Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Năng lực cạnh tranh của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.8 KB, 101 trang )

1
CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT
PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1.1.KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:
1.1.1.Khái niệm cạnh tranh:
Thuật ngữ “cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh
vực như kinh tế, thương mại, thể thao, …; cũng như thường xuyên được nhắc tới
trong sách báo chuyên môn, diễn đàn kinh tế, các phương tiện thông tin đại chúng
và thuật ngữ này được sự quan tâm của nhiều đối tượng khác nhau, từ nhiều góc độ
khác nhau, dẫn đến có rất nhiều khái niệm khác nhau về cạnh tranh.
Tiếp cận ở góc độ đơn giản thì cạnh tranh là hành động ganh đua, đấu tranh
các cá nhân, các nhóm, loài chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài khác vì
mục đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu
hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác. Trong kinh tế chính trị học thì cạnh
tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa
nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng
hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra
giữa những người sản xuất với người tiêu dùng; giữa người tiêu dùng với nhau để
mua được hàng rẻ hơn; giữa những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn
trong sản xuất và tiêu thụ.
Có quan điểm cho rằng, cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Paul Anthony Samuelson và William
Nordhaus lại cho rằng, cạnh tranh là sự đối đầu giữa các doanh nghiệp cạnh tranh
với nhau để giành khách hàng hoặc thị phần[16]. Michael Porter thì cho rằng, cạnh
tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản
lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có, kết quả quá
2
trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải


thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi[15].
Từ các quan điểm trên, có thể hiểu rằng, cạnh tranh trong kinh tế thị trường
là sự đối đầu giữa các chủ thể tham gia thị trường để giành những điều kiện thuận
lợi nhất trong sản xuất, tiêu thụ, tiêu dùng hàng hóa nhằm thu lại nhiều lợi ích nhất
cho chính họ.
1.1.2.Khái niệm năng lực cạnh tranh:
Cũng như cạnh tranh, có nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh
trên các cấp độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm; và hiện chưa có một lý thuyết
nào hoàn toàn có tính thuyết phục về vấn đề này, do đó không có lý thuyết “chuẩn”
về năng lực cạnh tranh. Quan điểm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
cũng có nhiều khác biệt. Có quan điểm cho rằng, năng lực cạnh tranh là khả
năng tồn tại trong kinh doanh và đạt được một số kết quả mong muốn dưới dạng lợi
nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng các sản phẩm cũng như năng lực của nó để
khai thác các cơ hội thị trường hiện tại và làm nảy sinh thị trường mới.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của
khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao. Như vậy, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đấy là các
yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về
công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp,… một cách riêng biệt
mà còn đánh giá, so sánh với các đối thủ cạnh tranh hoạt động trên cùng lĩnh vực,
cùng một thị trường.
Có quan điểm khác cho rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn
liền với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Có quan điểm lại
gắn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với thị phần mà nó nắm giữ, cũng có
quan điểm đồng nhất của doanh nghiệp với hiệu quả sản xuất kinh doanh,…. Tuy
nhiên, nếu chỉ dựa vào thực lực và lợi thế của mình thì chưa đủ, bởi trong điều kiện
toàn cầu hóa kinh tế, lợi thế bên ngoài đôi khi là yếu tố quyết định. Thực tế chứng
3
minh một số doanh nghiệp rất nhỏ, không có lợi thế nội tại, thực lực bên trong yếu

nhưng vẫn tồn tại và phát triển trong một thế giới cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của doanh
nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc làm thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của
khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Vì thế, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh
một cách tương ứng với các đối thủ cạnh tranh.
Như vậy, có thể đúc kết lại rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là
khả năng khai thác, sử dụng hợp lý thực lực và lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm
tạo ra những sản phẩm - dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để tồn tại và phát triển,
thu được lợi nhuận ngày càng cao và chiến thắng trong cuộc cạnh tranh với các đối
thủ khác trên thị trường. Năng lực cạnh tranh thể hiện ở việc làm tốt hơn so với các
đối thủ về doanh thu, thị phần, khả năng sinh lời và đạt được thông qua các hành vi
chiến lược. Năng lực cạnh tranh cũng thể hiện thông qua việc nâng cao chất lượng
sản phẩm, mà sự sáng tạo sản phẩm là những khía cạnh rất quan trọng của quá trình
cạnh tranh.
1.1.3.Chiến lược cạnh tranh:
1.1.3.1.Khái niệm chiến lược cạnh tranh:
Chiến lược cạnh tranh được hiểu là tập hợp những quyết định và hành động
hướng tới mục tiêu để các năng lực và nguồn lực nội tại của doanh nghiệp đáp ứng
được những cơ hội và thách thức từ bên ngoài, chiến thắng trong cuộc đua tranh với
đối thủ. Vì vậy, trước hết chiến lược cạnh tranh liên quan tới các mục tiêu của
doanh nghiệp; thứ đến, nó bao gồm không chỉ những gì doanh nghiệp muốn thực
hiện mà còn là cách thức thực hiện những công việc đó, là một loạt các hành động
và quyết định có liên quan chặt chẽ với nhau; phương pháp phối hợp các hành động
và quyết định đó.
Bruce Henderson, chiến lược gia đồng thời là nhà sáng lập Tập đoàn Tư
vấn Boston đã kết nối khái niệm chiến lược với lợi thế cạnh tranh. Ông cho rằng,
chiến lược là sự tìm kiếm thận trọng một kế hoạch hành động để phát triển và kết
4
hợp lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, những điều khác biệt giữa doanh nghiệp

và đối thủ cạnh tranh là cơ sở cho lợi thế của doanh nghiệp; ông cũng tin rằng,
không thể cùng tồn tại hai đối thủ cạnh tranh nếu cách kinh doanh của họ giống hệt
nhau, cần phải tạo ra sự khác biệt mới có thể tồn tại[6]. Michael Porter cũng tán
đồng nhận định của Henderson khi cho rằng, chiến lược cạnh tranh liên quan đến sự
khác biệt, đó là việc lựa chọn cẩn thận một chuỗi hoạt động khác biệt để tạo ra một
tập hợp giá trị độc đáo[2][15].
Nói chung, chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp đề cập chủ yếu tới việc
làm thế nào một doanh nghiệp có thể cạnh tranh thành công trên một thị trường cụ
thể; nó liên quan đến các quyết định về việc lựa chọn sản phẩm, đáp ứng nhu cầu
khách hàng, giành lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ, khai thác và tạo ra được các
cơ hội mới.
1.1.3.2.Xây dựng chiến lược cạnh tranh:
Chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp phải khai thác được những điểm
mạnh cơ bản của mình, đồng thời phải tính đến những cơ hội và thách thức của môi
trường kinh doanh. Phải thể hiện được mục đích mà doanh nghiệp cố gắng vươn tới
trong dài hạn, doanh nghiệp phải cạnh tranh trên thị trường nào và những loại hoạt
động nào doanh nghiệp thực hiện trên thị trường đó? Doanh nghiệp sẽ làm thế nào
để hoạt động tốt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trên những thị trường đó? Những
nguồn lực nào cần phải có để có thể cạnh tranh được? Những nhân tố từ môi trường
bên ngoài ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp? Những giá trị và
kỳ vọng nào mà những người có quyền hành trong và ngoài doanh nghiệp cần?
Vì thế, chiến lược cạnh tranh được xây dựng phải thỏa mãn được tất cả các
yêu cầu đó, trên cơ sở nguyên lý cốt lõi là phải dựa trên lợi thế cạnh tranh của
doanh nghiệp và những cơ hội mà doanh nghiệp có được. Nếu chiến lược cạnh
tranh được xây dựng theo kiểu rập khuôn, khiêng cưỡng của các nhà quản trị bảo
thủ, xem việc xây dựng chiến lược như là những tiêu chuẩn đo lường khả năng điều
hành của mình, thì những chiến lược cạnh tranh được vạch ra khó có thể hoàn hảo
và phù hợp. Việc theo dõi và phân tích các chiến lược đã được xây triển khai thành
5
công ở những doanh nghiệp có cùng lợi thế cạnh tranh là hết sức cần thiết. Đó có

thể là một kiểu mẫu để học tập, cũng có thể là những bài học kinh nghiêm quý báu.
Sức sáng tạo, khả năng trực giác, tính kỷ luật, tinh thần nghiêm túc là những phẩm
chất vàng của một chiến lược cạnh tranh hiệu quả.
Có thể khẳng định một điều, những chiến lược cạnh tranh hoàn hảo luôn bắt
nguồn từ những ý tưởng mới lạ. Quá trình xây dựng chiến lược phải được cân nhắc
kỹ càng dựa trên những nguồn lực là thế mạnh của doanh nghiệp, với sự am hiểu về
lĩnh vực mà doanh nghiệp tham gia hoạt động, những nguồn lực tạo ra giá trị cho
doanh nghiệp, để từ đó chiến lược cạnh tranh trở thành hiện thực; và cuối cùng,
chiến lược cạnh tranh được xây dựng phải thể hiện được tầm nhìn dài hạn, đồng
thời phải là một cấu trúc bền vững đem lại những lợi ích rõ ràng cho doanh nghiệp.
1.2.KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG VÀ
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1.2.1.Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng:
1.2.1.1.Khái niệm cạnh tranh ngân hàng:
Giống như các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác của nền
kinh tế, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng cũng luôn hướng tới
việc giành lấy những yếu tố thuận lợi nhất trong quá trình cung cấp sản phẩm dịch
vụ, mở rộng thị phần để tối ưu hóa lợi nhuận kiếm được.
Cho nên, cạnh tranh ngân hàng cũng là sự đối đầu giữa các ngân hàng để
giành giật khách hàng, giành giật những điều kiện thuận lợi nhất cho họ trong việc
cung cấp những sản phẩm dịch vụ đặc biệt, có chất lượng cao, có sự khác biệt
tương đối so với sản phẩm dịch vụ của đối thủ cạnh tranh trên thị trường nhằm thu
lại nhiều lợi ích nhất.
1.2.1.2.Những đặc điểm của cạnh tranh ngân hàng thương mại:
Các ngân hàng thương mại trong hoạt động kinh doanh của mình, luôn phải
đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt với đối thủ với mục tiêu là giành giật khách hàng,
tăng thị phần tín dụng và cung ứng dịch vụ. Do ngành nghề kinh doanh khá đặc thù,
6
nên cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại cũng có những nét đặc trưng rất
riêng biệt. Có thể nhận thấy là:

Thứ nhất, đó là sự ganh đua và hợp tác xen lẫn nhau để hướng tới một
thị trường lành mạnh, tránh rủi ro hệ thống: các ngân hàng thương mại thường
giao dịch với nhau thông qua các khoản tiền gửi ngắn hạn hoặc tài khoản vãng lai
thanh toán để đáp ứng các yêu cầu kinh doanh. Vì thế, nếu như có một Ngân hàng
thương mại trong quá trình kinh doanh gặp khó khăn và đối mặt với nguy cơ phá
sản, sẽ tác động dây chuyền đến cả hệ thống các ngân hàng thương mại, thậm chí
còn ảnh hưởng đến cả các tổ chức phi tài chính; lẽ dĩ nhiên, không một ngân hàng
thương mại nào muốn điều đó xảy ra. Do đó, các ngân hàng thương mại một mặt
luôn luôn cạnh tranh gay gắt với nhau để giành giật khách hàng, giành giật thị phần;
mặt khác lại luôn phải hợp tác với nhau, cùng nhau tạo ra môi trường kinh doanh
lành mạnh, an toàn để tránh rủi ro hệ thống.
Thứ hai, đó là cuộc cạnh tranh được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của
Ngân hàng Trung ương: hoạt động của các ngân hàng thương mại ảnh hưởng đến
toàn bộ nền kinh tế, sự mạo hiểm trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
thương mại sẽ dẫn đến nguy cơ đổ vỡ hệ thống, kéo theo hệ lụy là gây thiệt hại nặng
nề cho cả nền kinh tế quốc gia. Bởi vậy, Ngân hàng Trung ương (ở Việt Nam là
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) sẽ giám sát hết sức chặt chẽ hoạt động của các
ngân hàng thương mại trên thị trường và liên tục có những cảnh báo khi có dấu hiệu
của những diễn biến bất lợi để phòng ngừa rủi ro. Dưới sự giám sát và cảnh báo
này, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại sẽ khó có thể làm cho một bộ
phận trong hệ thống suy yếu đi và dẫn đếp sụp đổ như trong các lĩnh vực kinh
doanh khác.
Thứ ba, đó là cuộc cạnh tranh công nghệ cao và nằm trong vùng ảnh
hưởng thường xuyên của thị trường tài chính quốc tế: do là các trung gian tài
chính, nên hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại sẽ tạo ra các “ống
dẫn” cho quá trình lưu chuyển tiền tệ nội địa và quốc tế và cũng vì vậy, họ phải chịu
sự chi phối của rất nhiều tác nhân trong nước cũng như quốc tế trong quá trình hoạt
7
động, điển hình là tập tục kinh doanh của từng quốc gia, các thông lệ quốc tế, cơ sở
hạ tầng công nghệ, …. Diễn biến phức tạp của thị trường tài chính quốc tế cũng làm

cho các ngân hàng thương mại phải liên tục thay đổi phương pháp sử dụng trong
cạnh tranh. Như vậy, cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại đòi hỏi những
chuẩn mực khắt khe hơn bất cứ cạnh tranh trong lĩnh vực nào của nền kinh tế.
Thứ tư, đó là cuộc cạnh tranh rất nhạy cảm với môi trường kinh doanh
và sự mạo hiểm để thành công đôi khi trở thành tai họa: kinh doanh tiền tệ là lĩnh
vực kinh doanh vô cùng nhạy cảm với môi trường kinh doanh; trong đó, mỗi sự
thay đổi của một trong các nhân tố về chính trị, xã hội, kinh tế, tâm lý, văn hóa,
dù rất nhỏ cũng sẽ tác động và lan truyền rất nhanh chóng, làm ảnh hưởng đến hoạt
động của các ngân hàng thương mại. Cho nên, các ngân hàng thương mại không thể
cạnh tranh bằng mọi giá, bằng mọi thủ đoạn để làm suy yếu và thôn tính đối thủ
cạnh tranh; bởi vì, sự suy yếu và sụp đổ của đối thủ có thể sẽ mang lại cho chính họ
và cả hệ thống Ngân hàng thương mại những tai họa khó lường trước được, thậm
chí dẫn đến sự sụp đổ của chính họ do phản ứng dây chuyền.
Thứ năm, đó là cuộc cạnh tranh chịu sự tác động trực tiếp và vô cùng
lớn từ chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước: nguồn vốn kinh doanh của các
ngân hàng thương mại chủ yếu là vốn huy động từ các tổ chức và cá nhân trong nền
kinh tế - xã hội, vốn tự có chỉ là thứ yếu và hầu hết được dùng để trang bị cơ sở vật
chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Kết hợp với việc chính sách tiền
tệ thường được Nhà nước sử dụng để điều tiết ở tầm vĩ mô, thì quá trình các ngân
hàng thương mại cạnh tranh với nhau còn chịu sự chi phối vô cùng lớn từ chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương ở từng giai đoạn, chịu sự chi phối lớn nhất
là trong cạnh tranh về huy động vốn và cho vay.
1.2.1.3.Các hành vi cạnh tranh ngân hàng không lành mạnh:
Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng, hay
nói khác đi là những hành vi mà các ngân hàng thương mại thường sử dụng để cạnh
tranh với nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh có thể được nhận diện cụ thể
như sau:
8
*Cung cấp thông tin dễ gây hiểu lầm có hại cho các đối thủ và khách
hàng của họ: việc cung cấp thông tin gây hiểu lầm thông thường được thể hiện

thông qua các hành vi sau:
− Sử dụng các tên gọi, logo, chỉ dẫn địa lý dễ gây nhầm lẫn với các Ngân
hàng khác, khiến khách hàng hiểu nhầm là dịch vụ được cung cấp bởi một ngân
hàng uy tín và nổi tiếng.
− Cung cấp thông tin sai sự thật về các chiến lược trong tương lai với các
đối tác nước ngoài: đối tác nước ngoài mua cổ phần, ký kết hợp đồng hợp tác cung
cấp dịch vụ, … khiến cho khách hàng hiểu lầm và tin tưởng vào khả năng tài chính
và khả năng kinh doanh của ngân hàng.
*Xâm phạm bí mật kinh doanh của đối thủ: các hành vi xâm phạm bí mật
kinh doanh của Ngân hàng thương mại có thể bao gồm:
− Tiếp cận thông tin, phá hệ thống bảo mật của một ngân hàng đối thủ
nhằm chiếm đoạt các thông tin bảo mật của họ; tiết lộ những thông tin thuộc bí mật
kinh doanh của một ngân hàng đối thủ mà không được sự đồng ý; lừa gạt, mua
chuộc, lợi dụng lòng tin của nhân viên bảo mật của đối thủ cạnh tranh nhằm thu
thập những thông tin thuộc bí mật kinh doanh của họ.
− Tiếp cận thông tin, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của một
ngân hàng đối thủ khi họ thực hiện các thủ tục hành chính nhà nước (chẳng hạn như
đăng ký thêm loại hình dịch vụ ngân hàng), hoặc dùng các biện pháp thâm nhập hệ
thống thông tin bảo mật của cơ quan nhà nước để chiếm đoạt thông tin về các ngân
hàng khác để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.
*Ép buộc khách hàng trong kinh doanh: có thể được thể hiện qua hành vi
cấp tín dụng cho khách hàng kèm theo các điều kiện bất hợp lý như chỉ được sử
dụng các dịch vụ kèm theo do mình cung cấp, hoặc chỉ được mở duy nhất một tài
khoản tại ngân hàng mình mà không thể mở tài khoản tại các ngân hàng khác.
*Gièm pha ngân hàng khác: hành vi này thường thể hiện qua việc nói xấu
ngân hàng khác, hoặc tung tin không chính xác về tình hình hoạt động kinh doanh
của họ nhằm gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng này.
9
*Gây rối hoạt động kinh doanh của các ngân hàng khác: là hành vi gián
tiếp hoặc trực tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của ngân hàng

khác; trên thực tế, hành vi này thông thường được thể hiện dưới dạng thuê người
ngăn trở khách hàng, tụ tập trước ngân hàng gây mất trật tự khiến cho hoạt động của
họ gặp trở ngại.
*Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh: thể hiện ở hành vi
quảng cáo sai sự thật về mình như khả năng tài chính, số lượng chi nhánh, mạng
lưới phục vụ, chất lượng và số lượng dịch vụ, …. So sánh dịch vụ của mình với
dịch vụ của một ngân hàng khác theo hướng làm giảm uy tín của họ với mục đích
làm giảm lượng khách hàng của ngân hàng đó, hay bắt chước sản phẩm quảng cáo
của một ngân hàng khác cũng được xem là hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh.
*Lạm dụng cơ chế lãi suất trong cạnh tranh: lãi suất được đưa ra trên cơ
sở chấp nhận lỗ để giành thị phần là thể hiện của hành vi cạnh tranh không lành
mạnh về lãi suất. Đây cũng là biểu hiện khá thường xuyên trong quá trình cạnh
tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
*Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: các hành vi khuyến
mại sau đây có thể được xem là sử dụng công cụ khuyến mại để cạnh tranh không
lành mạnh: tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng như không công khai,
không có sự hiện diện của đại diện cơ quan quản lý, người trúng thưởng là thân
nhân của nhân viên ngân hàng; chương trình khuyến mại kéo dài, ảnh hưởng đến
sức cạnh tranh của ngân hàng khác có ít khả năng tài chính hơn.
*Phân biệt đối xử của hiệp hội: hành vi từ chối cho gia nhập hiệp hội vì
những lý do không thỏa đáng như quy mô vốn (ví dụ như không cho ngân hàng nhỏ
gia nhập), địa bàn hoạt động; hoặc hành vi đối xử không công bằng với các thành
viên trong hiệp hội.
*Đầu cơ dẫn đến lũng đoạn tỷ giá ngoại tệ, giá vàng và thị trường tiền tệ:
thể hiện ở việc một hoặc một nhóm ngân hàng thỏa thuận đầu cơ nhằm lũng đoạn tỷ
giá ngoại tệ, giá vàng và lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
10
1.2.2.Những yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại:
Năng lực cạnh tranh của một ngân hàng thương mại thể hiện chủ yếu ở các

yếu tố cụ thể sau:
1.2.2.1-Nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực:
Trong bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào, nguồn nhân lực cũng là yếu tố hết
sức quan trọng, chứ không riêng gì lĩnh vực ngân hàng. Sở hữu một lực lượng lao
động có trình độ cao, tràn đầy nhiệt huyết, trung thành, … sẽ tạo cho ngân hàng một
lợi thế đáng kể trong cuộc cạnh tranh giành giật khách hàng, giành giật thị phần với
các đối thủ.
Khả năng thu hút nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng làm
việc tốt cũng thể hiện đẳng cấp và danh tiếng của một ngân hàng thương mại trên
thị trường; điều đó cũng cho thấy rằng, năng lực cạnh tranh của họ khá cao và sẽ
càng gia tăng do kết quả của quá trình sử dụng nguồn nhân lực tốt đã thu hút được
mang lại.
1.2.2.2.Năng lực tài chính:
Năng lực tài chính hùng mạnh sẽ cho phép một ngân hàng thương mại đầu
tư nhiều hơn vào việc đổi mới công nghệ, ứng dụng kỹ thuật hiện đại vào hoạt động
kinh doanh nhằm tạo lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ. Về tâm lý, người gửi tiền
sẽ chọn ngân hàng có năng lực tài chính tốt để ký thác những khoản tiền tích lũy
của mình; người vay tiền cũng thích tìm đến họ với hy vọng gia tăng giá trị thương
hiệu; vì thế, ngân hàng thương mại có năng lực tài chính mạnh sẽ dễ dàng thu hút
khách hàng trong việc huy động vốn và cấp tín dụng, đồng thời cũng cho phép họ
tạo dựng uy tín trên thị trường.
Mặt khác, năng lực tài chính mạnh sẽ làm gia tăng khả năng chịu đựng rủi
ro của một ngân hàng thương mại, giúp họ đứng vững trong môi trường kinh doanh
vốn luôn luôn biến động khó lường.
1.2.2.3.Tính đa dạng, chất lượng và giá cả các sản phẩm dịch vụ:
Ngân hàng nào cung cấp được nhiều hơn những sản phẩm, dịch vụ tài chính
có chất lượng cao, nhiều tiện ích, thỏa mãn được nhu cầu ngày càng cao của khách
11
hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ tài chính do
mình cung cấp; lẽ dĩ nhiên, họ sẽ trở thành lựa chọn ưu tiên khi khách hàng phát

sinh nhu cầu sử dụng dịch vụ tài chính từ ngân hàng.
Lãi suất tiền gửi và cho vay hợp lý, phí dịch vụ thấp cũng là cơ sở quan
trọng để khách hàng lựa chọn sử dụng sản phẩm, dịch vụ tài chính của một ngân
hàng. Vì vậy, ngân hàng nào cho được đáp án phù hợp nhất đối với bài toán giá cả
này sẽ chiếm được ưu thế trong quá trình cạnh tranh.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, việc cạnh tranh về lãi suất trong hệ thống
ngân hàng có thể dẫn đến việc thúc đẩy lãi suất tăng lên nhanh và gây ra hiểm họa
cho nền kinh tế.
1.2.2.4.Trình độ ứng dụng công nghệ:
Các sản phẩm, dịch vụ tài chính tiện ích cao, giá rẻ, … hầu hết đều được
phát triển dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại; thực hiện các dịch vụ nhanh chóng,
chính xác, khách hàng sử dụng được dịch vụ mà không cần đến ngân hàng cũng là
kết quả ứng dụng công nghệ. Bởi vậy, trình độ ứng dụng công nghệ cao sẽ là cơ sở
cho một ngân hàng tạo sự khác biệt về chất lượng và giá cả của sản phẩm, dịch vụ
so với các đối thủ cạnh tranh.
Song song đó, ứng dụng công nghệ cao cho phép ngân hàng tập trung dữ
liệu về thông tin khách hàng, quản lý và khai thác chính xác lợi ích từng khách hàng
mang lại cho ngân hàng thông qua sử dụng dịch vụ để quyết định chiến lược khách
hàng. Công nghệ hiện đại cũng là cơ sở quan trọng để tạo ra kênh trao đổi thông tin
đa chiều giữa ngân hàng và khách hàng. Và ứng dụng công nghệ cao cũng cho phép
ngân hàng thiết lập một hệ thống giám sát hiệu quả toàn bộ các hoạt động, giảm
thiểu rủi ro có thể xảy ra.
1.2.2.5.Mạng lưới hoạt động:
Mạng lưới hoạt động rộng khắp chắc chắn sẽ giúp cho một ngân hàng tiện
lợi hơn trong việc cung ứng sản phẩm dịch vụ tài chính, kèm theo đó là cơ hội để
quảng bá thương hiệu trên diện rộng, và cũng là cơ sở rất quan trọng để gia tăng
12
tính tiện ích của sản phẩm dịch vụ cung ứng khi mà khoảng cách địa lý giữa ngân
hàng và khách hàng được rút ngắn.
Nếu như sản phẩm dịch vụ của một ngân hàng được khách hàng sử dụng

nhiều hơn, ngân hàng là chọn lựa ưu tiên của khách hàng khi có nhu cầu dịch vụ tài
chính, ngân hàng đó sẽ có được lợi thế trong cạnh tranh. Và điều đáng quan tâm là,
đôi khi sự lựa chọn của khách hàng, đặc biệt là người Việt Nam, chỉ đơn giản là
thuận tiện nhất theo kiểu “ra ngõ là đến”. Dĩ nhiên, trong trường hợp này, mạng
lưới rộng khắp là điều kiện tiên quyết.
1.2.2.6.Sự phù hợp của các chiến lược:
Sự am hiểu thị trường và dự báo được những biến động của thị trường với
độ chính xác cao, tầm nhìn dài hạn mới giúp cho ngân hàng xây dựng được các
chiến lược kinh doanh, chiến lược khách hàng, … phù hợp. Chiến lược phù hợp
cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng đã dung hòa một cách hợp lý nhất sự am hiểu
thị trường với những nguồn lực của chính họ. Mặt khác, sự phù hợp của các chiến
lược là yếu tố quan trọng thể hiện trình độ quản trị, điều hành của một ngân hàng.
Vì thế, sẽ không quá khi cho rằng, các chiến lược được xây dựng và cách
thức triển khai thực hiện (chiến lược kinh doanh, chiến lược khách hàng, chiến lược
tiếp thị) thể hiện một cách trung thực nhất năng lực cạnh tranh của một ngân hàng
thương mại.
1.2.2.7.Khả năng kiểm soát rủi ro:
Khả năng kiểm soát rủi ro càng cao, độ an toàn trong hoạt động kinh doanh
của một ngân hàng càng được đảm bảo, độ tín nhiệm của khách hàng với ngân hàng
càng lớn, uy tín và giá trị thương hiệu của ngân hàng đó trên thị trường càng lớn.
Một ngân hàng có khả năng kiểm soát tốt các rủi ro trong quá trình hoạt
động, sẽ có chất lượng tín dụng tốt, không gặp nhiều khó khăn trong thanh khoản,
quy trình nghiệp vụ khoa học và chặt chẽ, …. Tất cả những điều đó gộp lại sẽ giúp
năng lực cạnh tranh của họ tăng lên.
Trên đây là một số yếu tố mang tính quyết định đến khả năng cạnh tranh
của một ngân hàng thương mại. Trong thực tế, một số yếu tố khác cũng có khả
13
năng trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra năng lực cạnh tranh cho một ngân hàng
thương mại. Như:
− Sự khang trang của trụ sở, sự đặc thù mang tính biểu tượng của trụ sở (kể

cả các chi nhánh). Một nơi làm việc tốt, khang trang, có thể giữ phương tiện đi lại
cho khách đến làm việc, … đều có thể hấp dẫn khách hàng.
− Uy tín trong quan hệ: giải quyết nhanh gọn, an toàn, tiết kiệm thời gian
đi lại, thực hiện các cam kết với khách hàng đầy đủ, … cũng tạo ra sức cạnh tranh
cho một ngân hàng.
1.2.3.Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại:
Những yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của một ngân hàng thương mại
phản ánh các nguồn lực nội tại của họ, phát huy tốt các nguồn lực sẽ tạo lợi thế cạnh
tranh. Nhưng để phát huy các nguồn lực này thành năng lực cạnh tranh, thì những
tác nhân từ phía bên ngoài theo nhiều chiều khác nhau cũng ảnh hưởng không nhỏ.
Các yếu tố quan trọng nhất có thể được nhận diện là:
1.2.3.1.Môi trường kinh doanh:
Môi trường kinh doanh là nhân tố cơ bản nhất tác động, thậm chí là tác
động quyết định đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Cụ thể:
Tình hình kinh tế trong nước và thế giới: quy mô và tốc độ tăng trưởng
của tổng sản phẩm quốc dân, tổng sản phẩm quốc nội, tốc độ lạm phát, sự ổn định
của tỷ giá hối đoái, sức mạnh của các doanh nghiệp, khả năng tích lũy của người
dân, … đều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng mở rộng hoặc thu hẹp
mạng lưới hoạt động, cung cấp sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng thương mại.
Bên cạnh đó, sự biến động của kinh tế thế giới sẽ làm biến động thị trường tài chính
quốc tế, tác động đến các dòng vốn đầu tư nước ngoài, ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp và cá nhân có tham gia các giao dịch quốc tế, … và năng lực cạnh tranh của
các ngân hàng thương mại cũng sẽ không tránh khỏi tầm ảnh hưởng.
Hệ thống pháp luật, các thông lệ và chuẩn mực quốc tế: hoạt động của
các ngân hàng thương mại chịu sự chi phối rất lớn từ hệ thống luật pháp trong nước
14
(luật dân sự, luật cạnh tranh, luật các tổ chức tín dụng, …) và các thông lệ, các
chuẩn mực quốc tế. Bất cứ sự thay đổi nào trong hệ thống luật pháp và các thông lệ,
các chuẩn mực quốc tế cũng sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động và sức cạnh tranh

của các ngân hàng thương mại.
Chính sách tiền tệ: các ngân hàng thương mại là những trung gian để Ngân
hàng Trung ương thực thi các chính sách tiền tệ, nên năng lực cạnh tranh của các
ngân hàng thương mại cũng phụ thuộc không nhỏ vào các chính sách tiền tệ thay
đổi theo từng thời kỳ của Ngân hàng Trung ương.
1.2.3.2.Nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng:
Kinh tế càng phát triển, nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng
sẽ càng lớn và đa dạng; đồng thời, người sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng sẽ
yêu cầu ngày càng cao hơn đối với các ngân hàng thương mại về chất lượng và tiện
ích của sản phẩm.
Chính nhu cầu ngày càng cao và sự đòi hỏi ngày càng tăng của khách hàng
sẽ đặt các ngân hàng thương mại phải liên tục có sự đổi mới về mọi mặt để duy trì
lợi thế cạnh tranh của mình so với đối thủ.
1.2.3.3.Trình độ phát triển của thị trường tài chính và thị trường các sản phẩm
thay thế:
Thị trường tài chính càng phát triển, các giao dịch tài chính càng gia tăng,
thì các ngân hàng thương mại càng có nhiều cơ hội để tăng trưởng các khoản đầu
tư, sự thành bại trong đầu tư trên thị trường tài chính của ngân hàng hay của khách
hàng sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp kéo theo sự gia tăng hay sụt giảm khả năng cạnh
tranh của các ngân hàng thương mại.
Thị trường các sản phẩm thay thế phát triển làm cho các ngân hàng thương
mại bị chia sẻ đáng kể thị phần, các tổ chức và cá nhân sử dụng dịch vụ tài chính
(khách hàng của các ngân hàng thương mại) sẽ có nhiều cơ hội chọn lựa hơn. Thị
phần bị thu hẹp do sự chia sẻ đó sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng thương mại, làm cho mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng thương
mại trở nên khốc liệt hơn. Điều đó cũng có nghĩa là, để có thể tồn tại và phát triển
15
bền vững, các ngân hàng thương mại sẽ phải có những cố gắng để gia tăng năng lực
cạnh tranh.
1.2.3.4.Trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật:

Khoa học kỹ thuật càng phát triển, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật
vào hoạt động càng nhiều sẽ đẩy cuộc cạnh tranh của các ngân hàng thương mại lên
một tầm cao mới.
Nói cách khác, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt động kinh doanh sẽ
tác động làm thay đổi trình độ cạnh tranh, phương pháp sử dụng trong cạnh tranh
của các ngân hàng thương mại và cụ thể hơn, nó sẽ mở ra cơ hội cho các ngân hàng
thương mại tạo sự nên khác biệt về hình ảnh và uy tín.
1.3.SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM:
Ở giai đoạn hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam có cần thiết phải
nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh hay không? Câu hỏi đó sẽ được trả lời sau
những phân tích dưới đây:
1.3.1.Phân tích bằng kỹ thuật SWOT:
Hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam là bức tranh phức hợp về loại
hình sở hữu, nội lực, …. Song, trên góc nhìn khái quát nhất, vẫn có thể đưa ra
những đánh giá chung cho họ, đó là:
1.3.1.1.Điểm mạnh (Strengths):
Có thể khái quát chung về những điểm mạnh của các ngân hàng thương mại
Việt Nam như sau:
− Hệ thống mạng lưới rộng khắp, đây là lợi thế rất lớn khi thực hiện cung
ứng các sản phẩm dịch vụ và là cơ sở cần thiết để tăng sự tiện ích cho khách hàng
khi sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
− Am hiểu về thị trường trong nước và nhu cầu của khách hàng, sự am
hiểu này họ có được do tích lũy kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường trong một
quá trình lâu dài.
16
− Đội ngũ khách hàng truyền thống đông đảo, đa dạng và các ngân hàng
thương mại Việt Nam hiện chiếm thị phần lớn về hoạt động tín dụng, huy động vốn
và dịch vụ.
− Môi trường kinh tế vĩ mô khá ổn định và lành mạnh, môi trường pháp lý

cũng ngày càng thuận lợi cho hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính ngân
hàng. Chính nhờ sự ổn định và thuận lợi này mà các ngân hàng thương mại Việt
Nam khá thuận lợi trong việc huy động vốn và cấp tín dụng hoặc phát hành cổ
phiếu để tăng vốn.
1.3.1.2.Điểm yếu (Weaknesses):
Dù mỗi ngân hàng thương mại Việt Nam mang một nét đặc trưng riêng biệt
trong hoạt động kinh doanh, nhưng giữa họ, vẫn tồn tại không ít những điểm yếu
chung. Những điểm yếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam dễ nhận dạng
nhất có thể ghi nhận là:
− Năng lực quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế so với yêu cầu của ngân
hàng hiện đại, nhất là ở tính chuyên nghiệp và sự năng động của những nhà quản
trị; bộ máy quản lý vẫn còn cồng kềnh, thiếu hiệu quả. Đồng thời, chất lượng nguồn
nhân lực còn kém mặc dù đông đảo về mặt số lượng; chính sách tiền lương chưa
thỏa đáng, dễ dẫn đến việc chảy máu chất xám, chưa có hệ thống khuyến khích hợp
lý để thu hút nhân tài.
− Chính sách xây dựng thương hiệu còn yếu và nhiều bất cập, một số ngân
hàng còn chưa chú trọng đến việc xây dựng thương hiệu; chiến lược kinh doanh và
chiến lược khách hàng chưa có chiều sâu.
− Các tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ cao và khả năng sinh lời thấp hơn so các
ngân hàng trong khu vực và thế giới. Quy mô vốn hoạt động nhỏ, tiềm lực tài chính
yếu nên chưa thể thực hiện được chiến lược kinh doanh và mục tiêu kinh doanh một
cách hoàn chỉnh.
− Sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng, đơn điệu, tính tiện ích chưa cao và chưa
đáp ứng nhu cầu toàn diện của khách hàng. Tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh
chủ yếu tạo ra thu nhập trong khi lĩnh vực này lại tiềm ẩn nhiều rủi ro; các dịch vụ
17
ngân hàng hiện đại như môi giới kinh doanh, tư vấn dự án, tư vấn tài chính, … lại
chưa phát triển.
− Thiếu sự liên kết giữa các ngân hàng thương mại với nhau trong việc
cung cấp dịch vụ ngân hàng; đa số các ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ chú

trọng lợi ích cục bộ của mình chứ không quan tâm đến sự an toàn của cả hệ thống;
thậm chí, cá biệt ở một số ngân hàng, các chi nhánh của họ cũng giành giật khách
hàng với nhau. Hay nói cách khác, các ngân hàng thương mại Việt Nam thiếu thiện
chí với nhau trong liên kết hoạt động, và kể cả khi họ liên kết lại với nhau thì hiện
tượng xé rào vẫn liên tục diễn ra.
− Việc thực hiện chương trình hiện đại hóa của các ngân hàng thương mại
Việt Nam chưa đồng đều nên sự phối hợp trong việc phát triển các sản phẩm dịch
vụ chưa thuận lợi, chưa tạo được nhiều tiện ích cho khách hàng, chưa tạo thuận lợi
cho khách hàng trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
1.3.1.3.Cơ hội (Opportunities):
Trong bối cảnh hiện tại, khi mà các Ngân hàng nước ngoài xuất hiện ngày
càng nhiều ở thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam và ngày càng được đối xử
công bằng hơn, các Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng sẽ có những cơ hội lớn.
Đó là:
− Có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ và đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực, học tập kinh nghiệm quản lý và tư duy phục vụ khách hàng, phát huy lợi thế so
sánh để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài; từ
đó, từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng trên thị trường.
− Có cơ hội mở rộng hoạt động quốc tế, trao đổi và hợp tác quốc tế trong
hoạt động kinh doanh tiền tệ, quản trị rủi ro, hướng hoạt động phù hợp với các
chuẩn mực và thông lệ quốc tế, … để từng bước nâng cao vị thế của các ngân hàng
thương mại Việt Nam trong các giao dịch tài chính quốc tế.
− Do áp lực cạnh tranh từ các ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng
thương mại Việt Nam sẽ phải chuyên môn hóa sâu hơn về quản trị điều hành, quản
trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử
18
dụng nguồn vốn, phát triển sản phẩm dịch vụ, … những điều mà trước đây, chính
họ đã thiếu sự quan tâm đúng mức.
1.3.1.4.Thách thức (Threats):
Khi phải hoạt động kinh doanh trong thị trường rộng lớn hơn, bình đẳng

hơn, nhiều đối thủ cạnh tranh có tiềm lực tài chính và công nghệ hoạt động mạnh
hơn, các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách thức rất
lớn. Cụ thể là:
− Áp lực cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt do sự xuất hiện ngày càng nhiều
ngân hàng nước ngoài có thực lực về tài chính mạnh, trình độ công nghệ, quản lý
cao thâm nhập vào thị trường trong nước và sẽ được đối xử bình đẳng như các ngân
hàng thương mại trong nước khi cung cấp các sản phẩm dịch vụ.
− Hệ thống pháp luật, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và vẫn
còn chênh với các công ước, thông lệ quốc tế về hoạt động ngân hàng. Quá trình
điều chỉnh cho phù hợp cần rất nhiều thời gian và công sức.
− Lĩnh vực tài chính ngân hàng sẽ phải chịu sự tác động trực tiếp và ngày
càng mạnh hơn từ thị trường tài chính thế giới, nhất là về tỷ giá hối đoái, lãi suất, dự
trữ ngoại tệ.
Dựa vào các phân tích kể trên, có thể khẳng định rằng, so với thời gian
trước, các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay đã có tiến bộ hơn rất nhiều, có
những cơ hội lớn hơn và rõ rệt hơn, họ đang nắm giữ những lợi thế nhất định so với
các ngân hàng nước ngoài mới thâm nhập và hoạt động kinh doanh trên thị trường
Việt Nam. Nhưng với chừng ấy những điểm mạnh, chừng ấy lợi thế mong manh
chưa đủ để cho phép các ngân hàng thương mại Việt Nam vượt qua mọi thách thức,
tận dụng tốt thời cơ, nâng vị thế lên tầm cao mới nếu họ không tự đánh giá lại chính
xác tiềm lực của mình, có biện pháp hữu hiệu để phát huy sở trường, cố gắng khắc
phục những điểm yếu.
Vì thế, việc các ngân hàng thương mại Việt Nam phải cố gắng nâng cao
hơn nữa năng lực cạnh tranh là vấn đề tất yếu. Vấn đề quan trọng là họ sẽ phải làm
như thế nào, và nên bắt đầu từ đâu mà thôi.
19
1.3.2.Phân tích từ góc độ áp lực cạnh tranh:
Những năm gần đây, cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ở Việt
Nam diễn ra ngày càng gay gắt, nhất là sau khi nước ta chính thức gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) và chính thức thực hiện các cam kết song phương, đa

phương khi trong lĩnh vực này gia nhập. Vấn đề này đã đặt các ngân hàng thương
mại Việt Nam trước một bài toán hóc búa, đó là làm thế nào để đứng vững và không
thua thiệt trên chính “sân nhà” của mình trước sự biến động không ngừng của môi
trường kinh doanh.
Thực ra, áp lực cạnh tranh đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam
không đơn thuần đến từ sự xuất hiện ngày càng nhiều các ngân hàng nước ngoài tại
Việt Nam và các cam kết của Việt Nam về lộ trình bình đẳng với họ; mà còn đến từ
sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn giữa các ngân hàng thương mại trong nước
với nhau; và còn là sự cạnh tranh với các kênh đầu tư khác như chứng khoán, vàng,
bất động sản, …. Nếu vận dụng mô hình 5 áp lực của Michael Porter để phân tích
(hình 1.1), kết quả sẽ cho thấy rằng, áp lực cạnh tranh mà các ngân hàng thương
mại Việt Nam phải đối mắt vô cùng lớn. Đó là:
Hình 1.1: Áp lực cạnh tranh đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam:
CÁC NGÂN
HÀNG
THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM
Sản phẩm, dịch
vụ ngân hàng có
thể bị thay thế
Có thể có nhiều ngân
hàng mới gia nhập thị
trường
Áp lực
Áp lực
Áp
lực
Áp
lực
Áp lực

Áp lực
Áp lực từ
quyền lực
của khách
hàng sử
dụng dịch
vụ ngân
hàng
Đòi hỏi của
các cổ đông
góp vốn
Cường độ cạnh tranh trong ngành ngân
hàng ngày một tăng lên (áp lực từ các ngân
hàng đang tham gia thị trường)
Cường độ cạnh tranh trong ngành ngân
hàng ngày một tăng lên (áp lực từ các ngân
hàng đang tham gia thị trường)
Áp lực
Áp lực
20
1.3.2.1.Nguy cơ từ các ngân hàng mới:
Ngành ngân hàng đã có những thay đổi cơ bản khi các tổ chức tài chính
nước ngoài có thể nắm giữ cổ phần của các ngân hàng Việt Nam và sự xuất hiện
của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngay từ năm 2006, Việt Nam đã gỡ bỏ
dần các hạn chế về tỷ lệ tham gia cổ phần trong ngành ngân hàng của các định chế
tài chính nước ngoài theo cam kết trong Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ (BTA).
Còn theo các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định chung về hợp tác thương mại dịch
vụ (AFAS) của Hiệp hội các nước ASEAN, Việt Nam phải gỡ bỏ hoàn toàn các quy
định về khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, dịch vụ, giá trị giao dịch của các ngân
hàng nước ngoài từ năm 2008. Đã có 5 (năm) ngân hàng 100% vốn nước ngoài

được cấp phép thành lập tại Việt Nam. Tuy nhiên khi nhìn vào con số các ngân
hàng nước ngoài có văn phòng đại diện tại Việt Nam và các ngân hàng nước ngoài
có vốn cổ phần trong các ngân hàng thương mại nội địa, số ngân hàng 100% vốn
nước ngoài nhất định sẽ còn tăng lên trong tương lai.
Rào cản gia nhập còn được thể hiện qua các phân khúc thị trường, thị
trường mục tiêu mà các ngân hàng hiện tại đang nhắm đến, giá trị thương hiệu cũng
như cơ sở khách hàng, lòng trung thành của khách hàng mà các ngân hàng đã xây
dựng được. Những điều này đặc biệt quan trọng bởi vì nó sẽ ảnh hưởng đến quyết
định của một ngân hàng đang muốn gia nhập vào thị trường Việt Nam.
Một khi các ngân hàng hiện tại đã xây dựng được cho mình một thương
hiệu bền vững, với những sản phẩm, dịch vụ tài chính hiệu quả và khác biệt cộng
với một cơ sở khách hàng đông đảo và trung thành, chi phí chuyển đổi (switching
cost) để lôi kéo khách hàng của ngân hàng mới thành lập sẽ cực kỳ cao và do đó họ
bắt buộc phải cân nhắc thật kỹ trước khi quyết định gia nhập thị trường hay không.
Thực tế trên thị trường ngành ngân hàng Việt Nam cho thấy chi phí chuyển đổi nhìn
chung không cao do các ngân hàng chưa thật sự tạo được điểm khác biệt về chiến
lược sản phẩm, dịch vụ. Một yếu tố có thể làm tăng chi phí chuyển đổi lên một chút
và tạo một lợi thế cạnh tranh cho các ngân hàng đang hoạt động là hệ thống phân
phối. Các ngân hàng thành lập sau này sẽ gặp khá nhiều rắc rối trong việc tìm một
21
địa điểm ưng ý để đặt văn phòng chính cũng như các chi nhánh văn phòng giao dịch
bởi vì các vị trí đẹp và tiện lợi đều đã bị các ngân hàng đang hoạt động chiếm mất.
Tuy vậy, các ngân hàng thành lập sau này vẫn có thể dựa vào lợi thế công nghệ để
phát triển hệ thống kinh doanh của mình thông qua Internet Banking hoặc hệ thống
ATM. Nhìn vào ngành ngân hàng Việt Nam hiện tại trong bối cảnh Việt Nam cũng
như thế giới đang bị bao trùm bởi cuộc khủng hoảng kinh tế, rào cản gia nhập khá
cao khiến cho nguy cơ xuất hiện ngân hàng mới trong tương lai gần là khá thấp.
Nhưng một khi kinh tế thế giới hồi phục cộng với sự mở cửa của ngành ngân hàng
theo các cam kết với WTO và các tổ chức khác, sự xuất hiện của các ngân hàng mới
là một điều gần như chắc chắn.

1.3.2.2.Nguy cơ bị thay thế:
Cơ bản mà nói, các sản phẩm và dịch vụ của ngành ngân hàng Việt Nam có
thể cung ứng cho khách hàng gồm các nhóm sau: dịch vụ chi trả (lương, trợ cấp,
cấp dưỡng, …), nhận tiền gửi (tiết kiệm, tiền gửi khác), dịch vụ thanh toán, cho vay
tiền và chi trả kiều hối.
Đối với khách hàng doanh nghiệp, nguy cơ ngân hàng bị thay thế không
cao lắm do đối tượng khách hàng này cần sự rõ ràng cũng như các chứng từ, hóa
đơn trong các gói sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng. Nếu có phiền hà xảy ra trong
quá trình sử dụng sản phẩm, dịch vụ thì đối tượng khách hàng này thường chuyển
sang sử dụng một ngân hàng khác vì những lý do trên thay vì tìm tới các dịch vụ
ngoài ngân hàng.
Đối với khách hàng cá nhân thì lại khác, thói quen sử dụng tiền mặt khiến
cho người Việt Nam thường giữ tiền mặt tại nhà hoặc nếu có tài khoản thì khi có
tiền lại rút hết ra để sử dụng. Các cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp trả lương qua
tài khoản ngân hàng nhằm thúc đẩy các phương thức thanh toán không dùng tiền
mặt, góp phần làm minh bạch tài chính cho mỗi người dân. Nhưng các địa điểm
chấp nhận thanh toán bằng thẻ lại đa số là các nhà hàng, khu mua sắm sang trọng,
những nơi không phải người dân nào cũng tới mua sắm. Chính sự bất tiện này cộng
22
với tâm lý ưa chuộng tiền mặt có sẵn đã khiến người tiêu dùng muốn giữ và sử dụng
tiền mặt hơn là thông qua tài khoản ngân hàng.
Ngoài ra, khách hàng cá nhân còn có khá nhiều sự lựa chọn khác như giữ
ngoại tệ, đầu tư vào chứng khoán, mua bảo hiểm, đầu tư vào kim loại quý (vàng,
kim cương, …) hoặc đầu tư vào nhà đất. Đó là chưa kể là không phải lúc nào lãi
suất ngân hàng cũng hấp dẫn người tiêu dùng, họ có thể đầu tư vào lĩnh vực đang
sốt để thu lợi nhiều hơn.
1.3.2.3.Quyền lực của khách hàng:
Sự kiện nổi bật gần đây nhất liên quan đến quyền lực của khách hàng có lẽ
là việc các ngân hàng quyết định thu phí sử dụng ATM trong khi người tiêu dùng
không đồng thuận. Trong vụ việc này, ngân hàng và khách hàng ai cũng có lý lẽ của

mình nhưng rõ ràng nó đã ảnh hưởng không ít đến mức độ hài lòng và lòng tin của
khách hàng đối với các ngân hàng.
Điều quan trọng nhất vẫn là, sự sống còn của ngân hàng dựa trên đồng vốn
huy động được của khách hàng. Nếu không còn thu hút được dòng vốn của khách
hàng thì ngân hàng tất nhiên sẽ bị đào thải. Với chi phí chuyển đổi thấp, khách hàng
gần như không mất mát gì nếu muốn chuyển nguồn vốn của mình ra khỏi ngân hàng
và đầu tư vào một nơi khác.
1.3.2.4.Quyền lực của các nhà cung cấp:
Khái niệm nhà cung cấp trong ngành ngân hàng khá đa dạng. Họ có thể là
những cổ đông cung cấp vốn cho ngân hàng hoạt động, hoặc là những công ty chịu
trách nhiệm về hệ thống và các ứng dụng. Ở Việt Nam, các ngân hàng thường tự
đầu tư trang thiết bị và lựa chọn cho mình những nhà cung cấp riêng tùy theo điều
kiện. Điều này góp phần giảm quyền lực của nhà cung cấp thiết bị khi họ không thể
cung cấp cho cả một thị trường lớn mà luôn phải cạnh tranh với các nhà cung cấp
khác. Tuy nhiên, khi đã tốn một khoản chi phí khá lớn vào đầu tư hệ thống và các
giải pháp ứng dụng, các ngân hàng sẽ không muốn thay đổi nhà cung cấp vì quá tốn
kém chi phí chuyển đổi, điều này lại làm tăng quyền lực của nhà cung cấp thiết bị
họ đã thắng thầu.
23
Quyền lực của các cổ đông trong ngành ngân hàng thì như thế nào? Không
nhắc đến những cổ đông đầu tư nhỏ lẻ thông qua thị trường chứng khoán mà chỉ nói
đến những đại cổ đông có thể có tác động trực tiếp đến chiến lược kinh doanh của
một ngân hàng. Nhìn chung hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đều nhận
đầu tư của một ngân hàng khác. Quyền lực của nhà đầu tư sẽ tăng lên rất nhiều nếu
như họ có đủ cổ phần và việc sáp nhập với ngân hàng được đầu tư có thể xảy ra. Ở
một khía cạnh khác, ngân hàng đầu tư sẽ có một tác động nhất định đến ngân hàng
được đầu tư.
1.3.2.5.Cường độ cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành:
Tuy khủng hoảng kinh tế làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại, tác động xấu
tới ngành ngân hàng nhưng thị trường Việt Nam chưa được khai phá hết, tiềm năng

còn rất lớn. Ảnh hưởng tạm thời của cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ khiến cho các
ngân hàng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng mới, dẫn đến việc cường
độ cạnh tranh sẽ tăng lên.
Cường độ canh tranh của các ngân hàng càng tăng cao khi có sự xuất hiện
của nhóm ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngân hàng nước ngoài thường sẵn có
một phân khúc khách hàng riêng, đa số là doanh nghiệp từ nước họ. Họ đã phục vụ
những khách hàng này từ rất lâu ở những thị trường khác và khi khách hàng mở
rộng thị trường sang Việt Nam thì ngân hàng cũng mở văn phòng đại diện theo. Họ
có lợi thế làm từ đầu và có nhiều chọn lựa trong khi với không ít ngân hàng trong
nước thì điều này là không thể. Bên cạnh đó, các ngân hàng nước ngoài còn có
không ít lợi thế như hạ tầng dịch vụ hơn hẳn, dịch vụ khách hàng chuyên nghiệp,
công nghệ tốt hơn; và quan trọng hơn nữa, đó là khả năng kết nối với mạng lưới
rộng khắp trên nhiều nước của các ngân hàng nước ngoài. Trong khi đó, lợi thế của
ngân hàng trong nước là mối quan hệ mật thiết với khách hàng có sẵn, sự quen
thuộc với các phong tục, tập quán,
Một vấn đề cũng đáng quan tâm nữa là, việc các ngân hàng đã đua nhau mở
rộng quy mô mạng lưới để huy động nhiều vốn, dẫn đến tình trạng các ngân hàng
đang cạnh tranh quyết liệt với nhau trong hoạt động tín dụng mà quên mất các sản
24
phẩm và dịch vụ tiện ích kèm theo và do thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cho
nên công tác quản trị không theo kịp quy mô phát triển. Khủng hoảng kinh tế cũng
mang lại rất nhiều khó khăn cho ngành ngân hàng, một số ngân hàng đã không thể
duy trì được mức tăng trưởng trong năm vừa qua, tạo cơ sở để nhiều chuyên gia đưa
ra nhận định rằng xu hướng sáp nhập trong ngành ngân hàng đang đến gần.
Như vậy, việc các ngân hàng thương mại Việt Nam phải tích cực nâng cao
năng lực cạnh tranh trong thời gian tới là vấn đề không thể tránh khỏi, nó là một tất
yếu khách quan nếu họ muốn đứng vững trong môi trường cạnh tranh được dự báo
là ngày càng khốc liệt hơn. Và dĩ nhiên, với Agribank, một trong những ngân hàng
thương mại hàng đầu Việt Nam, cũng không thể ngoại lệ.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 của luận văn trình bài khái quát cơ sở lý thuyết về cạnh tranh và
năng lực cạnh tranh, cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, năng lực cạnh tranh của
ngân hàng thương mại, các yếu tố thể hiện năng lực cạnh canh và các nhân tố ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
Đồng thời, trong chương này, luận văn cũng phân tích điểm mạnh, điểm
yếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, nhận định những cơ hội và
thách thức và khẳng định việc các ngân hàng thương mại Việt Nam phải tiếp tục
nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh trong thời gian tới là vấn đề tất yếu.
25
CHƯƠNG 2
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
TIỀM LỰC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẤP THIẾT
Agribank được biết đến như là một trong những ngân hàng thương mại
hàng đầu ở Việt Nam với hệ thống mạng lưới cung ứng dịch vụ trải rộng khắp đất
nước, đặc biệt là họ có mặt ở cả các vùng nông thôn xa xôi và khách hàng của họ
chủ yếu là hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến các sản phẩm nông, lâm,
ngư, diêm nghiệp. Nói đến Agribank, không ít người có quan điểm rằng, họ là ngân
hàng của khu vực nông thôn và chủ yếu phục vụ cho nông dân Việt Nam. Vậy tiềm
lực thật sự của Agribank ra sao? Họ mạnh và yếu ở những điểm nào? Làm thế nào
để Agribank có thể khai thác hết những nguồn lực nội tại, tạo thành lợi thế cạnh
tranh so với các đối thủ trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt?
Để có cơ sở đánh giá chính xác năng lực cạnh tranh của Agribank ở thời
điểm hiện tại, trước tiên chúng ta nên tìm hiểu qua quá trình hình thành và phát triển
của Agribank, cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của họ trong những năm
gần đây:
2.1.GIỚI THIỆU VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
(AGRIBANK):

2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển:
Đi theo đường lối đổi mới do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI khởi
xướng năm 1986 và xác định đổi mới hệ thống ngân hàng là khâu then chốt, ngày
26/03/1988, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định số
53/HĐBT thành lập các ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân hàng Phát triển
Nông nghiệp Việt Nam – Tiền thân của Agribank ngày nay.
Lịch sử Agribank là lịch sử có nhiều thăng trầm và dấu ấn đáng ghi nhớ,
với những tên gọi khác nhau gắn với những nhiệm vụ khác nhau của từng thời kỳ

×