Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Lệch lạc xã hội từ việc sử dụng ngôn ngữ chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.94 KB, 56 trang )

Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC – K14
d***oOo***c
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
MÔN XÃ HỘI HỌC TỘI PHẠM
LỆCH LẠC XÃ HỘI TỪ VIỆC SỬ DỤNG
NGÔN NGỮ CHỬI THỀ TRONG GIAO
TIẾP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
(ĐIỂN CỨU SINH VIÊN TẠI KTX ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM)
GVHD: ThS. Trương Văn Vỹ
SV thực hiện:
Nguyễn Thị Thùy Linh 0856090085
Trần Thị Lương 0856090092
Nguyễn Thị Yến 0856090225
Tp.HCM, ngày 18 tháng 6 năm 2010
Page 1
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
MỤC LỤC
Phần I: Phần mở đầu 5
I. Lý do chọn đề tài 5
II. Đối tượng – khách thể - phạm vi nghiên cứu 6
1. Đối tượng nghiên cứu 6
2. Khách thể nghiên cứu 6
3. Phạm vi nghiên cứu 6
III. Mục tiêu nghiên cứu 6
1. Mục tiêu chung 6
2. Mục tiêu cụ thể 7
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu 7
V. Phương pháp nghiên cứu 7


VI. Ý nghĩa nghiên cứu 7
1. Ý nghĩa lý luận 7
2. Ý nghĩa thực tiễn 8
VII. Lịch sử nghiên cứu đề tài 8
Phần II: Nội dung nghiên cứu 10
Chương I: Cơ sở lý luận 10
I. Các Lý thuyết áp dụng 10
1. Lý thuyết về hành vi lệch lạc xã hội 10
2. Lý thuyết về hành vi lựa chọn hợp lí của Homans 10
3. Lý thuyết về hành động xã hội của Max Weber 11
4. Lý thuyết xã hội hóa cá nhân 12
II. Các khái niệm có liên quan 13
1. Tiếng Việt 13
Page 2
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
2. Ngôn ngữ 13
3. Giao tiếp 14
4. Ngôn ngữ giao tiếp 15
5. Văn hóa 15
6. Lệch lạc 15
7. chửi thề 16
8. Lối sống 16
9. Giá trị 17
10. Chuẩn mực xã hội 17
11. Thái độ 18
12. Nhận thức 19
III. Giả thuyết nghiên cứu 19
IV. Khung lý thuyết 20
Chương II: Tổng quan đề tài 21
I. Nét truyền thống trong văn hóa giao tiếp của người Việt 21

II. Mô tả địa bàn nghiên cứu 23
III. Tổng quan thực trạng “sinh viên chửi thề trong giao tiếp”
hiện nay 24
Chương III: Kết quả nghiên cứu đề tài 28
I. Khái niệm “chửi thề trong giao tiếp” của sinh viên 28
II. Tầm quan trọng và ý nghĩa của việc nghiên cứu 29
Page 3
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
1. Tầm quan trọng 29
2. ý nghĩa 30
II. Thực trạng “chửi thề trong giao tiếp” của sinh viên
hiện nay 32
III. Nguyên nhân dẫn tới thực trạng sinh viên chửi thề trong
giao tiếp 35
IV. Mức độ quan tâm của SV trong KTX ĐHQG Tp.HCM
về vấn đề này 37
V. Ý thức và thái độ của SV trong KTX ĐHQG Tp.HCM
về vấn đề này 38
VI. Những ảnh hưởng của việc “chửi thề trong giao tiếp”
tới tính văn minh, lịch sự trong giao tiếp 44
Chương III: Khuyến nghị 46
I. Đối với sinh viên 46
II. Đối với gia đình 47
III. Đối với xã hội 47
Phần III: Kết luận 48
Tài liệu tham khảo 49
Phần phụ lục 50
Page 4
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội hiện nay, nền kinh tế càng phát triển bao nhiêu, mức sống xã hội
càng tăng lên bao nhiêu thì lối sống của tuổi “teen” càng “thời đại” bấy nhiêu. Cái
“thời đại” ở đây không chỉ là sự hiểu biết, tri thức và thông minh mà còn cả sự xa xỉ,
sự đua đòi và sành điệu… Đặc biệt hơn, những thói xấu đó đang dần “nhiễm” mạnh
vào tầng lớp sinh viên – tầng lớp tri thức của đất nước, của xã hội.
Page 5
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
Ông bà ta từng dạy con cháu rằng: “tiên học lễ, hậu học văn”; “học ăn, học nói,
học gói, học mở”… nghĩa là trước khi đi ra xã hội điều trước tiên phải học là nghi
thức giao tiếp, là cách ứng xử có “văn hóa” với người khác. Vậy mà, một bộ phận sinh
viên hiện nay đã và đang làm “biến dạng”đi lời dạy của người xưa. Sự ứng xử, cách
thức giao tiếp của họ đã không còn thể hiện được nét “đẹp” phù hợp với vị thế - “con
người có học” của họ nữa. Đặc trưng cho lối ứng xử thiếu văn minh đó chính là hiện
tượng “chửi thề trong giao tiếp” – một hiện tượng lệch lạc về ngôn ngữ giao tiếp của
sinh viên hiện nay. Thực tế đã cho chúng ta thấy, quả thực ngôn ngữ mà một bộ phận
không ít sinh viên đó dùng để giao tiếp với nhau và với mọi người đang bị ô tục đi rất
nhiều. “Chửi thề” không chỉ dùng để chửi đơn thuần nữa mà nó đã ăn sâu thật sự và
trở thành câu cửa miệng của các bạn. Phải chăng, họ nghĩ chửi thề là để thêm “một
thứ gia vị” cho câu chuyện được “ngon” hơn??! Đây quả là một vấn đề đáng lo ngại,
và là một báo động cho xu hướng đi xuống của văn minh con người, của văn minh xã
hội.
Vậy thì, là những sinh viên thời đại mới, những người trẻ tri thức, ngoài những
hành trang tri thức để hòa nhập vào thế giới, sao không tô đẹp cho mình, cho xã hội
bằng những ngôn từ giao tiếp thật sự “đẹp” đúng nghĩa. Và làm thế nào để trong quá
trình trao đổi thông tin, giao tiếp với nhau hàng ngày, chúng ta – những sinh viên
đương đại có thể được thoải mái, thân thiện, dễ hiểu mà vẫn văn minh, lịch sự và
không bị “ô nhiễm”??.
Chính từ những suy nghĩ và những băn khoăn đó mà nhóm chúng tôi đã đi tới việc
nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu về sự “lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp

của sinh viên hiện nay” (điển cứu sinh viên tại Ký túc xá Đại học Quốc Gia Thành
phố Hồ Chí Minh). Với mục đích nhằm làm rõ thực trạng chửi thề trong giao tiếp của
sinh viên hiện nay nói chung và sinh viên trong Ký túc xá Đại học Quốc Gia nói riêng.
Đồng thời đi tìm hiểu mức độ quan tâm và thái độ của họ tới vấn đề này. Hơn nữa,
qua việc nghiên cứu này, chúng tôi một lần nữa nhìn lại chính tác phong, cách sử dụng
ngôn ngữ giao tiếp của chính bản thân mình sao cho xứng là những sinh viên Việt trẻ
thanh lịch.
II. Đối tượng – khách thể - phạm vi nghiên cứu
Page 6
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao
tiếp của sinh viên hiện nay (Điển cứu: Sinh viên trong KTX ĐHQG Tp.HCM).
2. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên trong KTX ĐHQG Tp.HCM.
3. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: KTX ĐHQG Tp.HCM.
Thời gian nghiên cứu: từ 10/05/2010 đến 18/06/2010.
III. Mục tiêu nghiên cứu
1. Mục tiêu chung
Đưa ra cái nhìn chung khái quát, cụ thể về hiện trạng lệch lạc ngôn ngữ từ việc
“chửi thề” trong giao tiếp của sinh viên hiện nay cũng như về mức độ quan tâm, thái
độ đánh giá của các bạn sinh viên trong KTX ĐHQG về vấn đề này.
2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ được thực trạng “chửi thề trong giao tiếp” của sinh viên hiện
nay nói chung và sinh viên trong KTX ĐHQG TP.HCM nói riêng. Cũng
như mức độ quan tâm, thái độ đánh giá của họ.
- Làm rõ được nguyên nhân dẫn tới thực trạng “chửi thề trong giao tiếp”
của sinh viên.
- Đưa ra được những ý kiến, những nhận định nhằm góp phần gìn giữ nét

đẹp truyền thống trong ngôn ngữ giao tiếp cũng như tính văn minh, lịch
sự trong quá trình giao tiếp.
- Đóng góp những giải pháp nhằm cải thiện thực trạng sinh viên “chửi
thề” trong giao tiếp.
Page 7
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng “lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao
tiếp” của sinh viên hiện nay nói chung và của sinh viên trong KTX
ĐHQG nói riêng.
- Tìm hiểu mức độ quan tâm và thái độ đánh giá của các bạn sinh viên
trong KTX về hiện trạng này.
- Phân tích tài liệu và các tư liệu đã thu thập được.
- Nghiên cứu một số lý thuyết liên quan trực tiếp tới đề tài.
- Đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện thực trạng trên.
V. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập thông tin sẵn có.
- Phương pháp quan sát tham dự.
- Phương pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi.
- Phương pháp xử lý thông tin.
+ Mã hóa thông tin định lượng.
+ Phân tích thông tin định tính.
VI. Ý nghĩa
1. Ý nghĩa lý luận
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, nhóm chúng tôi có cơ hội đi sâu hơn vào
những lý thuyết xã hội học.
2. Ý nghĩa thực tiễn
Page 8
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
Chúng tôi hy vọng rằng kết quả nghiên cứu này sẽ đóng góp một phần nhỏ nào đó

vào nguồn tài liệu khoa học có chung đối tượng với đề tài của chúng tôi.
VII. Lịch sử nghiên cứu
Xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, kinh tế đi lên và đời sống con người ngày
càng được nâng cao thì quá trình giao tiếp, trao đổi thông tin giữa con người với con
người cũng đi vào vòng xoáy của sự biến đổi ấy. Bên cạnh những sự tiếp thu cái hay,
cái mới từ văn hóa giao tiếp khắp mọi miền thì những hiện tượng lệch lạc ngôn ngữ
trong giao tiếp cũng không kém phần tăng theo.
Giao tiếp và việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp là mối quan tâm lớn của không
chỉ con người Việt Nam thôi mà còn cả của nhân loại, không chỉ người xưa mà còn cả
thời nay và thậm chí là cả những đời sau nữa. Khi đi tìm hiểu và nghiên cứu đề tài
này, nhóm cũng đã tìm hiểu những đề tài, sách, báo, tạp chí có liên quan tới, hoặc
thậm chí là có cùng đối tượng với đề tài nghiên cứu của nhóm.
Đầu tiên, xin đề cập tới một cuốn sách khá nổi tiếng và rất có ý nghĩa đó là cuốn
“văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt” xuất bản năm 2000 của tác giả Hữu
Đạt. Trong cuốn sách này, tác giả đã nêu lên được những ảnh hưởng của ngôn ngữ tới
nền văn hóa dân tộc cũng như tầm quan trong của nó trong hoạt động giao tiếp của
người Việt.
Luận văn tiến sỹ “một số vấn đề về ngôn ngữ trong thời kỳ toàn cầu hoá” của
Nguyễn Thị Quỳnh Như, bên cạnh việc nêu lên tầm quan trọng của ngôn ngữ giao
tiếp, luận văn còn nói về sự lưu giữ và phát triển ngôn ngữ trong thời kỳ giao lưu kinh
tế, văn hóa, xã hội toàn cầu như hiện nay.
Nghiên cứu về tính văn minh lịch sự và văn hóa ứng xử trong giao tiếp thì có các
bài viết: “lịch sự ngôn ngữ trong một số nghi thức giao tiếp trong tiếng việt” - luận
văn của Tạ Thị Thanh Tâm; “việc nghiên cứu lịch sự trong giao tiếp” bài viết trong
tạp chí ngôn ngữ (số 1) của Nguyễn Văn Độ; “vai xã hội và ứng xử ngôn ngữ trong
giao tiếp” của Như ý
Page 9
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
Về sự lệch lạc trong sử dụng ngôn ngữ giao tiếp, có đề tài nghiên cứu khoa học
cấp trường “lệch lạc ngôn ngữ giao tiếp của sinh viên hiện nay (điển cứu tại ĐHQG

Tp.HCM)” do Trần Thị Thủy – sv khoa xã hội học chủ nhiệm đề tài. Đề tài này đã
nêu lên được thực trạng sinh viên sử dụng ngôn ngữ lệch lạc, tìm ra được những
nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. Đồng thời cũng tìm hiểu được mức độ quan tâm
của sinh viên và ý thức của họ đối với vấn đề. Và một số đề tài khác có liên quan nữa.
Ngoài những đề tài, bài viết trên nhóm nghiên cứu còn tìm hiểu trên một số tờ báo,
tạp chí khác cũng như một số trang web, internet như: báo tuổi trẻ, báo thanh niên,
báo hoa học trò, báo mực tím, các trang />noi-tuc-chui-the-Trach-nhiem-ai/20758358/4; />hanh-xu-giang-ho/ ; van-hoa-chui-the/75170575/475 ;

Song, tất cả những nghiên cứu trên chỉ mang tính chất chung chung, chưa thực sự
đi rã vào một đối tượng cụ thể hay khách thể nghiên cứu cụ thể. Đề tài của mà nhóm
nghiên cứu không những đã chỉ đi sâu vào nghiên cứu cụ thể, không chỉ nêu ra được
thực trạng, nguyên nhân dẫn đến thực trạng, không chỉ tìm hiểu được mức độ quan
tâm của sinh viên về vấn đề mà còn tìm hiểu rõ về nhận thức, thái độ đánh giá cũng
như nhận xét của chính các bạn về hành vi lệch lạc ngôn ngữ - chửi thề trong giao tiếp
của sinh viên hiện nay.
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Page 10
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
I. Các lý thuyết áp dụng
1. Lý thuyết về hành vi lệch lạc xã hội
Các nhà xã hội học, tâm lý học, luật học có khá nhiều những quan niêm khác
nhau về lệch lạc xã hội. Nhưng họ lại thống nhất với nhau khi cho rằng môi trường xã
hội là một tác nhân đóng vai trò quan trọng đưa đến các hành vi lệch lạc.
Lệch lạc xã hội là hiện tượng phổ biến ở cả nông thôn, thành thị nhưng có một
điều không ai có thể phủ nhận được là tỉ lệ phạm pháp, bị lệch lạc ở đô thị bao giờ
cũng cao hơn nông thôn. Đây là một vấn đề dễ hiểu, vì trên thực tế thì đô thị chính là
nơi tập trung kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Là một nơi đông đúc dân cư sẽ dẫn
đến nhiều mối quan hệ, có quan hệ tốt và quan hệ xấu. Một mối quan hệ xấu sẽ có
nguy cơ đi đến hành vi lệch lạc là rất cao.

Sinh viên cũng vậy, sinh viên được sinh sống học tập và làm việc tại các đô thị
lớn, chính điều này đã có rất nhiều tác động đến sinh viên: tác động của kinh tế, xã
hội, văn hóa, môi trường xung quanh đã dễ dàng làm cho sinh viên rơi vào tình trạng
lệch lạc. Muốn thể hiện cho sự lệch lạc của sinh viên chính là việc sinh viên đang sử
dụng ngôn ngữ chửi thề trong hoạt động giao tiếp thường ngày của mình.
2. Lý thuyết về hành vi lựa chọn hợp lí của Homans
Lý thuyết này được các nhà xã hội học Mỹ xây dựng và áp dụng khá rộng rãi.
Người đại diện tiêu biểu cho lý thuyết này là Homans. Điểm xuất phát để đi vào xã
hội rộng lớn của lý thuyết là từ các cá nhân. Các cá nhân ở đây được xem xét chủ yếu
trên phương diện hành vi. Theo quan điểm này thì muốn giải thích một hiện tượng xã
hội nào thì điều trước tiên là phải quy về những hành vi cá nhân và coi đó là một sự
kiện.
Các nhà lý thuyết hành vi cho rằng phần lớn hay tất cả các hành động của con
người đều có thể giải thích bằng công thức: từ kích thích đến phản ứng. Điều đó có
nghĩa là: Con người sẽ có những phản ứng nhất định khi có sự kích thích.
Page 11
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
Lý thuyết này là sự biến thái từ lý thuyết hành vi của Coleman khởi xướng. Lý
thuyết này cũng dựa trên nguyên tắc hộp đen nhưng Homans lại không quan tâm lắm
đến đầu vào và đầu ra mà ông lại đi tìm hiểu cơ chế bên trong điều khiển các quá trình
diễn ra bên trong hộp đen. Cơ chế đó chính là sự lựa chọn hợp lý. Và cơ chế này thì
đều giống nhau ở mọi người. Khi một cá nhân nhận được một loạt các kích thích từ
bên ngoài thì không phải cá nhân ngay lập tức sẽ phản ứng lại tất cả mà tiến hành lựa
chọn những kích thích nào phù hợp với bản thân, còn những kích thích nào cảm thấy
không phù hợp, không mang lại lợi ích thì sẽ bị khước từ, loại bỏ.
Trên thực tế thì lý thuyết này được áp dụng khá rộng rãi và trường hợp nghiên cứu
về sự lệch lạc ngôn ngữ giao tiếp từ việc chửi thề của sinh viên cũng vậy. Từ sự phát
triển của kinh tế, biến đổi văn hóa, xã hội, môi trường sống xung quanh thực sự là
những kích thích rất mạnh đối với sinh viên chúng ta. Rõ ràng, trong những kích thích
đó sẽ có những kích thích tích cực nhưng cũng có những kích thích tiêu cực.

Với những kích thích đó thì sinh viên đã phản ứng như thế nào? Với những kích
thích đó cũng có những sinh viên phản ứng lại theo chiều hướng tích cực đó thực sự là
sự lựa chọn hợp lý. Thế nhưng, cũng có một bộ phân không nhỏ sinh viên đang lâm
vào tình trang lựa chọn phản ứng lại kích thích đó nhưng không hợp lý chút nào cả.
Đó là hiện tượng sinh viên sử dụng ngôn ngữ chửi thề trong hoạt động giao tiếp của
mình và cho đó là phù hợp với thời đại, phù hợp với lối sống trẻ. Sự lựa chọn của họ
đã và đnag có những ảnh hưởng không tốt đến xã hội, văn hóa và con người….
3. Lý thuyết về hành động xã hội của Max Weber
Hành động xã hội là cơ sở của mối quan hệ giữa con người và xã hội, đồng thời là
cơ sở nền tảng trong hoạt động của đời sống con người. Theo M.Weber, hành động xã
hội là loại hành vi mà chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nhất định. Weber
nhấn mạnh đến động cơ bên trong của chủ thể (cá nhân) là nguyên nhân của hành
động xã hội. Do vậy, chúng ta có thể nghiên cứu được yếu tố chủ quan thúc đẩy hành
động xã hội được thực hiện. Như vậy, hoạt động xã hội là loại hoạt động có tính đến
hành vi và ảnh hưởng đến người khác trong quá trình chủ thể hành động thực hiện
hành động định hướng đến người khác. Trong hành động xã hội bao giờ cũng có sự
Page 12
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
tham gia của các yếu tố bên trong chủ thể (ý thức xã hội của con người). Weber gọi đó
là ý nghĩa chủ quan và sự định hướng có mục đích.
Ông đã chia hành động xã hội làm bốn kiểu: Hành động hợp lý theo mục đích,
hành động hợp lý theo giá trị, hành động theo truyền thống và hành động theo cảm
xúc. Tuy nhiên, trong vấn đề của mình chúng tôi lựa chọn hành động hợp lý theo giá
trị và hành động theo truyền thống làm cơ sở lý luận cho đề tài.
Hành động theo truyền thống: con người hành động theo thói quen, xuất phát từ
những gì được xã hội hóa (học) ngay từ thưở còn thơ. Tức là việc con người có xu
hướng tuân theo giá trị chuẩn mực của cộng đồng, lặp đi lặp lại thành thói quen hàng
ngày. Các truyền thống này rất khác nhau trong các nên văn hóa khác nhau.
Hành động hợp lý theo giá trị: là hành động có tính định hướng giá trị (ngược với
hành động theo truyền thống) hành động theo truyền thống không phải suy nghĩ nhiều,

còn hành động theo giá trị còn phải tìm hiểu xem nó có giá trị hay không?
4. Lý thuyết xã hội hóa
Các nhà xã hội học đã nhận định: Quá trình xã hội hóa là quá trình làm cho con
người từ một thực thể sinh học trở thành một thực thể xã hội.
Quá trình quá độ mà theo đó chúng ta có thể tiếp nhận được nền văn hóa của xã
hội nơi chúng ta được sinh ra – một quá trình chúng ta đạt được những đặc trưng xã
hội của bản thân, học được cách suy nghĩ, cách ứng xử thích hợp với xã hội của chúng
ta được gọi là quá trình xã hội hóa.
Xã hội hóa là một trong những phạm trù cơ bản của xã hội học. Nhờ quá trình xã
hội hóc mà xã hội có thể tồn tại là luân chuuyển nền văn hóa của mình từ thế hệ này
qua thế hệ khác.
Các nhà xã hội học đã thống nhất, phân chia quá trình xã hội hóa của một cá nhân
thành ba giai đoạn:
- Giai đoạn xã hội hóa tròng gia đình.
- Giai đoạn xã hội hóa trong nhà trường.
Page 13
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
- Giai đoạn xã hội hóa môi trường xã hội.
Ngay từ trong gia đình, vấn đề giao tiếp đã được quan tâm khi cá nhân còn bé
thông qua những lời dạy dỗ, khuyên răn… Tuy nhiên, những kiến thức về văn hóa
giao tiếp lại được củng cố và được hình thành một cách có hệ thống khi tiếp thu ở
trường học và môi trường xã hội. Thời đại hiện nay với sự bùng nổ thông tin thì
những vấn đề về nhu cầu giao tiếp ngày càng cần thiết. Song, cũng chính vì vậy mà
những hiện tượng lệch lạc ngôn ngữ trong giao tiếp ngày càng phổ biến và lan rộng.
Sự lệch lạc đó không chỉ là nói tiếng lóng, ngôn ngữ bị biến tướng mà còn là những
lời văng tục, chửi thề trong quá trình giao tiếp với đối phương dẫn tới sự sai lệch trong
nhận thức và hành vi.
II. Các khái niệm liên quan
1. Tiếng việt
Tiếng việt là ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Việt – Mường, họ ngôn ngữ Nam Á.

Trước đây có ý kiến cho rằng Tiếng Việt thuộc họ ngôn ngữ Thái. Tiếng Việt là ngôn
ngữ chính thức và ngôn ngữ giao tiếp của các dân tộc của nước Việt Nam. Tiếng Việt
còn được sử dụng trong cộng đồng người Việt Nam ở tất cả các nước trên thế giới, có
lẽ là trên 70 triệu người sử dụng (theo từ điển Bách khoa Hà Nội – 2005).
2. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu quan trọng và độc đáo nhất trong giao tiếp của loài
người; là phương tiện biểu hiện và phát triển tư duy, bảo lưu và chuyển giao có hiệu
lực nhất các truyền thống lịch sử - văn hóa của một dân tộc.
Ngôn ngữ là vốn tri thức, hiểu biết về tiếng mẹ đẻ và sự am hiểu văn hóa của một
cá nhân thể hiện qua cách dúng ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày và trong các tác
phẩm văn học.
Ngôn ngữ nói là phương tiện giao tiếp trong các tình huống, môi trường sống.
(theo từ điển Bách khoa, Hà Nội – 2005).
Page 14
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
Ngôn ngữ được tổ chức UNESCO đánh giá là “văn hóa của mỗi cá nhân, cộng
đồng và là tài nguyên của mỗi quốc gia”.
Trong mối quan hệ với văn hóa, ngôn ngữ vừa có vai trò lưu giữ và bảo tồn văn
hóa, lại vừa có vai trò sáng tạo và phát triển văn hóa.
3. Giao tiếp
Giao tiếp là sự trao đổi, truyền đạt giữa con người với con người các nội dung tư
tưởng, tình cảm, kinh nghiệm và các tri thức, thông tin nhờ ngôn ngữ và các quy tắc,
quy ước hay một hệ thống tín hiệu nào đó.
Mối quan hệ giao tiếp giữa con người với con người có thể xảy ra dưới các hình
thức khác nhau: đó là sự giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với nhóm,
giữa các nhóm với nhau và với cộng đồng.
Có nhiều cách để phân loại giao tiếp, theo phương diện giao tiếp có thể chia giao
tiếp thành 3 loại:
- Giao tiếp vật chất: giao tiếp thông qua hành động với vật thể.
- Giao tiếp bằng tín hiệu phi ngôn ngữ như giao tiếp bằng cử chỉ, điệu bộ, nét

mặt…
- Giao tiếp bằng ngôn ngữ (nói, viết): đây là hình thức giao tiếp đặc trưng cho
con người, xác lập và vận hành mối quan hệ người – người trong xã hội. dựa
vào sự phân loại này, nhóm chúng tôi xác định trong phạm vi của đề tài này,
chúng tôi tập trung nghiên cứu ngôn ngữ nói – thứ ngôn ngữ được sử dụng
thường xuyên trong giao tiếp hàng ngày của con người.
4. Ngôn ngữ giao tiếp
Về một phương diện nào đó, có thể xem giao tiếp là một quá trình phát và nhận
thông tin giữa những người giao tiếp với nhau. Và ngôn ngữ giao tiếp chính là một
Page 15
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
công cụ trong hoạt động giao tiếp (trích theo “giao tiếp tình huống trong các tình
huống giao tiếp xã hội của Đặng Quang Hoàng, tạp chí văn hóa xã hội số 04 – 2007).
5. Văn hóa
Là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, tích lũy và
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong hoạt động sản xuất, nếp sống, suy nghĩ
và sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Văn hóa có ý nghĩa khác nhau đối với các dân tộc khác nhau, bởi vì khái niệm văn
hóa bao gồm chuẩn mực, giá trị truyền thống, phong tục tập quán… (trích văn hóa
ứng xử của người Việt Nam – Gs.Ts. Lê Văn Quán).
Theo các nhà xã hội học: “văn hóa là tổng thể những hành vi học hỏi được các giá
trị xã hội, niềm tin và vai trò xã hội, khuôn mẫu xã hội, ngôn ngữ, luật lệ và các kỹ
thuật của các thành viên sống trong một xã hội nhất định”.
6. Lệch lạc
Sự lệch lạc hay còn gọi là sự lầm lạc, hành vi lệch lạc là một khái niệm của xã hội
học được định nghĩa là sự vi phạm có nhận thức các tiêu chuẩn hoặc kỳ vọng của
nhóm hay xã hội.
Các tiêu chuẩn văn hóa và kỳ vọng định dạng một dải rộng các hoạt động của con
người nên khái niệm sự lệch lạc cũng mang một nghĩa rộng tương ứng. Một dạng hiển
nhiên của lệch lạc là tội phạm, sự vi phạm các quy phạm được ban hành chính thức

thành luật pháp.
Sự lệch lạc thường được hiểu theo nghĩa tiêu cực tuy nhiên những cá thể bj tách
riêng ra khỏi nhóm do sự tuân thủ chặt chẽ các tiêu chuẩn văn hóa lý tưởng trong một
chừng mực nào đó cũng là một dạng của lệch lạc. Điều này là do sự khác nhau giữa
văn hóa lý tưởng và văn hóa thực tế. Trên thực tế , hầu như tất cả mọi cá nhân đều
không hội đủ tiêu chuẩn của văn hóa lý tưởng và nếu một cá nhân trong nhóm trở nên
vượt trội trong việc đó thì anh ta sẽ thành người lên mặt đạo đức, ít nhất cũng có phần
Page 16
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
lệch lạc. Người có hành vi lệch lạc là đối tượng kiểm soát của xã hội, qua đó xã hội cố
gắng đua họ trở lại theo đúng tiêu chuẩn.
Trong giới hạn nghiên cứu đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu về sự lệch
lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên. Đây cũng là một dạng của
sự lệch lạc xã hội.
7. Chửi thề
Chửi thề là một số câu chửi ở dạng tỉnh lược (dạng không đầy đủ) dần trở thành
quán ngữ mang sắc thái phản cảm, nghĩa từ nguyên trở nên mờ nhạt, thậm chí biến
mất. Thường nó được rút gọn lại chỉ còn phần “chất” nhất và nó ngày càng biến dạng
đến nỗi người ta chỉ nhìn thấy phần lõi của nó và được dân gian đặt cho một số tên
nữa như “văng tục”, “chửi tục”…
Theo từ điển Hán văn của Cù Phông Cư Sĩ thì: “chửi thề là phát ngôn với một
phong thái tục tằn, khẩu khí hồ đồ trong lúc bản thân ở trạng thái vui, buồn hay chẳng
vui mà cũng chẳng buồn. Chửi thề lúc đó trở thành thói quen, chửi cho đỡ “ngứa
miệng”, chửi cho có lời mà nói vậy”.
8. Lối sống
Là cách thức cá nhân tham gia vào các quan hệ xã hội bằng những hành động của
mình, là khả năng lựa chọn các phương thức cụ thể của hoạt động sống của mình. Và
sự lựa chọn đó được xác định dựa trên cơ sở con người biết đánh giá hoạt động sống
của mình trong tương quan vưois điều kiện sống. Nó bao gồm các mối quan hệ kinh tế
- xã hội – tư tưởng – tâm lý – đạo đức – văn hóa và các mối quan hệ khác của con

người; đặc trưng sinh hoạt của họ trong những điều kiện của một hình thái kinh tế, xã
hội nhất định.
Điều kiện sống của một cá nhân có ảnh hưởng rất lớn đến việc cá nhân đó nghĩ
như thế nào và làm ra sao. Nó quy định các ứng xử của từng cá nhân trong những điều
kiện đó, gắn liền nhu cầu với mục đích, lợi ích nào đó của con người. Và khi kết hợp
với kỳ vọng xã hội và lập trường của một cá nhân sẽ tạo nên cho cá nhân đó một quan
Page 17
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
niệm sống trong từng nhóm nhỏ và tập thể, cộng đồng sao cho phù hợp những quy
định, chuẩn mực xã hội mà cá nhân đó tồn tại.
9. Giá trị
Là những quan niệm về cái đáng mong muốn ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn, là
điều quan tâm của chủ thể.
Thực chất, giá trị xã hội gắn liền với nhu cầu xã hội, lợi ích xã hội và mục đích xã
hội. Giá trị thường gắn với nhu cầu tạo nên động cơ, hành động của mỗi con người.
Như vậy, sau mỗi hành động đều có một giá trị và sau mỗi giá trị ẩn giấu một nhu cầu.
Đời sống của các cộng đồng xã hội thường tương ứng nhiều nhu cầu do vậy xã hội
cũng cần đến gía trị và hình thành nên thang giá trị. Tùy theo phương pháp tiếp cận
khác nhau mà có nhiều cách khác nhau để phân chia thang giá trị xã hội. Mặt khác,
tùy theo lịch sử của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và truyền thông văn hóa mà hình thành
và đánh giá các thang giá trị xã hội.
Giá trị gắn liền với văn hóa và là quy định của các hành vi xã hội. Trong quá trình
trở thành con người xã hội và hòa nhập cộng đồng, con người phải tiếp thu và tuân thủ
theo các chuẩn mực đó và đây cũng chính là quá trình xã hội hóa cá nhân. Văn hóa
giữ vai trò trọng tâm trong quá trình xã hội hóa cá nhân và điều tiết xã hội.
10. Chuẩn mực xã hội
Là toàn bộ những đòi hỏi, những mong đợi mà cộng đồng xã hội đòi hỏi ở các
thành viên của mình với mục đích thực hiện những hành vi khuôn mẫu đã được thiết
lập. Những dòi hỏi và mong đợi này được ghi lại hoặc biểu hiện bằng lời, bằng ngôn
ngữ như những điều luật và trở thành văn bản nhưu chỉ thị, quy tắc… Nhưng cũng có

những mong đợi và những đòi hỏi mang tính chất chuẩn mực nhưng không biểu hiện
bằng lời mà bằng các đặc tính tượng trưng như những quy định ngấm ngầm với nhau.
Chuẩn mực xã hội được xem là những chuẩn mực, mô hình về hành vi thực tế
của con người khi gặp một tình huống cụ thể nào đó. Nó quy định những mục tiêu cơ
Page 18
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
bản, những giới hạn, điều kiện và hình thức ứng xử trong những lĩnh vực của đời sống
với xã hội hoặc đối với nhóm xã hội.
Chuẩn mực xã hội có quan hệ chặt chẽ với giá trị, vì giá trị là những chuẩn điều
hòa hành vi, lợi ích và quan hệ của cá nhân. Đặc điểm của chuẩn mực xã hội là sản
phẩm của nhận thức và việc xử lí thông tin trong ý thức của con người về quá khứ,
hiện tại, về cách ứng xử hợp lý nhất…. Vì vậy, nó được xem như là phương tiện mạnh
mẽ nhất để điều tiết xã hội đối với hành vi. Đặc điểm quan trọng nhất của chuẩn mực
xã hội là tính lợi ích (tính tất yếu xã hội), tính bắt buộc và sự thực hiện trên thực tế
trong hành vi của con người.
Chuẩn mực xã hội không phải là bất biến, mà có sự thay đổi tùy thuộc vào từng
giai đoạn lịch sử. Trong đời sống xã hội của con người được phân chia thành những
lĩnh vực khác nhau như kinh tế, chính trị, tôn giáo Ở một số bình diện nào đó của
đời sống xã hội có thể phân chia thành những chuẩn mực như: chuẩn mực chính trị,
chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực tôn giáo, chuẩn mực đạo đức… Quan hệ của các
nhóm xã hội và giữa người với người rất phong phú và đa dạng và được điều chỉnh
bằng những loại chuẩn mực đặc thù thích hợp với từng hoạt động sống.
11. Thái độ
Là nền tảng ứng xử xã hội của các cá nhân, là một hoạt động tâm lý của cá nhân,
bao hàm sự lý giải, biến đổi các khuôn mẫu xã hội qua các kinh nghiệm cá nhân (theo
từ điển xã hội học).
Theo Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa “thái độ” được hiểu theo hai khía cạnh:
- Mặt biểu hiện bề ngoài của ý nghĩ, tình cảm đối với ai hay việc gì thông qua
nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động.
- Ý thức, cách nhìn nhận, đánh giá và hành động theo một hướng nào đó trước sự

việc, vấn đề gì.
Vậy theo nhóm nghiên cứu thái độ của sinh viên đối với vấn đề sinh viên chửi thề
trong giao tiếp là những ý nghĩ, những suy nghĩ cũng như phản ứng của các bạn sinh
Page 19
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
viên đối với vấn đề và đối với những người có hành vi “chửi thề trong giao tiếp” (ủng
hộ hay không ủng hộ, phê phán hay không phê phán, cho rằng nên hay không nên)
theo quan điểm của từng bạn sinh viên mà cách nhìn nhận của các bạn khcá nhau.
12. Nhận thức
Là sự phản ánh thế giới khách quan của chủ thể, là quá trình tạo thành tri thức
trong bộ óc con người về hiện thực khách quan (theo tâm lý học nhận thức).
Hoạt động nhận thức là hoạt động rất đặc trưng của con người. Nó là một lĩnh vực
hết sức phức tạp. Nhận thức là hoạt động của chủ thể nhằm khám phá thế giới xung
quanh, nhằm tìm ra chân lý hay sự thật về những thuộc tính và quy luật khách quan
của một sự vật cụ thể.
Quá trình nhận thức diễn ra ở nhiều mức độ khác nhau, song để đánh giá nhận
thức hay đánh giá con người về một vấn đề nào đó chúng ta có thể đánh giá một cách
đơn giản theo hai hướng: nhận thức đúng hay chưa đúng.
Hoạt động nhận thức bao gồm nhiều quá trình khác nhau ở những mức độ phản
ánh khác nhau như: cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng… những quá trình này sẽ
tạo ra những sản phẩm khác nhau.
III. Giả thuyết nghiên cứu
- Cách sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của sinh viên hiện nay có sự thay đổi và diễn
ra với nhiều xu hướng khác với trước kia. Đặc biệt là hiện tượng chửi thề - một
hiện tượng xấu đang ngày càng phổ biến trong quá trình giao tiếp của sinh
viên.
- Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới việc sinh viên chửi thề trong giao tiếp nhưng
nguyên nhân chính là do sự tác động của môi trường xã hội và do thói quen.
- Nếu như thực trạng này còn tiếp tục kéo dài thì sẽ dẫn tới hậu quả xấu. Nó có
thể làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt, ảnh hưởng lớn tới nét đẹp trong

văn hóa giao tiếp truyền thống của con người Việt Nam, đồng thời làm xấu đi
tính văn minh, lịch sự trong quá trình giao tiếp.
Page 20
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
IV. Khung lý thuyết.

Page 21
Truyền thống, giá trị
văn hóa
Đặc điểm phát triển kinh
tế - văn hóa – xã hội
Sự biến đổi giá trị, và những
chuẩn mực xã hội
Sự tác động của các đối tượng
ngoài xã hội (gia đình, môi
trường sống, bạn bè…), thói
quen, sở thích, lối sống.
Nhận thức của sinh viên
trong quá trình giao tiếp
Lệch lạc ngôn ngữ trong quá
trình giao tiếp của sinh viên
Sự quan tâm của sinh viên tới
vấn đề lệch lạc trong giao tiếp
và thái độ của họ đối với vấn
đề đó.
Hiện trạng chửi thề trong
giao tiếp của sinh viên hiện
nay
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI

I. Nét truyền thống trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam
Theo như UNESCO đánh giá thì “ngôn ngữ là văn hóa của mỗi cá nhân, cộng
đồng và là tài nguyên của mỗi quốc gia”
Đúng vậy, ngôn ngữ là rất quan trọng, nó không chỉ là văn hóa mà nó còn là công
cụ quan trọng nhất trong việc thực hiện chức năng giao tiếp giữa con người với con
người trong xã hội “nếu danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận thì tất
việc chẳng thành”. Khi xã hội phát triển thì ngôn ngữ trong giao tiếp càng trở nên tinh
tế và mang đậm nét đặc trưng thẩm mỹ cao của con người.
Nước ta vốn là một nước nông nghiệp, song chúng ta luôn tự hào đất nước mình
có một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, đặc biệt là văn hóa giao tiếp rất phong
phú và đa dạng. Từ xa xưa tới nay, ông bà ta đã rất coi trọng phong cách ứng xử, coi
trọng lời ăn tiếng nói trong giao tiếp.
“người khôn ăn nói nửa chừng,
để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo”
“lời chào cao hơn mâm cỗ”…
Bản chất của con người chỉ được bộc lộ ra trong giao tiếp. Xét về thái độ đối với
việc giao tiếp, co thể thấy đặc điểm của người Việt Nam la vừa thích giao tiếp lại vừa
rất rụt rè. Hai tính cách tưởng như trái ngược nhau này lại không hề mâu thuẫn nhau
mà chính là hai mặt của cùng một bản chất, là biểu hiện cho cách ứng xử linh hoạt của
người Việt Nam.
Về cách giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận. Tính
tế nhị khiến người Việt có thói quen giao tiếp “vòng vo tam quốc”, không bao giờ mở
đầu trực tiếp và đi thẳng vào vấn đề ngay như người phương Tây. Truyền thống Việt
Nam khi bắt đầu giao tiếp là “miếng trầu làm đầù câu chuyện”. Lối giao tiếp này
Page 22
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
chính là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư duy trong các mối quan hệ. Nó tạo
nên thói quen đắn đo, cân nhắc kỹ càng khi nói chuyện:
“ăn có nhai, nói có nghĩ”
“uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”

“lời nói không mất tiền mua,
lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”…
Tâm lý ưa hòa thuận khiến người Việt Nam luôn luôn nhường nhịn, nhất là trong
ăn nói: “chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê”.
Ngay từ khi còn nhỏ cha mẹ đã dạy cho con cái phải “học ăn, học nói, học gói, học
mở”, phải “tiên học lễ, hậu học văn”…
Người Việt luôn chú ý tới những nghi thức của lời nói, chính vì vậy mà hệ thống
“nghi thức lời nói” rất phong phú. Trước hết, đó là phong phú trong lối xưng hô.
Trong khi các ngôn ngữ phương Tây và Trung Hoa chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng
thì tiếng Việt còn sử dụng một lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hang để xưng hô
trong quá trình giao tiếp (kể cả với người ngoài). Hệ thống xưng hô này có tính chất
thân mật hóa, cộng đồng hóa và thể hiện tính “tôn ti” kỹ lưỡng, xưng khiêm hô tôn.
Nghi thức trong các cách nói lịch sự, nhã nhặn cũng rất phong phú. Loìư chào,
lời cảm ơn, lời xin lỗi cũng không mang nghĩa chung chung như phương Tây mà là
theo quan hệ, theo đối tượng giao tiếp.
Văn hóa giao tiếp lịch sự, văn minh, tôn trọng người khác trong việc giao tiếp vfa
sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của người Việt. Nhìn vào ngôn ngữ tiếng Việt, ngôn ngữ
giao tiếp của người Việt ta có thể thấy nó vừa thể hiện được nét đẹp truyền thống
trong văn hóa giao tiếp, đồng thời còn phản ánh rõ hơn đâu hết linh hồn, tính cách con
người Việt Nam và những nét đặc trưng cơ bản của đất nước Việt Nam.
Thế nhưng, trong xã hội ngày nay, một bộ phận lớp trẻ Việt, đáng nói hơn là một
số các bạn sinh viên - những người có học thức đã phần nào làm mai một đi nét đẹp
truyền thống đó. Thay vào lời nói văn minh, lịch sự, có suy nghĩ, có văn hóa thì các
Page 23
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
bạn lại dùng những từ ngữ lệch lạc, thô thiển, thiếu văn hóa, thiếu tôn trọng đối tượng
giao tiếp và những người xung quanh. Các bạn chêm, đệm vào lời nói giao tiếp của
mình bằng những lời lẽ tục tằn, bất lịch sự, vô cùng phản cảm… cái mà cả xã hội đang
lên án – “ngôn ngữ chửi thề”. Tất cả những điều đó đang làm méo mó và mất đi sự
trong sáng của truyền thống giao tiếp người Việt.

II. Mô tả địa bàn nghiên cứu
Ký túc xá Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh (bao gồm cả Ký túc xá xã
hội hóa) là nơi nội trú của hơn tám ngàn sinh viên của 6 trường Đại học thành viên
khác nhau của Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh. Đó là các trường: Đại học
Bách Khoa, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Kinh tế - Luật (trước đây là Khoa Kinh tế - Luật), Đại học Công nghệ Thông tin
và Đại học Quốc Tế. Ký túc xá Đại học Quốc Gia có thể nói là rất rộng, nằm trong
khuôn viên làng Đại học Quốc Gia – Khu phố 6 – Phường Linh Trung – Quận Thủ
Đức – Tp.HCM.
Do Đại học Quốc Gia Tp.HCM là trường Đại học lớn, các trường Đại học thành
viên đều là những trường lớn và có uy tín trong cả nước nên hàng năm có đông đảo
các bạn sinh viên trên khắp cả nước theo học. Trong khi đó, Ký túc xá Đại học Quốc
gia lại là Ký túc xá nội trú duy nhất của tất cả các trường thành viên này có cơ sở tại
Linh Trung – Thủ Đức. Chính vì thế, chắc chắn rằng hơn tám ngàn sinh viên chính là
những con người thuộc nhiều miền quê, nhiều dân tộc khác nhau trong cả nước quy tụ
về đây. Theo như chúng tôi nghĩ thì đây chính là “làng đa văn hóa” trong đó có đầy đủ
các thành phần văn hóa, các phong tục tập quán, những nếp sống, những suy nghĩ và
những sự ứng xử khác nhau…
Nơi đây vừa là môi trường sống, môi trường học tập đồng thời cũng là môi
trường ứng xử giao tiếp văn hóa rất đa dạng của hàng ngàn con người tri thức – là
tương lai của đất nước. Chính vì lẽ đó, nhóm chúng tôi đã quyết định lấy địa bàn Ký
túc xá Đại học Quốc Gia làm địa bàn nghiên cứu.
Page 24
Lệch lạc ngôn ngữ từ việc chửi thề trong giao tiếp của sinh viên hiện nay
III. Tổng quan thực trạng “chửi thề trong giao tiếp” của sinh viên hiện nay
Xã hội đang ngày càng phát triển và con người đang ngày càng tiến bộ theo những
giá trị tốt đẹp của nhân loại. Sự thể hiện phát triển đó không chỉ có kinh tế, chính trị ,
văn hóa mà còn có cả nhận thức của con người. Song, bên cạnh xu hướng phát triển
hướng tới cái chân – thiện – mỹ của cả xã hội thì có một bộ phận lớp trẻ đang dần đẩy
lùi nét đẹp truyền thống, nét đẹp ứng xử văn hóa của dân tộc ta.

Cả xã hội đã và đang hi vọng nhiều vào lớp trẻ mà nhất là sinh viên – những
người có học thức, là tầng lớp tri thức của đất nước. Mọi người xung quanh luôn nhìn
sinh viên với ánh mắt đầy tin tưởng và coi trọng, thế nhưng trên thực tế thì sao? Sinh
viên đã và đang làm gì để nâng cao tầm vóc, vị thế của mình ngoài xã hội? Đây thực
sự là một câu hỏi khó cho rất nhiều người và kể cả chúng tôi – những sinh viên đương
đại.
Một vấn đề mà được rất nhiều người quan tâm, đó chính là ngôn ngữ mà sinh viên
sử dụng để giao tiếp với nhau. Dư luận sẽ như thế nào, người ngoài sẽ đánh giá như
thế nào nếu từ cái miệng nhó nhắn xinh xinh của những cô, những cậu sinh viên hằng
ngày vẫn đọc sách, vẫn nói những lời tri thức bất chợt “Thả” ra những câu “chửi
thề”? Một thứ ngôn ngữ “khác hẳn” với ngôn ngữ “tri thức”được phát ra như vậy
khiến không ít người ái ngại.
Đã có rất nhiều ý kiến cho rằng phải chăng sinh viên đang “cài số lùi” trong môn
học văn hóa giao tiếp. Trước đây nếu như người ta chỉ nghe thấy những tiếng chửi thề
chỉ xuất phát từ những người đã “lớn tuổi”, học vấn của họ có thể là không cao và họ
cũng chỉ “chửi thề” trong những lúc cãi vã nhau, những lúc bị trộm mất gà, mất buồng
chuối… hay là có thể đến từ một người say chứ không có ở tầng lớp trẻ mà đặc biệt
sinh viên lại càng không.
Vậy mà, bây giờ đi đến đâu chúng ta cũng có thể nghe được tiếng “chửi thề”
nhan nhản, và đa phần lại phát ra từ chính các bạn trẻ kể cả các bạn sinh viên. Mặc dù
Page 25

×