Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

đề tài chính sách giữ gìn và phát triển văn hóa trong quá trình toàn cầu hóa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.6 KB, 21 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
BỘ MÔN XÃ HỘI HỌC CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI
CHÍNH SÁCH GIỮ GÌN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
TRONG QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA Ở VIỆT NAM
GVHD: TS. Vũ Quang Hà
Nhóm Cộng Đồng
Nguyễn Thị Trâm Thùy 0769151
Phạm Hà Thảo Nguyên 0769097
Vũ Thị Nhãn 0769100
Nguyễn Thị Bích Phương 0769111
Lê Thị Kim Phượng 0769113
Huỳnh Thị Thu Sen 0769121
Trần Thị Minh Thành 0769134
Nguyễn Thị Thoa 0769143
Chu Thị Thúy 0769148
Nguyễn Hoàng Tố Trinh 0769169
Phạm Thị Xuân 0769184
Đặng Hải Yến 0769186
Y Ay Ly Tâm 0769129
TP.HCM – THÁNG 12 NĂM 2010
I. DẪN NHẬP
Toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu khách quan, đó là xu thế của thời
đại. Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Đổi mới năm 1986 là một bước ngoặt
quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam, nó gần như thay đổi bộ mặt của đất
nước không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, xã hội mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến
văn hóa của nước ta. Kinh tế cởi mở hơn, đặc biệt là có sự giao thương buôn bán
với nước ngoài, và sự xâm nhập ngày càng sâu rộng của các tập đoàn đa quốc
gia tạo nên một nền kinh tế đa dạng và phong phú. Kinh tế phát triển, thu nhập


của người dân ngày càng tăng cao, GDP bình quân đầu người từ 200USD năm
1990 tăng lên 640USD năm 2005, và vượt ngưỡng 1.000USD năm 2008 (nguồn
Tổng cục thống kê). Đây là một dấu hiệu đáng mừng đặc biệt từ khi gia nhập
WTO năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành một thành viên của cộng
đồng quốc tế, sự hội nhập không dừng lại ở kinh tế mà nó đã kéo theo sự thay
đổi mọi mặt trong đời sống xã hội và đặc biệt cả trong văn hóa. Nếu sự phát triển
về kinh tế là một dấu hiệu đáng mừng thì sự du nhập văn hóa từ nước ngoài cần
phải được bàn đến nhiều hơn. Văn hóa là vốn quý, là nguồn lực nội sinh quan
trọng nhất của phát triển. Không phải văn hóa nào cũng phù hợp với xã hội, với
những chuẩn mực văn hóa của Việt Nam. Sự va chạm giữa các nền văn hóa là
không thể tránh khỏi. Tuy nhiên làm thế nào để hội nhập về kinh tế mà không bị
hòa tan, biến dạng về văn hóa là chiến lược quan trọng để phát triển. Thấy được
tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc, Đảng và Nhà nước
ta đã đề ra những chính sách có sự nhấn mạnh, điều chỉnh phù hợp trong từng
thời kỳ. Chính sách về văn hóa không chỉ thể hiện các yêu cầu về văn hóa trong
tình hình mới mà còn thể hiện các yếu tố, đặc điểm chính trị sâu sắc.
2
II. NỘI DUNG
1. Thao tác hóa các khái niệm
Chính sách
Có nhiều cách lý giải khác nhau về chính sách. Trong đó chính sách cũng
được hiểu là “chính sách công”, Nhà nước là nhân vật then chốt.
Chính sách công là cái mà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm
(Thomas R. Dye, 1984).
Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của
một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các
mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978).
Kraft và Furlong (2004) đưa ra một định nghĩa tổng hợp hơn. Theo đó,
chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính
quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và

mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các
quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương
trình.
(Nguồn: Viện Nghiên Cứu Phát Triển TP.HCM – HIDS
)
Văn hóa
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một
cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là
Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác
nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới.
3
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa
nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật
chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và
nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức
chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.
(Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia )
Định nghĩa của Hồ Chí Minh về văn hoá: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá". ( )
Chính sách văn hóa
Chính sách văn hoá là chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước nhằm
xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển con người
toàn diện, phục vụ đắc lực yều cầu phát triển đất nước. Văn hoá vừa là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội. ( )
Toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa được hiểu như một quá trình mà thông qua đó thị trường và

sản xuất ở nhiều nước khác nhau sẽ trở nên phụ thuộc và liên kết với nhau.
Toàn cầu hóa là quá trình hình thành một chuỗi các liên kết ràng buộc
giữa các chính phủ và các nhóm xã hội tạo lập nên một hệ thống thế giới hiện
đại, quyết định hoạt động của cá thể và cộng đồng.
4
Toàn cầu hóa chỉ nên hiểu theo nghĩa kinh tế thế giới, nó là một quan hệ
kinh tế mang tính phi lãnh thổ. Nó quyết định những cái không dừng lại ở cấp độ
quốc gia hay lãnh thổ.
Theo Thomson, phá vỡ quan hệ kinh tế có thể dẫn đến sự phá vỡ văn hóa,
chính trị. Đây là quan điểm được nhiều nhà chính trị ủng hộ.
Quan điểm của Phidel Castro: toàn cầu hóa là một quá trình lịch sử đang
xác định khung cảnh thế giới. Đây là hiện tượng không thể đảo ngược, nó mang
đặc trưng của các mối quan hệ tương tác kinh tế, dân tộc giữa các quốc gia
không ngừng tăng lên, nó rút ngắn khoảng cách giữa các dân tộc trên thế giới.
Tóm lại, toàn cầu hóa là một quy luật mang tính xu hướng thế giới. Nhưng
quan niệm về toàn cầu hóa và bản chất của toàn cầu hóa thì trong mỗi giai đoạn,
trong mỗi quốc gia là khác nhau.
(Nguồn: Đề cương bài giảng Xã hội học chính trị, TS. Vũ Quang Hà)
2. Khái quát về văn hóa Việt Nam
Lãnh thổ Việt Nam nằm ở phần phía Đông của bán đảo Đông Dương, có
4.550km đường biên giới đất liền. Phía Bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào
và Campuchia, phía Đông và Đông Nam giáp Biển Đông. Dải đất liền hình chữ
S với diện tích 331.689km
2
, trải dài 1.650km từ vĩ độ 23
o
23’ Bắc đến 8
o
27’ Bắc
theo hướng Bắc – Nam. Chỗ rộng nhất trên đất liền khoảng 500km và nơi hẹp

nhất gần 50km. Việt Nam có 2 vùng đồng bằng màu mỡ: Đồng bằng Sông Hồng
(Miền Bắc) và Đồng bằng Sông Cửu Long (Miền Nam). Hai đồng bằng nối liền
bởi cao nguyên Miền Trung với dãy núi Trường Sơn hùng vĩ.
Thủ đô Hà Nội nằm ở trung tâm vùng Đồng bằng Sông Hồng cùng với
TP.HCM nằm ở vùng hạ lưu sông Đồng Nai (Đông Nam Bộ) tạo nên ở hai đầu
5
đất nước là hai trung tâm phát triển lớn nhất về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã
hội.
Địa lý Việt Nam có vị trí khá đặc biệt. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để
Việt Nam có thể giao lưu với các nước trên thế giới và có cơ hội tiếp nhận ảnh
hưởng của nhiều nền văn hóa khác nhau, điển hình là văn hóa Phù Nam ở Miền
Nam, văn hóa Champa ở Miền Trung, văn hóa Ấn Độ ở Miền Nam, văn hóa
Trung Quốc ở Miền Bắc. Cộng đồng dân tộc Việt Nam có hơn 86 triệu người
(năm 2009, nguồn Tổng cục thống kê) với 54 dân tộc anh em, trong đó người
Kinh chiếm 85% Dân tộc Việt Nam. Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo và tín
ngưỡng. Bên cạnh Phật Giáo và Công Giáo là hai tôn giáo phổ biến ở Việt Nam
còn có các tôn giáo khác như: Hòa Hảo, Cao Đài, Tin Lành, Hồi Giáo cùng với
nhiều loại tín ngưỡng trong dân gian.
Văn hóa của Việt Nam là một sự pha trộn đặc biệt giữa văn hóa cổ xưa
cùng với văn hóa bản xứ của người Bách Việt. Với ảnh hưởng lớn của văn hóa
Trung Hoa, văn hóa Việt Nam đã lập ra rất nhiều đặc điểm khá giống với những
dân tộc của các nước Đông Á và khác những nước ở khu Thái Bình Dương (như
là Campuchia, Lào và Thái Lan) - nơi vốn chịu một phần lớn ảnh hưởng của văn
hóa Ấn Độ. Mặc dù ảnh hưởng Trung Hoa được coi là ảnh hưởng lớn nhất của
văn hóa ngoại lai trên nền văn hóa cổ truyền Việt Nam. Bên cạnh đó còn chịu
ảnh hưởng từ văn hóa Phương Tây, nhưng dân tộc Kinh vẫn giữ gìn được rất
nhiều nét văn hóa của riêng mình. Cho tới ngày nay những nét riêng ấy vẫn rất
quan trọng trong đời sống của người Việt.
Nghiên cứu lịch sử phát triển của Việt Nam các nhà khoa học nhận thấy
mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng, đó là biểu hiện của sức sống, sự phát triển

đa sắc màu trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Mỗi nền văn hóa đều là
thành tựu của mỗi dân tộc. Việt Nam còn có một nền văn hoá khá rộng lớn được
6
hình thành vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên và phát
triển rực rỡ vào giữa thiên niên kỷ này. Đó là văn hoá Đông Sơn. Nền văn hoá ấy
phát triển cao so với các nền văn hoá đương thời khác trong khu vực, có những
nét độc đáo riêng nhưng vẫn mang nhiều điểm đặc trưng của văn hoá vùng Đông
Nam Á. Những con đường phát triển khác nhau của văn hoá bản địa tại các khu
vực khác nhau (lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả…) đã hội tụ với nhau,
hợp thành văn hoá Đông Sơn. Đây cũng là thời kỳ ra đời Nhà nước "phôi thai"
đầu tiên của Việt Nam dưới hình thức cộng đồng liên làng và siêu làng (để chống
giặc và đắp, giữ đê trồng lúa) từ đó các bộ lạc nguyên thuỷ phát triển thành dân
tộc.
Khi tìm hiểu văn hóa Việt Nam, các nhà khoa học đã đặt văn hóa Việt
trong mối quan hệ với các nền văn hóa để thấy được những nét tương đồng, cũng
như những khác biệt và từ đó tìm thấy cái riêng trong bản sắc văn hóa Việt Nam.
Mặc dù, chịu ảnh hưởng nhiều nền văn hóa nhưng văn hóa Việt Nam vẫn giữ
được những nét đặc trưng riêng. Điều đó chứng minh rằng văn hóa Việt Nam
giàu bản sắc, có sức sống mãnh liệt trong suốt các giai đoạn lịch sử. Đó cũng là
biểu hiện của nền văn hóa luôn ở thế dung hòa, vừa có khả năng tiếp thu những
giá trị văn hóa khác vừa có thể bảo tồn những giá trị văn hóa của riêng mình để
không bị đồng hóa, và có khả năng chống lại sự chi phối bởi các nền văn hóa
khác. Điểm nổi bật trong bản sắc văn hóa Việt Nam là tinh thần yêu nước, yêu
hòa bình, yêu độc lập, tự do. Hơn thế nữa, chủ nghĩa yêu nước đã trở thành yếu
tố cốt lõi trong hệ tư tưởng Việt Nam.
3. Quá trình toàn cầu hóa ở Việt Nam hiện nay
Theo một số nhà nghiên cứu thì thế giới trải qua ba làn sóng toàn cầu hóa:
• Làn sóng thứ nhất, diễn ra từ năm 1870 – 1914, được kích thích bằng sự
kết hợp giữa chi phí vận tải giảm và việc cắt giảm các hàng rào thuế quan.
7

Thời kỳ 1914 – 1945 là thời kỳ thụt lùi trở về chủ nghĩa quốc gia. Các
nước đã gia tăng chủ nghĩa bảo hộ và áp đặt các biện pháp kiểm soát nhằm
ngăn chặn xuất khẩu vốn.
• Thời kỳ 1945 – 1980 diễn ra làn sóng toàn cầu hóa thứ hai. Trong làn sóng
thứ hai này, trên thực tế tồn tại hai hệ thống thương mại: hệ thống Bắc –
Nam cũ và hệ thống Bắc – Bắc mới. Hầu hết các nước đang phát triển
không tham dự vào sự tăng trưởng của các hoạt động thương mại các sản
phẩm chế tạo và dịch vụ trên toàn cầu.
• Làn sóng toàn cầu hóa mới (làn sóng thứ ba) được bắt đầu từ thập kỷ 1980
với những đặc trưng: nhiều nước đang phát triển đã thâm nhập vào thị
trường toàn cầu, một số nước khác bi cách ly khỏi nền kinh tế thế giới, sự
di dân và di chuyển vốn quốc tế trở nên đặc biệt quan trọng (Toàn cầu hóa
và tác động của hội nhập đối với Việt Nam – NXB Thế giới).
Toàn cầu hóa thực sự được mọi người biết đến nhiều khi nó bắt đầu xuất
hiện từ 1986 – 1994 tại một hội nghị thuế quan mậu dịch họp trong vòng 8 năm
ở Uruguay. Kết thúc hội nghị, một tổ chức kinh tế lớn nhất thế giới đã ra đời:
WTO. Tổ chức này quy ước một số nước với nhau. Sự xuất hiện của tổ chức này
đã đẩy mạnh toàn cầu hóa lên một mức độ cao hơn.
Là một tiến trình phát triển, toàn cầu hóa không chỉ giới hạn trong lĩnh
vực kinh tế, chính trị mà còn mở rộng sang khía cạnh văn hóa, xã hội Trong
đó, toàn cầu hóa kinh tế vừa là trung tâm, vừa là cơ sở và động lực thúc đẩy các
lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hóa. Việt Nam là nước đang phát triển. Việt
Nam bắt đầu tiến hành mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới
từ năm 1986, điều này đã tạo nên nhiều sự thay đổi của đất nước ta. Đặc biệt, từ
khi Việt Nam gia nhập WTO đến nay đã mang lại nhiều cơ hội và thách thức để
8
mở rộng giao lưu và phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội.
Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam:
1-1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban Công tác xem xét việc

gia nhập của Việt Nam được thành lập với Chủ tịch là ông Eirik Glenne, Đại sứ
Na Uy tại WTO (riêng từ 1998–2004, Chủ tịch là ông Seung Ho, Hàn Quốc).
8-1996: Việt Nam nộp “Bị vong lục về chính sách thương mại”.
1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ
(BTA).
1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh
bạch hóa các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999, và 11-
2000. Kết thúc 4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ
bản kết thúc quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm
phán mở cửa thị trường.
7-2000: ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ.
12-2001: BTA có hiệu lực.
4-2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt
Nam đưa ra Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm
phán song phương.
2002 – 2006: Đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu
đàm phán, với 2 mốc quan trọng:
• 10-2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất.
• 5-2006: Kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ - đối tác cuối cùng
trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.
26-10-2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác
chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã
có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006.
9
7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại
Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO.
(A.P., Sở Ngoại vụ TPHCM, ngày 7-11-2006)
Sự kiện nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) chứng tỏ
sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế đối với những thay đổi tích cực, to lớn và
toàn diện trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn của Ðảng ta. Sự

kiện này có ý nghĩa sâu sắc về chính trị, kinh tế, xã hội; khẳng định vị thế ngày
càng cao của đất nước ta trên thế giới; thể hiện rõ ý chí của toàn Ðảng, toàn dân
ta quyết tâm xây dựng một quốc gia độc lập tự chủ, ổn định về chính trị, đồng
thuận về xã hội, xứng đáng là một trong những nền kinh tế phát triển năng động,
sẵn sàng thực hiện các cam kết chung với cộng đồng quốc tế.
4. Những chính sách giữ gìn và phát triển văn hóa
Các văn kiện từ Ðại hội lần thứ VI đến Ðại hội lần thứ X của Ðảng đã thể
hiện rất rõ quá trình đổi mới tư duy của Ðảng trong lý luận và thực tiễn, với một
hệ thống gồm nhiều vấn đề, liên quan trực tiếp đến tất cả các lĩnh vực của xã hội,
con người Việt Nam, trong đó có việc đặt ra, giải quyết quan hệ giữa văn hóa và
phát triển. Trong quá trình đó, bám sát thực tiễn và tổng kết thực tiễn đổi mới
của đất nước, Ðảng ta đã kế thừa, bổ sung, phát triển những quan điểm cơ bản
được trình bày trong Ðề cương văn hóa Việt Nam (1943) - văn kiện đầu tiên có
tính chất cương lĩnh của Ðảng ta về văn hóa, qua đó xây dựng các quan niệm
mới, toàn diện, ngày càng sâu sắc về vị trí, vai trò của văn hóa trong đời sống xã
hội và đối với phát triển. Ðó là bước tiến rất quan trọng trong tư duy có tính
chiến lược của Ðảng ta đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
Đại hội Đảng lần thứ VI
Ðại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986) tiên phong cho sự đổi mới của
đất nước, những vấn đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội được xem là quan
10
trọng và cấp thiết lúc này đòi hỏi phải có những phương hướng chính sách phù
hợp vì sự phát triển của quốc gia và lợi ích của nhân dân.
Trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình
hình thế giới và khu vực, Đảng luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ
trương, chính sách đổi mới đúng đắn trên nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực
văn hóa, chỉ đạo hoạch định các chính sách văn hóa nhằm thực hiện thắng lợi
mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Văn kiện Ðại hội Đảng lần thứ VI nhấn mạnh: "Không có hình thái tư

tưởng nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình
cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con
người".
Về chủ trương, đường lối mà Đảng xác định phải xây dựng là nền văn hóa
với đặc trưng dân tộc, hiện đại, nhân văn. Và có những định hướng phát triển về
văn hóa. Công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật phải được nâng cao chất lượng,
mỗi hoạt động văn hóa văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt
đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và
trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Quan tâm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu lành mạnh
của các tầng lớp xã hội và các lứa tuổi. Xây dựng các hệ thống thư viện, nhà văn
hóa, câu lạc bộ, viện bảo tàng, nhà truyền thống từ Trung ương đến địa phương.
Công tác xuất bản, công tác điện ảnh và công tác phát hành sách, báo, phim ảnh
cần được quản lí chặt chẽ, nâng cao chất lượng thông tin, đưa các phương tiện
truyền thông, về các vùng sâu vùng xa. Cải tiến chính sách đối với người làm
công tác nghệ thuật chuyên nghiệp, đãi ngộ xứng đáng đối với lao động nghệ
thuật, động viên, khuyến khích các tài năng. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cần thiết cho văn hóa và nghệ thuật, giữ gìn và tôn trọng những di tích lịch sử,
11
văn hóa. Hoàn thành việc sưu tầm vốn văn hóa và nghệ thuật các dân tộc,
khuyến khích tìm tòi và thể nghiệm, bảo đảm các đơn vị nghệ thuật hoạt động ổn
định và ngày một nâng cao chất lượng, ngăn chặn khuynh hướng thương mại và
các hiện tượng tiêu cực khác. Đại hội đã có những bước tiến đáng kể trong việc
định hướng phát triển văn hóa.
Ðại hội Đảng lần thứ VII
Sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới bên cạnh việc đạt được những
thành tựu nhất định, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế
xã hội, vượt qua những khó khăn trước mắt thì cũng phải nhìn nhận rằng chúng
ta chỉ mới đổi mới hình thức, tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân vẫn còn
nhiều khó khăn, đất nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội cho
nên từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1991, nước ta đã tiến hành Đại hội Đại biểu

toàn quốc lần thứ VII do đồng chí Võ Chí Công, Ủy viên Bộ chính trị Ban Chấp
hành Trung ương (khóa VI) trình bày. Đại hội diễn ra trong bối cảnh quốc tế và
trong nước có những diễn biến phức tạp, đó là sự khủng hoảng trầm trọng của
chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống phá nhiều phía vào
chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng Sản, những âm mưu
và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội hiện
thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những người cộng sản trên
thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ, Đảng
viên và nhân dân Việt Nam.
Thông qua Đại hội này, Đảng ta đã đưa ra một số đường lối, phương
hướng, chủ trương, chính sách… về các mặt trong đời sống kinh tế - văn hóa - xã
hội để từ đó từng bước đưa đất nước phát triển đi lên. Bên cạnh việc phát huy
những định hướng từ Đại hội VI thì đại hội VII cũng có chính sách mới và cụ thể
hơn.
12
Nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần của nhân dân, xây dựng nền văn
hóa mới, lối sống mới, con người mới, bắt đầu từ mỗi gia đình. Chọn lọc, giữ gìn
và nâng cao tinh hoa văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và của từng
dân tộc. Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ và chữ viết của các dân tộc. Tiếp thu
những giá trị văn hóa, khoa học của nhân loại. Dùng nhiều hình thức sinh động
giáo dục lý tưởng, trau dồi đạo đức, bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn và thẩm mỹ,
nâng cao trình độ hiểu biết và hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật của nhân dân, ngăn
chặn các văn hóa phẩm và hoạt động nghệ thuật gây độc hại. Hình thành nếp
sống và tâm lý xã hội có sức đề kháng chống những lề thói, tư tưởng lạc hậu, lối
sống thấp hèn, suy đồi đạo đức. Bảo vệ nhân phẩm của phụ nữ.
Khuyến khích tự do sáng tạo các giá trị văn hóa, vun đắp các tài năng. Giữ
gìn và nâng cao các loại hình văn hóa, nghệ thuật truyền thống, bảo vệ và tôn tạo
các di tích văn hóa, lịch sử. Nhà nước đầu tư thích đáng và có cơ chế quản lý
thích hợp với các hoạt động văn hóa, nghệ thuật.
Tăng cường và hiện đại hóa công tác thông tin đại chúng, nâng cao chất

lượng, nội dung phù hợp với các loại đối tượng, các dân tộc và mở rộng tới các
vùng xa xôi hẻo lánh. Phủ sóng phát thanh, truyền hình trên cả nước.
Phát triển các hình thức hoạt động văn hóa của cả Nhà nước, tập thể và tư
nhân. Khắc phục tình trạng hành chính hóa các đơn vị hoạt động văn hóa, nghệ
thuật và xu hướng thương mại hóa đơn thuần trong lĩnh vực này.
(Nguồn: trang 184, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, tập 51 nhà xuất bản chính trị
quốc gia Hà Nội - 2007)
Đảng vẫn tiếp tục khẳng định Việt Nam phải "Có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc", Đảng và Nhà nước đã đề ra phương hướng: "Xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội".
13
Ðại hội Đảng lần thứ VIII
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra
từ ngày 28/6/1996 đến 1/7/1996, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Đại hội diễn ra
trong bối cảnh Liên Xô tan rã và chủ nghĩa xã hội đi vào thoái trào. Cách mạng
khoa học và công nghệ phát triển với trình độ ngày càng cao, nền kinh tế thị
trường đang mở của, sự bùng nổ của thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa dang
mở rộng từng ngày từng giờ, tác động vào ý thức chính trị và tư tưởng. Trước
tình hình đang diễn ra như thế, Đại hội đã đưa ra nghị quyết về văn hóa với mục
tiêu cơ bản: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc”, trong đó Đại hội khẳng định “Qua thực tiễn 10 năm đổi mới chúng
ta nhận thức rõ là không chờ kinh tế phát triển cao rồi mới giải quyết các vấn đề
xã hội, mà ngay trong từng bước và suốt quá trình phát triển, tăng cường kinh tế
luôn phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội”. Đại hội đã nêu ra những
quan điểm chỉ đạo cơ bản nhằm đạt được mục tiêu trên trong xây dựng và phát
triển văn hóa:
• Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu động lực thúc
đẩy và phát triển kinh tế - xã hội.
• Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.

• Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
• Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
• Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
14
Mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa được cụ thể hoá thành những
nhiệm vụ:
• Xây dựng con người Việt Nam theo những chuẩn mực, có tinh thần yêu
nước, có đạo đức, mình vì mọi người, mọi người vì mình, có lối sống lành
mạnh, nếp sống văn minh, suốt đời học tập để nâng cao trình độ.
• Xây dựng môi trường văn hóa hài hòa với môi trường xã hội có trình độ
dân trí cao. Đời sống tinh thần nhân dân phong phú, xã hội yên ấm tiến bộ,
môi trường tự nhiên sạch đẹp, được bảo vệ chăm sóc thường xuyên.
Bên cạnh những vấn đề phát triển và bảo tồn các loại hình văn hóa, dân
tộc, dân gian như các kì Đại hội trước thì chính sách văn hóa đối với tôn giáo,
việc mở rộng hợp tác quan hệ văn hóa với các nước bạn, củng cố xây dựng hoàn
thiện các thể chế văn hóa… cũng được đề cập đến.
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII của Đảng về xây dựng và phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã xác định rõ quan
điểm: “Chính sách kinh tế trong văn hoá nhằm gắn văn hoá với các hoạt động
kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hoá, đồng
thời đảm bảo yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hoá, giữ gìn bản sắc
văn hoá dân tộc”. Nghị quyết thể hiện sự thống nhất giữa đường lối, luật pháp,
chính sách của Nhà nước, biện pháp giáo dục và phong trào xây dựng văn hóa
của toàn đảng toàn dân, đồng thời nó cũng thể hiện cho sự thống nhất giữa nói và
làm từ trong Đảng, Nhà nước ra đến ngoài xã hội, nó mang tầm vóc của một
chiến lược văn hóa nếu được triển khai thực hiện tốt thì có thể đẩy mạnh công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Các chính sách văn hóa đều theo tinh thần xã

hội hóa. Hiện nay còn không ít người hiểu vấn đề xã hội hóa chưa đầy đủ. Điều
đó trở thành lực cản cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Công tác giáo
dục, tuyên truyền cần phải làm cho mọi người nhận thức được xã hội hóa là vấn
15
đề hết sức cần thiết, nhất là đối với hoàn cảnh kinh tế của nước ta còn nhiều khó
khăn, Nhà nước không thể “bao” toàn bộ. Xã hội hóa là nhằm tạo sự quan tâm
của toàn xã hội; thu hút trí tuệ, nhân lực, vật lực của toàn xã hội; gây nhân tố
thúc đẩy các hoạt động văn hóa phát triển theo hướng biến đổi về chất, đổi mới
về hình thức và nội dung. Xã hội hóa cũng là một nội dung quan trọng của giải
pháp xây dựng, ban hành các chính sách văn hóa trong Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII. Trong quá trình đất nước thực hiện chủ trương đổi mới, nền kinh tế
phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì xã hội hóa hoạt
động văn hóa được coi như một động lực thúc đẩy các hoạt động văn hóa phát
triển.
Đại hội Đảng lần thứ IX
Đại hội Đảng lần thứ IX diễn ra từ 14/4 đến 22/4/2001 đã có những định
hướng phát triển văn hóa cụ thể như sau:
Đẩy mạnh cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá"; "Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá"; phong trào "Người tốt,
việc tốt". Thực hiện tốt phong trào thi đua yêu nước, động viên toàn dân tham
gia phát triển kinh tế - xã hội, phát huy tài năng, lao động sáng tạo để xây dựng
cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, thoát cảnh nghèo nàn, lạc hậu. Nhân rộng
những điển hình tốt trên các mặt sản xuất, kinh doanh và các hoạt động xã hội;
kiên quyết đấu tranh loại trừ các hiện tượng tiêu cực và các tệ nạn xã hội.
Phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; bảo tồn và tôn tạo các di sản văn hoá
vật thể và phi vật thể làm nền tảng cho sự giao lưu văn hoá giữa các cộng đồng,
giữa các vùng cả nước và giao lưu văn hoá với bên ngoài. Tiếp tục đưa các hoạt
động văn hoá thông tin về cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc;
phát động phong trào toàn dân tham gia thực hiện nếp sống văn minh, gia đình,
bản, làng văn hoá; tiến tới hoàn chỉnh hệ thống thiết chế văn hoá bằng nguồn lực

16
nhà nước và mở rộng xã hội hoá, làm cho văn hoá thấm sâu vào từng khu dân cư,
từng gia đình, từng người. Phấn đấu 80% gia đình đạt chuẩn gia đình văn hoá;
50% làng xóm, khu phố đạt chuẩn văn hoá quốc gia; 78% xã phường có nhà văn
hoá; bình quân mỗi người dân có 4 bản sách/năm.
Đầu tư thích đáng để đào tạo nhân tài, nghệ sĩ; có chính sách động viên lực
lượng văn học nghệ thuật sáng tác, xây dựng các công trình, các tác phẩm có giá trị
về nội dung và nghệ thuật. Xây dựng làng văn hoá các dân tộc Việt Nam thành
trung tâm giáo dục văn hoá, nghệ thuật dân tộc.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống phủ sóng phát thanh, truyền hình trên cả
nước, bảo đảm trên 90% các hộ gia đình xem được Đài Truyền hình Việt Nam
và nghe được Đài Tiếng nói Việt Nam. Phát triển và hiện đại hoá mạng lưới
thông tin đại chúng, mở rộng mạng lưới khai thác Internet với sự quản lý của
Nhà nước.
Phát triển mạnh các hoạt động thể dục, thể thao cả về quy mô và chất
lượng, góp phần nâng cao thể lực và phát huy tinh thần dân tộc của con người
Việt Nam; chuẩn bị tốt các điều kiện cho việc đăng cai tổ chức và tham gia SEA
Games 2003 tại Việt Nam; thực hiện xã hội hoá các hoạt động thể thao mang
tính chuyên nghiệp.
Đại hội Đảng lần thứ X
Đại hội Đảng lần thứ X diễn ra từ 18/4 – 25/4/2006. Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là "Làm cho văn hoá thấm sâu vào từng khu
dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt
Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá
của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hoá đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính
văn hoá trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân
dân”.
17
Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp
ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm sự gắn kết giữa
nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát
triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng đời sống văn hoá tiên
tiến, thúc đẩy sáng tạo văn hoá và xây dựng thiết chế văn hoá. Đặc biệt coi trọng
nâng cao văn hoá lãnh đạo và quản lý, văn hoá trong kinh doanh và văn hoá
trong nhân cách của thanh niên, thiếu niên; chống những hiện tượng phản văn
hoá, phi văn hoá.
Xúc tiến xã hội hoá các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thông tin với bước
đi thích hợp cho từng loại hình, từng vùng. Huy động các nguồn lực và sức sáng
tạo trong xã hội để đầu tư xây dựng các công trình và thiết chế văn hoá, tổ chức
các hoạt động văn hoá, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, đoàn
thể tham gia hoạt động văn hoá, nghệ thuật, quản lý và bảo vệ di tích, di sản
văn hoá.
Mở rộng giao lưu văn hoá, thông tin với thế giới.
Đổi mới và tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hoá - thông
tin. Sắp xếp lại hệ thống báo chí.
***
Vai trò của các chính sách văn hóa trong việc giữ gìn và phát huy một nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Trước một quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng trên tất cả mọi lĩnh
vực về kinh tế, chính trị, ngoại giao, và đặc biệt là văn hóa. Thì việc giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cần phải được chú trọng và quan tâm nhiều hơn
nữa. Qua các kì đại hội từ sau khi đổi mới ta cũng nhận ra rằng Đảng và nhà
18
nước đã có những chính sách phù hợp tác động tích cực đến sự phát triển văn
hóa.
Chính sách văn hóa có một vai trò vô cùng quan trọng, vì đó chính là
những công cụ hỗ trợ trong việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc.
Trước một xã hội đa văn hóa như hiện nay, sự xâm nhập ngày càng ồ ạt

của các làn văn hóa Nhật, Hàn Quốc, Âu Mỹ thì các bạn trẻ chính là những
người bị tác động mạnh mẽ nhất. Các chính sách văn hóa lúc này cần phát huy
vai trò của mình trong việc khơi dậy tinh thần dân tộc, nhân văn, của người Việt,
đặc biệt là với giới trẻ, giáo dục cho họ về các truyền thống tốt đẹp và lịch sử
hào hùng của dân tộc.
Chính sách phát triển văn hóa kết hợp hài hòa với các chính sách phát
triển về kinh tế tài chính và du lịch là điều vô cùng cần thiết, vì muốn duy trì các
hoạt động văn hóa, giữ gìn các loại hình nghệ thuật dân gian, trùng tu các di tích,
xây dựng các trung tâm văn hóa thì cần có một nguồn vốn sẵn có, và muốn
quảng bá văn hóa Việt ra các nước bạn thì việc lồng ghép văn hóa vào du lịch là
một hướng đi đúng đắn. Lúc này vai trò các chính sách là không thể thiếu.
Những chính sách văn hóa còn có vai trò định hướng trong việc bảo tồn và
gìn giữ những loại hình văn hóa truyền thống, các lễ hội dân gian. Tiêu biểu có
nhã nhạc cung đình, cồng chiêng Tây Nguyên, hay lễ hội Gióng đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Qua đó bạn bè quốc tế cũng đã
biết đến Việt Nam không chỉ có lịch sử đấu tranh yêu nước chống xâm lược mà
còn có những văn hóa rất đặc trưng, nếu không có những chính sách đó thì
những loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc dễ bị rơi vào quên lãng và
đây thật sự là một điều đáng tiếc.
19
Cải cách chính sách văn hóa trong việc đãi ngộ xứng đáng cho người làm
công tác nghệ thuật, có vai trò to lớn trong việc phát huy mạnh mẽ những nội lực
sẵn có, đồng thời thu hút những tài năng trẻ trong việc đào tạo nguồn lực hoạt
động văn hóa nghệ thuật sau này. Đảm bảo tự do và dân chủ trong hoạt động
sáng tạo văn học, nghệ thuật, báo chí xuất bản, phát huy vai trò tích cực của các
lĩnh vực này trong việc xây dựng môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh. Đồng
thời nâng cao trách nhiệm của đội ngũ văn nghệ sĩ, đội ngũ những người làm báo
đối với nhân dân, dân tộc và thời đại, nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường,
các viện về văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản.
Chính sách xây dựng các trung tâm văn hóa thể dục thể thao, công viên,

khu vui chơi giải trí là một chính sách hợp lí, tạo cơ hội cho người dân có nơi để
sinh hoạt vui chơi lành mạnh.
Chính sách văn hóa còn có vai trò trong việc mở rộng giao lưu văn hóa với
các nước bạn, tiếp nhận văn hóa có chọn lọc để tạo nên một nền văn hóa đa dạng
phong phú nhưng không xô bồ, chống sự xâm nhập văn hóa độc hại, lai căng,
phản động.
Chính sách văn hóa còn có vai trò kiến thiết lại hệ thống văn hóa sao cho
phù hợp với sự phát triển chung của toàn xã hội, xây dựng và hoàn thiện các
chính sách đảm bảo gắn kết chặt chẽ văn hóa với phát triển kinh tế và chính trị,
đảm bảo phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng và
tiến bộ xã hội. Nâng cao chất lượng của việc xây dựng văn hóa chính trị, xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước.
Coi trọng văn hóa lãnh đạo và văn hóa quản lý.
Chính sách văn hóa đúng định hướng của Đảng, bám sát yêu cầu về tư
tưởng chính trị còn góp phần tạo nên sự ổn định và lành mạnh hóa xã hội.
20
Tất cả những điều nói trên điều nhằm một mục đích duy nhất là “Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn
diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ
tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã
hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
III. KẾT LUẬN
Toàn cầu hóa luôn có hai mặt của nó. Làm sao để chúng ta có thể phát huy
được những lợi thế khi hội nhập với thế giới, và hạn chế tối đa những tiêu cực
khi mở cửa ra bên ngoài chính là vấn đề cốt lõi cần phải xem xét cẩn trọng. Kinh
tế là vấn đề cần được ưu tiên, nhưng văn hóa cũng cần được quan tâm đúng mức.
Sự hội nhập về văn hóa không chỉ đơn thuần giúp chúng ta có thể tiếp cận với
những văn hóa hay và đẹp của các nước bạn, nó còn đặt ta trước thử thách là làm
sao để giữ vững được văn hóa đặc sắc và giàu bản sắc dân tộc của nước mình khi
mà trào lưu theo văn hóa Nhật, Hàn, phương Tây đang xâm nhập và tác động

mạnh mẽ. Có thể nói toàn cầu hóa đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối với văn
hóa dân tộc. Đảng và nhà Nước ta rất quan tâm đến vấn đề này, chính sách giữ
gìn và phát triển văn hóa của Việt Nam đã thể hiện quan điểm đúng đắn, kịp
thời, tinh thần và thái độ đầy trách nhiệm đối với văn hóa từ phía Đảng và Nhà
nước. Chúng ta cần có sự quan tâm hơn nữa đến các chính sách về văn hóa trong
quá trình toàn cầu hóa để xây dựng nền tảng vững chắc, đảm bảo cho Việt Nam
phát triển về kinh tế và có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
21

×