Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Bạo lực gia đình trong các gia đình nông thôn việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.03 KB, 29 trang )

CHƯƠNG I
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bạo lực gia đình là một vấn đề có tính chất toàn quốc được xem như là một đề tài
thu hút giới nghiên cứu trong mọi lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn
Bạo lực gia đình đặc biệt là bạo lực với phụ nữ và trẻ em là hiện tượng phổ biến
tồn tại ở tất cả các nước Bạo lực gia đình đã và đang tác động đến một bộ phận không
nhỏ phụ nữ và trẻ em trên thế giới và trở thành một chướng ngại lớn cho quá trình bình
đẳng giới
Ở Việt Nam vấn đề bạo lực gia đình ngày càng được quan tâm hơn khi ngày càng
nặng nề hơn
Theo báo cáo của Ủy ban dân số gia đình và trẻ em Việt Nam năm 2006 : 97%
nạn nhân là những người phụ nữ
Theo các nghiên cứu trên thế giới ước tính khoảng 20 – 50% phụ nữ đã phải chịu
bạo lực về thể xác do bạn tình hoặc các thành viên trong gia đình. Ở Việt Nam, theo một
nghiên cứu của Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch phối hợp với tổ chức UNCEF cho thấy
21,2% cặp vợ chồng đã trải qua một trong những hình thức bạo lực gia đình, trong đó
7,3% cặp vợ chồng thường xuyên xẩy ra bạo lực. Bạo lực gia đình làm tổn hại về thể
chất, tinh thần của người bị bạo lực mà phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình. Bạo lực
gia đình là nguyên nhân phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, gây ảnh hưởng không nhỏ
đến trật tự xã hội.
Những năm gần đây, nạn bạo lực gia đình đã được các cấp, các ngành, các đoàn
thể, các tổ chức xã hội và cộng đồng quan tâm, đặc biệt Nhà nước đã ban hành Luật
phòng chống bạo lực gia đình. Luật phòng chống bạo lực gia đình đang được tuyên
truyền rộng rãi trong cán bộ, nhân dân, từng bước đi vào cuộc sống của mỗi gia đình.
Nhìn chung bạo lực gia đình có chiều hướng giảm song chỉ giảm so với hình thức bạo
lực thể chất, còn bạo lực tinh thần, bạo lực kinh tế và bạo lực tình dục thì chưa giảm.
Nhận thức về phòng chống bạo lực gia đình của nhân dân nói chung, phụ nữ nói riêng
còn hạn chế. Các hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình chưa hiệu quả. Việc xử lý các vi
phạm, phê bình góp ý đối với đối tượng gây bạo lực gia đình chưa có tiến triển nhiều
Những cọn số mà chúng ta đang thấy là những con số không nhỏ . Riêng ở Việt Nam


khoảng 10 năm gần đây vấn đề này mới được đưa vào nghiên cứu ở một số công trình
của Hội liên hiệp Phụ Nữ và một số tác giả khác . Hậu quả của bạo lực gia đình lại đặc
biệt quan trọng , nó không chỉ gây tổn thương đến cuộc sống , sức khỏe và danh dự của
các thành viên trong gia đình mà còn vi phạm đến đạo đức xã hội , tiếp tay cho sự gia
tăng các tệ nạn như mại dâm , ma túy , người lang thang cơ nhỡ nạn buôn bán trẻ em và
phụ nữ . Vấn đề bạo hành không chỉ còn tồn tại trong gia đình nữa mà nó là sự quan tâm
của toàn xã hội :
Tôi đưa ra đề tài nghiên cứu :” Thực trạng, nhận thức của người dân về bạo lực
gia đình trong gia đình nông thôn Việt Nam hiện nay “ nhằm ìm hiểu thực trạng bạo
lực gia đình trong xã hội hiện nay cũng như đưa ra các giải pháp kiến nghị nhằm làm
giảm tình trạng bức thiết này.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
- Khảo sát thực trạng nhận thức của người dân khu vực nông thôn về vấn đề bạo lực gia
đình
- Đưa ra giải pháp kiến nghị giảm bớt tình trạng bạo lực gia đình
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thao tác hóa khái niệm lien quan đến các yếu tố của đề tài: Trẻ em , Phụ nữ.,
bạo hành ,bạo hành , bạo lực gia đình , gia đình, bạo lực kinh tế, bạo lực thể chất
- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu về bạo lực trong gia
đình
- Khảo sát định lượng và định tính về nhận thức của người dân ở nông thôn về
vấn đề bạo lực trong gia đình : Bạo lực thể xác, bạo lực tinh thần , bạo lực kinh tế, bạo
lực tình dục
- Đánh giá, phân tích những biến số tác động đến nhận thức của người dân trong
vấn đề này.
3. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Nhận thức của người dân ở nông thôn về vấn đề bạo lực trong gia đình gồm bạo
hành về thể xác, bạo hành về tinh thần, bạo hành về tình dục.

3.2. Khách thể nghiên cứu:
• Cán bộ các ban, ngành đoàn thể tại cơ sở
• Các hội viên phụ nữ và nhân dân địa phương
• Nạn nhân bạo lực gia đình người dân ở nông thôn
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
Một số tỉnh huyện : Thái Bình, Đà Nẵng , Tây Ninh , An Giang ,Hà Nội, Nghệ
An…
3.4. Thời gian nghiên cứu : T8/2009 – T12/ 2010
4. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU XXH:
4.1. Phương pháp luận
Ở đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa
duy vật biện chứng làm phương pháp luận. Vấn đề bạo hành trẻ em trong gia đình nó có
liên quan mật thiết đến các yếu tố khác . Chính vì vậy, khi nghiên cứu nghiên cứu vấn đề
này phải xem xét từng trường hợp, từng điều kiện kinh tế,văn hóa,chính trị, xã hội của
từng gia đình nông thôn . Đồng thời, chúng ta cũng phải đặt trong mối liên hệ với các
nhân tố khác như nhà trường, các nhóm xã hội, truyền thông đại chúng. Ngoài ra, chúng
ta cũng phải xem xét vấn đề đó trong một quá trình lich sử cụ thể cũng như tác động từ
truyền thống văn hóa làng xã
Dân gian xưa ta đã từng có câu “ Thương cho roi cho vọt , ghét cho ngọt cho bùi “
Nhưng quan niệm đấy có còn đúng và như thế có phải bạo hành không? Và việc cha mẹ
cho rằng người làm cha mẹ có quyền “ cho roi , cho vọt “ ?
4.2 Phương pháp nghiên cứu xã hội học
4.2.1.Phương pháp phân tích tài liệu
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã đọc và phân tích một số tài liệu liên quan
đến vấn đề bạo hành gia đình Đồng thời chúng tôi quan tâm đến báo cáo trên các tạp
chí, sách, báo để đưa vào những thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài.
4.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu :
4.2.3.Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG LÝ THUYẾT
5.1. Giả thuyết nghiên cứu

- Các yếu tố nghề nghiệp , môi trường văn hóa , lối sống, trình độ học vấn, giáo có thể
là những yếu tố tác động đên bạo lực gia đình
- Bạo hành thể chất , tinh thần , kinh tế , tình dục ảnh hưởng đặc biệt đối với những
người phụ nữ trong gia đình và trẻ em …
- Những người phụ nữ là người chịu nặng nề trong vấn đề bạo lực
- Thái độ cam chịu thường là nguyên nhân dẫn đến chịu đựng bạo hành trong gia đình
- Kinh tế cũng là vấn đề quyết định đến bạo lực
Điều kiện KT- XH
Đặc điểm truyền thống GĐ- Làng

Môi trường văn hóa
Chính sách Đảng và nhà nước về
gia đình , trẻ em…
NGƯƠI DÂN NÔNG THÔN ĐỐI VỚI BẠO LỰC
Tuổi Giới tính Học vấn Tình trạng hôn nhân Nghề nghiệp
NHÂN THỨC NGƯỜI DÂN NÔNG THÔN VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
Bạo hành thể xác
Bạo hành tinh thần
Bạo hành tình dục
HẬU QUẢ BẠO LỰC
CHƯƠNG 2
NỘI DUNG CHÍNH
1. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu xã hội học
1.1. Phương pháp luận
Ở đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa
duy vật biện chứng làm phương pháp luận. Vấn đề bạo hành trẻ em trong gia đình nó có
liên quan mật thiết đến các yếu tố khác . Chính vì vậy, khi nghiên cứu nghiên cứu vấn đề
này phải xem xét từng trường hợp, từng điều kiện kinh tế,văn hóa,chính trị, xã hội của
từng gia đình nông thôn . Đồng thời, chúng ta cũng phải đặt trong mối liên hệ với các
nhân tố khác như nhà trường, các nhóm xã hội, truyền thông đại chúng. Ngoài ra, chúng

ta cũng phải xem xét vấn đề đó trong một quá trình lich sử cụ thể cũng như tác động từ
truyền thống văn hóa làng xã
Dân gian xưa ta đã từng có câu “ Thương cho roi cho vọt , ghét cho ngọt cho bùi “
Nhưng quan niệm đấy có còn đúng và như thế có phải bạo hành không? Và việc cha mẹ
cho rằng người làm cha mẹ có quyền “ cho roi , cho vọt “ ?
1.2 Phương pháp nghiên cứu xã hội học
1.2.1.Phương pháp phân tích tài liệu
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã đọc và phân tích một số tài liệu liên quan
đến vấn đề bạo hành gia đình Đồng thời chúng tôi quan tâm đến báo cáo trên các tạp
chí, sách, báo để đưa vào những thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài.
1.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
1.2.3.Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
2. 6. THAO TÁC HÓA KHÁI NIỆM
2 .1. Bạo hành: bất kì hành vi nào xảy ra trong gia đình và xã hội gây tổn thương đến
thể chất, tinh thần và tình dục của người khác , bao gồm các hoạt động như đe doạ, ép
buộc hoặc tước đoạt quyền tự do của họ.
2.2 Bạo lực gia đình
Tháng 12/1993, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã đưa ra định nghĩa về bạo lực gia
đình như sau: “Bất kỳ một hành động bạo lực dựa trên cơ sở giới nào dẫn đến, hoặc
có khả năng dẫn đến, những tổn hại về thân thể, tình dục hay tâm lý hay những đau
khổ của phụ nữ, bao gồm cả sự đe doạ có những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay
tước đoạt một cách tuỳ tiện sự tự do, dù nó xảy ra nơi công cộng hay trong cuộc sống
riêng tư”.
Ở Việt Nam, 21/11/2007, trong kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khoá XII đã thông
qua bản dự thảo Luật phòng, chống bạo lực gia đình. Luật này đã đưa ra định nghĩa
về bạo lực gia đình như sau: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia
đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với
các thành viên khác trong gia đình.
2.3 Hình thức bạo lực gia đình :
2.3.1 Bạo lực thể chất :gồm những hành vi bạo lực mà người gây ra bạo lực

thường sử dụng sức mạnh cơ bắp (tay, chân) hoặc công cụ (thậm chí cả vũ khí) gây nên
sự đau đớn về thân thể đối với nạn nhận.
2.3.2 Bạo lực tinh thần :gồm những hành vi nhằm hành hạ tâm lý và những lời
nói sỉ nhục, đe doạ, sự lãng quên, bỏ rơi người thân không quan tâm.
2.3.3. Bạo lực về kinh tế : gồm các hành động hoặc quyết tâm thực hiện các hành
động để phụ nữ thuộc về tài chính, bao gồm các hành vi sau: Ngừng hỗ trợ về tài chính
và ngăn cản nạn nhân có một nghề nghiệp, công việc hợp pháp; Tước đoạt hay đe doạ
tước đoạt các nguồn tài chính về quyền sử dụng, thừa hưởng của vợ, chồng, cộng đồng
và quyền sở hữu tài sản nói chung; Phá huỷ tài sản trong gia đình…
2.3.4 Bạo lực tình dục : gồm các hành vi sau như cưỡng ép quan hệ tình dục,
ngăn chặn sử dụng các biện pháp tránh thai hay bắt ép mang hoặc phá thai theo ý muốn
của chồng.
2.4 . Trẻ em:
Theo công ước quốc tế, trẻ em là người dưới 18 tuổi trừ khi luật pháp quốc gia
công nhận tuổi vị thành viên sớm hơn.
Theo pháp luật Việt Nam thì trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi
2.5 . Quyền trẻ em:
Trẻ em phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt được tạo điều kiện đầy đủ để phát
triển vật chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức xã hội, không phải làm bất cứ công việ
2.6 . Khái niệm “Gia đình”
Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng cho cả một đời người, là môi trường giáo dục nếp
sống và hình thành nhân cách sống có tình có nghĩa, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau, có ý
thức trách nhiệm của công dân, tôn trọng pháp luật và giữ gìn đạo lý
Gia đình là khái niệm được dùng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở
quan hệ hôn nhân( quan hệ tính giao và quan hệ tình cảm) và quan hệ huyết thống nảy
sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha me, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại ). Gia đình có
thể hiểu như là một đơn vị xã hội vi mô, nó chịu sự chi phối của xã hội song có tính ổn
định độc lập tương đối. Nó có quy luật phát triển riêng với tư cách là một thiết chế xã
hội đặ thù. Những thành viên trong gia đình được gứ bó với nhau về trách nhiệm và
quyền lợi kinh tế, văn hóa, tình cảm một cách hợp pháp được nhà nước thừa nhận và bảo

hộ
2.7. Khái niệm “vai trò”
Vai trò là một tập hợp những kỳ vọng ở trong một xã hội gắn với hành vi của những
người mang các địa vị Ở mức độ này thì mỗi vai trò riêng là một tập hợp hay nhóm các
kỳ vọng, hành vi (Dahrandorf)
2.8. Khái niệm “giáo dục”
Giáo dục có hai nghĩa:
Nghĩa rông: Giáo dục được coi là sự tá sự tác động đến con người từ toàn bộ hệ
thống và các quan hệ xã hội. Với mục đích chuyển tải những kinh nghiệm xã hội hay
những tri thức cần thiết cho cuộc sống xã hội của con người. Do vậy con người có thể
học hỏi kinh nghiệm của tri thức đó ở mọi lúc, mọi nơi, mọi nhóm xã hội khác nhau.
Nghĩa hẹp: Giáo dục là sự tác động có định hướng, có kế hoạch, có mục đích đến
con người từ phái chủ thể giáo dục nhất định, nhằm truyền đạt cho chúng ta một hệ
thống các tri thức, chuẩn mực, kinh nghiệm xã hội, làm cho chúng ta dần có được phẩm
chất năng lực theo yêu cầu của xã hội. Những kiến thức hay kinh nghiệm đó chỉ có thể
nhận được qua chủ thê giáo dục như gia đình, nhà trường. Với nghĩa này thì giáo dục
được coi như là một thiết chế xã hội hay là một hệ thống xã hội có tổ chức
Gia đình hòa
thuận, 65.1
Đôi lúc có mâu
thuẫn, 31.7
Thường xảy ra
mâu thuẫn, 3.2
Gia đình hòa thuận
Đôi lúc có mâu thuẫn
Thường xảy ra mâu thuẫn
CHƯƠNG 3
I. THỰC TRẠNG BẠO HÀNH GIA ĐÌNH QUA CÁC NGHIÊN CỨU
Kết quả nghiên cứu cho thấy hành vi chửi mắng, xúc phạm cao nhất (chiếm tới
90%), tiếp theo là hành vi đánh, đá, tát (chiếm 52,67%), các hành vi

bạo lực khác chiếm tỉ lệ thấp hơnKhi hỏi về chiều hướng của bạo lực gia đình hiện nay,
có 85,65% người được hỏi trả lời chiều hướng có giảm với lý do: Hiện nay điều kiện
kinh tế đã được cải thiện, công tác tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới, về xây dựng
gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc được quan tâm. Phong trào xây dựng gia đình văn
hóa, khu dân cư, làng xã văn hóa được nhiều địa phương hưởng ứng tích cực đã tác động
không nhỏ đến việc giảm tình trạng bạo lực gia đình Tuy nhiên những ý kiến đó mới chỉ
nhìn từ góc độ hành vi bạo lực về thể chất còn hành vi bạo lực về tinh thần, kinh tế, tình
dục thì không hề giảm bởi vì khi hỏi về nhận xét về mối quan hệ gia đình của chính
người được hỏi thì có 65,1% cho rằng gia đình mình hòa thuận, 31,7% cho rằng gia đình
đôi lúc mâu thuẫn, 3,2% cho rằng gia đình mình thường xuyên xẩy ra mâu thuẫn.
Hình 1 : Thực trạng mối quan hệ gia đình người được hỏi
Thường thi khi hỏi về chính gia đình của mình thì người được hỏi thường không
nói thật nên có thể số gia đình đôi lúc xẩy ra mâu thuẫn và thường xuyên xẩy ra mâu
thuẫn còn có tỷ lệ cao hơn trong thực tế . Để có con số cụ thể, thực tế đối với phụ nữ bị
bạo lực gia đình, nhóm nghiên cứu đề tài trực tiếp trao đổi chuyện trò với 40 phụ nữ bị
bạo lực. Vì gia đình các chị đã xẩy ra bạo lực trong nhiều năm qua và hiện nay vẫn còn
bạo lực do đó ở địa phương nhiều người biết đến nên các chị không hề dấu diếm mà sẵn
sàng chia sẻ. Có tới 80% các chị bị chồng đánh, 95% các chị bị chồng chửi mắng, 12,5%
bị chồng tra hỏi, đánh, mắng ở mức rất căng thẳng. Như vậy đối với những chị em này
thường phải chịu đựng cùng lúc cả bạo lực về thể chất (đánh) và cả bạo lực tinh thần
(mắng, chửi, tra khảo Bạo lực gia đình thường xẩy ra nhiều ở độ tuổi từ 30 - 40, sau đó
là ở độ tuổi 18 đến dưới 30, xẩy ra ít hơn ở độ tuổi từ 40 trở lên.
Báo cáo sơ bộ của Viện KSND Tp.HCM cho thấy, trong năm 2008 riêng tại
thành phố này có 18 học sinh bị khởi tố bởi các tội danh nghiêm trọng như giết người,
hiếp dâm, phá hoại tài sản nhà nước… Còn theo số liệu thống kê của Viện KSND Tối
cao cho thấy 71% trẻ vị thành niên phạm pháp là do không được quan tâm chăm sóc
đúng mức. Một nghiên cứu của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên nhân phạm tội của trẻ vị
thành niên xuất phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn, 49% phàn nàn về
cách đối xử của bố mẹ. Theo số liệu điều tra 2.209 học viên các trường giáo dưỡng, có
tới 49,81% trong số này sống trong cảnh bị đối xử hà khắc, thô bạo, độc ác của bố mẹ.

Số em bị bố đánh chiếm 23% (gấp 6 lần mẹ đánh); bị dì ghẻ, bố dượng đánh chiếm
20,3%.
Môi trường gia đình ảnh hưởng nhiều tới thái độ ứng xử, hành vi của các em. Số liệu
điều tra trên 200 học sinh Tp.HCM của nhóm đề tài Viện Nghiên cứu Phát triển cho thấy
sự thiếu trách nhiệm của cha mẹ, ít quan tâm đến con cái, quá chú trọng vào việc kiếm
tiền, thiếu quan tâm, hoàn cảnh gia đình phức tạp ảnh hưởng nhiều đến tâm lý trẻ em,
gây cho các em chứng trầm cảm, cộc cằn, hung dữ, là nguy cơ dẫn đến bạo lực.
Theo điều tra, nhóm cha mẹ thường xuyên đánh lộn, cãi nhau chiếm 33,4%; cha
mẹ hàng ngày uống rượu chiếm 9,1%; cha mẹ li thân, li dị hoặc đã chết chiếm 11,1%;
cha mẹ thường xuyên đi xa, ít quan tâm đến con chiếm 9,6%.
Hình 2: Hành vi của cha mẹ
Đây là những nguy cơ ảnh hưởng đến tinh thần trẻ tổn thương, tâm trạng bực bội,
khó chịu, dễ có hành động gây hấn, hung dữ hoặc có hành vi bạo lực không kiểm soát
được
Cũng theo thống kê của TTTV và CSSKPN Gia Lâm thì bạo hành gia đình xảy ra
đều bắt nguồn từ người chồng, gây bạo lực theo bản năng là 8,37%; bạo hành sau khi
uống rượu là 22,96%; đòi hỏi vấn đề tiền bạc là 16,94%; các nguyên nhân khác là 5,2%;
còn lại gần 50% (cụ thể là 46,53%) là do kẻ gây bạo hành tự tìm kiếm lý do. Điều đó cho
thấy sự lạm dụng quyền của người đàn ông trong gia đình vẫn còn ở mức báo động,
người phụ nữ lại hoàn toàn bị thụ động trong vấn đề này.
Một nghiên cứu tình trạng bạo lực gia đình ở Tây Ninh trong thời gian qua
luôn được các Ngành, các cấp quan tâm chú trọng, đặc biệt là đẩy mạnh hoạt động tuyên
33.4
9.1
11.1
9.6
0
5
10
15

20
25
30
35
cha mẹ
thường xuyên
đánh lộn, cãi
nhau
cha mẹ hàng
ngày uống
rượu
mẹ li thân, li
dị hoặc đã
chết
cha mẹ
thường xuyên
đi xa, ít quan
tâm đến con
Hành vi cha mẹ
Hành vi cha mẹ
truyền, tư vấn, hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực gia đình; song, tình trạng bạo lực gia đình
không chấm dứt mà ở từng địa phương, bạo lực gia đình vẫn diễn ra với nhiều hình thức
khác nhau, mức độ tính chất của từng vụ, từng hành vi phức tạp, đa dạng; nạn nhân bạo
lực không chỉ dừng lại ở phụ nữ mà nạn nhân của bạo lực có người già, trẻ em, thậm chí
là nam giới;
Tính đến 10/9/2009, qua kết quả khảo sát thu thập số liệu gia đình, bạo lực gia
đình tại 95/95 xã, phường, thị trấn trong tỉnh hiện có 3.493 trường hợp gia đình có hành
vi BLGĐ. Trong đó nạn nhân BLGĐ: Phụ nữ: 2.808/3.493 trường hợp, chiếm tỷ lệ
80,38%; người già: 317/3.493 trường hợp, chiếm tỷ lệ 7,07%; trẻ em: 316/3.493 trường
hợp chiếm, tỷ lệ 9,04%; nam giới: 52/3.493 trường hợp, chiếm tỷ lệ 1,48%. Hình thức

BLGĐ phổ biến là hành vi bạo lực về thân thể: 2.210/3.493 vụ, chiếm tỷ lệ 63,26%, bạo
lực về tinh thần: 1.030/3.493 vụ, chiếm tỷ lệ 26,12%; bạo lực về kinh tế: 216/3.493 vụ,
chiếm tỷ lệ 6,18%; bạo lực về tình dục: 52/3.493 vụ, chiếm tỷ lệ 1,48%.
Hình 3: Tỷ lệ đối tương bạo hành ở Tây Ninh
Qua số liệu báo cáo của Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh hai năm 2008-2009 (Tòa án địa
phương) đã thụ lý 4.369 vụ, đã giải quyết ly hôn 4.108 vụ; trong đó có 154 vụ do bị đánh
đập, ngược đãi; vợ, chồng, ngoại tình: 128 vụ, mâu thuẫn kinh tế: 54 vụ; rượu chè, ma
túy: 08 vụ. Đặc biệt, đã có 08 bản án xử lý hình sự về bạo lực gia đình (BLGĐ) trong đó
có 04 vụ chồng giết vợ.
Theo nghiên cứu khảo sát về gia đình Việt Nam của Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, Tổng cục Thống kê, Viện Nghiên cứu về gia đình và giới và Quỹ Nhi đồng
Liên hiệp quốc cho thấy, hiện nay có tới 21,2% số cặp vợ chồng đã từng trải qua một
dạng bạo lực gia đình nào đó như: bạo lực tinh thần, bạo lực thể xác, bạo lực tình dục,
bạo lực kinh tế, mà tỷ lệ những phụ nữ không dám nói lên sự thật còn chiếm khá cao:
26,2%, so với con số này ở các ông chồng là 16,7%. Cứ 5 cặp vợ chồng thì có 1 cặp
từng trải qua các hình thức bạo lực gia đình nghiêm trọng nhất. Phụ nữ thường là đối
tượng của bạo lực, bởi tỷ lệ này là rất nhỏ, chỉ chiếm có 0,6% phụ nữ đánh chồng so với
3,4% số nam giới đánh vợ. Trong các trường hợp bạo lực gia đình, các cặp vợ chồng
hiếm khi chia sẻ vấn đề của họ với bố mẹ, bạn bè hoặc chính quyền do lo sợ bị mất mặt,
hoặc ngại “vạch áo cho người xem lưng”.
Phụ nữ, 2808,
81%
người già, 317,
9%
nam giới, 52, 1%
trẻ em, 316, 9%
Phụ nữ
người già
trẻ em
nam giới

Một điều mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy là bạo lực gia đình còn có thể làm
tan vỡ, hủy hoại các gia đình. Mặt khác, bạo hành gia đình có tác động, ảnh hưởng rất
lớn đến tâm sinh lý của trẻ thơ khi phải chứng kiến bố mẹ chúng có hành vi bạo lực.
85,4% trong số đó cho thấy có biểu hiện chán nản, lo lắng; 20% cảm thấy sợ hãi; 8,5%
không hiểu nổi bố mẹ mình và 4,2% mất đi sự tôn trọng bố mẹ. Thậm chí hơn 5,5% còn
lại còn muốn chạy trốn hoặc bỏ nhà ra đi. Bên cạnh đó, tỷ lệ bố mẹ phải chia tay nhau do
bạo lực gia đình ngày càng tăng, xảy ra nhiều ở đô thị.
Ở Việt Nam, Theo kết quả điều tra ở 8 tỉnh của Hội Liên Hiệp phụ nữ năm
2008, có 23% số gia đình được hỏi có hành vi bạo hành về thể chất; 30% số gia đình có
hành vi bạo lực về tình dục; 25% số gia đình được hỏi có hành vi bạo lực về tinh thần
trong đó phụ nữ là nạn nhân chiếm 97%. Bạo lực gia đình tác động và ảnh hưởng
nghiêm trọng tới gia đình - hạt nhân bền vững của xã hội. Bạo lực gia đình đã làm nhiều
gia đình tan nát, ly dị, ly thân…Theo số liệu điều tra của Trung tâm Nghiên cứu Giới và
Phát triển, bạo lực gia đình đã làm cho gia đình tan nát chiếm 49,7%. Thống kê của
TAND tối cao cũng cho chúng ta thấy hậu quả nghiêm trọng của bạo lực gia đình: năm
1998 có 55.419 vụ ly hôn, trong đó 28.686 vụ bạo lực, chiếm 52%, năm 1999 có 52.774
vụ ly hôn, trong đó 29.751 vụ bạo lực, chiếm 56%; năm 2000 có 51.361 vụ ly hôn, trong
đó 32.164 vụ bạo lực, chiếm 62%; trung bình trong 5 năm từ 2000 đến 2005 cả nước có
352.000 vụ ly hôn thì có tới 39.730 vụ ly hôn do bạo lực gia đình (chiếm 53,1%).
Bạo lực gia đình ở Việt Nam cũng làm gia tăng số trẻ em vi phạm pháp luật. Số
liệu thống kê của Viện KSND tối cao 2008 cho thấy 71% trẻ vị thành niên phạm pháp là
do không được quan tâm chăm sóc đúng mức. Nguyên nhân phạm tội của trẻ vị thành
niên xuất phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn, 49% phàn nàn về cách đối
xử của bố mẹ. Theo số liệu điều tra 2.209 học viên các trường giáo dưỡng, có tới
49,81% trong số này sống trong cảnh bị đối xử hà khắc, thô bạo, độc ác của bố mẹ. Số
em bị bố đánh chiếm 23% (gấp 6 lần mẹ đánh); bị dì ghẻ, bố dượng đánh chiếm 20,3%.
2.NGUYÊN NHÂN VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾ BLGD
Nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình phải kể đến nguyên nhân chính đó là
chồng nghiện rượu (chiếm 91,11%). Rượu không chỉ độc cho gan, phổi mà còn rất độc
đối với hệ thần kinh trung ương, làm huỷ hoại tế bào não, làm biến đổi tư cách con

người. Người say rượu không ý thức được hành vi của mình. Những người say rượu
thường gây bạo lực đối với các thành viên trong gia đình. Những người nghiện rượu, say
rượu gây bạo lực gia đình là quá rõ, song thực tế ở không ít gia đình, có những người
chồng, người con trai không phải say rượu mà lại mượn rượu để gây bạo lực gia đình.
Nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình tiếp theo là do kinh tế quá khó khăn (chiếm
85,71%). Không thể coi nghèo đói là yếu tố gây ra bạo lực gia đình, bởi vì có nhiều cặp
vợ chồng quanh năm nghèo đói nhưng vẫn sống hoà thuận, hạnh phúc. Tuy nhiên, kinh
tế quá khó khăn, sự nghèo đói và bạo lực gia đình là 2 mặt của một vấn đề. Trong nhiều
trường hợp do sự nghèo đói nên đã không đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của các thành
viên trong gia đình (ăn, ở, học hành, đi lại ). Những khó khăn vất vả trong việc kiếm
tiền đè nặng lên cuộc sống gia đình, gây nên sự bực dọc khiến cho các mối quan hệ trong
gia đình luôn căng thẳng, gieo mầm cho bạo lực gia đình. Sự nghèo đói làm nảy sinh bạo
lực gia đình thì ngược lại, chính bạo lực gia đình lại tăng thêm sự nghèo đói. Sự căng
thẳng thường xuyên trong gia đình gây sức ép nặng nề làm các thành viên gia đình
38.5
35.4
27.9
61.5
64.6
72.1
0
20
40
60
80
100
120
V ợ hơ n chồng B ằng nhau Chồng hơ n vợ
S o s ánh thu nhập của vợ - c hồng
K hông c ó bạo lự c

Có bạo lự c
không thể yên tâm lao động, sản xuất, học tập. Nhiều người chồng vũ phu còn đập phá
đồ đạc làm tổn hại đến kinh tế gia đình.
Hình 4 : Một số nguyên nhân
Nghiên cứu còn chỉ ra nguyên nhân chồng mắc các TNXH (chiếm 84,61%) cũng
là nguyên nhân chính gây bạo lực gia đình. Khi thành viên gia đình chơi cờ bạc, số đề,
nghiện trích ma tuý, mại dâm thì gia đình đó không thể tránh khỏi bạo lực vì của cải
trong nhà cứ "đội nón ra đi", nghiện ma tuý làm con người mất hết nhân tính, sẵn sàng
gây bạo lực với các thành viên gia đình để thoả mãn cơn thèm khát ma tuý.
Có một nguyên nhân quan trọng nữa thuộc về người vợ đó là người vợ cố chấp,
thách thức chồng (chiếm 82,25%), trong lúc người chồng nóng giận thay vì sự nín nhịn,
bình tĩnh, dịu dàng để chồng nguôi ngoai cơn nóng giận thì chị em lại nói nhiều, dùng từ
ngữ khó nghe, thâm chí còn thách thức chồng đánh mình. Đây là điểm rất hạn chế của
người phụ nữ, người vợ, đã tiếp tay cho bạo lực gia đình.
Ngoài ra nghiên cứu còn chỉ ra các nguyên nhân khác như ngoại tình, xã hội chưa
lên án mạnh mẽ đối với bạo lực gia đình, người vợ dấu không cho mọi người biết mình
bị bạo lực gia đình vì " Xấu chàng, hổ ai"v.v….
Hình 5 : So sánh nguyên nhân từ khía cạnh thua nhập của vợ và chồng
chồng nghiện
rượu , 91.11
kinh tế quá khó
khăn , 85.71
chồng mắc các
TNXH , 84.61
vợ cố chấp, thách
thức chồng ,
82.25
chồng nghiện rượu
kinh tế quá khó khăn
chồng mắc các TNXH

vợ cố chấp, thách thức
chồng
Series1, Gây
chấn thương
giảm sức khỏe,
76.81, 54%
Series1, suy
nhược thần
kinh, 65.42,
46%
Gây chấn thương giảm
sức khỏe
suy nhược thần kinh
Xét tương quan giữa chênh lệch thu nhập vợ - chồng và mức độ mâu thuẫn
trong gia đình, kết quả thu được là: ở những gia đình vợ có thu nhập cao hơn
chồng thì thường xảy ra mâu thuẫn hơn. Ở mức độ ”thỉnh thoảng”, tỷ lệ có mâu
thuẫn ở gia đình mà vợ thu nhập hơn chồng là 29%, tỷ lệ này ở gia đình mà chồng
có thu nhập cao hơn là 18,5%. Khi hai vợ chồng có thu nhập bằng nhau, tỷ lệ gia
đình ”không bao giờ” có mâu thuẫn chiếm tới 56,1% trong khi đó, ở những hộ mà
vợ có thu nhập cao hơn, tỷ lệ này giảm xuống còn khoảng 42%.
Tương tự trường hợp mâu thuẫn gia đình, tỷ lệ xảy ra BLGĐ cũng đi theo chiều
hướng như vậy. Ở những gia đình có tình trạng thu nhập của vợ cao hơn, tỷ lệ xảy
ra BLGĐ cũng cao hơn (chiếm 38,5%), trong khi ở trường hợp chồng có thu nhập
cao hơn thì tỷ lệ này chỉ chiếm khoảng 28%
Điều này chỉ có thể giải thích do xuất phát từ tâm lý cho rằng người có ưu thế về
kinh tế sẽ là người có quyền quyết định mọi việc. Bởi vậy, nếu người vợ có thu
nhập cao hơn chồng thì quyền lực của người chồng trong gia đình có nguy cơ bị
lung lay. BLGĐ chính là cách để họ bảo vệ vị trí của mình trong gia đình, uy
quyền của mình đối với vợ con.
3. HẬU QUẢ CỦA BẠO LỰC GIA ĐÌNH

Một nghiên cứu về bạo lực ở TP Thái Bình cho thấy rằng :
Hình 6 :Hậu quả đối với vật chất và tinh thần
Bạo lực gia đình gây hậu quả về cả thể chất và tinh thần. Trước hết bạo lực gia đình gây
chấn thương, giảm sức khỏe đối với nạn nhân (chiếm 76,81%), gây suy nhược thần kinh
(chiếm 65,42%). Bạo lực gia đình tổn hại sức khoẻ của nạn nhân là quá rõ, sự căng
thẳng, lo lắng, suy nghĩ dẫn đến mất ngủ, thần kinh bị suy nhược và đau đớn do chấn
thương gây ra thì sự suy xụp về sức khoẻ là lẽ đương nhiên, trầm trọng hơn bạo lực còn
có thể gây án mạng
Làm hư hỏng
con cái ,
72.64
Ảnh hưởng
đến hình
thành nhân
cách, 77.64
Làm hư hỏng con cái
Ảnh hưởng đến hình
thành nhân cách
Hình 7: Bạo lực gia đình tác động đến trẻ em
Các hậu quả khác của bạo lực gia đình cũng được kết quả nghiên cứu chỉ ra đó là làm
hư hỏng con cái (chiếm 72,64%); ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách trẻ em
(chiếm77,64%). Sống trong một gia đình thường xuyên xẩy ra bạo lực, trẻ em luôn cảm
thấy buồn chán, lo lắng và sợ hãi, thậm chí có trẻ em muốn bỏ nhà ra đi, dễ xa vào các tệ
nạn xã hội, xa lánh cha mẹ và không còn kính trọng cha mẹ nữa. Những điều nêu trên
ảnh hưởng xấu đến phát triển nhân cách của trẻ, những trẻ em này sẽ rất khó khăn vươn
lên trong cuộc sống, học tập và trưởng thành. Nghiên cứu còn chỉ ra rằng, khi bạo lực
gia đình không được chấm dứt thì sự tan vỡ hạnh phúc gia đình (chiếm 71,67%) là điều
khó tránh khỏi. Do bạo lực gia đình gây hậu quả về sức khoẻ, tính mạng như đã phân
tích ở trên nên ít ai có thể sống mãi trong một gia đình luôn có bạo lực, do vậy giải pháp
lựa chọn của các gia đình này là ly hôn. Thực tế nhiều vụ ly hôn, sự thiệt thòi thường về

phía người vợ và những đứa con….
Theo một nghiên cứu khác tại Đà Nẵng cho biết :
Hậu quả đối với phụ nữ
Cũng theo trung tâm giám định pháp y thành phố Đà Nẵng, trong 4 năm (2002 - 2005)
có 1.680 phụ nữ và trẻ em bị bạo hành đến giám định pháp y, trong đó có 190 trường
hợp bị chồng đánh (chiếm 13,31%). Theo báo cáo của Uỷ ban Dân số, Gia đình và trẻ
em thành phố Đà Nẵng, hiện nay nạn nhân của nạn bạo hành trong gia đình có 90% là
nữ giới. Trong số đó,45% bị chồng đánh đập, gần 80% bị sỉ nhục, đe doạ, hơn 70% bị bỏ
mặc,không quan tâm, gần 10% bị chồng cấm đoán tham gia các hoạt động xã hội và gần
20% bị chồng bắt ép mang, phá thai theo ý muốn.
Hậu quả đối với trẻ em
Những đứa trẻ ở trong gia đình thường xuyên có cảnh bạo lực sẽ có các di chứng như là
nhiễu tâm lý và trầm cảm, sự gây hấn, sự sợ hãi, mất ngủ, thiếu tự tin, thất vọng. Theo số
liệu của Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em, 80% các em bỏ nhà đi lang thang hoặc phạm
pháp do cha mẹ mâu thuẫn. Các em khi bỏ nhà đi sẽ phải chịu những thiệt thòi như bị
bóc lột sức lao động, bị xua đuổi, không có chỗ ở ổn định, bị đánh đập hay đau ốm
không ai chăm sóc và có thể bị lạm dụng tình dục, bị nhiễm các thói hư tật xấu.
III. CÁC NHÂN TỐ CÓ QUAN HỆ ĐẾN BẠO LỰC GIA ĐÌNH
Nhằm tìm giải pháp hữu hiệu nhằm giảm tình trạng bạo lực, đề tài tiến hành
nghiên cứu nhân tố có liên quan đến bạo lực gia đình, cụ thể gồm những nhân tố sau
Khi xét một nghiên cứu của ĐH Đà Nẵng cho biết
1 Tôn giáo và tình trạng bạo lực gia đình
Bảng 1:
Mối quan hệ giữa tôn giáo và các hành vi bạo lực gia đình thường
Tôn giáo
Đạo Phật
Thiên Chúa
giáo
Không theo tôn
giáo

Số vụ
Số vụ
Số vụ
Đánh đấm, tát tai
Chửi mắng, nhục mạ, xỉ vả
Cấm tham gia các hoạt động xã
hội, quan hệ với mọi người
Ngăn chặn sử dụng các biện pháp
tránh thai
Bắt mang, phá thai theo ý muốn
Phớt lờ, thờ ơ, vô trách nhiệm
Kiểm soát thu nhập,chi tiêu
Không đóng góp vào kinh tế gia
đình
17
31
18
13
3
12
18
27
3
5
3
1
0
3
2
8

83
94
72
27
20
82
76
95
Tiến hành kiểm định Khi bình phương với H0: Các hành vi bạo lực không có mối tương
quan đối với tôn giáo. H1: Các hành vi bạo lực có mối tương quan đối với tôn giáo
Bảng2: Kiểm định Khi bình phương
Hành vi bạo lực thường xảy
ra
Value
Chi-square
18,534
df
4
Phớt lờ, thờ ơ, vô trách
nhiệm
Sig
0,005
So sánh các giá trị Sig của các hành vi với 0,05 chỉ có hành vi “Phớt lờ, thờ ơ, vô
trách nhiệm” có giá trị Sig = 0,005<0,05 còn lại tất cả các hành vi khác đều có giá trị Sig
> 0,05 => Bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Từ đó có thể kết luận rằng các
hành vi bạo lực thường xảy ra trong gia đình không có mối tương quan đối với tôn giáo
2 Nghề nghiệp và tình trạng bạo lực
Bảng 3:
Mối quan hệ giữa nghề nghiệp và các hành vi bạo lực gia đình thường gặp
Nghề nghiệp

Công nhân
viên chức
Lực lượng
vũ trang
Buôn bán
dịch vụ
Lao
động phổ
thông
Thất
nghiệp
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Đánh đấm, tát tai
Chửi mắng, nhục mạ, xỉ vả
Cấm tham gia các hoạt động xã
hội, quan hệ với mọi người
Ngăn chặn sử dụng các biện
pháp tránh thai
Bắt mang, phá thai theo ý muốn
Phớt lờ, thờ ơ, vô trách nhiệm
Kiểm soát thu nhập, chi tiêu
Không đóng góp vào kinh tế gia
đình
9
8
9

4
4
10
10
12
15
13
12
3
1
12
12
16
23
27
21
3
1
23
16
27
30
51
31
25
3
34
37
46
26

32
22
7
14
18
23
33
Qua kiểm định tính độc lập Khi bình phương thấy rằng các giá trị Sig của tất cả các hành
vi bạo lực thường xảy ra trong gia đình đều nhỏ hơn 0,05. Vì vậy bác bỏ giả thuyết H0,
chấp nhận giả thuyết H1 có nghĩa là các hành vi bạo lực gia đình xảy ra hoàn toàn có
mối tương quan với từng loại nghề nghiệp khác nhau.
3 Trình độ học vấn và tình trạng bạo lực
Qua kiểm định tính độc lập Khi bình phương thấy rằng các giá trị Sig của tất cả
các hành vi bạo lực thường xảy ra trong gia đình đều nhỏ hơn 0,05. Vì vậy bác bỏ giả
thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1 có nghĩa là các hành vi bạo lực gia đình xảy ra hoàn
toàn có mối tương quan với từng loại nghề nghiệp
23.1
0
7.7
38.5
30.8
0
1.8
8.8
40.4
32.5
9.2
7.5
3
1.3

31.6
43.9
16.5
3.8
4.6
0
38.5
46.8
7.3
2.8
00
71.4
0
28.6
0
00
30
60
10
0
3.1
3.8
36.5
39.3
12.6
4.7
0%
20%
40%
60%

80%
100%

chữ
Tiểu
học
THCS PTTH TC/CĐ Đại
học
Tổng
Khác
Không nhớ rõ
Năm một vài lần
Tháng một vài lần
Tuần một vài lần
Hàng ngày
Bảng 4:
Mối quan hệ giữa trình độ học vấn và các hành vi bạo lực gia đình thường gặ
Hình 8: Mối tương quan giữa trình độ học vấn và bạo hành
Khi xem xét tương quan giữa trình độ học vấn và mức độ mâu thuẫn trong gia
đình, kết quả thu được là: trong tổng số những người được hỏi thì có 23,1% đối tượng
mù chữ khẳng định gia đình hàng ngày có xảy ra mâu thuẫn; chỉ có 1,8% đối tượng tiểu
học; 3% đối tượng THCS và 4,6% đôi tượng PTTH cho rằng gia đình họ hàng ngày có
xảy ra mâu thuẫn. Trong số các đối tượng được phỏng vấn có trình độ học vấn từ cao
đẳng trở lên khẳng định gia đình họ không xảy ra mâu thuẫn ở mức độ thường xuyên
(hàng ngày và tuần một vài lần). Các đối tượng được hỏi khẳng định gia đình họ mỗi
tháng có một vài lần xảy ra mâu thuẫn là tương đối nhiều. Có đến 71,4% đối tượng học
vấn trung cấp/cao đẳng; 40,4% đối tượng học vấn tiểu học; 38,5% đối tượng học vấn
Trình độ học vấn
Cấp 1- 2
Cấp 3

Trung cấp
Cao đẳng,
Đại học
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Đánh đấm, tát tai
Chửi mắng, nhục mạ, xỉ vả
Cấm tham gia các hoạt động xã
hội, quan hệ với mọi người Ngăn
chặn sử dụng các biện pháp tránh
thai
Bắt mang, phá thai theo ý muốn
Phớt lờ, thờ ơ, vô trách nhiệm
Kiểm soát thu nhập,chi tiêu
Không đóng góp vào kinh tế gia
đình
87
96
61
31
18
65
70
87
15
23
12
7

4
16
13
22
2
4
5
2
0
6
3
8
9
11
28
2
1
18
18
21
PTTH và 31,6% đối tượng THCS khi được hỏi đều cho rằng gia đình họ mỗi tháng có
một vài lần xảy ra mâu thuẫn. Tỷ lệ này ở nhóm đối tượng có học vấn đại học trở lên tuy
thấp hơn (30%) nhưng cũng là một con số rất đáng quan tâm
4 Lối sống và hoàn cảnh sống và bạo lực
- Qua nghiên cứu mối quan hệ này, đề tài có thể kết luận sau: Do người chồng mắc vào
các tệ nạn xã hội, chiếm 60 – 70%; do những bất đồng, khó khăn trong kinh tế gia đình,
việc nuôi dạy con cái, hay tình dục.
- Tâm lý gia trưởng của nam giới
- Do tư tưởng gia trưởng, phong kiến, trọng nam khinh nữ của người chồng, chiếm 72%.
Thái độ của phụ nữ và bạo lực

- Do tâm lý của người phụ nữ là cam chịu, che giấu cho chồng, không dám nói lên sự
thật
.5 Môi trường quản lý xã hội và bạo lực
Việc phòng chống bạo lực gia đình hiện chưa được quan tâm đúng mức, các biện
pháp được thể hiện trong bảng 2-6 chủ yếu chỉ mang tính giáo dục, không có hiệu quả
răn đe mạnh đối với người vi phạm
Hệ thống pháp luật hiện hành ở nước ta trong việc phòng chống bạo lực gia đình đủ cơ
sở pháp lý nhưng thiếu khả năng thực thi do những nguyên nhân
CHƯƠNG 4 : NỘI DUNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
I. BẠO LỰC THỂ CHẤT :
1. Về mặt sức khỏe và tính mạng :
Bạo lực thể chất gây ảnh hưởng hết sức to lớn đến sức khỏe và tính mạng của nạn
nhân bị bạo lực. Bị đánh đập hành hạ về mặt thể xác khiến cho nạn nhân suy giảm sức
khỏe mất khả năng lao động và có thể dẫn đến một số bệnh như tâm thần cũng như một
số thì tìm cách tự tử
Theo kết quả cuộc điều tra của Uỷ ban các vấn đề xã hội thực hiện tại 10 huyện
thuộc 8 tỉnh trên cả nước vào năm 2006, kết quả thu được cho thấy 10% số vụ bạo hành
gia đình dẫn đến những thương tích nặng gây tàn phế. giảm khả năng lao động, tử vong
do đánh đập, đầu độc hoặc sử dụng hung khí.•
Và chỉ trong thời gian ngắn từ tháng 3 năm 2006 đến tháng 7 năm 2006 , trung
tâm tư vấn chăm sóc sức khỏe bênh viện Đa khoa Đức Giang đã tiếp gần 1.300 phụ nữ
đến kêu cứu trong tình trạng mặt mũi bị thâm tím , gãy tay, chân , răng , xương sườn do
chồng hoặc gia đình nhà chồng đánh đập
Theo báo cáo của sở y tế An Giang :
Trong năm 2005 trong số 1319 bệnh nhân là nạn nhân của bạo lực gia đình thì có
1011 người có hành vi tự tự và 30 người trong số đó đã chết
Theo báo cáo của bộ công an thì cứ 2 -3 ngày có một vụ chết người liên quan đến bạo
lực gia đình . Khảo sát trong số 1113 người bị chết do 115 người chết vì bạo lực gia đình
:39 vụ chồng giết vợ và 8 vụ vợ giết chồng ( Ks: 23.8.06)
Theo thống kê của trung tâm tư vấn sức khỏe phụ nữ thì trong số phụ nữ là nạn

nhân của bạo lực gia đình tìm đến đây thì có tới 50 % bị thương tích ở vùng đầu . 10 %
là chấn thương xương và 40 % là đa chấn thương và có những nạn nhân khi đến trung
tâm thì tử vong
2. Tình trạng gia đình tan vỡ
Ngày nay bạo lực gia đình khiến ngày càng nhiều có nhieeuf tỷ lệ ly hôn nhiều hơn trong
các gia đình trẻ . Nhất là những phụ nữ ở những thành phố lớn hoặc những vùng có khu
vực dân trí cao thường chọn cho mình cách giải thoát khỏi sự đánh đạp dã man bằng
cách chọn phương án li hôn
Theo số liệu bộ công An năn 2004 . Số vụ ly hôn có chiều hướng tăng nhanh Năm 1991.
có 22.634 vụ ly hôn thì 8 năm sau 2000 thì có 30.000 vụ . Trên 70 % trong đó là bạo lực
gia đình
Theo tòa án nhân dân tối cao kể từ năm 2000 đến năm 2005 . Tòa án xử lí 186.954 vụ ly
hôn do bạo lực gia đình trong đó đánh đập ngược đãi chiếm tới 53. 1% trong tất cả các
nguyên nhân
Cũng theo số liệu của tòa án nhân dân tối cao chỉ tính riêng đến năm 2005 số vụ
việc ly hôn bạo lực gia đình chếm tới 60 % /.
Trên đìa bàn Hà Nội theo thống kê của Tòa án nhân trong 8 năm thực hiện luật hôn
nhân gia đình thì có tới 7372 vụ ly hôm xuất phát từ nguyên nhân do những người phụ
nữ bị đánh đập hành hạ. Phụ nữ đứng đơn ly hôn do chông ngược đãi phụ bac chiếm từ
70 -80 %
Như trường hợp của chị Thu H ( Thị trấn Thiên Tôn. Hoa Lư )
Nhìn bề ngoài ai cũng bảo chị tốt số. Chồng là một kĩ sư xây dựng, vừa đẹp trai vừa có
tài và kiếm được rất nhiều tiền , Nhưng à trong ngôi nhà cao tầng đó chị H đang phải
chịu cảnh” địa ngục trần gian “ . Chị kể : “ Anh ta cầm tôi bước chân ra khỏi nhà , cả đi
chơ cũng là việc của mẹ chồng. Tôi tốt nghiệp đại học nhưng anh ta không cho tôi đi làm
. phải ở nhà phục dịch anh ta .
Có lân đánh bạo ra ngoài xiin việc , khi về nhà hàng tháng tròi anh ta không them nhìn
mặt ., không ăn , không ngủ cùng, không đưa tiền cho tôi , . Việc hành hạ tinh thần khiến
tối không thể chịu nổi . một lần tôi liều về nhà mẹ đẻ , ngờ đâu chống túm tóc đánh cho
một trận tơi bời Rồi chin H thổn thức “ Nếu chấp nhận ly hôn tôi sẽ gặp nhiều khó khăn

về kinh tế . Tôi đau khổ đủ rồi . Dù không còn gì tôi cũng quyết định ly hôn và sẽ cố
gắng nuôi cọn một mình “
Còn rất nhiều. Tình trạng bạo hành vẫn cứ diễn ra và từ đó tình trạng ly hôn cũng đang
ngày càng gia tăng
3. Sự thay đổi vị thế giữa nam và nữ
Ngày nay thực tế nhiều trường hợp phụ nư kiếm được nhiều tiến hơn chồng nhưng vẫn
bị chồng đánh . Sở dĩ có tình trạng như vậy là có các ông chồng cảm thấy địa vị trụ cột
làm chủ gia đình của mình đang bị đe dọa
Theo nghiên cứu của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thì những trường hợp này
chiềm 72% trong só những vụ xung đột gia đình
Bạo lực thể chất không chỉ là hình thức , hành vi đánh đập gây thương tích cho
nạn nhân mà bên cành đó còn có những hành thức khác như cấm đoán việc ăn . ngủ ,
mặc quần áo. khiến sức khỏe nạn nhân bị suy kiện thậm chí dẫn đến tử vong
Tại Bắc Giang , chồng ép vợ cởi quần áo, nhốt vào chuồng chó và gọi mẹ vợ sang
chứng kiến .Khiến cho nạn nhân không chỉ chịu hành hạ về mặt thể xác mà gây ra nhưng
đau đớn về mặt tinh thần
* Trẻ em cũng là đối tượng phải chiuk những bạo lực về thể chất như bắt nhịn ăn
bị phạt đánh đòn chỉ vì điểm kém hoặc không nghe lời cha mẹ . Hoặc cha mẹ có những
hành động suy nghĩ sai lếch trong việc giáo dục con cái lạm dụng quyền cha mẹ để thực
hiện những hành vi tàn bạo đối với con cái mình
Hiện nay dư luận đang bức xúc vụ người mẹ cắt ngon tay đưa con 3 tuổi của
mình chỉ vì em đã nghịch tờ tiền, cắt ngón chân em vì em trèo lên cây bị ngã
Những người già trong gia đình cũng là đối tượng bị bạo lực về thể chất. Việc con
cái đánh cha mẹ thậm chí bỏ đói , không chăm sóc khi cha mẹ ốm đau bệnh tật , đói rét
cũng là hành vi gây tổn hại nặng nề về sức khỏe cũng như tinh thần
Một nghiên cứu khác năm 2009 của hoạt động của “Chương trình chung giữa
Chính phủ và Liên hiệp quốc về Bình đẳng giới” (MDGF-1694). Cho thấy rằng : có
32% phụ nữ đã từng kết hôn cho biết họ đã phải hứng chịu bạo lực thể xác trong đời
và 6% đã từng trải qua bạo lực thể xác trong vòng 12 tháng trở lại đây .
Tỷ lệ bị bạo lực hiện thời và trong đời trên cả nước lần lượt là 34% và 9%. Trong

khi có sự dao động giữa các khu vực, sự dao động được ghi nhận rõ nét giữa các
nhóm dân tộc thiểu số khác nhau với tỷ lệ bị bạo lực trong đời dao động từ 8% đến
38%.
Tổng hợp kết quả của ba loại bạo lực chính do chồng gây ra trong phần phát hiện
cho thấy rằng hơn một nửa (58%) số phụ nữ cho biết đã từng phải hứng chịu ít nhất
một trong số ba loại bạo lực kể trên: thể xác, tình dục và tinh thần. Tỷ lệ bị một trong
ba loại bạo lực kể trên trong vòng 12 tháng trở lại đây là 27%
II. BẠO LỰC TINH THẦN
Theo những số liệu gần đây cho thấy 80% phụ nữ bị bạo lực vì tinh thần . Bà
Nguyền Thị Minh Hạnh , chuyên viên tại viện chiến lược và chính sách y tế cho hay ,
trên thế giới , bạo lực gia đình là nguyên nhân thứ 10 gây tử vong cho phụ nữ ở lứa tuổi
15-49 . Ở Việt Nam có 15 % phụ nữ bị bạo lực gia đình về thể chất và 80 % tinh thần và
20 % bị bạo lực tình dục
Bạo lực gia đình làm người phụ nữ có nguy cơ tử tự , tăng khả năng lây nhiễm
HIV, gây thương tích và tàn tật , sảy thai , lạm dụng rượu và gây trầm cảm . Nhiều tổ
chức xã hội nhất định , bạo lực gia đình là nguyên nhân khá phổ biến gây hậu quả khá
nghiêm trọng đối với sức khỏe người phụ nữ . nhưng tác hạu của nó vẫn chưa được bản
thân nạn nhân ý thức một cách đầy đủ .
Với tư tưởng cam chịu còn không ít những phụ nữ đã sống hết đời làm vợ , làm
mẹ trong sợ hãi và đau đớn mà không tìm được chỗ dựa về tinh thần cũng như sự bảo vệ
của pháp luật ,. Về vấn đề này , từ năm 2000 đến nay . Hội liên hiệp phụ nữ Hà Nội đã
phối hợp với văn phòng trợ giúp pháp lí – Sở Tư Pháp xây dựng tổ chức trợ giúp pháp lú
cho chị em phụ nữ bạo hành trong gia đình với những người cần trợ giúp đặc biệt , văn
phòng sẽ mời đại diện luật sư bảo vệ quyền lợi cho chị em trước Tòa Án
Theo thống kê của công ty ứng dụng khoa học tâm lý Hồn Việt, sáu tháng đầu năm 2007
có 82% trong số 702 khách hàng nữ đến tư vấn là nạn nhân của bạo hành. Trong đó chỉ
có 28% là bạo hành hành vi, còn lại 72% là bạo hành tinh thần. Trong số các nạn nhân
bạo hành, 87% vợ doanh nhân bị bạo hành tinh thần; vợ trí thức 87%, vợ nhà quản lý
91%. "Bạo hành tinh thần là một thực trạng rất đáng lo ngại, phát sinh từ áp lực của cuộc
sống công nghiệp. Cảm xúc của một trí thức khi bị tổn thương về tinh thần mạnh mẽ hơn

người khác", bà Nguyễn Thị Tâm, giám đốc Hồn Việt, cho biết.
Hình 9: Bạo hành của người vợ với người chồng trong gia đình tri thức
vợ doanh nhân bị
bạo hành tinh thần,
87, 33%
vợ trí thức , 87,
33%
vợ nhà quản lý , 91,
34%
vợ doanh nhân bị bạo hành tinh
thần
vợ trí thức
vợ nhà quản lý
Đời tư của con người vì thế không chỉ là chuyện riêng của mỗi cá nhân. Trong
đời tư của con người hiện đại, một trong những vấn nạn mang tính thời đại là tình trạng
bạo lực gia đình. Chúng ta đều biết rằng, có một nghìn lẻ một cách biểu hiện tình yêu đối
với nhau. Thế nhưng, có lẽ còn tồn tại nhiều hơn thế những cách hành hạ nhau, không
chỉ bằng hành động "vũ phu" hay "vũ phụ" mà cả bằng những lời nói "ngọt lọt tới
xương", đặc biệt ở trong môi trường gia đình
Đau thể xác lắm khi còn dễ khắc phục hơn nhiều so với những nỗi đau tinh thần.
Không ngẫu nhiên mà trong "Báo cáo nghiên cứu, khảo sát bạo lực gia đình tại một số
tỉnh, thành phố" năm 2006 của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội vừa được công bố
trong tháng 3 này tại ''Hội nghị đại biểu về các vấn đề dân cử về phòng, chống bạo lực
gia đình và phòng chống HIV/AIDS'', tổ chức ở Vĩnh Long, vấn đề bạo lực tinh thần đã
được chú trọng cao độ, nhất là tình trạng "khẩu chiến".
Trong những cuộc điều tra xã hội đã được tiến hành, đa số người dân đều cho
rằng bạo hành tinh thần là chửi mắng, sử dụng ngôn ngữ để xúc phạm nhân phẩm người
khác. Thực ra thì bạo hành tinh thần còn bộc lộ ở nhiều hành vi khác như: cấm đoán, cô
lập không cho tiếp xúc với người khác; quấy rối và gây áp lực một cách thường xuyên
về tâm lý

Có trường hợp con cháu không ngần ngại bỏ rơi ông, bà, cha, mẹ; xua đuổi, hành
hạ, gây sức ép tâm lý để đạt được lợi ích về kinh tế. Nhiều trường hợp, người chồng do
ghen tuông đã tổ chức cho người theo dõi vợ, không cho vợ giao tiếp với bạn bè, đồng
nghiệp
Có tới 42% số người được hỏi ý kiến đã xếp việc mắng chửi là bạo lực gia đình ở
hình thức tinh thần. Và ở nước ta hiện nay có tới 25% số gia đình đang thường xuyên
xảy ra các hiện tượng bạo lực về tinh thần.
Một điều cần lưu ý là phụ nữ thường xuyên gây nên những vụ bạo lực tinh thần
hơn là nam giới! Xã hội càng phát triển, con người càng thu nhận được nhiều tri thức thì
các loại hình bạo lực tinh thần theo kiểu ''trí thức'' và ''im lặng là vàng'' lại càng tác oai
tác quái, nguy hiểm và khó đấu tranh hơn nhiều.
Cũng theo tài liệu được công bố trong cuộc hội thảo ở Vĩnh Long, thông thường
không dễ phát hiện để xử lý các tình huống bạo lực tinh thần vì chúng không để lại "tang
chứng, vật chứng" trên cơ thể nạn nhân, lại có chiều hướng gia tăng khi kinh tế - xã hội
phát triển. Những vết thương lòng do các hiện tượng bạo lực tinh thần gây nên lại sâu
sắc và lâu dài hơn những cơn đau thể xác. Chúng đặc biệt gây nên những ảnh hưởng
mạnh mẽ tới chấn động đời sống tình cảm tâm lý của các nạn nhân.
Một điều đáng buồn là ở nước ta, các vụ bạo lực tinh thần lại hay xảy ra ở các gia
đình trí thức, cả vợ lẫn chồng đều bằng cấp đầy mình và có thu nhập cao hơn mức trung
bình rất nhiều lần. Trong những gia đình như thế, lắm khi các thành viên vì sĩ diện hay
vì sợ mất những phúc lộc đang sở hữu, đã ngậm bồ hòn làm ngọt và "diễn" với xung
quanh như thể họ đang rất hạnh phúc.
Mọi sự chỉ bị đổ bể khi đã "quá mù ra mưa" và khi ấy, không thể làm gì cứu vãn
được hạnh phúc gia đình của họ Biết nhiều chữ chưa chắc đã là sự đảm bảo cho một
cách xử sự có văn hóa và nhân văn đối với người khác, nhất là những người thân thiết
như vợ hay người yêu Một điều đáng lo ngại là bạo lực tinh thần không chỉ gây tổn
thương lên nạn nhân trực tiếp mà còn ảnh hưởng đến các thành viên khác trong gia đình,
đặc biệt là trẻ em. Những tiểu xảo trong bạo lực tinh thần có thể càng ngày càng làm
không khí trong gia đình trở nên căng thẳng hơn và sẽ khiến tâm lý trẻ không ổn định.
Rốt cục là việc này có thể gây lệch lạc về nhận thức cũng như sự phát triển thể chất của

trẻ
Một Cuộc khảo sát được Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội đưa ra tại
cuộc Hội thảo “Vai trò của nữ nghị sĩ trong việc thúc đẩy các biện pháp phòng, chống
bạo lực gia đình” vừa diễn ra tại TP.Huế.
Theo Uỷ ban này, qua phỏng vấn 2.000 người tại 8 tỉnh, TP, cho thấy hàng năm
có hơn 1/4 gia đình có hành vi bạo hành tinh thần.
Tại ĐBSCL, số bệnh nhân là nạn nhân hoặc có dấu hiệu là nạn nhân bạo lực gia đình đã
điều trị hàng năm là gần 1500 người/năm, trong số đó gần 1200 người tự tử và 300
người bị giết. Ở Tây Nguyên có tỷ lệ gần 800/50 người tự tử/ bị giết.
Đặc biệt, trong tổng số hơn 1000 vụ giết người hàng năm, số liên quan đến bạo
lực gia đình chiếm 14%.
III.BẠO LỰC TÌNH DỤC
Nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho thấy, cứ 4 phụ nữ có một
người phải chịu bạo lực tình dục ít nhất một lần trong đời, do chính chồng hay bạn tình
của mình gây ra.
Với quan niệm của người Á Đông, nhất là người Việt Nam không ai mang
chuyện "phòng the" ra trước ánh sáng, nhưng kết quả nghiên cứu của WHO đưa ra khiến
chúng ta phải suy nghĩ.
Theo UNICEF, cứ 100 trẻ em được hỏi thì có 3 em đã bị hiếp dâm hoặc chịu hình
thức xâm hại khác khi còn nhỏ và 2 trong số đó bị ép buộc 1 lần hoặc vài lần. Trong số
những trường hợp này, cứ 100 người thì có hơn 9 người gây ra hành vi lạm dụng tình
dục được xác định là họ hàng, hơn 1 là cha, cha dượng hoặc người tình của mẹ.
Cũng theo số liệu điều tra, bạo lực tình dục chiếm khoảng 10-69% tổng số các vụ bạo
lực gia đình.
Theo số liệu của Bộ Y tế, 1/3 người nhiễm HIV đang là phụ nữ và tình dục -
BLTD được xác định là ngòi nổ gây ra căn bệnh AIDS đối với phụ nữ, bởi có đến 70%
số ca lây nhiễm qua con đường này. BLTD làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV của phụ nữ
qua việc cưỡng ép tình dục, không cho phụ nữ sử dụng bao cao su, chồng đi quan hệ
“bên ngoài” rồi về lây bệnh cho vợ, cố tình lây cho bạn đời để cùng chết!
Trong quá trình đi khảo sát, hiếm hoi lắm các chuyên gia nghiên cứu mới có thể

nhận được một tâm sự như thế này: “Những lúc ốm đau, người mệt em không đáp ứng
được, anh ấy cứ đánh chửi cả đêm”. Một cán bộ tư pháp xã cho biết: “Chuyện này (quan
hệ tình dục - QHTD) thầm kín lắm, mấy ai nói ra. Có chị em kể, đi làm về chỉ muốn ăn
cơm xong rồi nằm nghỉ, mà chồng cứ đòi quan hệ, vợ không đồng ý thì chồng xông ra
bóp cổ, đánh đập ngay trong giường, có ai mà biết được !? Chỉ rất ít người nói về việc
này. Họ tâm sự như là kể về một lần thoát chết vì gặp may, chứ cũng không hiểu đấy là
bị bạo lực”.
Cam chịu là mầm hoạ :
Câu chuyện sau đây của chị Hương (53 tuổi) khiến nhiều người không dám tin.
Hai lần chị có thai, là hai lần chồng chị bắt bỏ. Lý do, anh không tin đó là c on của mình.
Một mình chị phải tới bệnh viện giải quyết trong nỗi đau về thể xác, cộng thêm sự ấm
ức, tủi nhục. Vợ chồng chị lấy nhau vì tình yêu đấy chứ. Vì yêu, chị cưỡng lại lời cha mẹ
lấy một người “tỉnh lẻ”, vì yêu chị sẵn sàng xách đồ đi thuê nhà ở với người yêu. Có lẽ
vì nghèo, nên anh luôn cảm thấy bức bối trước cảnh thiên hạ sắm sanh cái nọ cái kia. Có
lẽ vì nghèo nên anh tưởng: lấy chị anh sẽ có tất cả. Chị bảo, nếu chăm chỉ, sớm muộn gì
cũng sẽ có của ăn của để thôi. Nhưng anh chỉ muốn giàu nhanh, giàu mà không phải cố
gắng gì. Bất mãn, anh quay sang dằn hắt vợ con. Tệ hơn, anh trở nên ghen bóng gió với
những người bạn trai cũ của chị.
Bố chị mất được 3 ngày, anh không cần biết tâm trạng của chị thế nào, uống rượu
vào rồi ép! Chị có đứa thứ hai. Hồi đó, chị cũng định bỏ đi, nhưng nghĩ đang có tang
nên lại thôi “Nhục nhã lắm. Anh ta nói, làm chuyện đó với tôi không bằng gái làng
chơi. Anh muốn đi đâu cũng được, về nhà để tôi yên, thì tôi vẫn chấp nhận. Nhưng,
không yêu, anh ta vẫn làm chuyện ấy khi muốn”. Chị Hương kể trong lưng tròng nước
mắt.
Theo kết quả khảo sát Tổng cục Thống kê công bố 29/11. Cuộc khảo sát được
tiến hành với gần 5.000 người phụ nữ, có độ tuổi từ 18 đến 60, tại 63 tỉnh thành trên cả
nước, thời gian từ tháng 12/2009 tới tháng 1/2010, đối với các hành vi bạo lực thể xác,
bạo lực tình dục, bạo lực tinh thần và kinh tế do người chồng gây ra.
Theo đó, có 58% phụ nữ có chồng đã từng phải hứng chịu bạo lực gia đình, chủ
yếu do người chồng gây ra. Cụ thể, có 32% phụ nữ phải chịu bạo lực thể xác; 10% phụ

nữ phải chịu bạo lực tình dục; 54% phụ nữ phải hứng chịu bạo lực tinh thần, và 9% đối
với hình thức bạo lực kinh tế.
Đặc biệt, những người phụ nữ mang thai cũng có nguy cơ bị bạo hành do người
chồng gây ra.
"Trong đó, chỉ có 1% phụ nữ bị bạo hành tìm đến các sự trợ giúp của xã hội, đây là một
tỉ lệ quá ít.", ông Nguyễn Phong, Vụ trưởng vụ Thống kê Xã hội, Môi trường – Tổng cục
Thống kê đánh giá.
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
Trung
du và
miền
Bắc
Trung
Bộ và
Đông
Nam Bộ
Việt
Nam
Thể xác Tình dục Thể xác hoặc tình dục
CHƯƠNG 5:
1. NHẬN THỨC , QUAN ĐIỂM , THÁI ĐỘ VÀ CAN THIỆP ĐỐI VỚI BLGD

1.1. Đánh giá nhận thức, quan điểm, thái độ của cán bộ cơ sở và hội viên phụ nữ.
Hầu hết các ý kiến đều cho rằng đánh, đá, tát (chiếm 81,93%) và chửi mắmg xúc
phạm (chiếm 72,11%) là bạo lực gia đình còn các hành vi khác như bỏ mặc không quan
tâm, cấm đoán, cưỡng ép quan hệ tình dục không có nhiều ý kiến cho đó là hành vi bạo
lực gia đình.
Như vậy nhận thức về hành vi bạo lực gia đình của cán bộ, hội viên phụ nữ vẫn tập
trung chủ yếu vào 2 loại hành vi đó là bạo lực về thể chất và bạo lực tinh thần còn các
dạng bạo lực tinh thần khác (Bỏ mặc, cấm đoán, ngoại tình, ép quan hệ tình dục ) chưa
được nhận thức đầy đủ và một quan điểm hết sức sai lầm khác cho rằng chồng có quyền
đánh vợ vẫn còn trong nhận thức của trên 9% phụ nữ.
Kết quả nghiên cứu còn chỉ ra rằng những người gây bạo lực gia đình thường có
học vấn thấp, kém hiểu biết và người gây mâu thuẫn đầu tiên là người chồng, nạn nhân
của bạo lực gia đình chủ yếu là người vợ và con cái.
Thực tế cũng có phụ nữ gây bạo lực với chồng song chủ yếu là trì triết, chửi mắng,
thiếu sự quan tâm, rất ít trường hợp đánh chồng. Những gia đình mà phụ nữ gây bạo lực
lại với chồng là do người chồng gia trưởng, trọng nam, khinh nữ, xúc phạm vợ và gia
đình nhà vợ, chồng đòi hỏi phải cung phụng, đáp ứng những nhu cầu vô lý.
Khi người vợ bị đánh chưa gây thương tích thì chị em im lặng (chiếm 52,96%),
kết quả nghiên cứu này thể hiện sự nhẫn chịu của chị em. Chị em sợ nói ra sẽ bị chồng
đánh đau thêm và xấu hổ với mọi người, chỉ khi bị đánh gây thương tích nhiều chị em
mới giám nói ra ( tỷ lệ "im lặng" giảm xuống còn 28,3%)
Phân tích còn cho thấy đối với các hành vi bạo lực khác như bị chửi thậm tệ, cấm
không cho tham gia công tác xã hội, bắt phải đẻ con trai, cấm không cho dùng biện pháp
tránh thai, buộc phải quan hệ tình dục thì phần lớn chị em "tranh luận" (chiếm tỷ lệ trên
50%), điều này cho thấy rằng sự "tranh luận" và thuyết phục chồng nhiều khi cũng cần
thiết để cho chồng hiểu mình hơn, để tranh luận đi đến thống nhất thì chị em cần phải có
kỹ năng và phương pháp nhất định.
Nghiên cứu về sự can thiệp đối với bạo lực gia đình cho thấy Phụ nữ bị bạo lực tìm
đến sự can thiệp đầu tiên là gia đình của mình (chiếm 45%); tìm đến sự can thiệp của
hàng xóm (chiếm 55,3%) ; tìm đến sự can thiệp của HPN (chiếm 37,41%) ; số còn lại là

tìm đến sự can thiệp của bạn bè, người có uy tín. Khi tâm sự riêng với phụ nữ bị bạo lực
(đánh, chửi), có 55% các chị nói khi bị đánh thì chạy sang nhà hàng xóm, 32,5% về nhà
mẹ đẻ, 12,5% ngồi khóc.
Lý do chị em tìm đến sự can thiệp, giúp đỡ là mong chồng được phân tích phải trái,
đúng sai, giúp cho chồng hiểu để thay đổi hành vi từ đó giữ vững hạnh phúc gia đình.
Phụ nữ bị bạo lực tìm đến sự giúp đỡ của chính quyền, tổ hòa giải khi hạnh phúc
gia đình có nguy cơ bị tan vỡ (chiếm 35,93% người được phỏng vấn trả lời); khi bị bạo
lực nhiều lần ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe (chiếm 43,98% người được phỏng vấn
trả lời).
Phụ nữ bị bạo lực đưa vụ việc ra tòa khi không còn hy vọng cứu vãn hạnh phúc
gia đình và có ý định ly hôn (chiếm 59,26 người được phỏng vấn trả lời). Khi hạnh phúc
gia đình còn có thể hàn gắn được, vì danh dự gia đình, vì con cái thì vụ việc không được
đưa ra tòa.
Về thái độ của cộng đồng đối với vấn đề bạo lực gia đình thì hầu hết là chê trách
cả vợ và chồng, song có tới 60,83% lên án người chồng, 16,57% lên án người vợ nhưng
điều đáng để chúng ta lưu tâm là có 13,94% người được hỏi cho rằng đó là vấn đề riêng
của các gia đình nên không quan tâm và nếu có quan tâm nhiều khi lại bị gây phiền
phức.
4.2. Sự can thiệp của chính quyền, đoàn thể, gia đình, cộng đồng đối với các vụ bạo
lực gia đình.
Vai trò của các tổ chức, cá nhân nêu trên là rất quan trọng đặc biệt là : Công an xã,
tổ hoà giải, trưởng thôn, cán bộ các đoàn thể, những người có uy tín trong cộng đồng
dân cư và gia đình 2 bên đều có vai trò rất quan trọng trong việc can thiệp các vụ bạo lực
gia đình, cần tổ chức như thế nào để phát huy tốt vai trò của các tổ chức, cá nhân trên
trong công tác phòng chống bạo lực gia đình, kết quả nghiên cứu này rất có ý nghĩa
trong việc đề ra giải pháp phòng chống bạo lực gia đình ở cơ sở.
Để giảm nạn bạo lực gia đình thì việc ngăn ngừa bạo lực xẩy ra là chính, do đó
công tác tuyên truyền tư vấn cho các thành viên gia đình để giảm đi những bất đồng,
mâu thuẫn và hành vi bạo lực ở mức độ chưa trầm trọng là rất cần thiết. Tuy nhiên từ kết
quả nghiên cứu thì sự can thiệp của các tổ chức nêu trên chủ yếu đối với các vụ bạo lực

gia đình nghiêm trọng như đánh đập gây thương tích, làm mất trật tự an ninh, có nguy cơ
tan vỡ hạnh phúc gia đình (chiếm75,74% ý kiến trả lời), chỉ có 7,22% ý kiến cho là các
tổ chức trên can thiệp đối với tất cả các hành vi bạo lực gia đình.
Hình 10: Quan điểm của người được hỏi với sự can thiệp của tổ chức
nguy cơ tan vỡ
hạnh phúc gia
đình , 75.74, 91%
là các tổ chức
trên can thiệp đối
với tất cả các
hành vi bạo lực
gia đình. , 7.22,
9%
nguy cơ tan vỡ hạnh phúc
gia đình
là các tổ chức trên can thiệp
đối với tất cả các hành vi
bạo lực gia đình.
Từ kết quả nghiên cứu trên cho chúng ta thấy, việc ngăn ngừa bạo lực gia đình từ
lúc manh nha, việc tư vấn cho các gia đình để giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn còn
chưa được quan tâm can thiệp kịp thời. Đây là điểm yếu, điểm hạn chế trong công tác
phòng chống bạo lực gia đình hiện nay.
Việc đưa các vụ bạo lực gia đình ra phân tích, phê bình góp ý ở các cuộc họp
thôn, đoàn thể hầu như chưa có địa phương nào làm được. Có 67,59% ý kiến cho rằng
có đưa vấn đề BLGĐ vào trong cuộc họp thôn, đoàn thể song chủ yếu là tuyên truyền
các nội dung: Các mối quan hệ trong gia đình; giáo dục con em trong gia đình; xây dựng
GĐ khu dân cư thôn làng VH; tổ chức cuộc sống gia đình.
Nghiên cứu về những việc làm cụ thể trong việc can thiệp bạo lực gia đình của các
tổ chức, cá nhân nêu trên cho thấy họ trực tiếp can ngăn, phân tích hòa giải, tuyên truyền
giáo dục pháp luật và khi cần thiết phải lập biên bản, xử phạt người gây ra bạo lực. Khi

được các tổ chức, cá nhân trên can thiệp thì bạo lực gia đình sẽ giảm đi (chiếm 94,63% ý
kiến ). Ngoài ra các quy định như Gia đình văn hóa, hương ước của thôn, quy định của
dòng họ cũng góp phần đáng kể vào việc làm hạn chế bạo lực gia đình Nghiên cứu về
”Giải pháp phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ” của tác giả Lê Thị Thu
(PCT Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, 2000) cho thấy: theo trả lời của bản thân những
người trong gia đình có xảy ra bạo lực thì gia đình hai bên, bà con hàng xóm là những
người can thiệp giúp đỡ nhiều nhất khi xảy ra vụ việc chồng đánh vợ. Trong khi đó, tỷ lệ
những vụ BLGĐ được chính quyền và công an can thiệp là rất thấp
Hình 11 : Sự can thiệp với BLGĐ
Gia đình nhà
chồng, 49.5, 29%
Ga đình nhà vợ,
17.7, 10%
Hội phụ nữ, 36.3,
21%
Bà con lối xóm,
62.7, 37%
Ban hòa giải, 4.5,
3%
Gia đình nhà chồng Ga đình nhà vợ Hội phụ nữ Bà con lối xóm Ban hòa giải
Theo khảo sát của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2001), tỷ lệ các ý kiến coi
các hành vi bạo lực có thể chấp nhận được trong gia đình như sau: mắng chửi (45% nữ
và 45,1% nam); bỏ lửng (9,9% nữ và 11,7% nam); tát (7,9% nữ và 8,4% nam); xỉ vả
(4,6% nữ và 6,2% nam); cấm đoán quan hệ với mọi người (3,8% nữ và 4,3% nam). Mặc
dù chiếm tỷ lệ thấp hơn nhưng tỷ lệ nam nữ chấp nhận đấm đá hay đánh bằng roi, gậy và
cưỡng ép quan hệ tình dục vẫn còn. Cũng trong cuộc khảo sát này, một tỷ lệ khá lớn ý
kiến chấp nhận các hành vi bạo lực của chồng đối với vợ trong cuộc sống gia đình (đánh
hoặc mắng chửi) nếu vợ mắc một số lỗi được đưa ra:
Chồng có thể đánh vợ khi vợ có hành vi: ”quan hệ lăng nhăng” (30,7%); ”cờ bạc/nghiện
hút” (22%); ”hỗn láo” (15%)

Chồng có thể mắng chửi (không đánh) khi người vợ: ”làm trái ý chồng” (51,3%);
”không chăm sóc chồng con” (50,2%); ”hỗn láo với chồng” (46,0%); ăn tiêu hoang phí”
(44,6%); ”lười biếng” (40,1%); ”không biết làm ăn” (32,8%)
2 .GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH :
1. Phối hợp với các cấp, các ngành, đoàn thể tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận
thức của cán bộ, nhân dân, phụ nữ về gia đình và phòng chống bạo lực gia đình.
Các cấp, các ngành tăng cường hoạt động tuyên truyền về giới và bình đẳng giới, kiến
thức phòng chống bạo lực gia đình, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật hôn nhân
gia đình và các chuyên đề liên quan đến phòng chống bạo lực gia đình với nhiều nội
dung và hình thức phong phú: Tập huấn chuyên đề, hội thảo, toạ đàm, sinh hoạt nhóm,
sinh hoạt câu lạc bộ, giao lưu văn nghệ, mít tinh và tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng.
Tích cực tổ chức tập huấn kiến thức, kỹ năng về phòng chống bạo lực gia đình
cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của các Ban, ngành, đoàn thể các cấp, đặc
biệt là báo cáo viên, tuyên truyền viên của Hội phụ nữ.
Lồng ghép tuyên truyền phòng chống bạo lực gia đình vào các hoạt động của các
Ban ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội, tuyên truyền tại các cuộc họp tổ dân phố, họp
thôn, xóm, các đoàn thể.
2. Tăng cường các biện pháp giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng chống
bạo lực gia đình tại các địa phương.
Nắm bắt kịp thời các vụ bạo lực gia đình xẩy ra tại địa phương để can thiệp kịp
thời, có thể thiết lập "đường dây nóng" để nhận tin báo về các vụ bạo lực gia đình. Đẩy
mạnh hoạt động tư vấn, hòa giải của các tổ hòa giải, các tuyên truyền viên, cộng tác
viên. Tăng cường tổ chức hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý ở cơ sở.
3. Xây dựng các địa chỉ tin cậy, trung tâm cứu giúp phụ nữ bị bạo lực gia đình. Địa
chỉ tin cậy ở cộng đồng là cá nhân, tổ chức có uy tín, có khả năng và tự nguyện giúp đỡ
nạn nhân bạo lực gia đình tại cộng đồng dân cư. Tùy theo điều kiện và khả năng thực tế,
địa chỉ tin cậy tiếp nhận nạn nhân bạo lực gia đình, hỗ trợ, tư vấn, bố trí nơi tạm lánh
cho nạn nhân và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền biết. Các trung tâm cứu giúp phụ
nữ bị bạo lực tại địa phương nằm trong trạm y tế xã, phường, thị trấn hoặc các bệnh viện

của địa phương. Giao trách nhiệm cho các cán bộ y tế có trách nhiệm chữa trị vết thương
cho nạn nhân, các cán bộ y tế không được có thái độ kỳ thị, gây khó khăn đối với nạn
nhân bị bạo lực gia đình.
4. Áp dụng các biện pháp giáo dục tại cộng đồng dân cư. tổ chức họp, phê bình, góp
ý đối tượng gây bạo lực gia đình. Đối tượng bị góp ý, phê bình là người từ đủ 16 tuổi
trở lên có hành vi bạo lực gia đình đã được tổ hòa giải ở cơ sở hòa giải nhiều lần mà vẫn
tiếp tục có hành vi bạo lực. Xử lý nghiêm người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng
chống bạo lực gia đình, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành
chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo luật định.
5. Tích cực triển khai hiệu quả các phong trào thi đua tại địa phương.Tiếp tục vận
động hội viên phụ nữ và nhân dân thực hiện tốt các phong trào thi đua như "Phong trào
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư"; "Phong trào phụ nữ tích
cực học tập. lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc", đưa vấn đề phòng chống
bạo lực gia đình vào Quy ước, Hương ước của địa phương. Tuyên truyền vận động hội
viên phụ tích cực xây dựng gia đình đạt 4 chuẩn mực no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc và gia đình văn hóa. Trong triển khai thực hiện cần tổ chức sơ tổng kết, đánh giá
kết quả, tuyên truyền khen thưởng biểu dương kịp thời những tập thể, cá nhân điển hình.

×