Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Tài liệu Đề án :"Sự hình thành và phát triển nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.83 KB, 31 trang )










Tiểu luận :"Sự hình thành và phát
triển nền Kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam"







A: LỜI NÓI ĐẦU

Trong thời kì đầu của xã hội loài người từ khi lực lượng sản xuất phát
triển và có nhiều thành tựu mới, con người dần thoát khỏi nền khinh tế tự nhiên
và chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Nền kinh tế hàng hoá phát triển
càng mạnh mẽ và đến đỉnh cao của nó là nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị
trường có những ưu việt của nó , đó là sự thoả mãn tối
đa nhu cầu của con người
vói một khối lượng hàng hoá khổng lồ. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ những hạn chế
, nhất là trong chế độ xã hội TBCN , một chế độ xã hội ở đó chỉ có lợi nhuận
được chú trọng hàng đầu dẫn đến sự phân hoá xã hội sâu sắc và quyền bình đẳng
trong xã hội bị xem nhẹ.


Nước ta sau khi giành được độc lập ở miền Bắc , Đả
ng đã xác định đưa
đất nước lên tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Khi miền Bắc
hoàn toàn được giải phóng thì cả nước bước vào thời kì quá độ lên CNXH. Đại
hội Đảng VI (1986) là một bước ngoặt lịch sử của nền kinh tế với đường lối mới
của Đảng để phát triển đất nước. Theo đó ta xây dựng và phát triển nền kinh tế
thị trường có sự qu
ản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tư tưởng ấy
càng được nhấn mạnh trong các kì đại hội tiếp theo của Đảng.
Cho tới nay, sau gần hai mươi năm đổi mới ta đã gặt hái được nhiều
thành tựu đáng kể. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có khá nhiều những mặt cần điêù
chỉnh.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu em chọn đề tài:"Sự hình thành và phát triển
nền Kinh tế thị trườ
ng định hướng XHCN ở Việt Nam"









B:NỘI DUNG
I.NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG:

1.KHÁI NIỆM KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:
Kinh tế thị trường hình thành từ quá trình sản xuất hàng hoá.Sản xuất

hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra là để
bán trên thị trường.Trong kiểu tổ chức kinh tế này, toàn bộ quá trình sản
xuất_phân phối_trao đổi_tiêu dùng , sản xuất như thế nàovà cho ai đều thông
việc mua bán,thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định.
Cơ sở
kinh tế - xã hội của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá và
phân công lao động xã hội và về kinh tế giữa người sản xuất này với người sản
xuất khác do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.Khi sản
phẩm lao động trở thành hàng hoá thì người sản xuất trở thành người sản xuất
hàng hoá,lao động của người sản xuất hàng hoá vừa có tính ch
ất tư nhân , cá biệt
, lao động của người sản xuất hàng hoá bao hàm sự thống nhất giữa hai mặt đối
lập là tính chất xã hội và tính chất tư nhân , cá biệt lao động của sản xuất hàng
hoá.Đối với mỗi hàng hoá mâu thuẫn đó được giải quyết trên thị trường.
Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử lâu dài .
Đầu tiên là sản xuất hàng hoá giản đơn . Sản xuất hàng hoá giả
n đơn là sản xuất
hàng hoá nông dân , thợ thủ công dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và
sức lao động của bản thân họ.
Đây là một kiểu sản xuất nhỏ , dựa trên kĩ thuật thủ công và lạc hậu khi
lực lượng sản xuất phát triển cao hơn ,sản xuất hàng hoá giản đơn chuyển thành
sản xuất quy mô lớn . Quá trình chuyển biến này di
ễn ra trong một thời kì quá
độ từ xã hội phong kiến sang chế độ tư bản.
Trong một nền kinh tế sản xuất hàng hoá chiếm địa vị thống trị thì đó là
nền kinh tế hàng hoá , khi nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường
thì nền kinh tế này là nền kinh tế thị trường
Như vậy nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ

chế thị trường thì nền kinh tế này là nền kinh tế thị trường.Cơ chế thị trường là

tổng thể các nhân tố, quan hệ ,môi trường , động lực và quy luật chi phối sự vận
động của thị trường . Trong cơ chế thị trường động lực hoạt động của các thành
viên là lợi nhuận , lợi nhuận có tác dụng lôi kéo các doanh nghiệp sản xuất mà
xã hội cần . Cơ ch
ế thịa trường dùng lỗ, lãi để quyết định các vấn đề kinh tế cơ
bản. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường là tự vận động tuân theo những quy
luật vốn của nó, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền
tệ, các quy luật vị trí, vai trò độc lập, song lại có mối liên hệ chặt chẽ, tác động
qua lại lẫn nhau, và tạo ra nhữ
ng nguyên tắc vận động của thị trường.
2.Các quy luật hình thành, phát triển kinh tế thị trường
2.1. Vấn đề phân công lao động xã hội :
a. Khái niệm phân công lao động xã hội:
Phân công lao động xã hội là việc chuyên môn hoá người sản xuất, mỗi
người chỉ sản xuất một hoặc một vài sản phẩm nhất định, hay nói cách khác: Sự
phân công lao động xã hội là cách điều chỉnh hạn chế một cách thích ứng những
cá nhân vào những lĩnh vực nghề nghiệp đặc thù.
b. Đặc điểm và tác dụng của việc phân công lao động xã hội
* Đặc
điểm:
Tiền đề vật chất của sự phân công lao động trong xã hội là số lượng dân
cư và mật độ dân số.phải có một mật độ dân số nào đó để có thể phát triển nột
cách thuận lợi cho những giao dịch xã hội, cũng như để phối hợp các lực lượng
nhờ thế mà năng xuất lao động tăng lên, khi số lượng công nhân tăng lên( do
dân số t
ăng lên ) thì sức sản xuất của xã hội càng tăng lên theo tỷ lệ kép của sự
tăng lên đó, nhân với hiệu quả của sự phân công lao động.
Sự phân công lao động được hình thành khi có sự phân tán tư liệu sản
xuất vào tay nhiều người sản xuất hàng hoá độc lập với nhau. Sự phân công lao
động xã hội xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của xã hội và đạt những người sản

xuấ
t hàng hoá độc lập " đối diện " với nhau, những người này chịu sự tác động
rất lớn của quy luật cạnh tranh.
Cơ sở của mọi sự phân công ao động phát triển là lấy trao đổi hàng hoá
làm mỗt giá và có sự tách rời giữa thành thị và nông thôn.
Đối với sự phân công lao động có một quy tắc chung là :puyền lực càng ít
chi phối sự phân công lao động trong xã hội bao nhiêu, thì sự phân sự phân công
lao động trong xí nghiệp sản xuất ngày càng phát triể
n bấy nhiêu, và ở đấy nó lại
càng phụ thuộc vào quyền lực của một cá nhân.
*Tác dụng:
Sự phân công lao động trong xã hội làm cơ sở chung cho mọi nền sản
xuất hàng hoá, chính sự phân công lao động trong xã hội làm cho sức lao động
trở thành hàng hoá.
Sự phân công lao động đặt cơ sở cho việc hình thành những nghề nghiệp
chuyên môn, những ngành chuyên môn nhằm nâng cao sức sản xuất.
Sự phân công lao động theo vùng với ngành sản xuất chuyên môm hoá
đặc tr
ưng sẽ là yếu tố quyết định sự khai thác có hiệu quả và phát huy thế mạnh
của vùng. Sự phân công lao động trong xã hội khi đã phát triển đến một trình độ
nào đó thì sẽ dẫn đến sự phân công lao động ở tầm vi mô- các xí nghiệp, các
hãng sản xuất - điều này làm cho các giai đoạn sản xuất ra sản phẩm bị chia
nhỏ,sản phẩm được hoàn thiẹn về chất lượng, dễ
dàng ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật .Sự phân công lao động áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật làm việc
sản xuất đi vào chuyên môn hoá, nâng cao tay ngề của người sản xuất, tăng năng
suất lao động xã hội.
c. Hướng phân công và việc thực hiện ở nước ta:
Khi sản xuất hàng hoá ra đời, phát triển đến mức cao điển hình là ở xã hội
tư bản thì đòi hỏi sự phân công lao động sâu sắc để đi vào chuyên môn hoá cao,

đáp ứng nhu cầu, yêu cầu của nền kinh tế thị trường, từ trước tới nay trong xã
hội đã xuất hiện ba lần phân công lao đọng xã họi lớn :
Chăn nuôi tách ra khỏi trồng trọt
Xuất hiên nhiều ngành thủ công nghiệp
Xuất hiện thương nghiệp
ở nước ta muốn phát triển kinh tế hàng hoá phải phân công lại lao
động xã
hội cả trên mối quan hệ kinh tế quốc tế và trong nước.
*Đối với trong nước : tất yếu phải tiến hành phân công lao động xã hội
trên phạm vi cả nước cũng như từng ngành, từng cơ sở. Sự phân công lao động
xã hội trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường cần chú trọng các quy luật:
- Tỷ lệ và số tuyệt đối của lao động trong nông nghiệp giảm xuống, t
ỷ lệ
và số tuyệt đối của lao động trong công nghiệp tăng lên .
- Tỷ lệ lao động trí óc ngày càng tăng lên và chiếm phần lớn trong tổng
lao động xã hội .
-Tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất phi vật chất ( dịch vụ,
thương nghiệp ....) tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản
xuất vật chất .
Trong những năm trước mắt, ở nước ta hi
ện nay việc phân công lao động
xã hội cần phải tiến hành trên tất cả các địa bàn. Tiến hành sắp xếp, phân bố lại
chỗ hoặc chuyển một bộ phận từ nơi này sang nơi khác để xây dựng các vùng
kinh tế mới. Tuy nhiên, chúng ta cần đặc biệt chú trọng ưu tiên cho việc sắp xếp,
điều chỉnh lại chỗ vì điều đó cho phép từng địa phương, từng đơn v
ị cơ sở tự
khai thác hết tiềm năng ,những thế mạnh sẵn có của đơn vị mình, đồng thời từng
bước hình thành các cụm kinh tế - kỹ thuật - dịch vụ nông thôn cũng như ở
thành thị.
*Đối với quốc tế : Để tham gia và phân công lại lao động xã hội cả trên

mối quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta cần hiểu rõ những đặc điểm và xu h
ướng
hiện đại của nền kinh tế thế giới, đó là những đặc điểm sau:
- Nền kinh tế thế giới là một thể thồng nhất , bao gồm các nền kinh tế khu
vực và quốc gia rất đa dạng , phát triển không đồng đều, chứa đựng nhiều mâu
thuẫn.
-Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại , đang
diễn ra quá trình quốc tế hoá kinh tế , cụ thể là :
+ Đẩy mạnh sự phân công lao động giữa các khu vực trên thế giới và giữa
các quốc gia trong từng khu vực .
+ Tăng cường hợp tác và nhất thể hoá kinh tế thế giới, đặc biệt là phạm vi
từng khu vực
Là một quốc gia phát triển , Việt Nam có những lợi thế can bản để có thể
tham gia tích cực vào phân công lao động khu vực và quốc tế. Những l
ợi thế đó
trước hết là :
- Vị trí địa lý thuận lợi : Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa , tự nhiên
Việt Nam rất phong phú và đa dạng , khác hẳn với các nước có cùng vĩ độ ở Tây
á , Đông phi , Tây phi. Đặc điểm này có tác động sâu sắc đến cơ cấu, quy mô và
hướng phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam . Việt Nam nằm ở rìa đông bán
đảo Đông Dương , gần trung tâm Đông Nam á có vùng biển chủ quyền rộng lớn
và giàu ti
ềm năng, dễ dàng phát triển kinh tế - thương mại, văn hoá và khoa học
kỹ thuật với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam nằm trong khu
vực diễn ra các hoạt động sôi động nhất thế giới trước thế kỷ 21, các nước
ASEAN mà Việt Nam là thành viên chính thức kể từ tháng 7/95 đang ngày càng
chiếm địa vị cao trong nền kinh tế thế giới/
- Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng.
- Nguồn tài nguyên nhân vă
n phong phú bao gồm bản thân con người và

hệ thống giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình phát triển lịch sử dân
tộc . Đường lối đổi mới và chính sách mở cửa do Đảng ta đề ra từ đại hội thứ
sáu đã mang lại kết quả rất uan trọng , tạo ra môi trường thuận lợi để Việt Nam
tham gia ngày càng tích cực vào phân công lao động trong khu vực và quốc tế ,
nhanh chóng hoà nhập vào thị trường quốc tế.
Để nâng cao vai trò và vị
trí của Việt Nam trong hệ thống phân công lao
động khu vực quốc tế , đòi hỏi phát huy tinh thần tự lục tự cường và những lợi
thế nói trên.
2.2. Quá trình tự do hoá kinh tế qua đa dạng hoá các hình thức sở hữu
* Đa dạng hoá sở hữu- Nhân tố cơ bản hình thành nền kinh tế thị trường :
Trung tâm của nền kinh tế thị trường là quy luật sở hữu , sở hữu của
chính mình , sở
hữu vật dụng và sở hữu trí tuệ, quyền được hưởng thụ ích lợi từ
việc trồng trọt và cải tạo đất là động lực phát triển nông nghiệp . Quyền được
hưởng thụ những điều mình làm là động lực phát triển thị trường lao động.
Quyền được hưởng trực tiếp thành quả của vốn sản xuất thúc đẩy đầu tư vào nhà
máy và trang thi
ết bị , quyền được bảo đảm cư trú một địa điểm cố định thúc đẩy
đầu tư cá nhân vào nhà ở. Hơn nữa , quyền chuyển nhượng tài sản có tầm quan
trọng thiết yếu đói với việc sử dụng hữu hiện đát đai , lao đọng vốn. Chỉ có
thông qua chyển nhượng thì của cải các loại mới có thể sử dụng đúng giá trị
của
nó.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường thì ạnh tranh chính là cơ chế bảo đảm
cho nền kinh tế phát triển năng động và sử dụng các nguồn nhân lực của xã hội
có hiệu quả . Nhưng cạnh tranh chỉ nảy sinh trong môi trường có những chủ sở
hữu khác nhau. Vì vậy việc chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường là tất yếu phaỉ xây d
ựng các quan hệ hình thức sở hữu . Bản

chất của việc này là thay thế các quan hệ và các hình thức sở hữu chỉ tồn tại trên
danh nghiã bằng các quan hệ và các hình thức có ý nghĩa kinh tế thực sự có chủ
thể cụ thể , đó là những người sản xuất hàng hoá tự do.
Để chuyển sang nền kinh tế thị trường ,Đảng và nhà nước ta cần đa dạng
hoá và cải cách lại chế độ sở hữu , đặc biệt là khu vực kinh tế nhà nước ,để tự do
sở hữu nhà nước phải ban hành luật pháp về vấn đề sở hữu .
Một bước tiến quan trọng trong quá trình Việt Nam chuyển sang nền kinh
tế thị trường đã diễn ra vào tháng 4/92,khi Quốc hội thông qua hiến pháp mới
công khai choa phép sở hữu tư nhân và còn tăng cường sự bảo hộ của nhà n
ước
đối với hình thức sở hữu này .Hiến pháp này xác định có 3 hình thức rở hữu :sở
hữu toàn dân , sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Hơn nữa, cả ba hình thức đều
được nhà nước bảo hộ . Quốc hữu hoá quyền sở hữu tư nhân đều bị cấm và việc
trưng dụng cần thiết tài sản phải được đền bù , quyền thừa kế
và quyền chuyển
nhượng cũng đfược bảo hộ .
Quyền sở hữu tư nhân ,yếu tố cần thiết cho nền kinh tế thị trường , đã bắt
đầu phát triển rất lâu trước khi hiến pháp được sửa vào năm 1992. Chúng ta có
thể thấy rõ bằng chứng về hoạt động của khu vực tư nhân tăng trong những năm
trước , tuy nhiên đứng trên góc độ hệ thống pháp lý mà xét , vi
ệc tạo cơ sở rõ
ràng cho sở hữu và chuyển nhượng tài sản có tầm quan trọng vì hai lý do .Thứ
nhất ,luật chấp nhận chính thức điều này sẽ là dấu hiệu cho những người có thể
trở thành nhà kinh doanh tư nhân và các nhà đầu tư thấy rằng hoạt động kinh tế
tư nhân là chính thức được phép và khuyến khích. Khi chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường , lo
ại khuyến khích chính thức này có thể
có trọng lượng đôi chút . Thứ hai , những cá nhân khởi sự hoạt động kinh tế tư
nhân trên cơ sở chính thức được phép có thể dựa vào pháp luật để bảo vệ hoạt
động kinh doanh của họ trong tương lai . Điều cần chú ý ở đây là hiến pháp của

Trung Quốc cũng có điều khoản về sở hữu tương tự như hiến pháp n
ăm 1990
của Việt Nam , nhưng năm 1988 Trung Quốc phải bvan hành những điểm bổ
xung hiến pháp để bảo vệ quyền sở hữu tư nhân một cách rộng rãi.
Một mặt của hoạt động thương mại cần có cơ cấu khung về pháp lý có
hiệu lực trong điều kiện kinh tế thị trường là bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ để thúc
đẩy việ
c tạo ra mặt hàng và những quy trình sản xuất mới là mới ở Việt nam và
sử dụng hàng hoá và quy trình sở hữu có chủ sở hữu được tạo ra ở nơi khác
,khuyến khích phát triển và lưu hành nhãn hiệu thương phẩm được thị trường
công nhận.Đẩy mạnh việc phổ biến ở Việt Nam phần mềm tin học cũng như tác
phẩm văn học có chủ sở hữu ti
ến bộ trên tất cả các lĩnh vực này phải dựa trên
quyền và biện pháp hợp pháp đối với bằng sáng chế , nhãn hiệu thương hiệu bản
quyền .
Ngoài những hình thức sở hữu trên cùng với quá trình mở cửa nền kih tế
các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức như :liên
doan , mua cổ phiếu , đầu tư trực tiếp nên sẽ xuất hi
ện nhiều hình thức sở hữu
nước ngoà ở nước ta .
Tóm lại để cho cơ cấu quan hệ về các hình thức sở hữu thích ứng với nền
kinh tế thị trường đòi hỏi Đảng và nhà nước ta phải xây dựng một hệ thống pháp
luật đồng bộ về hình thức sở hữu , hình thức sở hữu đa dạng , tự nguyện sẽ nảy
sinh ra các hình thức tổ chức sản xuất mới thích hợp , hiệu quả và sáng tạo ở
nước ta. Quan hệ sở hữu đa dạng sẽ làm cho thị trường hoạt động uyển chuyển
trong một thể thống nhất , trong đó quốc doanh cần nắm giữ những ngành ,
những lĩnh vực then chốt tác dụng thúc đẩy sự ổn định và tăng trưởng kinh tế .
2.3. Phát triển khoa học - k
ỹ thuật công nghệ :
a. Mối liên hệ biện chứng giữa khoa học công nghệ và kinh tế thị

trường ở nước ta :
* Sự tác động của khoa học - công nghệ đối với kinh tế thị trường :
Nước ta là một nước nông nghiệp với điểm xuất phát thấp về lực lượng
sản xuất , về trình độ xã hội hoá lao động và xã hội hoá sản xuất .Sự thấp kém
này đã kìm hãm quá trình chuyển biến nền kinh tế mang nặng tính tự cung tự
cấp sang kinh tế thị trường .Việc phát triển khoa học công nghệ chính là để thay
đổi về chất lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất của nước
ta nhằm thúc đẩy quá trình chuyển biến nền kinh tế từ chậm phát triển sang phát
triển , chuyển nền kinh tế sang thị trường .
Dưới sự tác động c
ủa khoa học công nghệ làm biến đồi về chất lực lượng
sản xuất theo hướng thực hiện từng bước chiến lược đồng bộ hoá giữa tư liệu
sản xuất hiện đại với con người hiện đại nhằm nâng cao trình độ xã hội hoá sản
xuất . Đến lượt nó , sự đồng bộ hoá này lại tác động làm biến đổi sở hữu và cơ
chế
thị trường ở nước ta theo hướng độc quyền , độc tôn sang sở hữu hỗn hợp đa
dạng , từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý
vĩ mô của nhà nước.
Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ theo hướng
đã xác định làm cho nền kinh tế thị trường nước ta từng bước thích nghi với tốc
độ
nhanh của tính chất mới của nền kinh tế thị trường thế giới.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế qua sự phân công lao động làm thay
đổi từng bước cơ cấu ngành vùng , thay đổi chiến lược kinh doanh , thay đổi cơ
cấu giá trị hàng hoá nhất là trong ngành công nghệ mới .
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nâng cao năng lực tích luỹ từ nội bộ nền
kinh tế tạo điều ki
ện thay đổi chiến lược tái sản xuất giản đơn sang phát triển cả
về chiều rộng lẫn chiều sâu .
*Sự tác động của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghiã đối

với sự phát triển của khoa học- công nghệ ở nước ta .
Nền kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tác động tích cực
đến sự phát triển củ
a khoa học công nghệ
Kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy sự thay đổi trong cơ cấu của lực lượng sản
xuất , điều này được thể hiện ở chỗ công nghệ , đối tượng lao động , cơ cấu lao
động phát triển theo hướng công nghệ nhiều trình độ , những công nghệ mũi
nhọn. Dưới tác động của nền kinh tế thị trường , đối tượng lao độ
ng được khai
thác ngày càng nhiều trong tự nhiên kết hợp với việc sử dụng nguyên vật liệu
tổng hợp mà trước hết nhập từ nước ngoài và tiến đến sản xuất trong nước .
Trong nền kinh tế thị trường , lao động trí óc sẽ được đánh giá và coi trọng đúng
mức , do đó hàm lượng lao động trí tuệ tăng lên trong tổng lao động xã hội .
Sự thay đổi cơ cấu của lực lượng sản xuất theo hướng công nghệ hoá và
sự tăng lên của tỷ lệ lao động trí óc trong tổng số lao động xã hội đến lượt nó sẽ
tác động một cách tích cực tới sự phát tri
ển của khoa học - công nghệ . Như vậy
, dưới sự tác động của cơ chế thị trường ,sự phát triển của lực lượng sản xuất và
tỷ lệ lao động trí óc có tác động qua lại với sự phát triển của khoa học - công
nghệ.
Kinh tế thị trường với tư cách là đòn bẩy , là phương thức sinh hoạt kinh
tế thích hợp , nên tác động tích cực tới sự thay
đổi cơ cấu kinh tế và trình độ văn
minh ở nước ta. Chính nhờ nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa làm cho nước ta thực hiện có hiệu quả quá trình chuyển dịch cơ cấu theo
hướng công- nông - dịch vụ hiện đại và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế . Và
chính nền kinh tế thị trường này sẽ đưa xã hội ta vượt qua nhanh nền văn minh
công nghi
ệp và văn minh trí tuệ.
Sơ đồ: sự tác động của cách mạng khoa học- công nghệ đối với kinh tế

thị tường ở nước ta và sơ đồ : Sự tác động tích cực của kimh tế thị trường xã hội
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển khoa học- công nghệ
được thể hiện ở hai trang sau.
b. Hướng phát triển khoa học - công nghệ trong quá trình chuyển sang
c
ơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
- Trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất và hiệu quả của sở hữu đối với
việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội , hình thành cơ cấu và xu hướng vận
động khách quan của các hình thức sở hữu.
-Trên cơ sở vai trò then chốt của cách mạng khoa học công nghệ và vai
trò động lự
c của nó đối với lực lượng sản xuất , Nhà nước cần có chính sách
khoa học công nghệ hữu hiệu : Nhà nước cần cung cấp những điều kiện cần thiết
cho nghiên cứu khoa học , coi trọng lao động trí tuệ - vốn quý nhất trong vốn
quý lao động,sớm có những chính sách có tác dụng kích khích các chủ thể sản
xuất , kinh doanh ở tất cả các hình thức sở hữu tring và ngoài nước đầu tư sức
người sức người sức của vào việc trang bị công nghệ hiện đại .
Việc chuyển giao công nghệ hiện đại trên thế giới so với trước tuy có
những thuận lợi nhất định , song cũng không kém phần phức tạp . Do vậy , khi
tiếp nhận công nghệ mới phải thận trọng , tránh những sai lầm đắt giá vừa qua ,
nâg cao năng lực tiếp nhận sao cho tránh được hao mòn tài sản cố định do nh
ập
công nghệ lạc hậu và các nguyên nhân khác gây ra. Đồng thời thực hiện chủ
nghĩa tư bản nhà nước để thu hút đầu tư nước ngoài.
- Xây dựng đồng bộ các loại thị trường , thực hiện chiến lược thị trường
hướng ngoại , dùng nó để kích thích sự phát triển khoa học - công nghệ và thị
trường nội địa.
- Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục đào tạo trong sự
gắn bó khoa học - công
nghệ và kinh tế thị trường , coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố

con người , động lực trực tiếp của sự phát triển.
- Tạo lập thị trường cho các hoạt động khoa học công nghệ . Thúc đẩy các
doanh nghiệp lớn của nhà nước đổi mới công nghệ , thu hút lực lượng nghiên
cứu và triển khai về các doanh nghiệp .
- Kết hợp hài hoà giữa quy luật phát triển tuần tự và quy luật phát triể
n
nhảy vọt , thông qua chính sách mở cửa vừa để sử dụng có hiệu quả lợi thế để
phát triển khoa học công nghệ và kinh tế thị trường.

3. Các bước phát triển của kinh tế thị trường

3.1. Từ nền kinh tế tự nhiên chuyển sang nền kinh tế hàng hoá giản đơn.
Mặc dù có những đặc điểm riêng, nhưng tất cả các phương thức sản xuất
tiền tư bản chủ nghĩa đều có nét chung là nền kinh tế tự nhiên. Trong nền kinh tế
tự nhiên, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế. Nền kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh
tế thuần nhất h
ợp thành và mỗi đơn vị kinh tế ấy làm đủ việc để tạo ra những sản
phẩm cuối cùng.
Trong các nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, nông
nghiệp là ngành sản xuất cơ bản, công cụ và kỹ thuật canh tác lạc hậu, dựa vào
lao động chân tay là chủ yếu, chỉ có trong một số trang trại của địa chủ hoặc
phường h
ội mới có hiệp tác lao động giản đơn. Trong nền kinh tế dưới chế độ
phong kiến, phân công lao động kém phát triển, cơ cấu ngành đơn điệu, mới chỉ
có một số ngành nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp, sản xuất chủ yếu hướng
vào giá trị sử dụng, có tính chất tự cung, tự cấp.
Bước đi tất yếu của sản xuất tự cung, tự cấ
p là tiến lên sản xuất hàng giản
đơn. điều kiện cho quá trình chuyển hoá này là sự phát triển của phân công xã
hội. Phân công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hoá. Xu hướng phát triển của

phân công xã hội là biến việc sản xuất không những từng sản phẩm riêng biệt,
mà việc sản xuất từng bộ phận của sản phẩm, từng thao tác trong chế biến sản
phẩm thành những ngành công nghiệp riêng biệt. Công nghi
ệp chế biến tách
khỏi công nghiệp khai thác và mỗi ngành công nghiệp đó lại chia thành nhiều
loại và phân loại nhỏ. Chúng sản xuất ra dưới hình thức hàng hoá - những sản
phẩm riêng biệt và đem trao đổi với những sản phẩm của các ngành sản xuất
khác. Chính sự phát triển ngày càng sâu rộng đó của phân công xã hội là nhân tố
chủ yếu dẫn đến hình thành thị trường trong nước. Hình thành nên những khu
vực nhà nước chuyên môn hoá và dẫ
n đến sự trao đổi không những giữa sản
phẩm với sản phẩm công nghệ, mà cả giữa các sản phẩm nhà nước với nhau.
Sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp, sự hình thành trung tâm
công nghiệp, sức hút của chúng đối với dân cư ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống
nông thôn, thúc đẩy nông nghiệp hàng hoá phát triển.
Những người sản xuất ở những vùng khác nhau có những điều kiệ
n tự
nhiên khác nhau, có khả năng và ưu thế trong sản xuất những sản phẩm khác
nhau có hiệu quả hơn. ngay trong một vùng, một địa phương, những người sản
xuất cũng có những khả năng, điều kiện và kinh nghiệm sản xuất khác nhau.
Mỗi người sản xuất chỉ tập trung sản xuất sản phẩm nào mà mình có ưu thế, đem
sản phẩm của mình trao đổi (mua và bán) lấy những sản phẩm cần thiết cho sản
xuất và đời sống của mình. Họ trở thành những người sản xuất hàng hoá. Trao
đổi, mua bán, thị trường, tiề
n tệ ra đời và phát triển .
Sản xuất hàng hoá ra đời, lúc đầu dưới hình thức sản xuất hàng hoá nhỏ,
giản đơn, nhưng là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại.
3.2. Từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển sang nền kinh tế tự do cổ
điển.
Quá trình chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế tự do cổ điể

n
được thực hiện qua ba giai đoạn phát triển cả về lực lượng sản xuất, cả về quan
hệ sản xuất mới thích ứng với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất .
Kỹ thuật thủ công dựa trên lao động hiệp tác giản đơn:
Hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ
công, với quy mô
lớn hơn so với tổ chức sản xuất phường hội và sản xuất nhỏ cá thể. Trong giai
đoạn hiệp tác giản đơn, công nhân phụ thuộc vào nhà tư bản về kinh tế nhưng
vẫn còn độc lập về mặt kỹ thuật. Để tổ chức hiệp tác lao động, bước đầu tiên
phải tập trung tư liệu sản xuất, trên cơ sở đ
ó tập trung sức lao động.Tập trung
hiệp tác lao động đòi hỏi phải có sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá
nhân, bảo đảm sự nhịp nhàng trong hoạt động sản xuất đạt đến mục đích chung.
Với sản xuất quy mô lớn, trong hiệp tác giản đơn, phải mua cả đống nguyên liệu
và buôn bán hàng hoá, do đó đã làm xuất hiện một mạng lưới mua gom nguyên
liệu và bán lẻ hàng hoá, từ đó thúc đẩy việc sản xuất và trao đổi sâu rộng trong
xã hội. Hiệp tác giản đơn đã bước đầu làm xuất hiện sản xuất lớn tư bản chủ
nghĩa, nâng cao năng suất lao động xã hội lên rất nhiều. Việc hiệp tác giản đơn
làm xuất hiện sản xuất lớn về mặt quy mô là một bước ngoặt rất quan trọng từ

sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.
Phân công công trường thủ công Tư bản chủ nghĩa:
Sự phát triển của hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa tất yếu dẫn tới hiệp tác có
phân công, làm xuất hiện các công trường thủ công tư bản chủ nghĩa. Công
trường thủ công là hình thức xí nghiệp tư bản thực hiện sự hiệp tác có phân công
dựa trên cơ s
ở kỹ thuật thủ công. Công trường thủ công hình thành bằng cách
tập hợp những thợ thủ công khác nghề, hoặc những thợ thủ công cùng nghề vào
trong một xưởng để cùng sản xuất ra một loại hàng hoá.
Đặc điểm về tổ chức và kỹ thuật của công trường thủ công là: Quá trình sản xuất

được phân chia thành những giai đoạn, những công việc bộ phận để có sản phẩm
hoàn ch
ỉnh, trên cơ sở đó mỗi công nhân chỉ chuyên làm một công việc bộ phận.
Đặc điểm của sự phân công này là chuyên môn hoá hẹp.
Cơ sở kỹ thuật vẫn là thủ công với công cụ chuyên dùng, phân phối sản xuất
theo kinh nghiệm cổ truyền nên chủ yếu dựa vào tay nghề khéo léo của công
nhân. Cơ cấu tổ chức của công trường thủ công là những người lao động bộ
phận, sử dụng công cụ chuyên dùng thích ứng, hợp thành lao động tập thể.
Đại công nghiệp cơ khí:
Trên cơ sở kỹ thuật thủ công, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể
được xác lập một cách hoàn chỉnh và phát triển vững chắc. Do đó, trong quá
trình phát triển, chủ nghĩa tư
bản tự tạo cho nó một cơ sở kỹ thuật tương ứng là
máy móc, đưa chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn công trường thủ công lên giai đoạn
đại công nghiệp cơ khí. Máy móc được sử dụng phổ biến trong xã hội thông qua
cuộc cách mạng công nghiệp. Đó là cuộc các mạng kỹ thuật thay thế lao động
thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Công cuộc cơ khí hoá ở
một ngành
dẫn đến việc thúc đẩy quá trình cơ khí hoá ở một ngành có liên quan. Cơ khí hoá
trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hoá ở các ngành liên
quan. Cơ khí hoá trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hoá
ngành giao thông vận tải… cơ khí hoá bắt đầu từ ngành công nghiệp nhẹ đến các
ngành công nghiệp nặng. Máy móc và đại công nghiệp có tác dụng chủ yếu làm
năng suất lao động xã hội tăng vọt, xã hội hoá lao động và sản xuất ngày càng
cao, mở
rộng thị trường, thúc đẩy sự ra đời của các trung tâm công nghiệp và
những thành thị lớn; đồng thời, tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật .
3.3. Từ nền kinh tế thị trường tự do chuyển sang nền kinh tế thị trường
hỗn hợp.
Xuất phát từ những khuyết tật của cơ chế thị trường:

Do chạy theo lợi nhuận cho nên các doanh nghi
ệp thường gây ô nhiễm
môi trường, thường khai thác tài nguyên một cách bừa bãi dẫn tới làm mất cân
bằng sinh thái mà doanh nghiệp không phải đền bù một khoản thiệt hại nào.
Cơ chế thị trường dễ làm xuất hiện căn bệnh: khủng hoảng kinh tế, thất
nghiệp, lạm phát và suy thoái.
Cơ chế thị trường dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo, dễ phát sinh những tiêu
cực xã hội .
Kinh tế thị trường là m
ột bước phát triển sau của kinh tế tự nhiên và khi
kinh tế hàng hoá phát triển tới trình độ cao thì đó chính là kinh tế thị trường.
Trong cơ chế thị trường thì do những khuyết tật của nó dẫn đến phá vỡ cân đối
của nền kinh tế, gây lãng phí nhiều nguồn lực: tư liệu sản xuất, lao động, tạo ra
sự phân hóa xã hội. Vì vậy nhà nước phải có vai trò nhất định để khắc phục
nh
ững nhược điểm trên.
Trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kì tự do cạnh tranh thì
kinh tế thị trường phát triển theo tư tưởng lý thuyết bàn tay vô hình thì nhà nước
không can thiệp kinh tế. điều đó dẫn đến việc khủng hoảng kinh tế sau này
(1929 - 1933). Vì vậy đã xuất hiện lý thuyết kinh tế của Keyes yêu cầu nhà nước
phải can thiệp kinh tế và đến năm 1948
đã xuất hiện lý thuyết về nền kinh tế hỗn
hợp trong đó có sự kết hợp của hai nhân tố: sự điều tiết của thị trường (Bàn tay

×