân lao dộng cũng tự ý thúc được vai trò và sức mạnh cua mình. Truyền
thuyết Thánh Gióng, nhờ được nhân dân nuôi dưỡng (bằng cơm với cà và nước lã) và
4
cung cấp vũ khí (roi sắt, ngựa sắt) đã trwor thành người không lồ có đủ sức mạnh
đánh thắng giặc Ân. Còn truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy nêu lên một bài học
phản diện về An Dương Vương chù quan mất cảnh giác, chỉ dựa vào vũ khí, không
dựa vào sức mạnh của dân để chống giặc ngoại xâm thì kết cục là mất nước và dòng
họ cũng tuyệt diệt. Khi dân đà bất mãn, “nối can qua” - nghĩa là đứng lên khởi nghĩa,
làm cách mạng thì có thể lật dỏ một triều đâị, một chế độ xã hội, không chỉ làm cho
“con vua thất thế phải ra quét chùa” mà còn đưa chính nhà vua lên đoạn đầu đài nhu
trường hợp của Cách mạng Anh thế kỹ XVII và Cách mạng Pháp thế kỷ XVIII. Sức
mạnh của dân không chi thế hiện ớ lực lượng vật chất mà còn cả ớ tinh thần, ớ tư
tướng, ờ dư luận. “Miệng dân sóng bể” nghĩa là dư luận của quần chúng từ người này,
chỗ này sang người khác, chỗ khác và tư tường của nhân dân thế hiện trong vãn học
dân gian ( íolklore) — truyên từ đời nọ sang đời kia, có sức mạnh như những đợt
sóng bể có thế nâng dờ hoặc nhấn chìm một viên quan, một óng vua hoặc một triêu
đại nào đó.

Mỗi triều đạt phong kiến Việt Nam thời kỳ đang lên và hưng thịnh đều có quan
điểm về dân và mối quan hệ với dân đúng đắn, tích cực nên đấ được dân ủng hộ, tập
trung được sức mạnh của dân, đánh thắng được giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng
được đất nước, đồng thời cũng củng cố được vương triều đó vững mạnh.
Nhà Trần thể kỷ XVIII đã ba lần đại thắng quân xâm lược Nguyên - Mông hung
hãn. Nguyên nhân cơ bản cùa thắng lợi đó, như Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã
ghi rõ “ Vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận, cá nước góp sức”. “Cả nước góp sức”
chính là sức mạnh của toàn dân đã được huy động. Trần Quốc Tuần còn nêu lên một
tư tưởng đặc sắc khi ông khuyển tấu vua Trần: “ Khoan thư sức dân đế làm kế bền
gốc, sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”.
Đầu thể kỹ XI, Hồ Quý Ly chuẩn bị kháng chiến chống quân Minh xâm lược,
xây dượng lực lượng thường trực khá đông, có súng thần cơ, có nhiều chiến thuyền,
nhưng không đoàn kết được toàn dân, long dân ly tán, nên đã thất bạ, cha con Hồ Quý
Ly đều bị giặc Minh bắt. Đúng như Hồ Nguyên Trừng đã: “ Tôi không sợ đánh, chi sợ
lòng dân không theo mà thôi.”
Nguyễn Trãi, một nhà văn hóa lớn, một anh hung của dân tộc ta thể kỷ XV, đã nêu ra
những tư tưởng sâu sắc về vai trò và sức mạnh của dân. Saưk hi cùng Lê Lợi lãnh đạo
cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh thắng lợi, ông viết bài “Bình Ngô đại
cáo” hung tráng với hai câu mờ đầu về tư tưởng an dân thì trước hết phải trừ bạo
ngược:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Và nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh đã được
Nguyễn Trãi chỉ ra là do đoàn kết được tướng sĩ, tập hợp lực lượng dân chúng khắp
nơi:
“ Nên hiệu gậy làm cờ, tập hợp khắp bốn phương dân chúng.
Thiết quân rượu hòa nước, dưới trên đều một hạng cha con”.
Nói về sức mạnh của dãn, ông đã tiếp thụ và nêu lên tư tưởng tiến bộ, ví dân như
nước, các triều đại phong kiến như những con thuyền; thuyền nỗi được là nhờ nước.
5

Nước có tác dụng chờ thuyền nhưng cũng có sức mạnh lật thuyền: “Chớ thuyền là
dân mà lật thuyền cũng là dân”.
Ổng còn nêu lên tư tưởng ơn dân rất mới mẻ đối với thời đại lúc bấy giờ: “ăn lộc
đền ơn ké cấy cày”. “Kè cấy cày” chính là nhân dân lao động, là nông dân chiếm
tuyệt đại đa số dân cư trong một nước nông nghiệp. Ke tục tư tưởng của Trần Quốc
Tuấn, õng yêu cầu vua quan triều đình phai biết “Thương yêu dân chúng, nghĩ làm
những việc khoan dân”. Ông khắng định tư tưởng về thái bình thịnh trị: “Cái gốc của
nhạ là ử thôn vang không có một tiếng giận hờn oán sầu”. Ỏng chi rõ trách nhiệm của
người cầm quyền: “Phàm người có chức vụ coi quan trị dân đều phải theo phép công
bằng , đối bỏ thói tham ô, sửa trừ tệ lười biếng, coi cõng việc của quốc gia là công
việc của mình; lấy điều lo của dân sinh là điêu lo thiêt kỳ”,
Chịu ảnh hưởng sâu sắc của quan niệm “Thiên nhân tương cảm”, nhiều triều đại
phong kiến Việt Nam coi lòng dản là ý trời và rất quan tâm tới việc kêt hợp lòng dân
với ý trời. Họ quan niệm lòng dân tức là ý trời được thê hiện ở các điềm lành (mưa
thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt) hay điềm dữ (bện tật, mưa bão, lũ lụt, mất mùa )
Người cầm quyền cai trị có đúc, làm việc tốt, họp lòng dân thỉ trời xuống điềm lành;
không có đức, ăn chơi xa xỉ, hoang phí, hại dân, dân oán thì trời xuống điềm dữ để
răn bảo.
Khi đã có điềm tai dị của trời tức là dân oán, thì các quan đại thần, những nhà trí
thức của các triều đại, am hiểu về “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” biết thương xót dân
chúng thường dân sớ khuyên nhủ vua chúa sửa lỗi đế không giáng tai họa nửa.
Trạng nguyên Giáp Hải, quan đại thần đời Mạc Mậu Hợp, thấy chính sách cua
nhà Mạc ngày một kém, điềm tai biển ngày một nhiều, gặp khi có bão lớn, ông dâng
sơ lên vua Mạc, nói rằng: “Trời ra tai không phải vô cớ, chính ỡ người mà ra. Tai biến
về giỏ bão là trời hiện điềm đế răn bảo Vậy xin bệ hạ lấy sự biến của trời là đáng sợ,
coi nhân sự là cần phải sửa., .thi hành mọi điều khoan tất cho dân; ban ra ân dụ để tha
những dân vô tội bị ức hiếp; đặc biệt sai quan sở tại thăm nom giúp đỡ luôn. Có thế,
ơn của trên ban xuống mới thấm đến kẻ dưới. Lòng người đã vui, tai trời sẽ hết Xin
bệ hạ tôn trọng gốc nước, cố kết lòng dân, hậu đãi mả đừng làm khốn dân; giúp đỡ
mà đừng làm hại dân, dè dặt chứ không dùng hết sức cùa dân, nhẹ bớt cho dân nhũng

việc phục dịch tức là chính sách của vương đạo đó”.
Tiến sĩ Nguyễn Duy Thỉ thời Lê - Trịnh, khi đi sứ về, thường thấy tai dị, đã dâng
khải tâu chúa, nói về trách nhiệm cùa triều đình và tố cáo bọn quan lại tham nhũng ở
các địa phương làm cho dân khốn khổ: “dân dân đều một lẽ, lòng dân vui thì thuận ý
trời. Nên người giỏi trị nước phải yêu dân như cha mẹ yêu con: nghe thấy dân đói rét
phải lo, trông thấy dân vất vả phải thương, cấm chính thể hà khấc tàn bạo, cấm việc tự
tiện thu thuế, để dân được sinh sống thỏa mái, không có tiếng sầu giận thở than. Đó
mới là biết đạo trị nước, nay thánh thượng để ý đến dân, ra một chính sách gì là cốt đế
nuôi dân, thi hành một lệnh gì lả cốt ngừa sự nhiễu dân; lòng yêu dân thật như độ
lượng cùa trời đất cha mẹ.
Đại thần Ngô Đình Chất tố cáo bọn quan lại các địa phương chỉ chăm làm việc
cay nghiệt, vét hết của cái của dân khiến dân sầu khổ, ông dâng bán điều trần bề trên
thương dân, nuôi dân một mảy may nào tiện cho dân cũng nên làm, một mối tệ hại
6
cho dân nào cũng nên bù. Lại càng nên ban nhân chính cho dân. Như thế thì người
dân đội ơn mà mừng, người xa nghe tiếng mà đến ấy là được lòng dân.
Đại thân Ngô Trí Hòa đã cùng đại thân Lê Tri Bật vào năm 1618 làm tờ khải
dâng chúa Trịnh điều trần về chính sách trị dân của triều đình gồm có sáu
việc có lợi cho dãn.
Cuối thế kỷ thứ XX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, trong khi vua quan nhà
Nguyễn dâng đất và ký hiệp ước đầu hàng, thì những người dân ấp dàn lân đã anh
dũng đứng lên chống giặc, bảo vệ quê hương đất nước, tính thần đó đã được ca ngợi
trong bài ‘Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” cùa nhà thơ bình dân Nguyễn Đình Chiểu.
Nguyễn Đình Chiếu quả là trường hợp điển hình của một con người nhờ tin yêu
nhân dân sâu sắc mà đã chiến thắng được những hạn chế khắc nghiệt của bản thân:
mù lòa, học vẩn dở dang, sống nghèo khổ trong hoàn cảnh nước mất. Sự nghiệp văn
học cua ông vượt xa những người đương thời. Đó không phải nhờ học van cử
nghiệp mà nhờ lòng tin vô hạn của ông vào nhàn dân lao động.
Đầu thế kỷ XX, khi thục dân Pháp đã đặt được ách thống trị nên đất nước ta
phong trào yêu nước của nhân dân ta vẫn bùng nên mạnh mẽ, như phong trào Cần

Vương, Đông kinh nghĩa thục, khởi nghĩa Yên Thế, đặc biệt là phong trào vận động
cách mạng của hai nhà chí sĩ họ Phan. Hai cụ đã thẳng thắn vạch trần bọn quan lại
nịnh hót, chi biết có vua mà không biết có dân, muốn giữ mãi địa vị cúa mình, túi
tham được đầy mãi. Cụ khắng định: “ ai coi nước nhà như một món của riêng mình
thì ví như bọn trộm cướp, còn ai cậy quyền mả áp chế nhân dân thì ví như quân
phản nghịch”.
Phan Bội Châu, một chí sĩ yêu nước nồng nhiệt, đã từng sang tàu, sang Nhật tìm
đường cứu nước cứu dân và viết những là thư đầy tâm huyết gửi quốc dân đồng
bào. Cụ đã có một quan niệm sâu sắc, chí lý về dân, về nước, thể hiện tư tường
“khinh quân trọng dân”; “ái quốc, ái quần” rất rõ rệt, Cụ thang thắn tỏ rõ thái độ của
mình đối với vua, đối với quan và đối với dân. Cụ cho rằng kẻ làm vua chang qua là
người đứng đầu một làng, là viên quàn lý một công ty mà thôi. Neu vua chết đi thì
làng và công ty vần còn. Vua cũng chỉ là một phần số người trong một nước, cỏ hay
không có một phần số người này, đối với một nước thì cũng không thêm bớt một
phần đáng kể nào. Như vậy Phan Bội Châu đã từ bở tư tường tôn quân của hệ tư
tưởng phong kiến, đã coi dân là gốc của nước, trong các tác phấm của cụ dân chúng
đã xuất hiện như lực lượng có ý thức về trách nhiệm cao cả của mình.
3, Những luận điếm chủ yếu của Hồ Chỉ Minh về thân dân.
Quan điếm của Hồ Chí Minh về dân rất nhất quán và sâu sắc trên cơ sở kế thừa
những giá trí truyền thong tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa của nhân loại, mà đĩnh
cao là học thuyết Mác- Lênin. Chính những quan điểm đó đã chỉ ra tính chất, đặc
điểm và nội dung cùa mối quan hệ giữa Đáng với dân. Hơn nữa, những quan điểm
đỏ đang trờ thành những định hướng cơ bán, những yêu cầu bức thiết cho công
cuộc đốĩ mới và chinh đốn Đảng ta hiện nay.
Cần khẳng định ràng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân là một phạm trù rất rộng
nhưng vẫn bao hàm và thế hiện tính giai cấp rố rệt. Hồ Chí Minh
7
thường dùng khái niệm dân bên cạnh các khái niệm: nhân dân, quân chúng nhản dân,
đồng bào tùy lúc, tùy nơi, tùy từng quan hệ cho thích hợp. Đó là những khái niệm
đông nghĩa, có cùng nội hàm đê chỉ mọi người việt Nam yêu nước không phân biệt

già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, không phân biệt tôn giáo, tầng lớp - trong đó công nông
chiếm tuyết đại đa số. Khái niệm dân hay nhân dân, quẩn chúng, đồng bào mà Hồ chí
Minh sử dụng rất dung dị, mộc mạc, dễ hiểu nhưng cũng rất tinh tể, uyển chuyển
trong chiều sâu tư tưởng của Người.
Chúng ta biết rằng, chú nghĩa Mác - Lenin khi bàn về phạm trù nhân dân thường
giới hạn trong phạm vi của mối quan hệ giai cấp, giữa giai cấp vô sản với giai cấp
nông dân, các tàng lớp bị áp bức bóc lột, mở rộng ra là các dân tộc bị áp bức trên toàn
thế giới.
Hồ Chí Minh đã kể thừa toàn bộ tư tưởng đúng đắn và cách mạng đó của học
thuyết Mác - Lenin khi bàn về phạm trù dân. Hơn thế nữa trong điều kiện của một
nước thuộc địa nửa phong kiến, muốn giành được độc lập cho tô quốc, ấm no hạnh
phúc cho nhân dân càn phải có một quan niệm về nhân dân rộng rãi hơn, phù hợp với
đặc điểm, truyền thống yêu nước, sự gắn bó cộng đòng và tinh thần cách mạng cũa
nhân dân Việt Nam. Thau hiểu bài học lịch sứ về sức mạnh quần chúng nhân dần,
dưới ánh sang của chú nghĩa Mác Lê Nin, đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân, Hồ Chí Minh đã phát triển, làm phong phú thêm nội hàm của khái niệm
dãn phù hợp với điều kiện thời đại và đặc diêm của dân tộc.
Sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh là;
Thứ nhất, Người quan niệm dân là người trong cùng một cộng đồng, một quổc
gia, một lãnh thổ thống nhất. Người gọi nhân dân là “quốc dân”, là “đồng bào”, là
“người trong một nước”,
Thử hai, dân có chung một nguồn, “đều chung một tổ tiên”, là con “cùng một
bọc”, là “con Lạc cháu Hồng”, “đều là con cháu việt Nam, đều là anh em ruột thịt”.
Vì vậy, “chủng ta sống chết có nhau, sướng khố cùng nhau, no đói giúp nhau”.
Thứ ba, dân còn là các tầng lớp, các thể hệ, các giới, các đoàn thể.
Thứ tư, theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”, dân còn bao hàm cả
nghĩa quốc tế, nhân loại. Đó là “đại gia đình giai cấp công nhân toàn thế giới” là bạn
bè năm châu bốn biển, là nhân dân các châu lục đang đấu tranh chống lại sự nô dịch,
bât công đê giành độc lập, tự do, tiên bộ và hòa bình chung trên hành tinh.
Thứ năm, dân còn dùng đế chỉ những người yêu nước, xây dựng đất nước là lực

lưỡng cách mạng. Sự mỡ rộng nhận thức về dân, làm tăng nội hàm của khái niệm dân
ớ Hồ Chí Minh không có gì trái với quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, mà chi
làm cho phạm trù đó trư nên phong phú, đa dạng, vừa mang tính cách mạng, tính giai
cẩp vừa mang tính dân tộc, càng làm nổi tính chỉnh thê của phạm trù dân.
Đây là nét nổi trội và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Khái niệm về dân
mà Người dùng, một mặt thế hiện quan điếm giai cấp, quan điếm quần chúng của chù
nghĩa Mác — Lê Nin, mặt khác lại mang tính sang tạo, tinh thực tiền, phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh và bản sắc dân tộc ta. Điều đó đã dẫn đẽn khả năng to lớn trọng
việc thuyêt phục, thu phục mọi lực lưỡng, mọi khả năng của cả dân tộc vào khối đại
đoàn kết toàn dân nhằm hướng lực lưỡng vào mục tiêu giải phóng dân tộc, giành độc
8
lập tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Chính vì vậy, tư tưởng vê dân của Hô Chí Minh
đã trờ thành tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng mặt trận thống nhất cho các thời kỳ
cách mạng Việt Nam.
Trên thực tế, Mặt trận đã qui tụ được mọi giai cấp, đảng phái, tầng lớp, thành
phần, tôn giáo nghĩa là tất cả những ai có lòng yêu nước, tán thảnh độc lập dân tộc
và cùng chung xây dựng một nước Việt Nam tự do và hạnh phúc. Nhưng Mặt trận vẫn
luôn lẩy cỏng - nông - trí làm nòng cốt.
Như vậy, khái niệm dân của Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành cơ sở tư tưởng đại
đoàn kết. Tư tưởng đó vượt khỏi khuôn khổ tư tường thuần tủy của một con người,
trở thảnh một chiến lược cách mạng của Đảng ta.
Tư tưởng về dân của Hồ Chí M inh rất phong phú nhưng ở đây có thể khái quát
thành những luận điểm lớn như sau:
3.1 : Thứ nhât, dân là 2 ỎC của nuởc, của cách mans:
“Dân là gốc của nước”, “ nước lấy dàn làm gốc” là tu tưởng vốn có trong nho
giáo trong học thuyết của Khổng Mạnh. Hồ Chí Minh từng nói trong học thuyết của
Khống Tử có nhiều điều không đủng, song những điều hay trong đó chúng ta phải
học. “Nước lấy dân làm gốc” là một trong “những điều hay” là một tư tưởng sâu sắc
của Nho giáo mà ông cha ta đã kế thừa và vận dụng ở những thời kỳ hưng thịnh cùa
các vương triều trong quá trình dựng nước và giữ nước suốt mẩy nghìn năm lịch sử.

Tư tường đó đã được Ho Chí Minh trân trọng tiếp thu và thường xuyên vận dụng
trong cả cuộc đời hoạt động của Người, đặc biệt là từ sau khi cách mạng tháng 8 năm
1945 thành công, người trở thành vị chủ tịch đầu tiên của Việt Nam dân chủ cộng hòa
và cũng là chủ tịch Đàng, Nho giáo mà Ho Chí Minh sử dụng là thứ nho giáo đã Việt
Nam hóa vì ngôn ngữ Nho giáo đã quen thuộc với dân tộc ta nên Hồ Chí Minh
thường dùng các mệnh đề Nho giáo nhưng đã chắt lọc cho phù họp với yêu cầu mới
của cách mạng. Cũng là chữ trung hiếu, ở Khống Tử là trung với vua và hiếu với bố
mẹ ở Hồ Chí Minh là “trung với nước hiếu với dân”.
Dân với nước gắn bó với nhau như cá với nước. Trước hết phải có một địa bàn
lãnh thổ (điều kiện tự nhiên) nhất định thì dân mới có thể làm ăn sinh sống, phát triển
thành một cộng đồng xã hội được. Nhưng tự thân một vùng đất đai tự nhiên nào đó
chưa thể gọi là “nước” được, mà phái có công lao khai phá xây dựng của dân có tổ
chức xà hội thì mới thành Nước. Nước phái có dân và do dân lập nên. Không có dân
thì không có Nước, do đó dân là gốc của Nước. “Gốc” là cơ sở quan trọng nhất của
một sự vật, như ta thường nói: Tài liệu gốc, chứng từ gốc, kinh tế là gốc của chính trị
và quân sự, thay đối tận “gốc” là thay đổi sự vật một cách triệt đế. Mất “gốc” là mất
cái gì căn bản nhất, làm cho một sự vật biến chất không còn là nó nữa.
Nước là một quốc gia, một vùng lãnh thô có chu quyền của những cộng đồng
dãn cư mà bao giờ cũng có những người cầm quyền mang danh đại diện. Dân là gôc
là nên cùa một nước nhung không phải ai cũng nhận rõ vai trò đó của dân. Hồ Chí
Minh đã từng thắng than vạch ra sai lầm đỏ. Người cho rang một pho tượng hay một
lâu đài cũng phải có cái nền rất vững chắc mới đứng vững được. Nhưng người ta dê
9
nhìn thây pho tượng và lâu đài mà không chú ý đến cái nền như thế là chi thấy cái
ngọn mà quên mất cái gốc.
Hồ Chí Minh không những nhận thức sâu sắc mà còn phát triển những nội dung mới
làm phong phú thêm tư tường dân làm gốc của nước của cách mạng.
Người khẳng định vai trò của lao động của nhân dân là những người lao động
đã làm ra mọi cùa cải vật chất vả giá trị văn hóa nuôi sống bộ máy nhà nước và toàn
thể xã hội làm cho xã hội tồn tại và phát triển. Người nói “xã hội có cơm ăn áo mặc,

nhà ở là nhờ người lao động. Xây nên giàu có tự do dân chủ cũng là nhờ người lao
động. Trí thức mở mang cũng là lao động. Vi vậy lao động là sức chính của sự tiến bộ
loài người”. Người nhắc nhở những người được hướng thụ của cải tiêu dùng phải biết
ơn trả ơn những người đã làm ra những thứ đó: “cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc,
vật liệu chúng ta dùng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. vì vậy chúng ta
phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Đó chính là tư tướng ơn dân uống nước nhớ
nguồn một đạo lý cao đẹp cùa dân tộc ta.
Hô Chí Minh còn khẳng định dân là lực lượng chủ yếu, là gốc của các cuộc
cách mạng. Hồ Chủ tịch đã nhận rõ sự nghiệp cách mạng là của quần chủng nhân dân
đông đảo, trước hết là của những tầng lớp nghèo khố nhất bị áp bức bóc lột nhiều nhất
của công nhân, và nông dân.
Do tính chất và nội dung của cách mạng là rất phức tạp, phải thay thể chế độ cũ
băng chế độ mới, nên Hô Chí Minh đã thấy rõ và nhiêu lần khẳng định vai trò quyết
định của quần chúng nhân dân: Cách mạng là do nhân dân tự làm lấy đảng chỉ là
người lãnh đạo; sự nghiệp cách mạng rộng lớn và khó thực hiện nó không thể do 1
người 1 nhà làm mà tốt được; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải
là cùa cá nhân anh hùng nào; cá nhân anh hùng thì dù cho những cá nhân ẩy anh dũng
thế nào cũng không đi đến kết quả. Đương nhiên người cũng thấy rõ mối quan hệ
giữa cá nhân lãnh tụ với quần chúng nhân dân nhưng vai trò quyết định vẫn là quần
chúng nhân dân; cán bộ không đội viên lãnh đạo không có quần chúng thì không làm
gì được. Qua nghiên cứu về các cuộc cách mạng của các nước đặc biệt là cách mạng
Nga Hồ Chí Minh rút ra một bài học kinh nghiệm quan trọng: cách mạng thi phải
đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải
chi nhờ năm, bày người giết hai, ba anh vua, chín mười anh quan mà được. Hai đảng
ấy tuy hy sinh hết nhiều người, làm được nhiều sự ám sát oanh liệt nhưng vì đi sai
đường cách mệnh không có sức dân chúng làm nên cho nên bị chính phủ trị mãi đến
nỗi tan.
ơ nước ta trong những năm 20 của thế ky XX cả dân tộc đang sống dưới ách thống trị
của thực dân phong kiến, nhưng Hồ Chí Minh đã thấy được ý trí
sức mạnh của nhân dân, Trong thư gửi Khải Định vào tháng 8 năm 1922 Nguyễn Ái

Quốc đà thắng thắn phê phán sự ươn hèn và lố lãng của ông vua bù nhìn, đông thời ca
ngợi ý trí và sức mạnh của nhân dân;ngàí sẽ thây rãng ý trí của nhân dân một ý trí đã
được hun đúc trong nghèo đói và khố cực, một ý chí còn mạnh hơn và dẻo dai hơn
sóng cả cuối cùng sẽ khoét hống dần và đánh bật tàng đá bê ngoài có vẻ vững chảc là
sự áp bức bóc lột kia đi. Nhận định ây còn được Nguyễn Ái Quổc nhắc lại trong tác
10
phấm Đường Cách mệnh: dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không
chống lại được.
Vì áp bức mà sinh ra cách mệnh cách mệnh muốn thắng lồi phải dựa vào dân
chúng trong đó phải lấy cổng nông làm gốc Hồ Chí Minh đã lý giãi vì sao lại nhu vậy:
Một là vì công nông bị áp bức nặng hơn; hai là công nông đông nhất cho nên sức
mạnh hơn hêt; ba là vì công nông là tay không chân rồi nếu thua thì chỉ mất một cái
kiếp khổ, nếu được thì được cả thể giới cho nên họ gan góc. Vì những cơ ấy nên công
nông là gốc cách mệnh.
Dân không những có lực lượng đông mà còn rất cần cù thông minh khéo léo có nhiều
kinh nghiệm khéo léo. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn mau
chóng đầy đù mà những người tài giòi những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra.
Dân có lực lượng đông đảo có trí tuệ tập thể có khả năng và kinh nghiệm để giải
quyết công việc lớn nhỏ. Vì vậy, Ho Chí Minh thường xuyên nhắc nhở nếu biết dựa
vào nhân dân thì việc gì cũng xong dân chúng đồng lòng việc gì làm cũng được, dân
chúng không ủng hộ việc gì làm cũng không nên.
Hồ Chi Minh đã khắng định trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong
thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân trong xã hội không
có gì tốt đẹp vẻ vang bang phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Đây là một UI' tưởng
tổng quát có tính triết lý sân xa thể hiện một thế giới quan khoa học một quan niệm
nhân sinh đúng đan đầy ý nghĩa nhân văn cao cả.
3.2: Thứ hai, dân ìà chủ cùa đất nước cùa xã hôi ỉà chủ vân mênh của chính mình.
Tư tường dân chủ dân là chủ của đất nước của nhà nước của xã hội chủ vận
mệnh của chính mình là tư tưởng mới mẻ chưa có trong tư tưởng truyền thống cùa
dân tộc ta, càng chưa có trong tư tướng nho giáo. Tư tường dân chủ của Hồ Chí Minh

xuất hiện và được khẳng định sau khi nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến
hành cách mạng tháng Tám 1945 thành công.
Cách mạng tháng Tám đà lật đỗ nền quân chủ mẩy mưới thế kỷ đã đánh tan
xiềng xích thực dân gần 100 năm đã đưa chính quyền lại cho nhân dân đã xây nền
tảng cho nước Việt Nam dân chủ công hòa độc lập tự do hạnh phúc. Đó là cồng cuộc
thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử nước ta. Cách mạng tháng Tám thang lơi đã làm
cho chủng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giới.
Tư tường dân chủ chính là cái cốt lõi nhất bàn chất nhất của tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân. Nước ta là nước dân chủ, chế độ ta là chế độ dân chủ là những câu Hô
Chí Minh không chi nói một lân mà người đã nhãc lại nhiêu lân trong nhiều hoàn
cảnh khác nhau ở những tác phàm khác nhau. Dân chủ theo Hồ Chí Minh nghĩa là
dân là chũ nhàn dân là người chủ. Điều đó Hồ Chí Minh đã nhiêu lân nói rõ nước ta là
nước dân chũ địa vị cao nhât là dân vi dân là chủ chế độ ta là chế độ dân chủ tức là
nhân dàn là người chủ. Nước ta là nước dân chủ được lấy là tiêu đề của một trong bốn
phần của tác phẩm dân vận một tác phấm rất ngấn chỉ khoảng 600 chữ nhưng hàm
chửa nhiều khái niệm quan trọng nhiều tu tưởng lớn về dân trong đó có tư tưởng dân
chủ. Ở đây Hồ Chí Minh đã trình bảy một cách rất cô đọng và sang tỏ nội dung cơ
bản tư tưởng dân chù bằng 7 câu rất ngán gọn mà đặc sắc như những danh ngôn.
11
“Bao nhiêu lại ích đều vì dân Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đối mới, xây dựng là trách nhiệm của dân Sự nghiệp
kháng chiến kiến quốc là công việc của dân Chính quyên từ xã
đến chính phú trung ương do dân cứ ra Đoàn thế từ trung ương
đến xã do dân to chức nên Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”
Dân chú nghĩa là dân là chủ, dân là chủ vì dân có quyền hạn, có quyền hành tức
là có khả năng thực tê quyết định định đoạt điều hành nhũng tô chức, những công
việc do mình làm chủ. Nhiều người lầm tưởng rằng quyền hành là ở các tố chức nhà
nước do những cán bộ có chức có quyển nắm giữ. Thực ra đó là quyền lực được nhân
dân giao phó ùy thác. Khi những người đó thôi giữ chức vụ đại diện cho quyền lực

của nhân dân thì họ cũng hết quyền. Chính vì quyên hành là của dân nên dân mới có
thể cử ra chính quyên tù’ xà đến chính phủ trung ương và mới có thế tố chức nên đoàn
thế tù trung ương đến xã. Và cũng vì thế mà Ho Chí Minh đã tùng khắng định dân là
chủ thì chính phủ là đẩy tớ nếu chính phủ làm hại dân thi dân có quyền đưồi chính
phủ,
Dân có quyền vì dân có lực lượng, lực lượng của dân là vô cùng vô tận đã tạo ra
mọi cùa cải vật chất và mọi giá trị tinh thần của xã hội trong mọi thời đại và mọi hoàn
cảnh.
Dân là chủ có quyền hành lợi ích thì đương nhiên cũng có nghĩa vụ trách nhiệm
đoi với mọi công việc từ kháng chiến kiến quốc đến xây dựng đối mới đất nước. Hồ
Chí Minh đã nhiều lần đề cập đến vấn đề này kêu gọi các tầng lớp nhân dàn làm tròn
nghĩa vụ của người công dân làm chủ nước nhà. Người nói rằng dân làm chủ thì dân
phải có trách nhiệm của người làm chủ, dân có quyền lợi làm chủ thi có nghĩa vụ làm
tròn bốn phận công dân giữ đúng đạo đức công dân.
Theo Hồ Chí Minh, trách nhiệm và bổn phận công dân không chi là việc chấp
hành đầy đú chú trương chính sách của Đảng và Nhà nước mà nhân dân còn phái
tham gia vào việc xây dựng các chú trương chính sách, tham gia xây dựng Đảng,
thấm định sự đúng đắn của một đường lối, một chú trương. Muốn làm được điều đó
dân cũng cần phải tự nâng cao trình độ đế xứng đáng với tư cách người làm chủ.
Với những quan diêm trên, Hô chí Minh đã hoàn thiện vẽ mặt nhận thức vai trò,
vị trí của nhân dân trong cách mạng. Những quan điếm đó chính là sự kế thừa, phát
triến sang tạo học thuyêt Mác về vai trò quần chúng nhân dãn trong lịch sù và trong tư
tưởng “nước lây dân làm gôc” của ông cha ta.
Nét độc đáo trong quan niệm về quyền lực nhân dân của Hồ Chí Minh là ở chỗ nó
tuân theo phép biện chứng một cách triệt để và người nhấn mạnh vai trò của nhân dân
trong việc làm nên những thành quả cách mạng cũng như trong công cuộc xây dựng
đất nước.
3.3: Thứ ba. dân có ĩ ICC lương to lớn. tiêm năng vô tân. nhưng không thuần nhất
mà có nhiều tầng, ỉớp khác nhau, cân phai đươc Ưĩác ngôi tở chức, lãnh đao đúng
đan.

12
Hồ Chí Minh quan niệm dân chủng không nhất luật nhu nhau trong dân chúng có
nhiều tầng lớp khác nhau trình độ khác nhau ý kiến khác nhau . Quan niệm như vậy là
rẩt phù hợp với thực tế và rất cần thiết đế có phương pháp ứng xừ thích hợp với từng
đối tượng cụ thế trong dân chúng.
Thật vậy, xét về mặt xã hội, dân là một tập hợp người không đơn giãn, không
thuần nhất, mà được phân loại xếp hạng theo những tiêu chí nhất định: giới tính, lứa
tuối, giai cấp và trong mỗi xã hội khác nhau thì dân chủng được phân chia và co tên
gọi khác nhau.
Trong xã hội hiện đại do sự phát triến của nền công nghiệp và kinh tê hàng hóa,
đã xuất hiện hai giai cấp mới đổi lập nhau là giai cấp tư sản vả giai cấp công nhân.
Hai giai cấp này trờ thành hai giai cấp cơ bản trong xã hộ mới cùng với các giai cấp
và các tầng lớp vốn có trong trong xã hội cũ, tiếp tục tồn tại , phát triẻn, phàn hóa làm
cho dân chúng bị phân thảnh nhiều bộ phận rất đa dạng và phức tạp. ngoài lợi ích
chung của cộng đồng, các tầng lớp, các bộ phận trong nhân dân đều có khả năng, nhu
cầu, nguyện vọng, lợi ích riêng biệt, và do đó có vai trò khác nhau đối với sự phát
triển của xã hội.
Ho Chí Minh quan tâm nhiều đến thái độ chính trị và hành động cách mạng của
các tầng lớp nhân dân. Người đã nhiều lần nói về phấm chất cách mạng cao đẹp của
nhân dân ta: dân cỏ một lòng nồng nàn yêu nước, rất cần cù, thông minh và khéo léo,
có nhiều kinh nghiệm quý báu. Người khắng định: chúng ta phải ghi tạc vào đầu chân
lý này: Dân rất tốt. Tuy nhiên do dân chúng không thuần nhất mà có nhiều thành
phần, nhiều tầng lớp, nhiều bộ phận, nhiều trình độ, nhiều ý kiến khác nhau, có những
nhu cầu và lợi ích riêng khác nhau, lại thường bị giai cấp thống trị bóc lột lừa phỉnh
cường ép cho nên dân thường chia rẽ phái nọ bè kia. và nhìn tỏng thể, trong dân bao
giờ cũng có ba loại người: tiên tiến, trung bình, lạc hậu mà trong đó loại trung bình
nhiều hơn hết. Chính vì đặc điểm đó cho nên Iiô Chí Minh khẳng định cách mệnh
trước hết phải làm cho dân giác ngộ, sức cách mệnh phải tập trung; muốn tập trung
phải có Đảng cách mệnh vận động và tố chức dân chúng. Đó chính là cơ sở sâu xa
của sự cân thiêt phải có Đảng lãnh đạo, Cơ sở sâu xa của tư tưởng dân vận của Hồ

Chí Minh và cũng là cơ sở sâu xa của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết nôi tiêng của
người chính là;
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kểt Thành
công, thành công, đại thảnh công”
II. Đảng và nhà nuức ta trong mối quan hệ vói nhân dân
ỉ.Đinh hướng phát triên con người của Đảng và nhà nước ta trong giai đoan hiện
nay.
Vấn đề xây dựng con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh đặt ra trong bổi cảnh
nước ta đang tiến hành phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, với sự mở của giao lưu rộng rãi với tất cả các nước trên thế giúi đã được
Đảng và nha nước ta nêu rõ trong các văn kiện đại hội Đảng các cấp. Với các nội
dung chính đó là phát huy người tốt việc tôt. Hỉnh thành hệ giá trị và chuẩn mực xã
hội mới phù hợp với truyền thong bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại.
13
Trong các văn kiện đại hội Đáng cũng đã nhẩn mạnh rằng nguồn lực quý báu
nhất có vai trò quyết định nhất là nguồn lực con người Việt Nam, là sức mạnh nội
sinh của chính bàn thân dân tộc Việt Nam. Đó là sự khắng định mạnh mẽ nhất việc
thực hiện chiến lược con người nhằm phát huy nguồn lực con người Việt Nam.
Ngoài ra Đàng ta còn chú trọng đến việc giải quyết các chính sách xã hội hướng
vào phát triển con người trong xã hội.
2. Thực trạng về moi quan hệ giữa Đảng và dân hiện nay
Sự quan tâm của Đảng không thể chỉ là vấn đề quán triệt quan điểm xây dựng
con người mới phát triển toàn diện theo tư tưởng Ho chí Minh mà quan trong
hơn đó la các giải pháp cụ thể, thiết thực, nhằm giải quyết tận gốc các vẩn đề xã
hội, những nhu cẩu tối thiểu cùa con người
2. ỉ: Những mãt tích circ đã thưc hiên đươc
Đàng và nhà nước đã chú trọng đến việc phát triển kinh tể cùng với việc gia tăng
việc làm mới cho nhân dãn lao động. Tăng quỳ thời gian lao động được sử dụng
nhất là trong nông thôn và nông nghiệp. Có chính sách hỗ trợ cho khu vực kinh té
nông nghiệp và nông thôn thể hiện thông qua các dự án hỗ trợ như chương trình

135 của chính phủ, các chính sách hồ trợ nông dân vay vốn để phát triển sản xuất,
làm giàu. Thực hiện miễn thuế thu nhập nông nghiệp.
Cơ cấu lại bộ máy điều hành các cấp và thường xuyên giám sát chỉ đạo hoạt
động của các cấp các ngành đế đàm bảo việc phục vụ tốt cho nhân dân. Luật chống
tham nhũng đã được thông qua đế xử lý những vi phạm quan lieu trong hệ thống bộ
máy nhà nước. Có những hình phạt nghiêm minh với những quan chức vi phạm.
Đầu tư nhiều vào khu vực công để xây dựng trường học, càu cống, đường
xá phục vụ cho sự phát triến kinh tế và đi lại của người dàn. Tạo điều kiện cho con
em vùng sâu xa có điêu kiện học tập và phát triên,
Chú trọng phát triển mạng lưới điện đến hầu khắp các vùng miền trên đất nước.
Đầu tư vảo công nghệ thông tin liên lạc, xây mới các đài phát thanh truyên hình trên
khãp cả nước nhăm phục vụ tôt nhât có thê cho đời sông đời nhân.
Qua đó tạo niềm tin cùa nhân dân đổi với Đãng và các chính sách của nhà nước
theo nhu tu tưởng của Hồ Chú tịch về chính sách thân dân của Người.
2.2: Những han chê cân khác pỉntc trong thời gian tới
Các chính sách xã hội của nhà nước chưa được thực hiện đồng bộ và hiệu quả
chưa cao. Khi các dự án được giao cho các ban ngành liên quan thực hiện thì chưa có
cơ chề quản lý minh bạch và hiệu qua làm cho nguốn ngân sách nhà nước bị thất
thoát. Làm giảm sự tin tưởng của nhân dân vào Đảng và chính phu.
Hiệu quà của các công trình đầu tư chưa cao gây lăng phí nguồn vốn đầu tư. Các
công trình do nhà nước đầu tư chưa thật sự phát huy hết được tác dụng như mong đợi
khi mà một số hạng mục công trình khi đi vao hoạt động đã không thế đem lại hiệu
quả.
14
Nguồn vốn đầu tư của nhà nước còn nan giải và chưa thực sự hiệu quả. Khi
nguồn vốn vay của chính phủ gia tăng và các công trình cơ sở hạ tầng không thật sự
được chú trọng đầu tư theo chiều sâu.
Tệ nạn tham ô, tham nhũng ngày càng khó kiểm soát trở thành một quôc nạn. Tuy
rang đã ban hành luật chống tham ô và tham nhũng nhưng hiệu quả của những văn
bản luật này thì chưa thật rõ ràng. Thất thoát trong ngân sách nhà nước những năm

vừa qua ỏ mức cao và ngày càng khó kiếm soát đã làm giảm lòng tin của nhân dân
vào các chính sách điều hành nền kinh tế của nhà nước.
Các chính sách điều tiêt vĩ mô nền kinh tế chưa phát huy được hiệu quả như
mong đợi. Tỷ lệ lạm phát tăng cao trong những năm gần đây gây ảnh hường lớn đến
đời sống nhân dân. Khi giá cả leo thang làm cho mức sống dân cư bị giảm sút trong
khi đó chính phủ chưa kịp thời đưa ra các chỉnh sách về tăng lương cho công nhân
viên cũng như các giải pháp làm tâng thu nhập của người dân. Chính điều này đã gây
nên những dư luận không tôt trong xã hội khi người dân phải thường ngày đối mặt
với những khoản chi tiêu thường xuyên trong cuộc sống.
Các vấn đề về văn hóa xã hội ngày càng phức tạp. Khi chúng ta hội nhập vào nền
kinh tế thế giới thì không thế loại trừ những ảnh hưởng cùa sự giao lưu và hội nhập về
vân hóa. Ngoài những điều tôt đẹp thì cũng không thể tránh khỏi những ảnh hưởng
xấu đặc biệt là dòng xoáy cùa nếp sổng hiện đại. Ngày càng có nhiều trẻ em rơi vào
những tệ nạn của xã hội, chất lượng giáo dục giảm sút một phần là do những chính
sách giáo dục của chính phũ chưa thực sự phát huy tác dụng và chưa thực sự được
chú trọng đầu tư. Điều này ảnh hường không nhở đến tư tương của người dân đối với
nền kinh tế thị trường.
Kết luận
Sự vĩ đại trong tư tưởng Hồ chí Minh trong tự tường thân đản là ở chỗ người đã
đật tất cả niềm tin ở con người và khắng định rằng có dân là có tất cả. Rõ rang từ rất
sớm Người đà thấy vị trí con người trong cách mạng và đối với sự nghiệp cách mạng
xã hội cũng đồng nghĩa với cách mạng con người. Từ đó có thể thấy sự nghiệp cách
mạng của nước ta có được những thành tựu vĩ đại như hôm nay là nhờ sự quan tâm
đúng mực đến việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà ơ đó nền kinh tế - xã hội của bất cứ quốc
gia nào cũng chỉ có thể phát triển vững chắc trên cơ sở phát triên của tri tuệ, ngày
càng dựa vào chất xám của đội ngũ những con người có tri thức. Người ta đã ngày
càng nhắc nhiều đển cụm từ xã hội giá trị tri thức, giá trị tri thức nói ở đây có nghĩa là
những sản phẩm hàng hóa của xã hội chủ yếu phải dùng giá trị do tri thức tao nên, đòi
hỏi xã hội phải đặc biệt chú trọng đến nhân tố con người và yếu tố văn hóa trong phát

triển, chưa bao giờ vẩn đề văn hóa lại được đặt ra một cách cấp thiết và gán nó với
yếu tố con người như hiện nay. Vì vậy việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh là việc làm cần thiết của tất cả mọi người dân. Đặc biệt là các cấp các
ngành cần chú trọng hơn nữa trong việc kêu gọi tất cã mọi người trong phong trào
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chi Minh. Các cán bộ công chức cần đi
tiên phong trong việc học tập và làm theo lời Bác đế từ đó hướng dẫn cho mọi tầng
lớp nhân dân. Bang những việc làm thiết thực được thưc hiện trong cả nước chúng ta
hy vọng rằng đất nước chúng ta sẽ phát triến bền vững trong tương lai hướng tới sự
phát triển nhân cách con người và phat triến hướng tới con người là giá trị cốt lõi của
sự phát triển trong tư tưởng Hô Chí Minh.
Tàĩ liệu tham kháo
1. Giáo trinh tư tưởng Hồ Chí Minh - NXB Chính trị quốc gia
2. Mối quan hệ giữa Đảng và dân trong Tư tưởng Hồ Chí Minh - NXB Chính trị
quốc gia
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triẻn
toàn diện - NXB Chính trị quốc gia
4. Xây dựng con người mới theo tư tường Ho Chí Minh - NXB Chính trị quốc gia
5. Các tài liệu tham khảo trên mạng Internet

×