Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Biện chứng cá nhân xã hội trong lối sống của sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.74 KB, 73 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
--------***--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

BIỆN CHỨNG CÁ NHÂN – XÃ HỘI
TRONG LỐI SỐNG SINH VIÊN HIỆN NAY

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.S ĐINH THỊ PHÒNG

NGUYỄN THỊ HIỆP

Huế, 0
1


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài..................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.....................................................................................3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài....................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................................5
5. Cơ sở lý lận và phương pháp nghiên cứu.......................................................................6
6. Đóng góp của đề tài..........................................................................................................6


7. Kết cấu của khố luận......................................................................................................6
Chương 1...............................................................................................................................7
MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI..............................................................7
1.1. Khái niệm cá nhân và xã hội........................................................................................7
1.1.1. Khái niệm cá nhân....................................................................................................7
1.1.2. Khái niệm xã hội.......................................................................................................12
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội......................................................15
Chương 2.............................................................................................................................29
VẬN DỤNG BIỆN CHỨNG GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI TRONG XÂY DỰNG
LỐI SỐNG MỚI CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY............................................................29
2.1. Xây dựng lối sống mới cho sinh viên hiện nay trên cơ sở nguyên tắc biện chứng
giữa cá nhân và xã hội........................................................................................................29
2.1.1. Thực trạng lối sống sinh viên hiện nay...................................................................29
2.1.2. Thực chất của quan hệ lợi ích giữa cá nhân - xã hội trong lối sống của sinh viên
hiện nay...................................................................................................................................
40
2.2. Một số kiến nghị về giải pháp nhằm xây dựng lối sống mới cho sinh viên hiện nay
57
KẾT LUẬN.........................................................................................................................65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................68

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay Việt Nam chúng ta đã và đang tiến hành xây dựng đất nước
theo cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Việc xây dựng phong
cách sống, văn hóa lành mạnh hiện đang là vấn đề được quan tâm trong trong
công cuộc xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay

chính vì thế việc bàn về lối sống của sinh viên là một điều quan trọng và hết
sức cần thiết… Sinh viên là lớp thanh niên trí thức, là chủ nhân tương lai của
đất nước.
Việc xây dựng lối sống mới nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã
hội hiện nay là một vấn đề bức thiết đối với đất nước ta. Bởi hiện nay nước ta
đang tiến hành xây dựng đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, nên muốn
có chủ nghĩa xã hội thì phải có con người mới xã hội chủ nghĩa. Lối sống mới
đó phải được hình thành, phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Nó phải
là lối sống văn minh, tiên phong mang đậm bản sắc dân tộc và những giá trị
mới, những tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Cho đến nay, xây dựng lối sống mới trở thành một trong những mục
tiêu của xây dựng xã hội mới ở nước ta. Trước bối cảnh hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế thế
giới, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trong xu thế tồn cầu hố, những
tác động tích cực rất nhiều, nhưng đã bộc lộ những mặt trái của nó, trong đó
có ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân ta, nhất là
đối với lối sống của sinh viên. Bởi sinh viên là lớp người có phản ứng nhanh,
nhạy bén với cái lạ, cái mới. Những năm gần đây, một bộ phận sinh viên có
nhiều biểu hiện nghiêng về tự do cá nhân, bất chấp lợi ích cơng đồng. Xét về
triết lý sống, họ thiếu nhân sinh quan đúng đắn trong giải quyết quan hệ giữa
cá nhân và xã hội. Sinh viên là tầng lớp kế tiếp những truyền thống tốt đẹp
của cha ông ta trong sự nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng và
3


văn minh. Chính vì thế việc bàn về lối sống của sinh viên là một điều hết sức
quan trọng.
Nói đến sinh viên Việt Nam tức là nói đến một thế hệ trẻ đầy sức sống
và sức sáng tạo. Họ có tri thức của thời đại, chìa khóa mở ra cánh cửa cho tiến
bộ xã hội nói chung và sự phát triển đất nước nói riêng. Về mặt số lượng, sinh

viên là một lực lượng khơng nhỏ. Hiện cả nước có khoảng gần 120 trường đại
học, cao đẳng; trung bình mỗi trường có khoảng 6000 sinh viên theo học. Thử
nhân lên chúng ta sẽ được một con số khổng lồ: 720 000 người, gần bằng dân
số trung bình của một tỉnh. Về mặt chất lượng, sinh viên là lớp người trẻ được
đào tạo toàn diện và đấy đủ nhất, bao gồm các chuyên ngành học trên khắp
các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, khoa học…
Sinh viên Việt Nam là những lớp người có phẩm chất năng lực và khả
năng tư duy nhạy bén, năng động sáng tạo, nhanh nhạy nắm bắt cái mới, cái
lạ, tiếp cận nhanh chóng các thơng tin mới nhất. Họ là thế hệ tiếp nối truyền
thống cha ông tiếp tục sự nghiệp giáo dục đào tạo của đất nước nói riêng và
tri thức nhân loại nói chung. Họ ln biết bản thân họ đang làm gì, sẽ làm gì
để cho tương lai cuộc sống sau này của mình. Các bạn chính là những hạt
giống đang nảy mầm trong một chân trời kiến thức mà mọi người đều muốn
khám phá và chinh phục.
Tuy nhiên cùng với sự thay đổi sang cơ chế thị trường như hiện nay thì
lối sống, cách nghĩ của sinh viên cũng biến chuyển theo: có rất nhiều sinh
viên đã trưởng thành và phát huy mọi khả năng của mình để góp một phần
sức lực trong việc đổi mới đất nước, cũng có nhiều sinh viên đã biết vượt qua
số phận nghiệt ngã của mình để học tập. Đồng thời đó cũng khơng phải ngẫu
nhiên mà hàng loạt các tệ nạn như đua xe, ma tuý cờ bạc, rượu chè…ngày
càng xâm nhập vào giảng đường. Tất cả những điều đó trở thành điều nhức
nhối cho toàn xã hội. Trên hết, tất cả chúng ta phải quan tâm hơn nữa đến chất
lượng chủ chốt này, phải làm sao cho sinh viên Việt Nam có lối sống đúng
đắn, thực sự nhận thức rõ vai trò quan trọng của mình đối với sự phát triển
của đất nước.

4


Để sinh viên xứng đáng và phát huy vị trí, vai trị của mình trong sự

nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước cần xây dựng lối sống mới cho
đối tượng này. Hiện nay các lực lượng chống phá chủ nghĩa xã hội đang tiến
hành chiến lược “Diễn biến hồ bình”, nhằm trọng tâm vào chuyển biến các
thế hệ sinh viên, thanh niên, làm chuyển đổi hệ giá trị tư tưởng, nhân sinh
quan của sinh viên, thanh niên. Đây là chiến lược được chủ nghĩa đế quốc xác
định là lâu dài, có thể 20 năm, 30 năm hoặc lâu hơn nữa để chuyển hoá các
nước xã hội chủ nghĩa theo hướng tự do tư bản chủ nghĩa. Do vậy, xây dựng
lối sống mới cho thanh niên không những là yêu cầu khách quan của xã hội
mà còn để chúng ta phịng chống chiến lược “Diễn biến hồ bình”.
Sinh viên Việt Nam đang hướng tới những hệ giá trị mới mang tính
tồn cầu, đồng thời mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Họ đang cần định
hướng các giá trị để xây dựng nhân sinh quan mới, từ đó làm cơ sở xây dựng
lối sống mới - đó là nhân sinh quan cách mạng của triết học mácxít. Trong đó
quan điểm rất quan trọng là “Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã
hội”. Hiểu đúng mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội cho chúng ta
thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng để xây dựng những nội dung mới
làm chuẩn mực xây dựng lối sống mới.
Từ những thực tiễn đòi hỏi ở trên, cho nên việc nghiên cứu một cách có
hệ thống và tìm ra những giải pháp thích hợp để nhằm phát huy vai trò của
sinh viên, việc xây dựng lối sống mới của sinh viên là một vấn đề vừa có ý
nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Đồng thời qua một thời gian
nghiên cứu, tìm hiểu bản thân mình cũng là một sinh viên, em đã chọn đề tài
khố luận tốt nghiệp của mình là : “Biện chứng cá nhân - xã hội trong lối
sống của sinh viên hiện nay” để làm vấn đề nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề xây dựng lối sống mới của sinh viên hiện nay là vấn đề có
nhiều cơng trình khoa học và có nhiều bài viết quan tâm ở nhiều lĩnh vực
khác nhau, tiêu biểu như các cơng trình khoa học và các bài viết như:
GS. Phạm Minh Hạc, đề tài kx07 “Con người Việt Nam - mục tiêu và
động lực phát triển kinh tế - Xã hội” Vũ Văn Hạc, “Về sự biến đổi mối quan

5


hệ giữa cá nhân - xã hội và những suy nghĩ xây dựng con người Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí nghiên cứu con người, 2007. Bài viết đã
phác thảo mối quan hệ giữa cá nhân trong lịch sử và sự “xung đột” giữa
những giá trị “cũ” và “mới” trong sự biến đổi quan hệ giữa cá nhân và xã hội
trong giai đoạn hiện nay.
GS. Lê Hữu Tầng, đề tài kx07 - 13 “Vấn đề phát huy và sử dụng đúng
đắn vai trò động lực của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguyễn Trọng Chuẩn “Một số vấn đề Triết học - con người - xã hội”. Thành
Duy “Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người phát triển
toàn diện”. Nguyễn Văn Huyên “Mấy vấn đề Triết học về xã hội và phát triển
con người”, “Lối Sống của người Việt Nam dưới tác động của tồn cầu hố
hiện nay”. Võ Văn Thắng “Một số mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình xây
dựng lối sống mới ở nước ta hiện nay”. Đoàn Văn Khiêm “Lý tưởng đạo đức
và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện nay”.
Hồ chí Minh “Về xây dựng con người mới”. Đồn Đức Hiếu “ Khắc phục chủ
nghĩa cá nhân để phát triển nhân cách cá nhân”, “Sự phát triển cá nhân trong
nển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”… Các bài viết đã làm rõ
về vai trò của con người Việt nam trong thười đại mới - thời đại chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên vấn đề con người và lối sống của con người Việt Nam nói
chung, lối sống của thanh niên nói riêng chỉ mới dừng lại ở cơng tác tư tưởng.
Hồng Chí Bảo “Giáo dục đạo đức, nhân cách cho sinh viên đại học ở
nước ta hiện nay - quan niệm, vấn đề và giải pháp”. Dương Tự Đam “Bản
lĩnh thanh niên, sinh viên ngày nay”. Phạm Đình Nghiệp “Giáo dục lý tưởng
cách mạng cho thế hệ trẻ trong tình hình mới”. Văn Tùng “Tìm hiểu tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên”. Võ Minh Tuấn “Về xu hướng vận
động của đạo đức sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Võ Văn Hồi
“Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh Viên Đại học Huế hiện nay”. Trần

Hậu Kiêm và Đoàn Đức Hiếu “Hệ thống phạm trù đạo đức và vấn đề giáo dục
đạo đức cho sinh viên”… Các bài viết trên đây đã khái quát và làm rõ về vấn
đề giáo dục đạo đức và nhân cách cho sinh viên ở nhiều góc độ khác nhau.

6


Tất cả các cơng trình, bài viết nêu trên đã phần nào đề cập và làm sáng
tỏ được thực chất của việc xây dựng đạo đức mới, lối sống văn hoá cho con
người cá nhân, đặc biệt cho sinh viên ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên
chưa có cơng trình nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề: Biện chứng cá nhân - xã
hội trong lối sống của sinh viên hiện nay.
Kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình, các bài viết có liên
quan, tác giả khố luận lựa chọn vấn đề “Biện chứng cá nhân - xã hội trong
lối sống của sinh viên hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội theo quan
điểm của triết học Mác - Lênin với tư cách là thế giới quan, nhân sinh quan
cách mạng, là cơ sở lý luận cho lối sống mới của mỗi sinh viên hiện nay.
- Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội trong thực tiễn xây dựng lối sống mới của sinh viên
hiện nay.
- Góp vào thực tiễn những giải pháp nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả
xây dựng lối sống mới của sinh viên hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa cá nhân
và xã hội.
- Những chuẩn mực của lối sống mới của sinh viên cần hướng tới để
xây dựng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo quan điểm triết học Mác Lênin.
Khóa luận nghiên cứu những chuẩn mực thuộc nội dung xây dựng lối
sống mới chủ yếu ở góc cạnh thể hiện quan hệ giữa cá nhân trong quan hệ với
xã hội, tổng hợp các quan hệ ứng xử của cá nhân trong xã hội.
Thực hiện hành động và hiệu quả xây dựng lối sống mới của sinh viên
hiện nay.
7


8


5. Cơ sở lý lận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng lối sống mới cho sinh viên.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp biện chứng duy vật
với sự vận dụng các ngun tắc của lơgíc biện chứng như: Ngun tắc toàn
diện, nguyên tắc lịch sử - cụ thể, nguyên tắc thực tiễn… để xem xét giải quyết
vấn đề trên cơ sở các tài liệu khoa học và thông tin mới nhất.
6. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ góp phần:
Làm rõ vai trị thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng đối với việc
định hướng hệ giá trị mới nhằm xây dựng lối sống mới.
Đề tài là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
Đề tài là những gợi ý đóng góp cho việc giáo dục và xây dựng lối sống
mới cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng trong cả nước.
Nắm được thực trạng và nêu lên một số giải pháp nhằm góp phần vào
việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên đạt hiệu quả hơn nữa.

7. Kết cấu của khố luận
Khóa luận ngồi phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham
khảo, Khóa luận gồm hai chương (4 tiết)

9


Chương 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
1.1. Khái niệm cá nhân và xã hội
1.1.1. Khái niệm cá nhân
Cá nhân và xã hội là một trong những vấn đề quan trọng có quan hệ
đến cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và là đối tượng của cuộc đấu tranh
giữa hệ tư tưởng Mác - Lênin và hệ tư tưởng tư sản.
- Quan điểm của các nhà tư sản
Các nhà tư tưởng tư sản hình dung xã hội như một tổng số máy móc
những con người riêng lẻ và coi cá nhân là những con người trừu tượng, tách
khỏi những quan hệ xã hội lịch sử - cụ thể vốn có của nó. Do đó, họ tuyệt đối
hố những nét đặc thù của mỗi cá nhân và phủ nhận tính giai cấp phổ biến của
mỗi con người trong xã hội có giai cấp.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rằng cá nhân là cá thể người với tư cách là
sản phẩm và là chủ thể của sự phát triển lịch sử xã hội. Là chủ thể lao động,
của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức. Cá nhân là một con người hoàn
chỉnh trong sự thống nhất giữa những khái niệm riêng của nó của người đó
với chức năng xã hội do người đó thực hiện. Người ta khơng bao giờ sống
tách rời, cơ lập với nhau trong q trình sản xuất và tiêu dùng, bao giờ cũng
có quan hệ với nhau. Hoạt động của con người trong xã hội quy định ảnh
hưởng lẫn nhau. Chính trong sự tác động lẫn nhau đó mà con ngưịi hợp thành
xã hội.

Cá nhân - một phần tử đơn nhất của cộng đồng xã hội, một hiện tượng
có tính lịch sử
C.Mác viết: “Bản chất con người khơng phải là cái trừu tượng vốn có
của một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hồ tất cả những quan hệ xã hội” [24, 492]. Cá nhân không phải là cái gì
một lần hình thành rồi khơng biến đổi. Cá nhân là một hiện tượng có tính lịch
sử. Mỗi thời đại sinh ra một kiểu cá nhân với tính đặc thù của nó.
10


Con người với những phẩm chất được quy định về mặt xã hội và được
biểu lộ ở mỗi cá nhân: trí tuệ, tình cảm, ý chí. Quan niệm khoa học về cá nhân
dựa vào định nghĩa của chủ nghĩa Mác về bản chất con người như đã nêu trên.
Xuất phát từ đó, người ta rút ra kết luận là các đặc tính vốn có của cá nhân
khơng thể bẩm sinh, mà suy cho cùng là bởi quy định bởi chế độ xã hội hình
thành trong lịch sử. Mỗi xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất sẽ cản trở và làm sai lệch sự phát triển của cá nhân. Việc thủ tiêu
chủ nghĩa tư bản mở ra một con đường phát triển toàn diện, hoàn chỉnh của cá
nhân. Trên cơ sở xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa cộng sản,
phát triển các quan hệ xã hội cộng sản chủ nghĩa và thực hiện cuộc cách mạng
văn hóa, sẽ hình thành một cá nhân con người mới kết hợp hài hoà sự phong
phú về tinh thần, sự trong sáng về đạo đức và sự hoàn thiện về thể chất [32,
57].
Trong tâm lý học, cá nhân - mỗi con người riêng biệt với những đặc
điểm cá nhân vốn có của mình về tính cách, trí tuệ, tình cảm. Tính chất khí
chất, năng lực con người và cả những đặc điểm diễn biến của các quá trình
tâm lý thuộc về các đặc tính tâm lý của cá nhân. Trong khi các trạng thái tâm
lý (cảm xúc, động cơ, hành vi,v.v..) khơng ngừng thay đổi thì tư chất hay bộ
mặt tâm lý của cá nhân phần nào vẫn không thay đổi của điều kiện sinh hoạt,
với những đặc điểm loại hình của hệ thống thần kinh của cá nhân. Sự thay đổi

về tư chất tâm lý của cá nhân là hậu quả của những thay đổi diễn ra trong đời
sống con người, kết quả của quá trình giáo dục của xã hội. Cá nhân - đó là
một tổng thể gắn bó những nét bên trong và những đặc điểm của con người,
qua đó mọi tác động từ bên ngồi được phản ánh. Nguồn gốc tích cực của cá
nhân là những nhu cầu nhiều vẻ về cá nhân và xã hội con người. Cái chủ quan
trong cá nhân (cảm xúc, ý thức, nhu cầu) là không tách rời các quan hệ khách
quan được hình thành giữa con người với hiện thực chung quanh. Trình độ
phát triển của cá nhân phụ thuộc vào chỗ các quan hệ này tiến bộ đến đâu về
mặt lịch sử. Ở Liên Xơ, cá nhân hình thành trong điều kiện xã hội xã hội chủ
nghĩa phù hợp với những yêu cầu của đạo đức cộng sản chủ nghĩa [32, 57].

11


Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất
định với tư cách là một cá thể, một thành viên của xã hội ấy; do những đặc
điểm riêng biệt của mình mà được phân biệt với các thành viên khác của xã
hội thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Khái niệm cá nhân cũng
được phân biệt với khái niệm con người là khái niệm dùng để chỉ tính phổ
biến trong bản chất người của tất cả các cá nhân.
Cá nhân là sản phẩm của xã hội. Mỗi cá nhân là một cái đơn nhất mang
những đặc điểm riêng biệt với các cá nhân khác không chỉ về mặt sinh học mà
chủ yếu về mặt những quan hệ xã hội, những quan hệ này vơ cùng phức tạp,
rất cụ thể, có tính lịch sử. Mỗi cá nhân có đời sống riêng, có những “quan hệ
xã hội” của riêng mình khơng hồn toàn giống quan hệ xã hội của các cá nhân
khác, có kinh nghiệm riêng, có nhu cầu, có lợi ích, nguyện vọng riêng, các
quan hệ xã hội là tấm gương soi cho mỗi cá nhân. Tuy nhiên các cá nhân
trong một xã hội nhất định dù khác nhau đến đâu, đều mang cái chung; họ đều
là thành viên của xã hội, khơng thể sống ngồi xã hội. Trong xã hội có giai
cấp, mỗi giai cấp đều do các cá nhân - thành viên của giai cấp hợp thành, mỗi

cá nhân cũng có tính giai cấp. Quyền lợi và địa vị của mỗi cá nhân về cơ bản
gắn liền với quyền lợi, địa vị của giai cấp họ. Nhưng đồng thời mỗi cá nhân
cịn có những nét riêng của mình do toàn bộ những điều kiện sinh sống riêng
của họ quyết định, làm cho cá nhân này khác cá nhân khác. Cần có sự phân
biệt cá nhân với cá thể người. Một con người mới lọt lịng chưa có ý thức,
chưa có những quan hệ xã hội thực sự, chưa thể gọi là một cá nhân. Chỉ khi
nào con người có ý thức, có thế giới nội tâm riêng, có những quan hệ xã hội
riêng, con người đó mới trở thành một cá nhân đúng nghĩa khái niệm này.
Yếu tố xã hội là đặc trưng căn bản để hình thành cá nhân.
Cá nhân còn là chủ thể của xã hội. Các cá nhân chủ động lựa chọn sự
tác động của xã hội đối với bản thân mình.
- Biểu hiện của cá nhân
Trong mối quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan hệ với xã hội,
cá nhân biểu hiện ra với tư cách sau:

12


Thứ nhất: Cá nhân là phương thức tồn tại của giống lồi “người”.
Khơng có con người nói chung, lồi người nói chung tồn tại cảm tính. Tồn tại
cảm tính trong tính hiện thực cụ thể giống lồi là cá nhân của giống loài.
Thứ hai: Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử đơn nhất tạo thành
cộng đồng xã hội.
Thứ ba: Cá nhân là là một chỉnh thể tồn vẹn có nhân cách.
Thứ tư: Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội.
Nhưng xã hội thay đổi theo tiến trình lịch sử cho nên cá nhân là một hiện
tượng có tính lịch sử. Mỗi thời kỳ lịch sử có một “kiểu xã hội của cá nhân”
mang tính định hướng về thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động của
con người trong thời kỳ lịch sử cụ thể đó.
Chính vì vậy trong thực tiễn giao tiếp, trong quan hệ xã hội mỗi cá

nhân giao tiếp với xã hội trước hết là giao tiếp với mỗi cá nhân trong xã hội
đó.
- Nhân cách - bản sắc độc đáo của con người thể hiện ở mỗi cá nhân
Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với
giống loài, sự khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân
khác thì nhân cách là khái niệm để chỉ sự khác biệt những yếu tố bên trong
riêng biệt với tồn bộ hoạt động sống của nó, của cá nhân này với cá nhân
khác. Cá nhân khác với xã hội bởi tính hiện thực cụ thể của nó, cịn mỗi cá
nhân khác nhau bởi nhân cách của mình.
Cá nhân là phương thức biểu hện của giống loài, đến lượt mình nhân
cách là tồn bộ những năng lực và phẩm chất xã hội - sinh lý - tâm lý tạo
thành một chỉnh thể đóng vai trị chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định,
tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình, vì nhân cách là nội dung, trạng thái,
tính chất, xu hướng bên trong riêng biệt của mỗi cá nhân để phân biệt sự khác
nhau giữa các cá nhân nên nó là cái bản sắc độc đáo của mỗi cá nhân. Đó là
thế giới của “cái tôi” do tác động tổng hợp của các yếu tố cơ thể và xã hội
riêng biệt tạo nên. Mỗi cá nhân “dấn thân” vào cuộc sống, tiếp thu và chuyển
những giá trị văn hoá của xã hội vào bên trong mình, thực hiện quá trình so
sánh lọc bỏ, tự đánh giá, tự tạo nên thế giới riêng của mình. Đây là quá trình
13


kép, xã hội hoá cá nhân và cá nhân hoá xã hội, cá nhân xã hội và cá nhân,
nhân cách là thống nhất. Với nhân cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng ý thức
về mình, làm chủ cuộc sống của mình, tự lựa chọn chức năng, niềm vui và
trách nhiệm hoạt động cụ thể trong xã hội.
Nhân cách không nảy sinh từ cái phi vật chất, cũng không nảy sinh từ
mọi cấu trúc vật chất và cũng không phải là những yếu tố có sẵn trong cá thể,
cá nhân rồi lớn dần lên về số lượng trong thời gian và khơng gian. Nhân cách
được hình thành và phát triển phụ thuộc vào những yếu tố sau đây:

Thứ nhất: Nhân cách phải dựa trên tiền đề sinh học một tư chất di
truyền học - một cá thể sống, có cấu trúc phức tạp và phát triển cao, có các
giác quan, hệ thần kinh trung ương, não bộ đoá hoa rực rỡ nhất của vật chất.
Thứ hai: Môi trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát
triển nhân cách. Đó là mơi trường gia đình, trường học và xã hội tác động vào
cá nhân bằng vô vàn sợi dây liên hệ trực tiếp và gián tiếp. Sự tác động của xã
hội vào cá nhân không diễn ra một chiều mà đó là sự tác động biện chứng.
Thứ ba: Hạt nhân của nhân cách đó là thế giới quan cá nhân bao gồm
toàn bộ những quan điểm, lý tưởng, niềm tin, định hướng giá trị chung của cá
nhân. Đóng vai trị quyết định hình thành thế giới quan cá nhân là tính chất
của thời đại; lợi ích, vai trò, địa vị của cá nhân trong xã hội; mức độ từng trải,
khả năng thẩm định các giá trị đạo đức - nhân văn, tầm hoạt động cá nhân
trong xã hội.
Trên cơ sở nền tảng thế giới quan đó, nhân cách cịn bao gồm các thuộc
tính bên trong về năng lực trí tuệ, thể chất chun mơn và những phẩm chất
chính trị, đạo đức, pháp luật thẫm mỹ.
Vì vậy có thể nói, sự hình thành và phát triển nhân cách là sự thống
nhất của ba chiều sinh học (sinh lý), tâm lý và xã hội trong quá trình xác lập
“cái tôi”
Cá nhân không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể của sự
phát triển xã hội, của hoạt động xã hội khác. Với tư cách là chủ thể của lịch
sử, cá nhân hành động không phải riêng lẻ mà với tư cách là một bộ phận của
tập thể xã hội (gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân dân).
14


Nhân dân là cộng đồng lớn nhất, trong đó cá nhân hành động như chủ
thể của lịch sử. Cá nhân chỉ được hình thành và phát triển trong xã hội, trong
tập thể. Cá nhân và xã hội tác động lẫn nhau trong q trình phát triển. Sự tác
động đó mang hình thức đặc thù trong những hình thức kinh tế - xã hội khác

nhau.
Như vậy, cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất, vừa mang tính cá biệt,
vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và
của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và thực hiện chức năng xã
hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội. Con người tồn
tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân người là một chỉnh thể đơn nhất
gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp lại, khác biệt với những
cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ… Xã hội bao giờ cũng do các cá
nhân hợp thành. Những cá nhân này sống và hoạt động trong những nhóm
cộng đồng, tập đồn xã hội khác nhau do điều kiện lịch sử quy định.
1.1.2. Khái niệm xã hội
C.Mác đã chỉ rõ xã hội là tồn bộ những mối quan hệ trong đó con
người hình thành và phát triển. Trong mối quan hệ đó, quan hệ sản xuất là
quan hệ cơ bản và quyết định. Chính quan hệ xã hội tạo thành con người, cá
nhân con người.
Khái niệm xã hội được xác định trên bình diện rộng hẹp khác nhau. Xã
hội là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng các cá nhân trong mối quan hệ biện
chứng với nhau, trong đó cộng đồng tập thể gia đình, cơ quan, đơn vị… và
lớn hơn là cộng đồng xã hội quốc gia, dân tộc… và rộng lớn nhất là cộng
đồng nhân loại.
Khái niệm xã hội, theo nghĩa rộng, khơng chỉ dành riêng cho con người
mà cịn cho mọi tổ chức của sinh vật có tương quan lệ thuộc lẫn nhau. Nói
một cách cụ thể, xã hội là tập hợp những sinh vật có tổ chức, có phân công
lao động tồn tại qua thời gian, sống trên một lãnh thổ hay một cộng đồng nhất
định, cùng nhau chia sẻ những mục đích và lợi ích chung, cùng nhau thực
hiện những nhu cầu chủ yếu của đời sống (nhu cầu tái sản xuất, sản xuất của
cải vật chất, nhu cầu tinh thần, nhu cầu đảm bảo an ninh…)
15



Chúng ta cần phân biệt sự khác nhau giữa khái niệm xã hội và khái
niệm dân cư. Khái niệm dân cư không hàm ý một tổ chức xã hội, trong khi
khái niệm xã hội nhấn mạnh những mối quan hệ hỗ tương giữa các thành viên
trong xã hội. Đồng thời xã hội cũng không đồng nghĩa với quốc gia, mặc dù
trong xã hội hiện đại, khái niệm xã hội dùng để chỉ một quốc gia, một nhà
nước. Thông thường mọi thành viên của xã hội nghĩ rằng họ là thành viên của
một quốc gia nhất định nhưng điều đó khơng phải luôn luôn như vậy và trong
nhiều trường hợp không có sự thống nhất giữa xã hội và nhà nước. Đó là
nguyên nhân của nhiều cuộc nội chiến, xung đột xã hội như trường hợp của
người Palentin ở vùng Trung Cận Đông, của những người thổ dân của Mỹ
hay bộ lạc Ibo ở Nigeria.
Xã hội con người cũng khác hẳn xã hội loài vật. Bởi lẽ con người là
động vật có tư duy, có văn hố và biết tổ chức xã hội. Con người có khả năng
thay đổi hình thức và chức năng xã hội để thích ứng với hồn cảnh, hay nói
cách khác con người có khả năng xây dựng cho mình một nền văn hố cho
phép những cá nhân sống trong một xã hội chia sẻ những giá trị, những tín
niệm chung. Đồng thời văn hố cho phép con người, thuộc những nền văn
hố khác nhau, có những loại hình quan hệ xã hội, những kiểu tương tác khác
nhau. Do đó một khi đã được sản sinh, văn hoá và xã hội phát triển cùng nhau
một cách khá phức tạp.
Xã hội là một tập thể hay một nhóm những người được phân biệt với
các nhóm người khác bằng các lợi ích, mối quan hệ đặc trưng, chia sẻ cùng
một thể và có cùng văn hố.
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân tạo nên. Những cá nhân này sống
và hoạt động trong các nhóm, cộng đồng và tập đoàn xã hội khác nhau, do
điều kiện lịch sử cụ thể quy định. Bất cứ xã hội nào cũng được cấu thành
không phải bởi những con người trừu tượng mà bởi những con người cụ thể,
những cá nhân đang sống.
Mỗi con người đều tồn tại trong mối quan hệ lệ thuộc, tác động lẫn
nhau và sự tác động này khơng chỉ mang tính cá nhân mà cịn mang tính cộng

đồng. Cộng đồng xã hội là một bộ phận người có chung một số dấu hiệu,
16


nguyên tắc. Tuỳ theo cách xác định các dấu hiệu, nguyên tắc mà người ta có
thể xác định những cộng đồng với các tên gọi khác nhau (dân tộc, giai cấp,
tập thể, đơn vị, nhóm hoạt động…) Có hai loại cộng đồng: cộng đồng khách
quan được hình thành một cách tự nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn con
người và cộng đồng chủ quan được hình thành từ ý đồ, mục đích của con
người.
- Các cấp độ tổ chức xã hội
+ Nhóm xã hội
Nhóm xã hội là khái niệm rất rộng, đi từ gia đình đến giai cấp, giới
tính, lứa tuổi… tức là nhóm từ hai người đến hàng ngàn người. Nhưng dù số
lượng bao nhiêu, đã gọi là nhóm thì đều có cơ cấu xã hội riêng và bao gồm
một số vị trí, vai trị nhằm thực hiện những mục tiêu cụ thể. Mỗi cá nhân có ý
thức về sự gắn bó của họ với nhóm thể hiện qua việc tiếp nhận đặc trưng như
lợi ích, nhu cầu, chuẩn mực giá trị… Họ ý thức được những điểm chung nhất
định với những thành viên khác của nhóm, hồ nhập vào nhóm để tạo một
cộng đồng tâm lý. Sự tham dự chung của các thành viên khác của nhóm vào
trong một hoạt động chung phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức của nhóm. Ngược
lại, cơ cấu xã hội, tiểu văn hố của nhóm cũng ảnh hưởng tới các hoạt động
của các thành viên.
+ Tổ chức xã hội
Theo nghĩa rộng, tổ chức xã hội chỉ bất kỳ tổ chức nào hiện tồn trong
xã hội. Còn nghĩa hẹp, tổ chức xã hội chính là một tiểu hệ thống xã hội trong
một tổ chức xã hội nào đó. Tổ chức xã hội là một hiện tượng xã hội phổ biến.
Nó là một trong những loại hình cộng đồng cơ bản, cùng với những loại hình
cộng đồng khác, tạo ra sự cơ cấu xã hội. Một xã hội nhất là xã hội hiện đại
không thể khơng có tổ chức. Sự hình thành tổ chức có thể là kết quả tự nhiên

của một q trình, cũng có thể là kết quả của một hành vi chốc lát, nhưng bao
giờ cũng gắn liền với yếu tố khách quan (những đòi hỏi của xã hội, của cộng
đồng) và chủ quan (tính năng xã hội của các cá nhân). Tóm lại, tổ chức xã hội
rất đa dạng và phong phú, chúng thường thay đổi cùng với những thay đổi
khách quan của hoàn cảnh xã hội và những thay đổi chủ quan của con người.
17


Song mọi tổ chức xã hội đều có tác dụng tích cực đối với xã hội nếu như
chúng tồn tại và hoạt động phù hợp với sự mong đợi của xã hội.
- Cơ cấu xã hội
Khái niệm cơ cấu xã hội phản ánh đến sự xếp đặt những yếu tố, những
thành phần, những đơn vị trong mối quan hệ xã hội. Những thành phần,
những yếu tố, những đơn vị đó được đặt ra trong mối quan hệ tương quan
theo một trật tự và lệ thuộc nhau. Cơ cấu xã hội là tất cả những cộng đồng
người và toàn bộ các quan hệ xã hội do sự tác động lẫn nhau của các cộng
đồng ấy tạo nên. Cơ cấu xã hội đề cập chủ yếu đến các cộng đồng được hình
thành một cách khách quan, dựa trên các dấu hiệu tự nhiên như giai cấp, dân
số dân cư, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo,…
Thông thường cơ cấu được hiểu một cách cụ thể như chúng ta vẫn quan
niệm trên đây, nhưng thực ra cơ cấu xã hội phức tạp hơn nhiều. Cơ cấu xã hội
bắt đầu từ lúc người ta xác định được địa vị của nhau và địa vị của mọi người
trong xã hội được sắp đặt vào vị trí của một cái gì đấy, thì chính cái gì đấy là
cơ cấu xã hội. Ở trong cơ cấu xã hội đó người ta quan hệ với nhau, quan hệ
với người khác. Khơng bao giờ có quan hệ ngồi cơ cấu xã hội. Quan hệ giữa
mẹ / con cái chỉ thể hiện trong gia đình. Quan hệ giữa thầy / trị chỉ đúng
nghĩa trong cơ cấu trường học, lớp học, quan hệ giữa người lãnh đạo và người
bị lãnh đạo chỉ được thực hiện trong cơ cấu cơ quan, đơn vị chính quyền nhà
nước.
Như vậy, xã hội là một kiểu, một hệ thống xã hội cụ thể trong một giai

đoạn lịch sử nhất định. Đó là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người
với người trong mối quan hệ biện chứng theo một tổ chức nhất định.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội
Nguyên tắc cơ bản của việc xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và tập
thể cũng như mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng xã hội nói chung chính
là mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng xã hội.
Mỗi cá nhân với tư cách là một con người, khơng bao giờ có thể tách
rời khỏi những cộng đồng xã hội nhất định, đồng thời mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội là hiện tượng có tính lịch sử.
18


Là một hiện tượng có tính lịch sử, quan hệ cá nhân - xã hội luôn luôn
vận động, biến đổi và phát triển, trong đó, sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi
có sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội
khác. Trong bất cứ xã hội nào, cá nhân cũng không tách rời xã hội. Quan hệ
giữa cá nhân và xã hội biến đổi trong sự phát triển của lịch sử. Mối quan hệ
đó trong xã hội cổ đại không giống trong xã hội trung đại, xã hội cận đại.
Điều đó khơng chỉ liên quan tới trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
trình độ văn hố, văn minh, mà liên quan tới sự thay đổi của phương thức sản
xuất, của hình thái kinh tế - xã hội. Chỉ khi thay đổi hình thái kinh tế - xã hội
mới có thay đổi căn bản.
Mối quan hệ qua lại giữa cá nhân và xã hội khác nhau trong những thời
kỳ khác nhau, bởi vì khơng có “xã hội chung chung”, “trừu tượng” mà thực tế
tồn tại những hình thái kinh tế - xã hội nhất định, và không có “cá nhân chung
chung”, “trừu tượng” bởi vì cá nhân bao giờ cũng là sản phẩm của một chế độ
xã hội nhất định trong lịch sử. C.Mác viết: “Bản thân xã hội sản xuất ra con
người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế” [22, 130].
Cái mà lý luận sai lầm về sự đối kháng dường như vĩnh viễn giữa cá
nhân và xã hội mạo nhận là “vĩnh viễn”, chỉ là cái đặc trưng riêng cho chủ

nghĩa tư bản và có tính chất tạm thời trong lịch sử. Trong mỗi hình thái kinh
tế - xã hội khác nhau, hình thức biểu hiện khác nhau.
Trong xã hội ngun thuỷ, vì cơng cụ lao động cịn thơ sơ, muốn sinh
tồn, con người phải tiến hành lao động tập thể trên cơ sở chế độ sở hữu tập
thể cộng đồng nguyên thuỷ. Ở đây, mọi thành viên trong xã hội đều hồn tồn
bình đẳng. Mặt khác. Do mỗi người chưa chế tạo được công cụ riêng, phân
công lao động chưa phát triển nên chưa có cơ sở để phân biệt giữa người này
với người khác, cá nhân chưa thể “nhô” lên được. Con người nguyên thuỷ
chưa tách khỏi tập thể cả về mặt hoạt động lẫn về mặt ý thức. Vì vậy, cá nhân
đã hồ vào tập thể. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội khơng có đối kháng. Lợi
ích cá nhân phụ thuộc trực tiếp vào lợi ích sống cịn, hàng ngày của cộng
đồng. Mỗi con người của xã hội nguyên thuỷ chưa trở thành những cá nhân

19


theo nghĩa đầy đủ của nó. Trong xã hội này khơng những lợi ích cá nhân mà
vài trị của cá nhân cũng “tan biến” trong cộng đồng.
Con người chỉ bắt đầu có ý thức về sự tồn tại của “cái tơi” tức là của cá
nhân mình như là một thực thể “độc lập” khi lực lượng sản xuất phát triển đến
mức sự phân cơng lao động đã “cá biệt hố” con người. Mỗi người thực hiện
một chức năng xã hội riêng. Nhưng sự xuất hiện của chế độ tư hữu cùng với
sự phân chia xã hội thành giai cấp đã làm cho chức năng xã hội của mỗi
người không chỉ thể hiện cả hoàn cảnh xã hội của họ. Ở đây, sự khẳng định
của mỗi cá nhân mang hình thức chủ nghĩa cá nhân. Mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội mang tính đối kháng về lợi ích giai cấp. Các giai cấp bóc lột
thống trị, nhân danh xã hội, bắt các giai cấp bị trị phải phục tùng lợi ích của
giai cấp họ. Những cá nhân trong giai cấp bị trị bị tước đoạt cả quyền lợi vật
chất lẫn quyền lợi tinh thần, nhân cách, phẩm giá của họ bị chà đạp. Chỉ
những cá nhân trong giai cấp thống trị mới được quyền khẳng định nhân cách

và phẩm giá của mình, buộc các giai cấp bị trị phải tôn trọng.
Đến khi xã hội phát triển sang giai đoạn mới cao hơn, xã hội phân chia
thành các giai cấp đối kháng, xuất hiện hình thái mới trong quan hệ cá nhân xã hội. Đó là xã hội chiếm hữu nô lệ, những người nô lệ bị coi là những “cơng
cụ biết nói” của bọn địa chủ q tộc. Giữa cá nhân và xã hội vừa có tính
thống nhất vừa có mâu thuẫn sâu sắc. Những con người thuộc giai cấp bị bóc
lột như nơ lệ, nơng nơ, vơ sản thiếu những điều kiện xã hội để trở thành
những cá nhân thật sự. Mỗi con người thuộc các giai cấp ấy khơng thể khẳng
định cá nhân mình trên cơ sở làm chủ hoạt động lao động cũng như thành quả
lao động của mình. Các thành viên giai cấp thống trị, là những con người có
đặc quyền, đặc lợi được khẳng định với tư cách cá nhân và trở thành kiểu cá
nhân đặc trưng của thời đại (chẳng hạn cá nhân phong kiến, cá nhân tư sản…)
Trong xã hội phong kiến, những người nơng nơ bị coi là những kẻ “tơi
địi” của bọn địa chủ quý tộc.
Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản luôn luôn nêu lên vấn đề cá nhân,
cá tính, tự do cá nhân… cho tất cả mọi người, coi quyền tự do cá nhân là
quyền “thiêng liêng bất khả xâm phạm” để lừa bịp quần chúng lao động.
20



×