Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

đánh giá những yếu tố tác động đến sự lây nhiễm hiv-aids trong ngành thủy sản tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.87 KB, 25 trang )



Y te sk
SỰ CHÊNH LỆCH VỀ THU NHẬP, CHI TIÊU ẢNH HƯỞNG ĐẾN
SỨC KHỎE GIỮA THÀNH THỊ, NÔNG THÔN
A. MỞ ĐẦU.
Nước ta trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Với sự phát
triển kinh tế khá cao năm 2005 tỉ trọng GDP của cả nước đạt 7,6% cao hơn
chỉ tiêu đề ra là 7,5%. Đồng thời, là một trong những nước có tỉ lệ người biết
chữ khá cao khoảng 95% dân số và các dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe ngày
càng hiện đại. Đất nước đang có sự chuyển mình từ cơ cấu ngành nông
nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Hàng loạt các công ty, xí nghiệp đã và
đang được xây dựng nhằm nâng cao thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, một
vấn đề lớn cần sự quan tâm của Nhà nước, đó là, một sự chênh lệch lớn về
tất cả các lĩnh vực như thu nhập: nông thôn thu nhập từ nông nghiệp chiếm
132,0 nghìn VNĐ (2006) trong khi dịch vụ chỉ có 20,6 nghìn VNĐ (2006),
còn thành thị dịch vụ chiếm 116 nghìn VNĐ (2006). Nổi lên là, sự chênh
lệch về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, y tế sức khỏe. Sức khỏe là một yếu
tố rất quan trọng nó quyết định phần lớn mọi việc trong đời sống của con
người, có sức khỏe là có tất cả, “sức khỏe là vàng”. Y tế sức khỏe là một
trạng thái vật lý và tinh thần miễn nhiễm được một cách tương đối sự lo lắng
và đau đớn, giúp các nhân loại hoạt động một cách tốt nhất có thể trong môi
trường sống của mình. Có sức khỏe là có khả năng thích ứng với môi trường
hoặc chịu đựng được trước những biến đổi của nó. (Rene Dubos). Còn theo
tổ chức y tế thế giới sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất,
tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng không có bệnh
hay thương tật. Tuy nhiên, do không đủ điều kiện, cơ hội cộng với mức
lương thấp nên sự chênh lệch về chăm sóc sức khỏe giữa vùng nông thôn
thành thị ngày rõ rệt. Năm 2006 số lượt người đi khám ở các bệnh viện nội
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.



1


trú chiếm cao hơn thành thị, trong khi đó thành thị số lượt người đi khám ở
bệnh viện tư và khám ở những nơi có chất lượng uy tín cao hơn nông thôn.
Vì vậy, xã hội càng phát triển thì sự chênh lệch này càng lớn. Đây là,
vấn đề hết sức lo ngại trong xã hội. Ngày nay, rất cần sự quan tâm của Nhà
nước để có thể đưa ra giải pháp giải quyết tình trạng này, sự bất bình đẳng
về sức khỏe giữa nông thôn và thành thị giảm đi. Nếu mức thu nhập, chi tiêu
không còn chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, từ đó tác động tốt đến đời
sống, giúp cho người dân có tinh thần làm việc tốt và nâng cao tất cả các loại
dịch vụ chăm sóc sức khỏe ngày càng tốt ở cả nông thôn và thành thị. Đã có
rất nhiều nhà khoa học quan tâm đến vấn đề này và rất nhiều môn học quan
tâm như xã hội học, xã hội học y tế…Để hiểu rõ về nó và để hiểu thêm về sự
chênh lệch này có đúng với giả thuyết về bất bình đẳng sức khỏe : Người có
thu nhập cao ở thành thị thì chi tiêu nhiều hơn người nghèo nông thôn, đồng
thời các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt. Vì vậy, tôi chọn đối tượng của bài
viết là nông thôn và thành thị thông qua các chỉ tiêu chí về thu nhập, chi tiêu
và sức khỏe để từ đó thấy được sự chênh lệch.
B. NỘI DUNG.
1. SỰ CHÊNH LỆCH THU NHẬP CHI TIÊU VÀ SỨC KHỎE Ở NÔNG
THÔN THÀNH THỊ.
a. Thu nhập nông thôn thành thị những ảnh hưởng của nó đến sức khỏe
Trong năm 2003 – 2004 thu nhập bình quân một người một tháng
trong cả nước theo giá hiện hành đạt 484,4 nghìn VNĐ, tăng 36% so với
năm 2001- 2002. Trong thời kì năm 2002- 2004 thu nhập bình quân theo giá
hiện hành tăng bình quân 16,6%, cao hơn mức tăng trung bình cả nước 6%
mỗi năm so với thời kỳ 1999 – 2001 và mức tăng 8,8% mỗi năm của thời kì
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan

SV : Lê Thị Thanh.

2


1996 – 1999. Nguyên nhân, chủ yếu làm tăng thu nhập của năm 2002 - 2003
là do: Đầu năm 2003, Nhà nước điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu của khu
vực hành chính sự nghiệp và của khu vực doanh nghiệp Nhà nước, do đó
tiền công thuê nhà ngoài xã hội cũng tăng, sản lượng cây trồng, đặc biệt là
sản lượng lúa, giá nông sản, giá thủy sản như thóc, cà phê, cao su, điều…so
với thời kì trước.
Nếu loại trừ yếu tố tăng giá, thì thu nhập thực tế thời kỳ 2002 – 2004
tăng 11%, cao hơn mức tăng thu nhập tực tế 5,8% của thời kỳ 1999 - 2001
và mức tăng 4,6% củ thời kỳ 1996 – 1999.
Trong tổng thu nhập, tỷ trọng thu từ tiền lương, tiền công chiếm
32,7% thu từ nông lâm nghiệp thủ sản, 27,2% thu từ công nghiệp, xây dựng
chiếm 5,8%, dịch vụ 16,6%, các khoản khác 17,6%. Cơ cấu thu nhập năm
2003 - 2004 tuy chưa có chuyển biến đáng kể so với năm 2001- 2002 nhưng
các khoản thu về tiền lương tiền công về dịch vụ và thu khác tăng khá hơn
các năm trước, cơ cấu thu từ nông lâm nghiệp có xu hướng giảm dần.
Lao động việc làm
Lao động và việc làm là hai yếu tố quyết định thu nhập và chính là
nguyên nhân dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo giữa người dân ở nông thôn và
thành thị.
Trong giai đoạn 1993 – 2002 dân số hoạt động kinh tế nói chung có
xu hướng tăng. Riêng nhóm tuổi từ 15 – 19 có xu hướng giảm, đây là một xu
hướng tốt do nhóm tuổi 15 – 19 đang ở tuổi đi học, năm 1993 tỷ lệ này là
78,5% đến năm 1998 còn 64% (giảm 14,6%). Ở thành thị nông thôn theo
Khảo Sát Mức Sống 2004, dân số hoạt động kinh tế thuộc nhóm tuổi từ 15 –
19 chiếm 5,08% trong tổng dân số hoạt động kinh tế của thành thị (2001

-2002 tỷ trọng này là 6,8%), ở nhóm tuổi 20 – 24 là 11,15% (năm 2001 –
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

3


2002 là 11,3%) thấp hơn khu vực nông thôn với con số tương ứng là 13,1%
(năm 2001 – 2002 là 14,3%) và 13,8% (năm 2001 – 2002 là 13,3%). Tình
trạng việc làm có thể phản ánh qua số giờ làm việc. Theo Khảo Sát Mức
Sống năm 2004 số giờ làm việc trung bình một người / tuần của dân số từ 15
tuổi trở lên làm công việc chính trong 12 tháng qua là 31,8 giờ (năm 2001 –
2002 là 32,7 giờ), trong đó: ngành nông lâm thủy sản là 24,64 giờ (năm
2001- 2002 là 28,2 giờ), ngành phi nông lâm thủy sản là 40,77 giờ (2001 -
2002 là 40 giờ). Số giờ làm việc trung bình của thành thị cao hơn nông thôn
là 13 giờ (2001 -2002 là 10 giờ). Điều này đáng quan tâm qua số liệu nêu
trên là tình trạng thiếu việc làm đang diễn ra ở khu vực nông thôn, cộng
thêm yếu tố bình quân thu nhập của thành thị cao hơn nông thôn khoảng
44% theo điều tra mức sống 1998. Đây là, một trong những nguyên nhân
dẫn đến thu nhập thấp ở nông thôn và sự phân hóa giàu nghèo.
- Thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng chia theo thành thị nông
thôn.
Những năm qua, do công nghiệp hóa hiện – hiện đại hóa cùng với sự
quan tâm và đầu tư của Nhà nước thu nhập của nước ta nâng cao: từ năm
2002 đến 2006 mức thu nhập bình quân một nhân khẩu cả nước tăng lên gần
gấp đôi (1,7 lần, từ 356,1 nghìn VNĐ lên 635,5 nghìn VNĐ). Nhưng có sự
khác biệt khá cao giữa nông thôn và thành thị. Nông thôn có mức tăng cao
hơn thành thị, thậm chí cao hơn mức tăng cả nước. Đây chính là, biểu hiện
tốt cho việc đảm bảo mức sống của người dân, khi họ có thu nhập cao họ sẽ
có điều kiện tốt hơn cho việc chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, qua số liệu cho

thấy, mặc dù giai đoạn này mức thu nhập của người dân nông thôn tăng lên
nhanh hơn thành thị, nhưng vẫn chưa cao bằng thu nhập ở thành thị. Năm
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

4


2006, ở thành thị có thu nhập cao gấp 2 lần so với vùng nông thôn. Thành
thị, mỗi năm một nhân khẩu bình quân một tháng năm 2006 là 1058,4 nghìn
VNĐ, trong khi nông thôn tăng cao hơn nhưng chỉ đạt 505,7 nghìn VNĐ,
chưa bằng mức thu nhập năm 2002 ở thành thị: 622,1 nghìn VNĐ. Như vậy,
ở thành thị có mức thu cao hơn ở nông thôn là do quá trình công nghiệp hóa
– hiện đại hóa phát triển cùng với thu hút vốn đầu tư các dự án ngày càng
nhiều, ở nông thôn nguồn vốn thiếu, lao động tay nghề kém, chủ yếu làm
việc theo vụ mùa. Dẫn đến, mức thu nhập khác nhau, mức thu nhập ở nông
thôn vẫn còn thấp bình quân thu nhập một nhân khẩu cao nhất cũng chỉ đạt
500 nghìn VNĐ, trong khi mức chi cho mỗi một người con đi học xa nhà lên
tới gần một triệu đồng, bên cạnh đó còn rất nhiều vấn đề khác cần phải chi
tiêu. Bởi vậy, họ không thể đảm bảo tốt cuộc sống của mình. Chính điều
này, đã có người quan niệm chữa bệnh theo các phương pháp cổ truyền, hay
các phương pháp mê tín dị đoan vừa đở tốn kém vừa không phải đi xa.
Thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng…
Việt Nam là một nước nông nghiệp, nhưng gần đây việc chuyển dịch
cơ cấu có sự thay đổi. Cơ cấu nông lâm nghiệp có xu hướng giảm, tăng tỷ
trọng thu nhập công nghiệp – dịch vụ. Tuy nhiên, là nước xuất phát từ nền
nông nghiệp, nên tỷ trọng trong lĩnh vực nông nghiệp còn khá cao. Đặc biệt,
nông thôn hiện nay, theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê cho thấy
tổng thu nhập của cả nước ngày càng tăng, trong đó thu nhập nông nghiệp
cao nhất so với tất cả các lĩnh vực còn lại, thu nhập bình quân một nhân

khẩu năm 2002 trong lĩnh vực nông nghiệp là 82,4 nghìn VNĐ, dịch vụ : 1,6
nghìn VNĐ. Trong năm 2004, 2006 mức độ thu nhập bình quân nhân khẩu
một năm tiếp tục tăng lên 132,0 nghìn VNĐ. Các lĩnh vực khác cũng tăng
nhanh, xây dựng tăng 2,1 nghìn VNĐ ( từ 1,6 nghìn VNĐ năm 2002 lên 3,5
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

5


nghìn VNĐ năm 2006). Đặc biệt, giữa nông thôn thành thị có sự chênh lệch
khá lớn, thành thị thu nhập trong lĩnh vực nông nghiệp thấp hơn rất nhiều so
với nông thôn, năm 2002 là 28,0 nghìn VNĐ trong khi ở nông thôn là 99,0
nghìn VNĐ ( gấp 3,5 lần thành thị). Những năm gần đây, nhờ sự chú trọng
của Nhà nước thu nhập trong lĩnh vực nông nghiệp đang có xu hướng thu
hẹp. Nếu trước kia, trong lĩnh vực nông nghiệp giữa nông thôn và thành
chênh lệch nhau là 3,5 nghìn VNĐ thì bây giờ giảm xuống 3,14 nghìn VNĐ.
Mặt khác ở thành thị thu trong lĩnh vực dịch vụ rất cao và tăng lên nhanh từ
66,4 nghìn VNĐ (2002) lên 90,0 nghìn VNĐ và 116 nghìn VNĐ (2006).
Theo Tổng cục Thống kê có thể khẳng định nước ta đang có sự chuyển dịch
theo hướng sang lĩnh vực công nghiệp dịch vụ. Tuy nhiên, nguồn thu của
nông thôn vẫn chủ yếu là từ nông nghiệp, trong khi thu nhập từ nông nghiệp
chủ yếu theo mùa vụ, thường xuyên chụi ảnh hưởng từ các cơn bão, lũ lụt
hạn hán …nên mức thu của họ là rất thấp so với thành thị. Ví dụ, năm 2002
mức lương thu nhập bình quân một nhân khẩu / tháng là 274,4 nghìn VNĐ,
nông thôn chỉ có 98,1 nghìn VNĐ cho tới năm 2006, tỷ lệ chênh lệch này
còn khá cao nông thôn là 140,0 nghìn VNĐ, thành thị là 453,8 nghìn VNĐ
(gấp 3,24 lần nông thôn).
Tóm lại, do thu nhập bình quân đầu người tăng, nên đời sống các tầng
lớp dân cư ở các vùng tiếp tục được cải thiện số hộ nghèo giảm. Tỷ lệ hộ

nghèo lương thực thực phẩm cả nước là từ 13,3% (1999) giảm xuống 9,9%
năm 2001- 2002 và 6,9% năm 2003- 2004, tỷ lệ nghèo của cả nông thôn và
thành thị giảm. Tuy nhiên, vẫn còn mức chênh lệch quá cao về thu nhập giữa
nông thôn và thành thị, kéo theo rất nhiều vấn đề khác nhau. Khi nguồn thu
nhập thấp, tương ứng với nó là vấn đề chi tiêu cũng không cao. Nguồn lương
thấp khiến người dân không thể đầu tư cho các dịch vụ y tế chăm sóc sức
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

6


khỏe tốt được, thậm chí một số hộ nông dân nông thôn còn tự cắt thuốc cho
mình.
b. Chi tiêu giữa nông thôn thành thị những ảnh hưởng của nó đến sức khỏe
Tính chung cả nước chi tiêu theo giá hiện hành năm 2003 – 2004
bình quân đầu người / tháng khoảng 397 nghìn VNĐ, tăng 35% so với năm
2001 – 2002, chi tiêu cho đời sống đạt 360 nghìn VNĐ tăng 33,8 % so với
năm 2001- 2002 bình quân mỗi năm tăng cao hơn thời kỳ 1999 – 2002 (+
10,3%) và thời kỳ 1996 -1999 ( +6,6%). Nếu tính theo giá so sánh, năm
2002 là gốc, chi tiêu thực tế 2003 – 2004 đạt 319 nghìn VNĐ và tăng 10,5%
so với 2001 – 2002.
Tổng chi tiêu bình quân một nhân khẩu một tháng
Nhìn chung, cả nước là 293,7 nghìn VNĐ (2002) tăng lên 396,8 nghìn
VNĐ (2004), (tăng lên 103,1 nghìn VNĐ), năm 2006 tăng lên tới 511,4
nghìn VNĐ. Vậy chi tiêu bình quân một nhân khẩu trong cả nước tăng lên.
Nhưng giữa nông thôn thành thị có sự khác biệt, thành thị là 497,5 nghìn
VNĐ (2002) tăng lên 652,0 nghìn VNĐ (2004) và tăng lên 811,8 nghìn
VNĐ, trong giai đoạn 2002 – 2004 tăng lên 154,5 nghìn VNĐ, giai đoạn sau
tăng nhanh hơn 2004 - 2006 tăng lên 314,3 nghìn VNĐ, còn nông thôn năm

2002 chi tiêu chỉ có 232,1 nghìn VNĐ và tăng lên 401,7 nghìn VNĐ (2006).
Qua số liệu thống kê: Nông thôn tăng nhanh hơn thành thị, nhưng so với
thành thị thì chi tiêu cho đời sống của nông thôn còn quá thấp, đặc biệt trong
thời kì hiện nay – giá cả leo thang mức chi của người dân nông thôn gặp
nhiều khó khăn. Như vậy, bữa ăn của họ không thể đảm bảo tốt, đủ lượng
calo theo tiêu chuẩn bình quân của một người là trên 2000 calo / ngày.
Trong khi thành thị mức tăng không bằng nông thôn nhưng việc chi tiêu của
năm 2006 gấp 2 lần nông thôn. Vậy với mức chi tiêu bình quân một nhân
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

7


khẩu / tháng của thành thị cao hơn nông thôn họ có thể đảm bảo tốt về khẩu
phần ăn cũng như đảm bảo tốt về lượng calo trong mỗi bữa ăn, đồng thời
đảm bảo tốt các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Chi tiêu bình quân một nhân khẩu chia theo các khoản
Trong thời kì công nghiệp hóa hiện - đại hóa, mức chi tiêu trong tất cả
các mặt cũng như tất cả các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người dân đều
tăng lên. Cả nước, tổng chi tiêu năm 2002 là 293,7 nghìn VNĐ tăng lên
396,8 nghìn VNĐ (2004), tăng lên 511,4 nghìn VNĐ (2006). Các chi tiêu
đời sống, chi tiêu ăn, uống, hút và các chi tiêu khác cũng tăng lên. Nhưng có
sự khác nhau giữa nông thôn thành thị, thành thị năm 2002 tổng chi tiêu là
497,5 nghìn VNĐ tăng lên 652,0 nghìn VNĐ năm 2004 (tăng 154,5 nghìn
VNĐ gấp 1,3 lần) và cho đến năm 2006 tăng lên 811,8 nghìn VNĐ (tăng
159,8 nghìn VNĐ). Trong đó, chi tiêu đời sống tăng 460,8 nghìn VNĐ năm
2002 lên 738,3 nghìn VNĐ (trong vòng 2 năm chi tiêu cho đời sống ở thành
thị tăng lên 277,5 nghìn VNĐ).
Chi tiêu cho ăn, uống, hút: năm 2003-2004 chi tiêu cho đời sống bình

quân đầu người / tháng khu vực nông thôn đạt 284 nghìn VNĐ, tăng 34,3%,
khu vực thành thị đạt 595 nghìn VNĐ, tăng 29,2% so với 2001-2002 và gấp
2,1 lần khu vực nông thôn. Mức sống tiếp tục có chuyển biến tích cực thông
qua số liệu chi tiêu cho đời sống. Chi cho ăn, uống, hút bình quân một người
/ tháng đạt 193 nghìn VNĐ tăng lên 26,3% so với 2001 – 2002, khu vực
thành thị đạt 291 nghìn VNĐ, khu vực nông thôn đạt 61 nghìn VNĐ. Chi
tiêu cho ăn, uống năm 2004 là 237,6 nghìn VNĐ tăng lên 356,1 nghìn VNĐ
(tăng 118,5 nghìn VNĐ). Đồng thời, có sự khác nhau trong việc mua sắm đồ
dùng, thiết bị giữa nông thôn và thành thị.
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

8


Chi tiêu không phải ăn, uống, hút: Năm 2002 là 223,2 nghìn VNĐ
tăng lên 382,3 nghìn VNĐ năm 2004 và năm 2006 là 382,3 nghìn VNĐ.
Chi tiêu cho nhà ở, tiện nghi, đồ dùng lâu bền: nhà ở, tỉ lệ hộ có nhà
kiên cố là 20,8%, nhà tạm thời và nhà khác là 20,4%. Tỉ lệ nhà kiên cố tăng
từ 17,2% năm 2001 -2002 lên 20,8% năm 2003 -2004, tỉ lệ hộ có nhà tạm
thời và nhà khác giảm nhanh từ 26% năm 1997 – 1998 xuống còn 24,5%
năm 2001 -2002 và 20,4% năm 2003 – 2004. Nguyên nhân giảm xuống là
do địa phương đã hoàn thành nhà tình nghĩa giúp hộ nghèo ở nông thôn.
Diện tích nhà ở được cải thiện ở cả nông thôn và thành thị, bình quân một
người là 12,5 m
2
năm 2001 - 2002 tăng lên 13,2 m
2
năm 2002 -2004, trong
đó khu vực thành thị tăng lên 14,7 m

2
tăng lên 15,8 m
2
các hộ có xu hướng
mua sắm đồ dùng lâu bền ngày càng nhiều. Tỉ lệ hộ có mua sắm đồ dùng lâu
bền từ 32,8% năm 1991 – 2002 đã tăng lên 43,3% năm 2003 - 2004, tỉ lệ hộ
có đồ dùng lâu bền chiếm 96,9% năm 2001 -2002 tăng lên 98,5% năm 2003
– 2004. Tỉ lệ hộ có đồ dùng lâu bền của khu vực nông thôn thành thị đều
tăng. Trị giá đồ dùng lâu bền bình quân một hộ đạt 9,1 triệu đồng năm 2001
– 2002 tăng lên 11,9 triệu đồng năm 2003 - 2004, trong đó hộ thành thị đạt
22,5 triệu đồng, hộ nông thôn đạt 8,2 triệu đồng.
Tỉ lệ hộ có ti vi màu đạt 52,7% năm 2001 – 2002 tăng lên 67,8% năm
2003 – 2004, tỉ lệ hộ có đầu video từ 22,5% tăng lên 32,4%, tỉ lệ hộ có xe
máy từ 32,3% tăng lên 44,3%, tỉ lệ có máy điện thoại từ 10,7% tăng lên
27,3%, tỉ lệ hộ có tủ lạnh, tủ đá từ 10,9% tăng lên 16,4% tương ứng với các
năm trên. Sử dụng hợp vệ sinh và vệ sinh môi trường có tiến bộ đáng kể. Tỷ
lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh làm nguồn nước chính tăng từ 78,1% năm 2001
– 2002 lên 80,7% năm 2003 – 2004, trong đó tỉ lệ hộ dùng nước máy tăng
từ 17,6% lên 19,1%. Tỉ lệ hộ dùng nước giếng, nước ao hồ, nước sông giảm
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

9


từ 18,6% năm 2001 -2002 xuống 15,8% năm 2003 – 2004, trong đó khu vực
nông thôn là 16,8% năm 2001 – 2002.
Tỉ lệ dùng điện lưới quốc gia tăng nhanh từ 86,5% năm 2001 – 2002
lên 93,4% năm 2003 – 2004, trong đó số hộ dùng điện ở nông thôn tăng từ
82,7% năm 2001 – 2002 lên 91,6% năm 2003 – 2004 từ đó thấy rõ sự chênh

lệch giữa nông thôn và thành thị.
Chi phí cho giáo dục bình quân một thành viên hộ đi học trong 12
tháng qua tăng so với năm 2004. Trung bình các hộ gia đình phải chi 1,211
triệu đồng cho một thành viên đang đi học, tăng 47% so với năm 2004. tốc
độ tăng này là 32% năm 2004 so với năm 2002. Các khoản học phí và chi
cho giáo dục khác chiếm tỉ trọng lớn, các hộ gia đình khu vực thành thị chi
cho giáo dục – đào tạo bình quân 2,096 triệu đồng cho một người đi học cao
hơn 2,3 lần so với mức chi bình quân một hộ ở nông thôn.
Như vậy, cả nông thôn và thành thị mức độ chi tiêu cho từng lĩnh vực
đều tăng, nhưng chênh lệch giữa nông thôn và thành thị là khá cao. Mức
sống của người dân thành thị ngày càng được nâng cao, số người được đi
học … cao hơn nông thôn. Tuy nhiên, việc chi tiêu ăn, uống, hút tăng lên lại
là vấn đề cần phải quan tâm. Tỷ lệ người uống, hút gia tăng thì nguy cơ mắc
các bệnh như bệnh lao, bệnh phổi… sẽ tăng nhanh. Không những ảnh hưởng
trực tiếp tới người hút mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe của những người
xung quanh.
Tỉ trọng các khoản chi tiêu theo khoản chi: cả nước từ năm 2002 –
2004 – 2006 tổng chi tiêu tính theo giá trị % có sự thay đổi tăng giảm khác
nhau. Chi tiêu đời sống nói chung giảm từ 91,6% năm 2002 xuống còn
90,0% năm 2006 giảm 1,6%, đồng thời chi tiêu ăn, uống , hút cũng giảm từ
51,9% xuống 47% năm 2006 giảm 4,4%. Tuy nhiên, chi không phải ăn,
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

10


uống, hút và chi khác tính vào chi tiêu lại tăng. Chi không phải ăn, uống, hút
tăng 39,7% năm 2002 lên 42,5% năm 2006 tăng 2,8%, chi khác tính vào chi
tiêu tăng 8,4% năm 2002 tăng lên 10,0% năm 2006 tăng 1,6%. Vì vây, cả

nước có sự thay đổi tỉ trọng các khoản chi tiêu theo khoản chi tăng giảm
không đồng đều, thành thị tỉ trọng chi tiêu đời sống năm 2002 là 92,6% giảm
xuống 91,0% năm 2006 giảm 1,6%. Chi ăn, uống, hút giảm 47,8% (2002)
xuống 43,9% (2006) giảm xuống 3,9%. Chi không phải ăn, uống, hút tăng từ
44,9% (2002) lên 47,1% (2006) tăng lên 2,2%, còn chi khác tính vào chi tiêu
tăng từ 4% (2002), lên 9,1% (2006) tăng lên 1,7%. Song song với thành thị,
ở nông thôn các vấn đề này cũng có sự thay đổi. Chi tiêu đời sống và chi ăn,
uống, hút cũng giảm xuống, chi tiêu đời sống từ 91,0% (2002) giảm xuống
89,3% (2006) giảm xuống 1,7%. Chi ăn, uống, hút giảm 54,6% (2002)
xuống 46,0% (2006) giảm xuống 2,6%. Chi không phải ăn, uống, hút tăng từ
36,4% (2002) lên 39,1% (2004) và tăng lên 39,2% (2006). Vậy trong vòng 4
năm tăng lên 2,7%. Chi khác tính vào chi tiêu tăng 9,0% (2002) lên 9,8%
(2004) tăng lên 0,8%, tăng lên 10,7% (2006) trong 4 năm tăng lên 1,7%.
Như vậy, trong việc so sánh giữa nông thôn và thành thị chi tiêu đời sống
đều giảm nhưng nông thôn giảm nhiều hơn thành thị. Chi tiêu đời sống ở
nông thôn thấp hơn thành thị, trong khi đó lại giảm nhiều hơn ở thành thị.
Từ kết quả khảo sát mức sống của tổng cục thống kê ta có thể khẳng định
mức sống của người dân nông thôn đã thấp còn thấp hơn. Tỷ trọng chi tiêu
cho đời sống trong tổng chi tiêu giảm xuống ở cả nước năm 2002, 2004,
2006 giảm từ 91,6% xuống 90,6% và còn 90,0%, giảm 1,0% (2002 – 2004)
và giảm 1,6% (2004 – 2006). Thành thị giảm 92,6% (2002) xuống 91,3%
(2004) và năm 2006 chỉ còn 91,0% (từ 2002 – 2006 giảm xuống 1,4%).
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

11


Nông thôn giảm từ 91,0% (2002) xuống 90,2% (2004) và đến 2006 là
89,3%. Trong giai đoạn 2002 – 2006 giảm 1,7%.

Cơ cấu chi tiêu cho đời sống: thông qua cơ cấu chi tiêu cho đời sống,
thể hiện sự chênh lệch giữa chi tiêu nông thôn và thành thị. Giai đoạn 2004 –
2006 chi tiêu ở thành thị chủ yếu là do trao đổi và mua bán, nông thôn chủ
yếu là tự túc. Năm 2002 mức chi tiêu do trao đổi mua bán thành thị là 49,5%
nông thôn là 40,9%, tăng 8,6 % so với thành thị, trong khi nông thôn mức
chi cho tự túc khá cao năm 2006 là 15,5 %, thành thị chỉ có 1,8%, tăng
13,7%. Nông thôn chủ yếu là tự cung tự cấp, thành thị chủ yếu do trao đổi
mua bán. Người nông thôn không có điều kiện, thu nhập thấp nên hầu hết
thức ăn chủ yếu của họ là tự túc, mặc dù có bảo đảm hợp vệ sinh nhưng
không đủ chất dinh dưỡng. Thành thị chủ yếu là trao đổi mua bán do có điều
kiện phát triển và thu nhập cao nên họ có thể ăn những thức ăn đủ chất, đảm
bảo tốt về sức khỏe.
Tóm lại, mức chi tiêu đời sống của nông thôn thấp hơn thành thị. Hơn
nữa trong giai đoạn gần đây tỷ trọng chi tiêu cho đời sống trong tổng chi tiêu
giảm nhanh hơn so với thành thị. Với mức chi tiêu cho đời sống giảm xuống,
đặc biệt trong thời kì hiện nay trong xu hướng toàn cầu hóa, hiện đại hóa với
giá cả leo thang. Giảm tỷ trọng chi cho đời sống làm cho người dân nông
thôn gặp nhiều khó khăn trong tất cả các lĩnh vực về vấn đề chăm sóc sức
khỏe.
Tỷ trọng các khoản chi tiêu cho đời sống thành thị, nông thôn: theo
điều tra của Tổng cục Thống kê tỷ trọng các khoản chi tiêu cho đời sống
trong cả nước có sự tăng giảm không dồng đều. Chi ăn, uống, hút giảm
xuống rõ rệt: cả nước chi cho ăn, uống, hút năm 2002 là 56,7% đến năm
2006 giảm xuống 52,8%, từ năm 2002 – 2006 giảm 3,9%. Chi không phải
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

12



ăn, uống, hút tăng lên gần bằng với mức giảm của chi ăn, uống, hút. Năm
2002 là 43,4% tăng lên năm 2004 là 46,5% và năm 2006 tăng lên 47,6%.
Giai đoạn 2002 – 2004 tăng 3,1%, giai đoạn 2004 – 2006 tăng 0,7%. Qua
thống kê cho thấy giữa nông thôn và thành thị cũng thay đổi, ở thành thị chi
ăn, uống, hút thấp hơn ở nông thôn, năm 2002 ở thành thị là 51,6% còn nông
thôn là 60,0%, năm 2004 ở thành thị 48,9% còn nông thôn 56,7%. Tuy
nhiên, chi không phải ăn, uống, hút ở thành thị nhiều hơn ở nông thôn. Năm
2002 là 48,4% còn nông thôn là 40,0%, năm 2006 thành thị là 51,1% còn
nông thôn 43,8%.
Chi tiêu cho đời sống bình quân một nhân khẩu một tháng: Trong
những năm qua với sự chú trọng và quan tâm của Nhà nước ta, vì vậy mức
sống của người dân không những ở thành thị mà ở nông thôn cũng được
nâng lên. Được biểu hiện cụ thể thông qua những số liệu dưới đây:
Chi tiêu cho đời sống bình quân một nhân khẩu 1/tháng cả nước tăng,
năm 2002 là 269,1 nghìn VNĐ tăng lên 359,7 nghìn VNĐ năm 2004 ( tăng
90,6 nghìn VNĐ), đến năm 2006 tăng lên 460,4 nghìn VNĐ tăng lên 100,8
nghìn VNĐ so với năm 2004. Ở thành thị, năm 2002 – 2006 tăng lên tới
277,5 nghìn VNĐ (từ 460,8 nghìn VNĐ tăng lên 738,3 nghìn VNĐ), ở nông
thôn cũng tăng từ năm 2002 – 2006 là 147,8 nghìn VNĐ. Vậy qua số liệu
thống kê cả nông thôn và thành thị đều tăng, tuy nhiên mức chi cho đời sống
ở thành thị cao hơn ở nông thôn. Trong khi đó, hiện nay việc đầu tư chi tiêu
cho đời sống ở thành thị cao hơn ở nông thôn, chi tiêu ở nông thôn thấp. Với
mức tăng chỉ 147,8 nghìn VNĐ so với năm 2002, thì người dân khó có thể
đảm bảo chất lượng cuộc sống. Từ đó, ảnh hưởng đến sức khỏe, sự tăng
giảm chi tiêu cho đời sống nó được biểu hiện rõ ở từng lĩnh vực sau: trong
lĩnh vực chi cho ăn, uống, hút tăng từ 152,2 nghìn VNĐ năm 2002 đến 192,5
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

13



nghìn VNĐ và 242,9 nghìn VNĐ năm 2006, cả nước tăng khoảng 40 nghìn
VNĐ trong giai đoạn 2002 – 2004 và khoảng 50,4 nghìn VNĐ năm 2004 –
2006. Thành thị tăng 53,4 nghìn VNĐ giai đoạn 2002 – 2004, tăng mạnh
hơn trong giai đoạn 2004 – 2006 lên tới 65,1 nghìn VNĐ. Nông thôn tăng
33,9 nghìn VNĐ giai đoạn 2002 – 2004 và giai đoạn tăng cao hơn 41,5
nghìn VNĐ. Từ đó, kéo theo các mặt về lương thực thực phẩm, chất đốt, ăn,
uống ngoài gia đình… cũng tăng lên. Chi không phải ăn, uống, hút tăng lên
rõ rệt từ 2002 – 2004 tăng 50,5 nghìn VNĐ, giai đoạn 2004 – 2006 tăng 50,3
nghìn VNĐ. Thành thị giai đoạn 2002 – 2004 tăng 81,3 nghìn VNĐ,
giai đoạn 2004 – 2006 tăng 77,8 nghìn VNĐ. Nông thôn giai đoạn 2002 –
2004 tăng 38,5 nghìn VNĐ, giai đoạn 2004 – 2006 tăng 34,4 nghìn VNĐ.
Chi không phải ăn, uống, hút tăng lên trong các lĩnh vực như may măc,
chăm sóc sức khỏe y tế… nhìn chung tất cả các lĩnh vực đều tăng nhưng
thành thị tăng nhanh hơn nông thôn thậm chí cao hơn mức tăng cả nước,
nông thôn các mức chi tăng lên nhưng không cao, chăm sóc sức khỏe ở
thành thị cao hơn nông thôn. Trong 4 năm từ 2002 – 2006 ở thành thị là 20,4
nghìn VNĐ, nông thôn 11,4 nghìn VNĐ. Mức chi tiêu thấp như vậy sẽ ảnh
hưởng đến mức chi cho việc chăm sóc sức khỏe của người dân, trong giai
đoạn 2002 – 2006 mức chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe ở thành thị
gấp 1,7 lần nông thôn. Có thể khẳng định điều này đúng với lý thuyết bất
bình đẳng về sức khỏe.
c. Y tế sức khỏe và sự ảnh hưởng của nó
Tỉ lệ người mắc bệnh / chấn thương năm 2004: Thời kì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa. Tất cả các lĩnh vực đều khá phát triển, thu
hút ngày càng nhiều vốn đầu tư không chỉ trong nước mà cả ngoài nước.
Tuy nhiên, một số nước phát triển đã lợi dụng việc đầu tư để đem các chất
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.


14


thải sang nước ta gây nên các vấn đề ô nhiễm môi trường. Từ đó, để lại cho
người dân những căn bệnh hiểm nghèo và tệ hơn nữa đó là cái chết khi
người dân nông thôn nghèo không có tiền để chữa trị.
Theo khảo sát mức sống của Tổng cục Thống kê năm 2004 cho thấy
tổng số tỉ lệ người bị mắc bệnh/ chấn thương là 38,3% trong đó có khoảng
11% người mắc bệnh trong 12 tháng. Số người phải nằm tại chỗ là 9,8%. Đó
là tỷ lệ người mắc bệnh/ chấn thương cả nước nói chung, nông thôn thành
thị có sự khác nhau khá rõ rệt, thành thị cao hơn nông thôn là khoảng 4,4%
tỉ lệ người mắc bệnh/ chấn thương năm 2002 – 2006 (thành thị 41,6% còn
nông thôn là 37,2%), nhưng trong số người mắc bệnh nhiều hơn ở thành thị,
số người mắc bệnh/ chấn thương phải nằm tại chỗ và liệt giường ở nông
thôn lại cao hơn thành thị 1,1%. Như vậy, mặc dù số người mắc bệnh ở nông
thôn thấp hơn thành thị nhưng do nhận thức của người dân chưa cao cùng
với vấn đề chăm sóc sức khỏe chưa tốt nên tỷ lệ nằm liệt giường và chăm
sóc tại nhà của nông thôn cao hơn thành thị. Tỷ lệ người nằm liệt giường ở
nông thôn cao từ đó dẫn đến nguy cơ tử vong ở nông thôn cao hơn ở thành
thị. Con số này không những giảm xuống mà ngày càng tăng lên, nếu năm
2004 cả nước chỉ có 38,3% người mắc bệnh/ chấn thương thì đến 2006 con
số đã lên tới 49,1%, tăng lên 10,8% chỉ trong vòng 2 năm. Ở thành thị, tăng
từ 41,6% năm 2004 lên 53% năm 2006 tăng 11,6%, nông thôn tăng từ
37,2% năm 2004 lên 47,6% năm 2006 tăng lên 10,4%. Trong 4 tuần cũng
như 12 tháng tỷ lệ lượt người đi khám tăng lên cả ở nông thôn và thành thị.
Tỷ lệ người có bệnh/ chữa bệnh trong 12 tháng nhìn chung cả nước có
khoảng 18,9% trong đó, thành thị chiếm 20,4% và nông thôn 18,4%. Thông
qua bảng thống kê tỷ lệ người có bệnh điều trị nội trú trong năm 2002 giữa
nông thôn và thành thị không có khác biệt. Thành thị 15,8% trong khi nông

GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

15


thôn 13,7%, với nhu cầu phát triển và sự nhận thức về vấn đề sức khỏe nên
số người đi đến các y bác sĩ khám ngày càng tăng, năm 2002 là 18,9% đến
2004 tổng số cả nước là 34,3%. Trong đó, tăng nhanh việc khám ngoại trú
và đến năm 2006 tổng là 35,2%, nội trú 6,3% và ngoại trú 32,6%. Trong
người dân ngày càng đề cao về vấn đề sức khỏe đang giảm dần số hộ dân
khám bệnh tại các địa phương, bác sĩ “vườn” mà đến các trung tâm y tế với
các phương tiện dịch vụ hiện đại, đa dạng. Chỉ trong hai năm những con số
khám chữa bệnh ngoại trú tăng lên gấp 2,1 lần (2002 – 2004), trong khi con
số khám điều trị nội trú chỉ tăng 1,2 lần. Từ năm 20024 – 2006 mặc dù con
số khám chữa bệnh tăng không nhanh bằng năm trước nhưng điều đáng
mừng hơn là con số khám bệnh nội trú giảm 0,8%. Mức sống của người dân
được nâng cao, họ đã nhận thức tốt về vấn đề chăm sóc sức khỏe và có đủ
điều kiện để khám tư với chất lượng tốt hơn. Tuy nhiên, điều đáng ngại là
dân số ở nông thôn con số khám nội trú vẫn còn cao hơn thành thị và khám
ngoại trú thấp hơn thành thị. Năm 2006 tỷ lệ người khám chữa bệnh nội trú
ở thành thị là 6,2% còn nông thôn là 6,3%, khám ngoại trú ở thành thị là
32,9%, nông thôn là 32,5% ít hơn thành thị. Như vậy, cả nước có tỷ lệ người
đi khám chữa bệnh tăng lên, tỷ lệ người khám ngoại trú tăng, tỷ lệ người
khám nội trú giảm. Ở nông thôn, chưa có điều kiện nên số người khám nội
trú cao hơn thành thị, do vậy vấn đề chăm sóc sức khỏe vẫn chưa tốt. Ví dụ,
tỷ lệ phụ nữ sinh con, khám thai ở nông thôn chủ yếu là tại nhà, thậm chí
một số bà mẹ khi mang thai không đi khám thai theo định kì mà còn quan
niệm ăn ít để sinh con. Nên tỷ lệ con sinh ra dễ tử vong hay suy dinh dưỡng
cao hơn thành thị.

Tỷ lệ người có khám chữa bệnh trong 12 tháng năm 2004, gần đây
Nhà nước ta rất chú trọng cho việc đầu tư vào các loại bảo hiểm, đặc biệt là
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

16


bảo hiểu y tế tạo điều kiện cho người dân có thể chăm sóc tốt hơn về sức
khỏe của chính mình. Trong 12 tháng 2004, tổng cả nước có số người khám
chữa bệnh là 34,3% trong đó có 7,1% người điều trị nội trú, 14,4% người có
bảo hiểm y tế hoặc sổ khám miễn phí, 30,9% tỷ lệ người có điều trị ngoại
trú. Vì vậy, không những vấn đề bảo hiểm được chú trọng ở các thành thị
mà ở nông thôn cũng được phát triển. Ở thành thị, tổng số người khám chữa
bệnh là 37,2% (trong đó có 17,9% có bảo hiểm y tế hoặc có sổ khám bệnh
miễn phí, khám ngoại trú là 34,2%), nông thôn là 33,4% ( trong đó có13,2%
có bảo hiểm y tế hoặc có sổ khám bệnh miễn phí nhưng khám ngoại trú vẫn
thấp hơn nhiều so với thành thị là 29,9%), đến 2006 bảo hiểm y tế, ngày
càng được chú trọng hơn ở cả nông thôn và thành thị, khám nội trú có xu
hướng giảm, tăng khám ngoại trú. Nếu ở năm 2004 tỷ lệ người khám có bảo
hiểm y tế là 17,9% thì đến năm 2006 tăng lên 24,5%. Trong vòng 2 năm tỷ
lệ người khám chữa bệnh ở thành thị có bảo hiểm y tế hoặc sổ khám bệnh
miễn phí tăng lên 6,6% còn nông thôn từ 13,2% tăng lên 21,8% tăng khoản
8,6%. Từ khi Nhà nước trú trọng đến bảo hiểm y tế cho cả nông thôn và
thành thị tỷ lệ người sử dụng bảo hiểm y tế hoặc có sổ khám bệnh miễn phí
ở nông thôn tăng nhanh hơn so với thành thị giai đoạn 2004 – 2006. Tuy
nhiên, số phần trăm sự dụng bảo hiểm y tế ở nông thôn vẫn còn thấp, chứng
tỏ người dân nông thôn chưa nhận thức tốt về vấn đề sức khỏe. Đồng thời,
họ chưa hiểu hết được ý nghĩa của bảo hiểm y tế, bên cạnh một số hộ gia
đình nông thôn không mua bảo hiểm y tế vì họ không có tiền và luôn chủ

quan trong việc chăm sóc sức khỏe.
Tỷ lệ lượt người khám chữa bệnh ngoại trú năm 2004: Trong những
năm gần đây, nhờ sự đồng ý và quan tâm của Nhà nước nhiều bệnh việc
trạm xá tư nhân được xây dựng để đáp ứng kịp nhu cầu của người dân. Một
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

17


số, khu vực thành thị và nông thôn nếu trước kia phải đi xa hàng vài km mới
có một trạm xá, một hiệu thuốc thì bây giờ chỉ vài trăm m là có các hiệu
thuốc. Từ đó, chứng tỏ hệ thống các phòng khám, y bác sĩ của nước ta ngày
càng nhiều, ở thành thị số bệnh viện Nhà nước chiếm 35,7%, trạm y tế xã,
phường 8,6%, y tế tư nhân 54,3%, tổng số lượt người đi khám bệnh ngoại
trú. Tương tự, ở nông thôn số bệnh viện tư nhân cũng tăng lên nhưng khác
hoàn toàn với thành thị, nếu như ở thành thị bệnh viện Nhà nước và tư nhân
chiếm tỉ lệ cao thì ở nông thôn bệnh viện Nhà nước chỉ có 20,7% trong khi
trạm y tế xã, phường chiếm 27,8%, tư nhân 41,8% thấp hơn thành thị 3,5.
Đến năm 2006 tỷ lệ lượt người khám chữa bệnh tại bệnh viện Nhà nước
tăng, ở thành thị tăng lên 43,2% gần gấp 2 lần nông thôn 23,0%, ở thành thị
mức độ lượt người khám chữa bệnh ngoại trú ở trạm y tế xã, phường cũng
tăng lên nhưng không đáng kể năm 2004 là 8,6% tăng lên năm 2006 là 9,0%
tăng 0,4%. Trong khi bệnh viện Nhà nước tăng từ 35,7% lên 43,2% tăng lên
7,5%, ở nông thôn bệnh viện Nhà nước tăng không đáng kể nhưng tỷ lệ lượt
người khám chữa bệnh ở các trạm y tế lại tăng lên 5%. Xét sự chênh lệch
giữa thành thị và nông thôn: tỷ lệ khám và chữa bệnh ở nông thôn cao hơn
thành thị 3,6 4 lần ( nông thôn: 32,8%, thành thị 9,0% năm 2006). Số thầy
lang ở nông thôn thấp hơn thành thị là 0,7% năm 2006 ( nông thôn: 2,6%,
thành thị 1,9%), tỷ lệ lượt người đi khám tư ở nông thôn thấp hơn thành thị

năm 2006 là 4,8% (thành thị 35,4%, nông thôn 30,6%). Qua số liệu trên ta
thấy, một thực tế hiện nay ở nông thôn và thành thị tỷ lệ lượt người đi khám
chữa bệnh tăng lên, nhưng ở nông thôn vẫn còn tồn tại hiện tượng tỷ lệ lượt
người đi khám ở các trạm ý tế xã, phường còn khá cao, số người tin vào thây
lang, mê tín dị đoan vẫn còn tồn tại. Bởi vậy, sức khỏe của người dân nông
thôn trong giai đoạn gần đây được Nhà nước chú trọng, nhưng mức sống của
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

18


người dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vấn đề về y tế sức khỏe vẫn chưa
được nhận thức cao.
Song tỷ lệ người khám bệnh ngoại trú năm 2004 – 2006 và tỷ lệ người
khám nội trú giữa nông thôn và thành thị cũng có sự thay đổi. Do mức thu
nhập ở nông thôn còn thấp nên vấn đề chi tiêu của họ vẫn còn thấp, từ đó
việc đầu tư cho khám chữa bệnh cũng như chăm sóc sức khỏe có sự chênh
lệch khác nhau, tỷ lệ khám bệnh ngoại trú ở nông thôn thấp hơn ở thành thị,
biểu hiện qua lượt người khám chữa bệnh ở Nhà nước năm 2004 là 8,2%,
(thành thị là 85,6%, nông thôn 77,4%). Trong khi tỷ lệ người khám ở các
trạm xá, phường xã năm 2004 ở thành thị thấp hơn ở nông thôn: thành thị là
2,2% còn nông thôn13,1% (gấp 5,59 lần). Năm 2006 tỷ lệ lượt người khám
chữa bệnh nội trú phường, xã ở thành thị tăng lên mạnh mẽ từ 13,1% năm
2004 lên 18,0% năm 2006 (tăng lên 5%). Tương tự lượt người khám nội trú,
phòng khám đa khoa khu vực, y tế tư nhân… cũng có sự khác biệt giữa nông
thôn và thành thị.
Tỷ lệ bị ốm / bệnh / chấn thương phải năm tại chỗ và phải chăm sóc
tại giường năm 2004 của trẻ em và phụ nữ. Nhưng Nhà nước ta rất chú trọng
và quan tâm đến việc chăm sóc phụ nữ và trẻ em. Tuy nhiên, hiện sự chênh

lệch giữa nông thôn và thành thị còn quá cao, tỷ lệ bị ốm / bệnh / chấn
thương phải nằm một chỗ và phải chăm sóc tại giường trẻ em từ 0 – 4 tuổi ở
thành thị (16,9%) cao hơn ở nông thôn (16%), ngược lại, trẻ em ở độ tuổi 5
– 14 tuổi và phụ nữ trên 15 ở nông thôn (12,1%) cao hơn thành thị (10,6%),
nhưng đến năm 2006 tỷ lệ trẻ ở độ tuổi 0 – 4 tăng lên nhanh: thành thị là
20,3%, nông thôn là 19,7%.
Tóm lại, lý thuyết về bất bình đẳng về sức khỏe cho rằng thu nhập
càng cao thì chi tiêu càng cao và từ đó nó tác động tốt đến sức khỏe của con
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

19


người. Vì vậy, giả thuyết đưa ra là đúng, có sự chênh lệch giữa thu nhập
nông thôn và thành thị dẫn đến mức chi tiêu và tình trạng sức khỏe giữa
nông thôn và thành thị khác nhau. Thu nhập có tác động trực tiếp đến việc
chi tiêu nhưng cũng có tác động gián tiếp đến tình hình sức khỏe của con
người.
2. Khái quát mối quan hệ giữa thu nhập chi tiêu và ảnh hưởng tới sức
khỏe.
Mỗi một yếu tố ở trên khi phân tích đều nêu lên sự tác động tương tác,
ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Vì vậy, phần này chỉ khái quát về mối quan hệ
giữa các yếu tố trên.
Theo quan niệm của Max mối quan hệ giữa cấu trúc kinh tế sức khỏe
và mối quan hệ thu nhập, thu nhập càng cao chi tiêu cho dịch vụ y tế lớn, do
đó kéo theo một tình trạng sức khỏe của con người tốt. Đúng với giả thuyết
bất bình đẳng về sức khỏe. Đồng thời Max cho rằng sự khác biệt về tỷ lệ tử
vong giữa người giàu và người nghèo. Trong thực tế, những người ở thành
thị mắc những bệnh ung thư hay những bệnh nghiêm trọng có khả năng khỏi

bệnh cao hơn những người nông thôn. Bởi ở thành thị họ có nhiều cơ hôi, có
điều kiện, hơn nữa quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa diễn ra ở thành thị
nên nguồn thu của họ trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ khá cao. Bởi
vậy, ngay khi nghi ngờ bị bệnh họ có thể đi đến những phòng khám, y bác sĩ
có uy tín…để chữa trị kịp thời, hơn nữa ở thành các dịch y tế chăm sóc sức
khỏe khá đa dạng, hiện đại. Còn nông thôn hay những vùng núi xa thì nguồn
thu chủ yếu là nông nghiệp lại bị mất mùa, trong khi đó các bệnh viện nằm ở
rất xa, phương tiện đi lại không tiện lợi, y bác sĩ tay nghề đang còn thấp,
công cụ chữa trị chưa đủ…hay khả năng cung cấp dịch vụ y tế: Dịch vụ
công cộng: thông tin về loại hình cán bộ y tế (bà đỡ vườn), những người
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

20


cung cấp dịch vụ tại các địa bàn điều tra thống kê, tuyệt đại đa số phụ nữ
sinh con ở các cơ sở y tế hiện đại (khoảng 90%). Tỷ trọng phụ nữa sống ở
cộng đồng có bà đỡ vườn cung cấp dịch vụ đỡ đẻ của khu vực thành thị
khoảng 3% thấp hơn so với nông thôn. Tương tự, tỷ trọng phụ nữ sống tại
những cộng đồng có nữ hộ sinh được đào tạo của khu vực thành thị có xu
hướng nhỏ hơn, 77% phụ nữ ở những cộng đồng có cán bộ y tế cơ sở. Nông
thôn, có mức độ phủ cán bộ y tế cơ sở địa phương nhiều hơn so với thành
thị. Dịch vụ tại cơ sở y tế: khác biệt rõ nhất là tỷ trọng phụ nữ sống trong
phạm vi 1km đến cơ sở khám thai và đỡ đẻ lớn hơn rất nhiều so với nông
thôn. Hầu như tất cả phụ nữ thành thị sống trong phạm vi 5km đến cơ sở
cung cấp dịch vụ khám thai hoặc đỡ đẻ, gần 20% phụ nữ nông thôn sống
cách xa từ 5km trở lên. Trẻ em khu vực thành thị sống gần các cơ sở, thực
hiện tiêm chủng điều trị bệnh ỉa chảy và điều trị ho hơn trẻ em khu vực
nông thôn. Khoảng cách trung vị tới các cơ sở cung cấp các dịch vụ nói trên

là dưới 1km ở thành thị, ở khu vực nông thôn của các tỉnh có dự án, cách
trung vị tới các cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe trể em là 1/9km
đối với tiêm chủng, 2,1km đối với điều trị ỉa chảy và 2,3 km đối với điều trị
ho. Qua quan niệm của Max cùng với sự phân tích, phần lớn những người
sống ở nông thôn tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe ít cơ hội hơn thành
thị.
Thu nhập, chi tiêu, sức khỏe có mối quan hệ tác động vừa trực tiếp
vừa gián tiếp với nhau. Vì vậy, dẫn đến sự chênh lệch về các dịch vụ y tế
chăm sóc sức khỏe ở nông thôn thành thị. Thông qua quá trình phân tích
chứng minh rằng tỷ lệ người ở thành thị có thu nhập cao, có điều kiện chi
tiêu cho tất cả các lĩnh vực nhiều hơn nông thôn. Đặc biệt, vấn đề giáo dục
chênh lệch khá lớn: Nói chung trình độ biết chữ của nhân dân ta khá cao.
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

21


Theo kết quả điều tra dân số năm 1989, 88% dân số từ 10 tuổi trở lên biết
đọc biết viết, thành thị là 94%, nông thôn là 87%. Số năm đi học trung bình
của người dân cũng không thuộc loại thấp, số năm đi học trung bình của
toàn bộ dân số là 9,5 năm. Sự chênh lệch chỉ tiêu này giữa thành thị và nông
thôn khá cao, khu vực thành thị, số năm đi học trung bình là 11,6 năm, khu
vực nông thôn chỉ có 9,2 năm. (DSH. Trg 78). Trong khi, tỷ lệ biết chữ khá
cao, thì tình trạng học vấn đạt được, nói chung vẫn còn ở mức vừa phải, chỉ
có 11% những người 10 tuổi trở lên đã học xong trung học là 2%, tốt nghiệp
cao đẳng và đại học. Chênh lệch về học vấn trình độ học vấn giữa khu vực
nông thôn thành thị khá lớn. Trình độ học vấn càng cao, sự chênh lệch càng
lớn, phân tích kết quả điều tra của của điều tra dân số 1989 cho thấy, ở khu
vực thành thị 47% dân số học xong tiểu học trở lên, trong khi khu vực nông

thôn chỉ có 30%. Tỷ trọng dân số thành thị đã học xong trung học cao cấp
gấp 3 lần so với khu vực nông thôn, còn đối với trình độ cao đẳng trở lên
gấp 6 lần. Vậy khi con người có trình độ học vấn cao họ có khả năng nhận
thức tốt về sức khỏe y tế, đảm bảo tốt hàm lượng chất dinh dưỡng cho cơ
thể. Còn ở nông thôn thu nhập mỗi nhân khẩu hành tháng rất thấp. Do không
đủ nên tất cả lĩnh vực ở nông thôn không đảm bảo, tỷ lệ người đi học còn
thấp, chất lượng bữa ăn không đủ…do học thấp nên nhận thức về sức khỏe
của người dân nông thôn còn thấp, do vậy số người mắc bệnh ở nông thôn
thấp hơn thành thị nhưng tỷ lệ tử vong cao hơn thành thị.
Tóm lại, giữa ba yếu tố nêu trên có mối quan hệ mật thiết với nhau,
cái này thay đổi cái kia cũng thay đổi. Có nghĩa là nếu thu nhập cao thì chi
tiêu cho các lĩnh vực nhiều hơn từ đó tác động tốt đến sức khỏe.
3. Giải pháp
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

22


Trong những năm qua để giảm bớt bất bình đẳng giữa người giàu và
người nghèo, nông thôn thành thị… về thu nhập , chi tiêu và vấn đề chăm
sóc sức khỏe dịch vụ bảo hiểm y tế Nhà nước đã đưa ra nhiều giải pháp khác
nhau: Dưới đây là một số giải pháp đối với khu vực nông thôn thành thị.
Tại sao các nước phát triển có thể đảm bảo tốt về sức khỏe cả nông
thôn thành thị. Bởi họ có một chính sách an sinh xã hội khá tốt.
Đối với Nhà nước:
- Trước hết Nhà nước ta phải xây dựng một hệ thống xã hội thật tốt.
- Xây dựng mô hình xã hội hóa y tế.
- Nhà nước cần đặc biệt quan tâm hơn nữa đến đời sống toàn dân.
Đối với nông thôn: Xây dựng ngày càng nhiều các hình thức bảo hiểm

y tế miễn phí giúp người dân nông thôn có thể đi khám định kỳ.
- Tập trung mở các lớp tập huấn về sức khỏe chế độ ăn uống như thế
nào phù hợp với người dân.
- Khuyến khích tất cả con em nông thôn đi học một 100% để nâng cao
nhận thức trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe.
- Phát triển các ngành nghề mang lại chi phí thu nhập cao, đồng thời
phát triển các nghề truyền thống thu hút người dân.
- Nhà nước phải có cơ chế tài phân bổ thu nhập phù hợp để có nguồn
tài chính dành cho chữa bệnh trong những trường hợp bị bệnh nặng phải
nằm viện.
- Áp dụng các loại hình bảo hiểm y tế bắt buộc.
Đối với thành thị:
- Nâng cao dịch vụ y tế cho người giàu.
- Áp dụng loại hình y tế bắc buộc đối với những người có thu nhập
cao ở thành thị cũng như những người có thu nhập thấp.
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

23


- Áp dụng cơ chế đóng bảo hiểm y tế đúng mức theo thu nhập.
Ngoài ra cong nhiều biện pháp khác.
C. KẾT LUẬN.
Tóm lại, với việc phân tích số liệu ta đã phần nào lý giải được giả
thuyết về bất bình đẳng sức khỏe về sự chênh lệch thu nhập chi tiêu ảnh
hưởng đến sức khỏe. Chênh lệch giữa nông thôn thành thị trong tất cả các
lĩnh vực nhưng nếu như Nhà nước áp dụng được những biện pháp tốt thì
khoảng cách chênh lệch này sẽ giảm xuống. Đơì sống của nông thôn tăng
lên, sức khỏe tốt hơn, còn thành thị thì sức khỏe ngày càng tốt hơn, thúc đẩy

nền kinh tế phát triển đưa nước ta nhanh chóng đạt được mục tiêu. Như vậy,
sẽ cân bằng mức sống của toàn dân trong cộng đồng người Việt.
Bài viết mang tính cá nhân, nên không tránh khỏi những lời chủ quan
và đây bài viết phân tích đầu tiên nên còn rất nhiều thiếu sót. Rất mong được
sự đóng góp và bổ xung của cô và các bạn để bài viết được tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Dân số học
2. điều tra tổng cục thống kê Việt Nam
3
4
5.
Mục lục
A.Mở đầu 1
B.Nội dung…………………………………………………… 2
GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

24


1. Chênh lệch thu nhập chi tiêu và ảnh hưởng đến sức
khỏe…………… 2
a. Thu nhập nông thôn thành thị những ảnh hưởng của nó đến sức
khỏe 2
b. Chi tiêu nông thôn thành thị những ảnh hưởng của nó đến sức
khỏe… 6
c. Y tế sức khỏe và tác động qua lại giữa
chúng……………………… 13
2. Khái quát mối quan hệ giữa thu nhập chi tiêu và sức khỏe thành thị
nông thôn………… 19

3. Giải pháp……………… 21
C. Kết luận………………………………… 23

GVHD: T.S Nguyễn Thị Hồng Xoan
SV : Lê Thị Thanh.

25

×