Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Thái độ người tiêu dùng nữ với mặt hàng tiêu dùng nội địa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.15 KB, 14 trang )

Kết cấu bài
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
4.2. Khách thể nghiên cứu
4.3. Phạm vi nghiên cứu
5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG LÝ THUYẾT
5.1. Giả thuyết nghiên cứu
5.2. Khung lý thuyết
5.3. Các biến số
6. MỘT SỐ KHÁI NIỆM ĐƯỢC SỬ DỤNG
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp luận
7.2. Cơ sở lý luận
7.3. Phương pháp nghiên cứu định lượng
7.4. Phương pháp nghiên cứu định tính
8. Ý NGHĨA THỰC TIỄN
9. BẢNG HỎI
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập, trước sự đổ bộ ồ ạt của sản phẩm, hàng hóa
nước ngoài, thương hiệu Việt Nam đứng trước áp lực cạnh tranh lớn chưa từng có.
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt, Việt Nam đã gia
nhập WTO đồng nghĩa với việc hàng ngoại sẽ tràn vào, hàng Việt Nam có nguy cơ
“thua” ngay trên “sân nhà”. Hãy đặt những tình huống, khả năng xấu nhất có thể xảy ra
mà nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản, đồng nghĩa với lao động trong các doanh
nghiệp ấy mất việc làm, kinh tế đất nước và đời sống người tiêu dùng càng khó khăn.
Chúng ta đang phải xuất khẩu lao động, không lẽ chính những lao động trong nước lại


mất việc làm vì hàng hóa Việt Nam không cạnh tranh được trên sân nhà. Khi nền thương
mại toàn cầu chưa phát triển rộng rãi và khi chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch còn được sử dụng
phổ biến như một tấm lá chắn cho công nghiệp bản xứ, chiến lược phát triển theo hướng
công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu đã có những thành công nhất định, đặc biệt tại những
nước châu Mỹ Latinh vốn là cái nôi của lý thuyết này. Tuy nhiên, điểm yếu của chiến
lược này là nó cần một chính sách bảo hộ mạnh mẽ, quyết liệt, trong khi xu thế này lại
đang ngày càng suy yếu theo đà phát triển của toàn cầu hóa thương mại.
Mặt khác, bảo hộ không đưa đến một sự chọn lọc hiệu quả mà bất cứ nền kinh tế
nào cũng cần để phát triển, các xí nghiệp được bảo hộ mặc dù hoạt động kém cỏi và lãng
phí vẫn tiếp tục tồn tại tuy không còn năng lực cạnh tranh trên thị trường, trong khi đó
người tiêu dùng trong nước ngày càng bị thiệt thòi vì phải tiêu thụ hàng nội địa với giá
cao và chất lượng xấu, đồng thời vẫn phải tiếp tục đóng thuế để nuôi những xí nghiệp
này, để họ có thể tiếp tục sản xuất sản phẩm và cung ứng dịch vụ với chất lượng xấu và
giá cao.
Việc kêu gọi dùng hàng nội địa đang lan rộng hiện nay trên nhiều nước, có cả
Mỹ, có vẻ là một phản ứng tình thế trong thời kỳ khủng hoảng hơn là một xu thế toàn
cầu, vì trên thực tế, tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu có thể đang chậm lại chứ không
thể bị đảo ngược do tác động của khủng hoảng. Tuy nhiên ngay cả khi nền kinh tế thế
giới đã hoàn toàn hội nhập, việc người trong nước ưu tiên dùng hàng trong nước, xét trên
nhiều khía cạnh, là một việc hợp lý, đúng đắn, tiết kiệm, phù hợp với kinh tế học và luôn
luôn đúng trong mọi hoàn cảnh kinh tế, không chỉ trong thời kỳ khủng hoảng. Và chiến
lược phát triển công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu quan niệm rằng thị trường nội địa là
chỗ dựa vững chắc cho sự phát triển của các ngành công nghiệp trong nước trong giai
đoạn đầu của tiến trình phát triển kinh tế quốc gia.
Dùng hàng trong nước không chỉ là trách nhiệm của người dân, trách nhiệm đối
với sự phát triển kinh tế của đất nước mình, trách nhiệm đối với việc duy trì công ăn việc
làm của đồng bào mình, mà còn là quyền lợi thực sự của bản thân người tiêu dùng. Người
tiêu dùng khi mua hàng trong nước cũng là giúp cho chính bản thân mình có công ăn việc
làm. Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đã được Bộ Chính
trị kết luận trong Văn bản số 264 ban hành ngày 31/7/2009. Văn bản nêu rõ: “Mục đích

cuộc vận động phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc,
xây dựng văn hóa tiêu dùng của người Việt Nam và sản xuất ra nhiều hàng Việt Nam có
chất lượng, sức cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu”.
Người Việt dùng hàng Việt, đặc biệt trong giai đoàn này, là một khẩu hiệu mang tính yêu
nước thật sự. Nó hoàn toàn khách quan và đáp ứng thực tế của thị trường Việt Nam hiện
nay. Một phản ứng đúng đắn để bảo vệ chủ quyền kinh tế của dân tộc.
Hiện nay để hưởng ứng cuộc vận động người Việt dùng hàng Việt, Bộ Công
thương đang triển khai chương trình Xúc tiến thương mại thị trường trong nước với mục
đích nâng cao nhận thức của doanh nghiệp Việt, hàng Việt hướng tới người tiêu dùng
Việt Nam. Như vậy trước hết bản thân doanh nghiệp phải có trách nhiệm với người tiêu
dùng Việt Nam. Cùng với cuộc vận động trên, thì mỗi người Việt biến niềm tự hào,
truyền thống yêu nước bằng hành động tiêu dùng hàng Việt Nam. Điển hình như Bác Hồ
- vị chủ tịch kính yêu của chúng ta cũng đã nêu một tấm gương về sử dụng hàng Việt
Nam. Mọi đồ vật Bác dùng đều là đồ trong nước. Chúng ta cũng có thể phát động phong
trào thanh niên Việt Nam mặc đồ Việt Nam, mặc một cái áo sơ mi của Việt Nam, đi đôi
giày do Việt Nam sản xuất. Nếu làm được như vậy thì sẽ có ý nghĩa rất lớn.
Những yếu tố nói trên đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức sản xuất trong nước.
Vì vậy cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” là rất quan trọng
và cấp thiết. Nó có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra quyết tâm chính trị cho các cơ
quan ra chính sách và thực thi chính sách, các doanh nghiệp sản xuất và tổ chức tiêu thụ
trong việc làm mọi cách để đưa hàng nội địa chiếm lĩnh thị trường.
2.Tổng quan tài liệu
- Theo khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp (BSA),
nông thôn là thị trường tiềm năng với hơn 70% dân số và hơn 53% cửa hàng tạp hóa,
doanh số chiếm từ 14% - 25% tổng thị trường bán lẻ, nhưng từ lâu các doanh nghiệp
trong nước đã vô tình bỏ ngỏ. Và, thời gian vừa qua, khiếm khuyết trên đã được sửa chữa
bằng hàng loạt các phiên chợ hàng Việt về nông thôn do Trung tâm BSA tổ chức. Tuy
nhiên, tại Việt Nam, theo khảo sát của Grey Group có tới 77% người tiêu dùng ưa chuộng
thương hiệu nước ngoài, trong khi con số trung bình này trên toàn châu á chỉ là 40%.
Điều này được lý giải ngoài tâm lý sính dùng hàng ngoại để tỏ ra sành điệu, đẳng cấp của

một bộ phận người dân còn do chất lượng hàng ngoại tốt hơn, bền hơn, yên tâm hơn khi
sử dụng, hậu mãi tốt
- Tại bàn tròn “Quan điểm và thái độ của người tiêu dùng thời lạm phát” do BSA tổ chức
gần đây, nhiều ý kiến cũng cho rằng: người tiêu dùng đồng ý ủng hộ hàng Việt nhưng
cũng đòi hỏi nhà sản xuất phải đưa ra những sản phẩm tốt. Như vậy thay vì khẩu hiệu
“Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam là yêu nước”, chuyển giao 100% trọng trách yêu
nước cho người tiêu dùng thì các doanh nghiệp cũng cần nêu cao tinh thần “Sản xuất
hàng chất lượng cao là yêu nước” trong cuộc đua giành khách hàng cho mình.
- Bài viết “ Tin hoạt động của quốc hội - Cần nhiều nỗ lực để phát triển kinh tế-xã hội ổn
định, bền vững”(28/10/2009) đã bàn về báo cáo của Chính phủ đối với tình hình kinh tế -
xã hội năm 2009 và nhiệm vụ của năm 2010.Theo đó, bộ trưởng Vũ Huy Hoàng đã nêu ý
kiến: thời gian qua, nhiều địa phương quan tâm đến thị trường nội địa, đặc biệt là các
thành phố lớn. Cùng với Đề án phát triển thị trường nội địa, chương trình khuyến khích
người Việt dùng hàng Việt cũng là một quyết sách đúng đắn, được sự đồng tình của xã
hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được giao làm đầu mối triển khai chương trình này là rất
phù hợp bởi đây là một hoạt động xã hội đòi hỏi có sự hưởng ứng của toàn xã hội với
mục đích ưu tiên sử dụng hàng Việt Nam, người Việt Nam có quyền yêu cầu các nhà sản
xuất Việt Nam phải đảm bảo chất lượng, giá cả, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Việt Nam chứ không phải chỉ có yêu cầu một phía đối với người tiêu dùng. Ngược lại,
đây cũng là trách nhiệm của nhà sản xuất, kinh doanh muốn người tiêu dùng Việt Nam có
thể lựa chọn và sử dụng hàng Việt Nam thì cần tìm cách để nâng cao chất lượng, cải tiến
mẫu mã, giảm giá thành… tạo điều kiện cho người tiêu dùng an tâm lựa chọn sử dụng
hàng Việt Nam.(Mạnh Hùng – Thanh Hà )
- Theo báo Sài Gòn giải phóng, bài viết “ Hàng Việt còn xa người lao động” (30/3/2010)
đã chỉ ra rằng:”Dù là đối tượng có thu nhập thấp nhưng công nhân lao động mới chỉ sử
dụng khoảng 20% hàng Việt trong tổng số nhu cầu chi dùng của mình”.Điều này cho
thấy hàng Việt còn quá xa với người lao động bởi chúng ta biết quá ít thông tin về hàng
Việt, và hàng Việt không thể chỉ cạnh tranh bằng “lòng yêu nước”.
- Trên trang báo www.vietnamnet.vn đã đưa bài viết vào thứ 2, ngày 01/12/2008 với tiêu
đề “Thời trang mùa đông – người tiêu dùng ưu tiên hàng nội địa” đã đưa ra nhận xét:

hàng “ made in Việt Nam” ngày càng được ưa chuộng. Nhiều người tiêu dùng nhận
xét, quần áo nội tuy chưa phong phú về kiểu dáng, mẫu mã nhưng chất liệu, chất lượng
đã tiến bộ nhiều, giá cả lại chấp nhận được. Sự nghiêng về hàng nội địa của nhiều người
tiêu dùng Hà Nội hiện nay có thể thấy rõ tại Hội chợ Thời trang Việt Nam 2008 vừa được
tổ chức tại Hà Nội với 150 đơn vị tham gia hội chợ, trong đó chiếm 90% là các thương
hiệu thời trang nội địa.
- Trên trang báo www.vneconomy.com đã đưa bài viết vào thứ 4, ngày 30/09/2009 với
tiêu đề “Dùng hàng Việt: “Quả bóng đang ở chân doanh nghiệp!” đưa ra nguyên nhân tại
sao người Việt lại sử dụng hàng Việt.=> Trong cuộc khảo sát đang diễn ra trên
VnEconomy với hàng nghìn ý kiến tham gia thì có tới 47% người tiêu dùng cho rằng ủng
hộ doanh nghiệp Việt là nguyên nhân quan trọng nhất khi họ dùng hàng Việt. Tỷ lệ này
bỏ xa nguyên nhân quan trọng thứ hai là giá thành hợp lý (25%).
- Ông Lê Quốc Ân, chủ tịch hiệp hội Dệt May Việt Nam khẳng định “ Quần áo nội đang
mạnh dần lên”. Theo thống kê từ đầu năm đến nay, tiêu thụ hàng dệt may ở nội địa phát
triển thêm 18%. Con số này cho thấy người tiêu dùng trong nước đang ủng hộ hàng Việt.
Hai vấn đề cốt lõi trong cạnh tranh hàng dệt may là giá cả và mẫu mã. Hiện nay, hàng nội
địa đã chiếm trên 50% thị trường. Tuy nhiên, hàng nội địa chỉ mạnh về quần áo nam giới
và trẻ em. Trong khi đó, dòng hàng thời trang nữ chưa cạnh tranh nổi với hàng ngoại
nhập. Do đó, để lấy được thị trường thời trang nữ và phục vụ người tiêu dùng tốt hơn thì
các doanh nghiệp dệt may cần phải nghiên cứu thị trường, xây dựng lực lượng thiết kế
mẫu sao cho phù hợp thị hiếu. Hiện các doanh nghiệp trong ngành đang có chương trình
đào tạo các nhà thiết kế mẫu, đồng thời mời gọi các nhà thiết kế nước ngoài.
- Trên trang báo www.vietnamnet.vn đã đưa bài viết vào thứ 4, ngày 3/2/2010 với tiêu đề
“ Người Việt dùng hàng Việt ”. Bài viết có đề cập đến sự cạnh tranh giữa bánh kẹo nội –
ngoại. => Một khảo sát của Nielsen Việt Nam cho thấy, cạnh tranh giữa bánh kẹo nội -
ngoại hiện có phần ngang ngửa, tuy nhiên, các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo trong
nước đang đầu tư mạnh cho dây chuyền sản xuất hiện đại, nhằm đưa ra thị trường các sản
phẩm sang trọng nhằm chiếm lĩnh phân khúc cao cấp từ các nhà nhập khẩu. Bên cạnh đó,
các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo trong nước đang nhận được hậu thuẫn từ hàng loạt
hệ thống phân phối lớn, các siêu thị hiện đại và người tiêu dùng nội địa. Và hầu hết khách

hàng cho biết họ chọn bánh kẹo với tiêu chí chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm được
đặt lên hàng đầu.
- Theo báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, bài viết vào ngày 20/1/2010 với tiêu đề “
người Việt dùng hàng Việt: Cơ hội để hàng Việt lên ngôi ” đã đề cập đến vấn đề do đâu
người Việt sính hàng ngoại. => Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt
Nam” do Bộ Chính trị phát động đã và đang là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam
phát triển sản xuất, phát triển thị trường nội địa. Tuy nhiên, qua một chặng đường ngắn,
các doanh nghiệp cũng cần nhìn nhận lại lợi thế và thách thức đang đặt ra. Một cuộc khảo
sát gần đây của tổ chức Grey Group cho thấy, có tới 77% người tiêu dùng Việt ưa chuộng
thương hiệu nước ngoài, trong khi con số trung bình này trên toàn châu Á chỉ là 40%.
Liệu các doanh nghiệp Việt Nam có trả lời được câu hỏi: Do đâu người Việt sính hàng
ngoại ? Câu trả lời nằm trong chính nhà sản xuất và người tiêu dùng.
- Trang báo thế giới và Việt Nam đã đưa tin “ Người Việt dùng hàng Việt ” vào ngày
21/8/2009 với nội dung hàng nội địa đã chiếm lĩnh thị trường Việt Nam.=> Hiện cũng đã
có nhiều doanh nghiệp phân phối hàng hóa vào cuộc với các kết quả rất cụ thể: Big C và
Metro đang bày bán tới 80% hàng hóa nội, hệ thống siêu thị của Hapro, Vinatex… cũng
bày trên 90% hàng hóa nội… Tuy nhiên, ngay tại buổi phát động “Người Việt ưu tiên
dùng sữa Việt”, do Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (Vinastas) tổ
chức ngày 18/8, tại TP.HCM, bà Nguyễn Thị Lâm, Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng
quốc gia vẫn phải kêu lên rằng “Nhiều sản phẩm sữa của Việt Nam đã đạt tiêu chuẩn chất
lượng xuất khẩu ngược vào các thị trường hàng đầu thế giới. Tại sao người tiêu dùng cứ
chạy theo các loại sữa nhập khẩu, giá cao trong khi sữa nội cùng chất lượng rẻ hơn
nhiều?”. Vấn đề ở đây vẫn là yếu tố “tâm lý và thói quen” của người tiêu dùng.
- Trang báo kinh tế ngày 28/9/2009 đã đưa bài viết “ Làm gì để người Việt dùng hàng
Việt ” với nội dung đồng hành và tôn vinh hàng Việt.=> Để hàng Việt đến gần hơn với
người tiêu dùng thì không thể không nhắc đến vai trò của các kênh phân phối, đặc biệt là
kênh phân phối hiện đại như hệ thống các siêu thị. Với 12 năm cùng đồng hành và tôn
vinh hàng Việt thông qua chương trình “Người tiêu dùng và hàng Việt Nam chất lượng
cao” được thực hiện vào tháng 9 hàng năm, hệ thống Co.opMart được xem là đơn vị tiên
phong trong việc đồng hành và tôn vinh hàng Việt Nam chất lượng cao đến với người

tiêu dùng. Hơn 95% hàng hóa đang kinh doanh tại hệ thống Co.opMart là hàng sản xuất
tại Việt Nam. Khẩu hiệu “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” như một ngọn
lửa lớn thắp lên lòng tự hào dân tộc của mỗi người dân Việt. Việc lựa chọn mua sản
phẩm này hay sản phẩm khác đều do người tiêu dùng quyết định. Cuộc vận động này có
lẽ được hầu hết người tiêu dùng Việt Nam ủng hộ. Người tiêu dùng ý thức và chọn mua
hàng Việt với ý nghĩ mua hàng Việt không chỉ là yêu nước, mà còn giúp doanh nghiệp
Việt mạnh lên, nộp thuế nhiều lên, tạo nhiều công ăn việc làm hơn và nâng cao chất
lượng cuộc sống của chính người dân.
- Trên trang báo www.thoibaoviet.com đã đưa bài viết vào thứ 7, ngày 29/8/2009 với tiêu
đề “ Hưởng ứng chương trình người Việt dùng hàng Việt ”. Phó tổng giám đốc Big C
Thăng Long - Nguyễn Thái Dũng cho hay, tất cả sản phẩm nằm trong chương trình giảm
giá đều là sản phẩm nội địa. Trong chính sách thu mua của BigC, sản phẩm sản xuất
trong nước luôn được ưu tiên hàng đầu. Các sản phẩm nhập khẩu còn lại như rượu, sữa,
chocolate chỉ mang tính chất là đa dạng hóa gian hàng. "Hiện siêu thị của chúng tôi
đang có 95% sản phẩm được sản xuất trong nước", ông Dũng nói. Hay như câu nói
"Người Việt đang quan tâm đến hàng Việt" ngày nay đã trở thành câu nhận xét chung
của nhiều đại diện siêu thị. Chính vì thế, có những siêu thị trước đây được mệnh danh là
“thiên đường của hàng ngoại” như MaxiMark thì nay hàng nội cũng đã chiếm tới 70%
doanh số. Đại diện MaxiMark giải thích: “Chúng tôi thay đổi chiến lược là do doanh thu
hàng nội tăng 30% trong 3 năm gần đây. Trong khi đó, hàng ngoại nhập lại có doanh thu
giảm dần". Nguyên nhân việc hàng ngoại bị "truất ngôi" được giải thích là do hàng nội rẻ
hơn nhiều trong khi chất lượng không khác nhau nhiều lắm.
- Trên trang báo www.ca.cand.com.vn đã đưa ra bài viết vào ngày 29/10/2009 với tiêu đề
“ Chiến dịch người Việt dùng hàng Việt tại TP.HCM ”. Bài viết có đề cập đến các hình
thức khuyến mại cho chiến dịch người Việt dùng hàng Việt.=> Thị trường thành phố tiếp
tục được các nhà sản xuất trong nước mở rộng khai thác, đẩy nhanh tiến độ tiêu thụ sản
phẩm bằng các hình thức khuyến mãi cho chiến dịch "Người Việt dùng hàng Việt". Theo
Cục Thống kê TP HCM, ước tính 10 tháng đầu năm tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh
thu dịch vụ trên địa bàn TP HCM đạt 220.541 tỷ đồng (tăng 18,6% so cùng kỳ năm
2008). Riêng trong tháng 10, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tăng khoảng 3,5% so

với tháng 9. Thị trường thành phố tiếp tục được các nhà sản xuất trong nước mở rộng
khai thác, đẩy nhanh tiến độ tiêu thụ sản phẩm bằng các hình thức khuyến mãi cho chiến
dịch "Người Việt dùng hàng Việt".
- Trang báo www.daidoanket.vn đã đưa tin bài “ Làm sao để người Việt chọn hàng Việt?
Nhớ lại 10 năm Đại Đoàn Kết tôn vinh thương hiệu Việt ” vào ngày 29/9/2009. Tiến sĩ
Phạm Viết Muôn, khi còn là Viện trưởng Viện chiến lược chính sách công nghiệp (Bộ
Công nghiệp) có nói: “Ranh giới giữa thị trường trong nước và thế giới dần dần bị xóa
nhòa. Sản phẩm chế tạo tại Việt Nam dù tiêu thụ ở đâu cũng phải bị sản phẩm các nước
khác cạnh tranh. Sự cạnh tranh thắng lợi nếu đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu
dùng, được người tiêu dùng ưa chuộng. Những sản phẩm như thế, chúng ta đã có và đang
có ngày càng nhiều về số lượng, phong phú về chất lượng, mẫu mã và đa dạng về công
nghệ sản xuất. Điều này dễ dàng nhận thấy qua thị trường hàng hóa Việt Nam mấy năm
gần đây. Và đặc biệt qua kết quả Topten do người tiêu dùng bình chọn được báo Đại
Đoàn Kết tổ chức hàng năm. Đây là thành công rất lớn của báo giương cao ngọn cờ
khuyến khích người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”.
- (Nên trình bày theo phương thức kẻ bảng đã dược học ở phần thu thập thông tin
Chú trọng đến ngày tháng , báo gì , nội dung chính ntn?)
3.Mục đích nghiên cứu,nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
- Khảo sát thái độ của người tiêu dùng nữ đối với hàng nội địa Việt Nam (Khảo sát trên
địa bàn Hà Nội)
- Giúp cho người tiêu dùng nữ thấy được tầm quan trọng và lợi ích của việc dùng hàng
nội địa Việt Nam.
- Giúp cho người tiêu dùng nữ có được những hướng tiếp cận mới đối với hàng nội địa
Việt Nam.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích đó, chúng tôi đặt ra nhiệm vụ cho đề tài nghiên cứu của mình đó là:
- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu về người tiêu dùng nữ đối với
hàng nội địa Việt Nam tại Hà Nội.
- Khảo sát định lượng và định tính về thái độ của người tiêu dùng nữ đối với hàng nội địa

Việt Nam tại Hà Nội
- Đánh giá, phân tích những biến số tác động đến thái độ của người tiêu dùng nữ trong
vấn đề dùng hàng nội địa tại Hà Nội.
- Đưa ra kết luận và đề xuất những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hàng nội
địa của người tiêu dùng nữ tại Hà Nội.
4.Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Thái độ của người tiêu dùng nữ đối với hàng nội địa Việt Nam ( khảo sát tại Hà Nội ).
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Người tiêu dùng nữ tại Hà Nội.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Quận Cầu Giấy, Quận Hoàng Mai, Huyện Từ Liêm.
4.4. Thời gian nghiên cứu
- Từ tháng 2/ 2010 đến tháng 8/2010
5. Gỉa thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
5.1. Gỉa thuyết nghiên cứu
- Đối với mỗi lứa tuổi khác nhau thì có nhu cầu dùng hàng nội địa khác nhau.
- Phần lớn phụ nữ Việt Nam hiện nay khi dùng mỹ phẩm, họ ít dùng hàng nội địa.
- Đối với mỗi điều kiện kinh tế của mỗi gia đình khác nhau thì họ sẽ có nhu cầu dùng
hàng nội địa khác nhau.
- Phần lớn các gia đình có thu nhập tương đối cao thì sẽ ít dùng hàng nội địa.
- Hầu hết các sản phẩm phục vụ cho sinh hoạt thường được sử dụng là hàng nội địa.
- Đới với điều kiện KT -XH tại mỗi nơi khác nhau thì có nhu cầu dùng hàng nội địa khác
nhau.
- Thông qua các chương trình khuyến khích dùng hàng nội địa, người phụ nữ có vẻ quan
tâm nhiều hơn đến vấn đề này.
5.2. Khung lý thuyết
5.3. Các biến số
5.3.1. Biến độc lập
- Đặc điểm nhân khẩu học: tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng hôn

nhân, vị thế vai trò xã hội.
- Điều kiện kinh tế của bản thân và gia đình (thu nhập)
- Thói quen văn hoá, xã hội
5.3.2. Biến phụ thuộc
-
5.3.3. Biến can thiệp
6.Thao tác hoá khái niệm
6.1. Khái niệm hàng nội địa
- Là hàng hoá được sản xuất ở trong nước,có nhà máy ở trong nước
- Có phần giá trị gia tăng tạo ra trong nước đạt tỷ lệ nhất định do cơ quan thẩm quyền của
Việt Nam quy định tùy theo từng chủng loại và điều kiện cụ thể.
6.2. Khái niệm thái độ
- Theo Philip Kotler: Thái độ là sự đánh giá tốt hay xấu của cá thể được hình thành trên
cơ sở những tri thức hiện có bền vững về một khách thể hay ý tưởng nào đó, những cảm
giác do chúng gây ra và phương hướng hành động có thể có.
- Theo từ điển xã hội học: thái độ của một cá nhân đối với một đối tượng là một trong
những nhân tố chính gắn với cá nhân và quyết định ứng xử của cá nhân đối với đối
tượng. Có thể hiểu, thái độ là cách nghĩ, cách nhìn, cách hành động theo hướng nào đó
của một vấn đề, một tình hình.
- Thái độ xuất phát chủ yếu từ những thông tin nhận được về các đối tượng, các sự vật
hiện tượng. Có thể là thông tin trực tiếp phát ra từ đối tượng, cũng có thể là gián tiếp do
người khác cấp cho.
- Thái độ của một người trước một sự kiện xã hội thông qua sự tán thành hoặc phán đối,
thông qua hành vi tham gia hoặc không tham gia sự kiện đó. Thái độ của một người bị
quy định bởi các yếu tố xã hội phụ thuộc vào các khuôn mẫu xã hội.
6.3. Khái niệm người tiêu dùng
- Người tiêu dùng hiểu theo nghĩa hẹp là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục
đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.
- Người tiêu dùng hiểu theo nghĩa rộng, đó là người tiêu dùng ngoài mục đích mua bán
hàng hoá, sử dụng dịch vụ để phục vụ nhu cầu sinh hoạt có thể còn phục vụ cho nhu cầu

tái sản xuất kinh doanh.
- Người tiêu dùng là một từ nghĩa rộng dùng để chỉ các cá nhân hoặc hộ gia đình dùng
sản phẩm hoặc dịch vụ sản xuất trong nền kinh tế. Khái niệm người tiêu dùng được dùng
trong nhiều văn cảnh khác nhau vì thế cách dùng và tầm quan trọng của khái niệm này có
thể rất đa dạng.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
- Vận dụng quan điểm của CNDVBC
- Vận dụng quan điểm của CN Mac-Lênin
- Lý thuyết hành vi
- Lý thuyết truyền thông
7.2. Cơ sở lý luận
Áp dụng một số lý thuyết xã hội học
- Lý thuyết xã hội hoá xem xét sự biến chuyển thái độ, tiếp nhận của người tiêu dùng nữ
ở khu vực Hà Nội đối với hàng nội địa Việt Nam.
- Lý thuyết sai lệch xã hội phân tích những sai lệch tích cực hay sai lệch tiêu cực về thái
độ của người tiêu dùng ở khu vực Hà Nội đối với hàng nội địa Việt Nam.
- Lý thuyết hành động xã hội để phân biệt những ứng xử hành vi của người tiêu dùng có
mục đích gì và động cơ của hành động có phù hợp với thái độ.
7.3. Phương pháp nghiên cứu định lượng
- Sử dụng chương trình SPSS để xử lý thông tin
- Sử dụng phương pháp phỏng vấn anket
Khảo sát được thực hiện thông qua 300 mẫu
- Chọn Quận Cầu Giấy, Quận Hoàng Mai, Huyện Từ Liêm để tiến hành khảo sát.
- Chọn mẫu ngẫu nhiên
- Tại quận Cầu Giấy chọn 100 nữ ( từ 18 tuổi trở lên )
Tại quận Hoàng Mai chọn 100 nữ ( từ 18 tuổi trở lên )
Tại huyện Từ Liêm chọn 100 nữ ( từ 18 tuổi trở lên )
7.4. Phương pháp nghiên cứu định tính
- Sử dụng chương trình Nvivo đế xử lý thông tin

- Phương pháp phỏng vấn sâu
+ Chọn ra 3 người đứng đầu của 3 quận, huyện để tiến hành phỏng vấn.
+ Phỏng vấn sâu 30 nữ của 3 quận, huyện để phỏng vấn
* Quận Cầu Giấy chọn 10 nữ ( từ 18 tuổi trở lên )
* Quận Hoàng Mai chọn 10 nữ ( từ 18 tuổi trở lên )
* Huyện Từ Liêm chọn 10 nữ ( từ 18 tuổi trở lên )
- Phương pháp thảo luận nhóm: tiến hành 3 thảo luận nhóm
+ Chọn ra 30 nữ của 3 quận, huyện. Trong quá trình thảo luận nhóm, điều tra viên tìm ra
3 trường hợp điển hình để làm “ case study ”.
8. Ý nghĩa thực tiễn
- Qua đề tài này chúng tôi hy vọng sẽ góp phần giúp cho người tiêu dùng nữ có cái nhìn
tích cực hơn về việc dùng hàng nội địa Việt Nam và có hướng tiếp cận với hàng nội địa
Việt Nam một cách hiệu quả nhất. Đồng thời phản ánh thái độ của người tiêu dùng nữ đối
với hàng nội địa Việt Nam.
10. Bảng hỏi
Mã số phiếu
Bảng phỏng vấn
Điều tra thái độ của người tiêu dùng nữ đối với hàng nội địa Việt Nam
( Khảo sát trên địa bàn Hà Nội )
Giới thiệu
Tôi tên là …………………………… Tôi đang cộng tác với …………………. để
tiến hành một nghiên cứu với chủ đề “ người Việt Nam dùng hàng Việt Nam ”. Mục đích
của cuộc nghiên cứu là tìm hiểu thái độ của người tiêu dùng nữ đối với hàng nội địa Việt
Nam. Bà/chị được lựa chọn để cung cấp các thông tin cho dự án
Mọi thông tin bà/chị cung cấp sẽ được giữ kín và chỉ được sử dụng cho mục đích của
dự án này.
Những ý kiến bà/chị cung cấp sẽ góp phần rất quan trọng vào việc đánh giá thực trạng
người tiêu dùng đối với hàng nội địa Việt Nam theo xu hướng ngày càng tăng như hiện
nay và thái độ của họ đối với hàng nội địa Việt Nam. Trong quá trình trả lời, bà/chị có thể
từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào mà bà/chị không muốn.Và bà/chị cũng có thể dừng cuộc

phỏng vấn này bất cứ lúc nào.
Chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của bà/chị
Thôn…… Xã………
Huyện…… Tỉnh……
Thời gian phỏng vấn: …………….
Người được phỏng vấn ……
Người phỏng vấn…………….
Người giám sát……………….
A. Phần thông tin cá nhân
A1. Giới tính
1. Nam
2. Nữ
A2. Bà / chị sinh năm nào ……………
A3. Bà / chị có phải là chủ hộ gia đình không ?
1. Có
2. Không
A4. Trình độ học vấn của bà / chị ?
0. Không biết chữ
1. Lớp /hệ………
2. Trung cấp
3. Cao đẳng
4. Đại học hoặc cao hơn
99. KB/không nhớ
A5. Nghề nghiệp hiện tại của bà / chị ?
1. Sản xuất nông nghiệp
2. Lâm nghiệp
3. Công nhân, sản xuất tiểu thủ công
4. Buôn bán, dịch vụ
5. Cán bộ, viên chức nhà nước, bộ đội
6. Làm thuê

7. Về hưu / già yếu không làm được việc
8. Không làm gì
9. Khác (ghi rõ)……………
A6. Tình trạng hôn nhân của bà / chị ?
1. Chưa từng kết hôn
2. Hiện có vợ /có chồng
3. Goá
4. Ly thân
5. Ly dị
A7. Thu nhập trung bình hàng tháng của bà / chị là ………………

×