Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

giải pháp tài chính cho xóa đói giảm nghèo ở hà nội giai đoạn 2009 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.78 KB, 70 trang )

Trường đại học Kinh tế quốc dân
Khoa kế hoạch và phát triển
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
TỐT NGHIỆP
Đề tài:
Giải pháp tài chính cho xóa đói giảm nghèo ở
Hà Nội giai đoạn 2009 – 2010
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Lê Huy Đức
Cán bộ hướng dẫn: TS Nguyễn Xuân Sơn
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Thanh Hà
Lớp: KTPT_A_QN
Hà Nội, tháng 5 năm 2009
1
Danh mục từ viết tắt
1, XĐGN : Xoá đói giảm nghèo
2, LTTP : Lương thực thực phẩm
3, NHTG, WB: Ngân hàng thế giới
4, BHNN: Bảo hiểm nông nghiệp
5, MTTQ : Mặt trận tổ quốc
6, UBND : Uỷ ban nhân dân
7, DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
8, ĐBSCL : Đồng bằng sống Cửu Long
9, KTXH : Kinh tế xã hội
10, Bộ LĐTB&XH : Bộ lao động thương binh và xã hội
11, GTGT : Giá trị gia tăng
12, XDCB : Xây dựng cơ bản
13, HĐND : Hội đồng nhân dân
14, TCTK : Tổng cục thống kê
2
Lời mở đầu
Đói nghèo đang là một thách thức đối với sự phát triển của toàn thế giới


kể cả với các nước công nghiệp phát triển, tấn công vào nghèo đói, thực hiện
xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu phát triển của xã hội. Vì vậy
đây là vấn đề các chính phủ, các nhà lãnh đạo, các tổ chức quốc tế quan tâm để
tìm ra giải pháp hạn chế và tiến tới xoá bỏ nạn đói nghèo trên phạm vi toàn cầu.
Bước vào thế kỉ 21, đói nghèo vẫn là một trong những thách thức lớn của nhân
loại. XĐGN được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng ưu tiên hàng đầu
trong các mục tiêu phát triển của thế giới hiện đại. Chính vì vậy, Hội nghị
thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tại Copenhaghen (Đan Mạch) tháng 3
năm 1995 đã xác định: “XĐGN là một trong ba vấn đề trọng tâm được các nước
cam kết thực hiện, coi đây là đòi hỏi bắt buộc về mặt đạo đức, xã hội, chính trị
và kinh tế của cả nhân loại”. Và tại cuộc họp đặc biệt của Đại hội đồng liên hợp
quốc và phát triển xã hội 6/2000 ở Giơnevơ (Thụy Sỹ), cộng đồng quốc tế tích
cực cam kết thực hiện XĐGN, phấn đấu đến năm 2005 giảm ½ số người nghèo
trên thế giới.
Đối với Việt Nam, vấn đề XĐGN ngày càng trở nên quan trọng và là
nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng toàn dân ta trong thời kỳ mới. Chính phủ
Việt Nam luôn coi vấn đề XĐGN là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngay từ khi Việt Nam giành độc lập, chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xác định đói nghèo là một thứ “giặc” cũng như giặc dốt, giặc
ngoại xâm nên đã đưa ra mục tiêu phấn đấu để đưa nhân dân lao động thoát nạn
bần cùng, làm cho mọi ngưòi có công ăn việc làm, có đời sống ấm no, hạnh
phúc.
3
XĐGN không chỉ là một trong những chính sách cơ bản được nhà nước
Việt Nam đặc biệt quan tâm mà XĐGN còn là yếu tố cơ bản để đảm bảo công
bằng xã hội và tăng trưởng bền vững, ngược lại chỉ có tăng trưởng cao và bền
vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn
lên thoát nghèo. Do đó, XĐGN được coi là một bộ phận cấu thành nên chiến
lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001-2010) và kế hoạch 5 năm của cả
nước, các ngành và địa phương.

Đối với Hà Nội, sau khi mở rộng địa giới hành chính, kinh tế chính trị xã
hội đã có sự thay đổi lớn. Và để kinh tế xã hội ổn định phát triển đi lên và từng
bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người dân thủ đô là một thách
thức khá lớn vì hiện nay tỉ lệ người dân mù chữ và tỉ lệ đói nghèo còn khá cao.
Giảm bớt những tỉ lệ này là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của thủ đô trong giai
đoạn 2009-2010.
Do vậy tôi chọn để tài “Giải pháp tài chính cho XĐGN ở Hà Nội giai
đoạn 2009-2010”. Tuy nhiên các giải pháp tài chính cho XĐGN là rộng, phức
tạp bao gồm tài chính vi mô, tài chính vĩ mô với các hình thức thực hiện khác
nhau, nên trong khuôn khổ của một chuyên đề thực tập tôi chỉ xin nghiên cứu
một số công cụ tài chính chủ yếu như đầu tư, thuế, tín dụng, bảo hiểm nhằm
hai hướng. Một là giảm bớt gánh nặng tài chính cho người nghèo, hai là hỗ trợ
để tăng cơ hội và khả năng của người nghèo. Mặc dầu đã có nhiều cố gắng
nhưng do vấn đề đặt ra khó khăn và phức tạp, cùng với trình độ và năng lực có
hạn nên bài viết của tôi không tránh khỏi sai sót, kính mong sự đóng góp của
các thầy, cô.
4
CHƯƠNG I
Cơ sở lý luận chung về đói nghèo
và xoá đói giảm nghèo
1/ Tổng quan về đói
1.1/ Khái niệm
1.1.1/ Đói nghèo
Đói nghèo là một vấn đề mang tính chất toàn cầu và đang thu hút nỗ lực
chung của cả cộng đồng quốc tế nhằm từng bước xoá bỏ đói nghèo và nâng cao
phúc lợi của người dân. Tuy nhiên, rất khó có thể đưa ra một khái niệm chung,
thống nhất về thế nào là đói nghèo. Tựu trung có thể coi đói nghèo là tình trạng
một nhóm người trong xã hội không có khả năng được hưởng “một cái gì đó” ở
mức độ tối thiểu cần thiết. Sự khác nhau về việc xác định “cái gì đó” đã tạm
chia thành ba trường phái chính trong quan niệm về đói nghèo.

Trường phái thứ nhất, được gọi là trường phái phúc lợi, coi một xã hội
có hiện tượng đói nghèo khi một hay nhiều cá nhân trong xã hội đó không có
được một mức phúc lợi kinh tế được coi là cần thiết để đảm bảo một cuộc sống
tối thiểu hợp lý theo tiêu chuẩn của xã hội đó. Cách hiểu này coi “cái gì đó” là
phúc lợi kinh tế của cá nhân, hay độ thoả dụng cá nhân. Tuy nhiên, vì độ thoả
dụng vốn là một khái niệm mang tính ước lệ, không thể đo lường hay lượng hoá
được, nên người ta thường đồng nhất nó với một khái niệm khác cụ thể hơn, đó
là mức sống. Theo cách hiểu này, các chính sách XĐGN sẽ phải tập trung vào
việc tăng năng suất, tạo việc làm… qua đó nâng cao thu nhập cho người dân để
họ có thể có được mức phúc lợi kinh tế cần thiết như xã hội mong muốn. Đây là
quan điểm phổ biến nhất, là cơ sở cho thước đo đói nghèo theo thu nhập.
Quan điểm vế đói nghèo như vậy tuy được coi là cần, nhưng chưa đủ vì
đói nghèo còn bao hàm khía cạnh khác chứ không chỉ riêng thu nhập. Vì thế,
5
trường phái thứ hai, trường phái nhu cầu cơ bản, coi “cái gì đó” mà người
nghèo thiếu là một tập hợp những hàng hoá và dịch vụ được xác định cụ thể mà
việc thoả mãn chúng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chất lượng cuộc sống.
Những nhu cầu cơ bản đó bao gồm LTTP, nước, điều kiện vệ sinh, nhà ở, quần
áo, giáo dục, y tế cơ sở và giao thông công cộng. Trong những nhu cầu cơ bản
đó, nhu cầu về dinh dưỡng là quan trọng nhất. Quan niệm này về đói nghèo
được phản ánh rất rõ qua định nghĩa về đói nghèo mà Hội nghị Quốc tế về vấn
đề này ở Thái Lan năm 1993 đã đưa ra, theo đó đói nghèo là tình trạng một bộ
phân dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con
người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và
phong tục tập quán của tứng địa phương.
Một khó khăn lớn nhất đối với quan niệm đói nghèo theo trường phái như
cầu cơ bản là những nhu cầu cơ bản cũng thay đổi tuy theo tuổi tác, giới tính…
và các đặc điểm nhân khẩu khác, cũng như mức độ tham gia các hoạt động của
từng cá nhân. Vì thế, trường phái thứ ba không quan tâm đến những gì thiếu để
thoả mãn độ thoả dụng cá nhân hay nhu cầu cơ bản của con người, mà chú

trọng đến khả năng hay năng lực của con người. Do vậy, trường phái này còn
được gọi là trường phái năng lực, mới nổi lên từ những năm 80 với người đi
tiên phong là nhà kinh tế học người Mỹ gốc Ấn Độ Anartya Sen. Theo ông, giá
trị cuộc sống của con người không chỉ phụ thuộc duy nhất vào độ thoả dụng hay
thoả mãn các nhu cầu cơ bản, mà đó là khả năng mà một con người có được, là
quyền tự do đáng kể mà họ được hưởng, để vươn tới một cuộc sống mà họ
mong muốn. Theo cách hiểu này, điều mà các chính sách XĐGN cần làm là
phải tạo điều kiện để người nghèo có được năng lực thực hiện các chức năng
cần thiết, đi từ những thứ rất cơ bản như đủ dinh dưỡng, có sức khoẻ tốt, tránh
được nguy cơ tử vong sớm… đến những nhu cầu cao hơn như được tôn trọng,
được tham gia vào đời sống xã hội, có tíếng nói và quyền lực.
6
Từ sự phân tích trên có thể thấy, tuy chúng ta không thể tìm được một
khái niệm duy nhất đầy đủ về đói nghèo, nhưng có thể chỉ ra những biểu hiện
cơ bản hay những khía cạnh chủ yếu của đói nghèo.
Ngày nay, hầu hết các tổ chức quốc tế như NHTG, Liên Hiệp Quốc đều
đã mở rộng khái niệm đói nghèo để bao hàm cả những khía cạnh về năng lực
như Anartya Sen đã đề xuất. Theo đó, đói nghèo gồm những khía cạnh cơ bản
như sau:
- Trước tiên và trước hết là sự khốn cùng về vật chất, được đo lường theo
một tiêu chí thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng.
- Đi kèm với sự khốn cùng về vật chất là sự hưởng thụ thiếu thốn về giáo
dục và y tế.
- Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro, tức là khả năng một hộ gia
đình hay cá nhân rơi vào cảnh đói nghèo về thu nhập hoặc về sức khoẻ.
- Cuối cùng là tình trạng không có tiếng nói và quyền lực của người nghèo.
1.1.2/ Chuẩn nghèo
1.1.2.1/ Chuẩn nghèo theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB)
Trong quá trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình XĐGN
ở Việt Nam, WB cũng đã đưa ra hai mức chuẩn nghèo đối với Việt Nam.

- Thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một số lương thực, thực phẩm đáp
ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng 2100 calo/người/ngày gọi là chuẩn nghèo về
lương thực thực phẩm.
- Thứ hai là số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lương thực, thực
phẩm và chi cho các nhu cầu phi lương thực thiết yếu khác nhau gọi là chuẩn
nghèo chung.
Theo quan điểm của WB, ngoài chỉ tiêu tối thiểu về lương thực để bảo
đảm đủ lượng 2100 calo/người/ngày còn có những khoản chỉ tiêu phi lương
7
thực, thực phẩm khác. Do đó, chuẩn nghèo chung có mức cao hơn chuẩn nghèo
lương thực, thực phẩm.
Dựa vào số liệu điều tra mức sống dân cư tại nước ta năm 1993, năm
1998 và căn cứ vào sức mua của đồng Việt Nam, WB đưa ra chuẩn nghèo với
từng loại ở Việt Nam như sau:
Năm 1993:
- Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm: 62.500 đồng/ người/tháng
- Chuẩn nghèo chung: 96.600 đồng/người/tháng
Năm 1998:
- Chuẩn nghèo lương thực thực phẩm: 107.000 đồng/người/tháng
- Chuẩn nghèo chung: 149.000 đồng/ người/tháng
Ở Việt Nam, ngoài gợi ý về cách xác định chuẩn nghèo theo mức thụ
hưởng calo bữa ăn mang lại hàng ngày quy đổi ra thu nhập của WB đã nêu trên,
các nhà nghiên cứu và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đã nêu ra
mức xác định chuẩn nghèo khác, điển hình là cách xác định của tổng cục thống
kê và của Bộ LĐTB&XH.
1.1.2.2/ Chuẩn nghèo theo quan điểm của Tổng cục thống kê
Tiêu chuẩn nghèo của TCTK xác định bằng mức thu nhập tính theo giá
vừa đủ để mua một lượng (rổ) hàng lương thực, thực phẩm thiết kế đảm bảo
khẩu phần ăn duy trì với lượng tiêu dùng bằng 2100 calo/ngày/người. Những hộ
có mức thu nhập bình quân dưới tiêu chuẩn trên thuộc vào diện hộ nghèo. Tiêu

chuẩn nghèo được tính riêng cho 2 khu vực thành thị và nông thôn.
Qua quá trình tính toán tiêu chuẩn nghèo, TCTK đã xác định chuẩn mức
nghèo của Việt Nam qua các năm như sau
8
Năm 1993
Năm 1994
Năm 1995
Năm 1996
Thành thị
70.000 đồng/người/tháng
102.000 đồng/người/tháng
125.000 đồng/người/tháng
130.000 đồng/người/tháng
Nông thôn
51.000 đồng/người/tháng
76.000 đồng/người/tháng
95.000 đồng/người/tháng
100.000 đồng/người/tháng
1.1.2.3/ Chuẩn nghèo theo quan điểm của Bộ lao động thương binh
và xã hội (LĐTB&XH)
Bộ LĐTB&XH (cơ quan thường trực của chính phủ trong việc tổ chức,
triển khai, thực hiện chương trình XĐGN) đồng tình với quan điểm về nghèo
đói của Hội nghi chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do
ESCAT tổ chức tại Băng cốc – Thái Lan vào tháng 9 năm 1993. Bộ
LĐTB&XH đã đưa ra chuẩn nghèo đói chủ yếu dựa vào các số liệu về thu
nhập của hộ gia đình tuỳ theo từng thời kì phát triển của đất nước.
Trước năm 1997, với yêu cầu cấp bách về chỉ đạo XĐGN, Bộ
LĐTB&XH đã đưa ra ngưỡng nghèo ở nước ta là: hộ có thu nhập bình quân
đầu người/tháng quy ra gạo dưới 13 kg gạo tẻ thường là hộ đói, dưới 15 kg là
hộ nghèo.

Đến năm 1997, Bộ LĐTB&XH đã dưa ra tiêu chuẩn chi tiết hơn cho từng
mức đói nghèo từng khu vực các chỉ tiêu cụ thể được quy định như sau:
Hộ đói là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người/tháng được phân biệt
theo từng vùng:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg gạo (tương đương
với 55.000 đồng Việt Nam)
- Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20kg gạo (tương
đương với 70.000 đồng Việt Nam)
9
- Vùng thành thị dưới 25 kg gạo (tương đương với 90.000 đồng
Việt Nam)
Theo quy định số 1142/2000/QĐ – LĐTB&XH ngày 1/11/2000 của Bộ
LĐTB& XH hộ đói nghèo nước ta giai đoạn 2001-2005 được điều chỉnh theo
mức chuẩn mới với mức thu nhập bình quân 1 đầu người trong hộ cho từng
vùng như sau:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000đồng/tháng
- Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000đồng/tháng
- Vùng Thành thị: 150.000đồng trên/tháng
Trên cơ sở tham mưu của Bộ LĐTB&XH, Thủ tướng chính phủ đã có
quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08/7/2005 về việc ban hành chuẩn nghèo
nước ta giai đoạn 2006-2010 được điều chỉnh theo mức chuẩn mới với mức thu
nhập bình quân một đầu người trong hộ cho từng vùng như sau:
- Khu vực nông thôn: dưới 200.000 đồng/tháng
- Khu vực thành thị: dưới 260.000 đồng/tháng
Bộ LĐTB&XH đã căn cứ vào những nghiên cứu và thực nghiệm trong
thực tiễn để xác định chuẩn mức đói nghèo, những căn cứ chủ yếu đó là: căn cứ
vào nhu cầu năng lượng bình quân ngày/người (quy ra thóc) và nhu cầu năng
lượng tối thiểu 2100 calo ngày/người, năng lượng này được tính bằng tiền trên
cơ sở quy đổi ra lương thực để tính toán. Cách xác định đói nghèo của Bộ
LĐTB&XH dựa trên cơ sở kê khai thu nhập của các hộ gia đình, rà soát đánh

giá của Ban XĐGN xã và hội nghị thôn thảo luận bình xét của hộ gia đình, từ
đó lập danh sách hộ đói nghèo.
1.2/ Tiêu chí đánh giá đói nghèo trên thế giới và Việt Nam
1.2.1/ Tiêu chí đánh giá trên thế giới
Để xác định các chỉ tiêu về đói nghèo, trên thế giới đã đưa ra những
chuẩn mực đánh giá sau
10
1.2.1.1/ Thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người (GNP)
Chỉ tiêu này do Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra để đánh giá mức độ giầu
nghèo của các quốc gia.
Ví dụ: Căn cứ theo GDP/đầu người/ năm vào thời điểm năm 1990 để
phân tích cho thấy
- Trên 25.000 USD: nước cực giầu
- Trên 20.000 – 25.000: nước giầu
- Trên 10.000 – 20.000: nước khá giầu
- Trên 2.500 – 10.000: nước trung lưu
- Trên 500 – 2.500: nước nghèo
- Dưới 500: nước cực nghèo
Ở Việt Nam là gần 400 USD/người/năm (năm 1990) được xếp thứ
110/171 trên thế giới. nằm trong nhóm các nước cực nghèo.
Năm 2007, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam khoảng 835
USD/năm, xếp 122/177 quốc gia về thu nhập bình quân đầu người.
1.2.1.2/ Chỉ tiểu phát triển con người (HDI)
Do chương trình phát triển liên hợp quốc đưa ra gồm 3 chỉ tiêu chính
- Tuổi thọ trung bình dân cư
- Trình độ học vấn, bao gồm tỉ lệ biết đọc, biết viết của dân cư, số năm đi
học trung bình của người dân.
- Thu nhập bình quân đầu người.
HDI của Việt Nam được đo trong năm 2004 là 0,709 và đứng ở vị trí 109
trong tổng số 177 nước được xếp hạng. Mới đây, Theo “Báo cáo phát triển con

người năm 2007/2008” của Liên hợp quốc cho thấy, Việt Nam hiện chỉ có chỉ
số phát triển con người HDI ở hạng trung bình, với chỉ số là 0,733. So với năm
trước, Việt Nam đã tăng 4 bậc từ vị trí 109 lên 105 trong số 177 nước.
11
1.2.1.3/ Chỉ tiêu chất lượng cuộc sống (PQLI)
Đề cập vào ba điểm có tính phổ biến về nhu cầu cơ bản của con người:
- Tuổi thọ dự báo khi một tuổi
- Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh
- Tỷ lệ xoá mù chữ
Sự kết hợp chỉ tiêu GNP, HDI, PQLI cho phép nhìn nhận nước giầu
nghèo chính xác và khách quan hơn. Nó cho phép đánh giá khách quan và toàn
diện sự phát triển con người trên các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội.
1.2.2/ Tiêu chí đánh giá của Việt Nam
1.2.2.1/ Chỉ số đánh giá đói nghèo
Dựa trên những định nghĩa về đói nghèo ở Việt Nam, thước đo sử dụng
phổ biến hiện nay để đánh giá nghèo khổ về thu nhập là đếm số người sống
dưới chuẩn nghèo.
Tỉ lệ nghèo được tính bằng tỉ lệ phần trăm của dân số. Việc sử dụng chỉ
số này là cần thiết để đánh giá tình trạng nghèo và những thành công trong mục
tiêu “giảm nghèo” của quốc gia và thế giới.
Khoảng cách nghèo là phần chênh lệch giữa mức chi tiêu của người
nghèo với ngưỡng nghèo, tính bằng tỉ lệ phần trăm so với ngưỡng nghèo. Khi
so sánh nhóm dân cư trong một nước, khoảng cách nghèo cho biết tính chất và
mức độ nghèo khổ khác nhau giữa các nhóm.
1.2.2.2/ Chỉ tiêu đánh giá
Các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá nghèo đói ở Việt Nam được tính
trên nhiều phương diện khác nhau căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã
hội của nước ta và hiện trạng đời sống trung bình phổ biến của dân cư hiện nay.
Có thể đưa ra một số chỉ tiêu chính để đánh giá đói nghèo như sau:
12

Chỉ tiêu về thu nhập: Thu nhập bình quân một người một tháng (hoặc
năm) được đo bằng chỉ tiêu giá trị hay hiện vật quy đổi, thường dùng lương
thực (gạo) để đánh giá. Thu nhập ở đây được hiểu là thu nhập thuần tuý và cần
xác định rõ chỉ tiêu thu nhập bình quân nhân khẩu tháng để xác định mức đói
nghèo.
Chỉ tiêu về nhà ở và tiện nghi sinh hoạt: Căn cứ trên hiện trạng về nhà
cửa và các đồ dùng sinh hoạt. Chỉ tiêu này mang tính chất tương đối vì phụ
thuộc vào thời điểm đánh giá chỉ tiêu.
Chỉ tiêu tư liệu sản xuất: Những người nghèo đói có ít thậm chí rất ít tư
liệu sản xuất bên cạnh đó tư liệu sản xuất của họ lại thô sơ. Một bộ phận lớn
người nghèo còn thiếu ruộng đất canh tác, sản xuất.
Chỉ tiêu về vốn: tính trên số tiền được sử dụng vào sản xuất kinh doanh.
Người nghèo hiện nay đa phần là đi vay nợ hoặc vay tín dụng của ngân hàng và
các tổ chức tài chính vi mô.
Hiện nay, các chỉ tiêu đánh giá nghèo đói còn xét trên nhiều yếu tố khác
như giáo dục, y tế, nguy cơ dễ bị tổn thương, không có tiếng nói và không có
quyền lực.
1.3/ Nguyên nhân của đói nghèo
1.3.1/ Khách quan
- Điều kiện tự nhiên, khí hậu khắc nghiệt, thiên tai, bão lũ, hạn hán, sâu
bệnh, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, cát cứ, giao thông khó khăn, đã kìm
hãm sản xuất cho cả một vùng một khu vực.
- Do cơ chế chính sách: Thiếu hoặc không đồng bộ về chính sách đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng cho vùng nghèo, chính sách khuyến khích sản xuất,
tín dụng hướng dẫn cách làm ăn khuyến nông, phát triển ngành nghề, chính
13
sách giáo dục đào tạo, y tế, chính sách đất đai, định canh, định cư, kinh tế mới,

1.3.2/ Chủ quan
- Nguồn lực hạn chế thiếu hoặc không có vốn sản xuất kinh doanh.

Người nghèo thiếu khả năng tiếp cận với các nguồn lực tín dụng, một mặt do
không có tài sản thế chấp họ phải dựa vào tín chấp để có các khoản vay nhỏ
hiệu quả thấp. Mặt khác, đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể
hoặc sử dụng nguồn vốn vay không đúng mục đích.
- Người nghèo có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm
tốt nên mức thu nhập thấp chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu, không có
điều kiện để nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát nghèo.
Do trình độ học vấn thấp nên người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận
với các dịch vụ sản xuất như khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động thực vật,
nhiều yếu tố đầu vào sản xuất như điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân
bón…Điều này đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập trên một đơn vị sản phẩm.
- Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của đói nghèo, tỷ lệ sinh
con trong hộ gia đình nghèo còn cao. Quy mô hộ gia đình lớn làm cho tỷ lệ
người ăn theo cao điều này đồng nghĩa với việc rất thiếu nguồn lực lao động
nên thiếu thu nhập.
- Bệnh tật, sức khoẻ yếu ảnh hưởng đến thu nhập và chi tiêu của người
nghèo, họ phải gánh chịu hai gánh nặng: Một là mất thu nhập từ lao động, hai là
gánh nặng chi phí y tế cao đẩy họ đến chỗ vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền
trang trải chi phí, dẫn đến càng ít có cơ hội thoát nghèo.
- Bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình trạng đói nghèo, phụ nữ ít có cơ
hội tiếp cận với công nghệ mới, tín dụng và đào tạo, họ thường gặp nhiều khó
14
khăn do gánh nặng công việc gia đình, và thường bị trả công thấp hơn nam giới
ở cùng một loại công việc.
2/ Nội dung giải pháp tài chính cho xoá đói giảm nghèo
2.1/ Khái niệm
Nhà nước chính phủ sử dụng các công cụ tài chính để điều tiết nên kinh
tế vi mô và hỗ trợ giúp đỡ người nghèo pháp triển sản xuất để thoát nghèo, để
tạo sự công bằng trong xã hội, thu hẹp khoảng cách giầu nghèo của xã hội.
2.2/ Các công cụ tài chính

2.2.1/ Đầu tư
2.2.1.1/ Khái niệm
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi cuộc
đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà
người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư .
Nguồn lực phải hy sinh có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao
động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài
chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc
với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội .
Loại đầu tư đem lại các kết quả không chỉ cho người đầu tư mà cả nền
kinh tế xã hội được hưởng thụ, không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của người
đầu tư mà của cả nền kinh tế là đầu tư phát triển. Còn các loại đầu tư chỉ trực
tiếp làm tăng tài sản chính của người đầu tư, tác động gián tiếp làm tăng tài sản
của nền kinh tế thông qua sự đóng góp tài chính tích luỹ của các hoạt động đầu
tư này cho đầu tư phát triển cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và
15
thúc đẩy quá trình lưu thông phân phối các sản phẩm do các kết quả của đầu tư
phát triển tạo ra, đó là đầu tư tài chính và đầu tư thương mại.
2.2.1.2/ Cách thức đầu tư
- Theo đối tượng đầu tư
- Theo cơ cấu tái sản xuất: chiều rộng, chiều sâu
- Theo phân cấp quản lý
- Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư như nhằm tái sản xuất
các tài sản cố định, hoặc tạo ra các tài sản lưu động cho sản xuất.
- Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
- Theo nguồn vốn có đầu tư trong nước và đầu tư có nguồn vốn từ nước
ngoài.
2.2.1.3/ Các nguồn hình thành vốn

a, Trong nước
- Khu vực nhà nước gồm có Ngân sách nhà nước và nguồn vốn tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước.
- Khu vực tư nhân gồm có tiết kiệm của dân cư và phần tích luỹ của
doanh nghiệp dân doanh, hợp tác xã (chiếm 80% tổng nguồn vốn huy động của
ngân hàng)
- Thị trường vốn cốt lõi của nó là thị trường chứng khoán.
b, Ngoài nước
- Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài FDI.
- Vốn hỗ trợ ODA, đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và
chính phủ các nước phát triển cung cấp với mục tiêu góp phần trợ giúp các
nước đang phát triển.
- Thị trường vốn quốc tế.
16
2.2.2/ Tín dụng
2.2.2.1/ Khái niệm và bản chất của tín dụng
Hoạt động tín dụng là quan hệ vay trả. Nó là quan hệ kinh tế giữa chủ thể
cho vay và chủ thể đi vay dưới hình thức người có tiền vốn nhượng quyền sử
dụng vốn của mình cho người cần vốn trong một thời hạn nhất định phải hoàn
trả lại khoản tiền của vốn vay đó với một mức phụ trội gọi là lãi suất.
Qua định nghĩa trên ta thấy bản chất của tín dụng như sau:
- Nhượng quyền sử dụng vốn, của cải, chứ không phải nhượng quyền sở hữu.
- Sau một thời gian sử dụng phải hoàn trả, chứ không phải như cấp phát
ngân sách.
- Có một thời hạn quy định nhất định, không phải vô thời hạn.
- Phải trả lãi theo lãi suất trên số tiền vay và thời gian vay.
Quan hệ tín dụng là một nội dung của quan hệ sản xuất xã hội, nó lệ
thuộc vào bản chất của xã hội.
- Dưới chế độ phong kiến phổ biến là quan hệ tín dụng nặng lãi.
- Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự vận động của tư bản cho

vay nhằm mục đích bóc lột phân phối lại giá trị thặng dư.
- Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước quản lý tín dụng nhằm đảm
bảo hài hoà lợi ích của chủ thể cho vay, đi vay và lợi ích chung của toàn xã hội.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng gồm huy động (tức đi vay) các nguồn
vốn nhàn rỗi trong các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư trong nền kinh
tế, và cho các tổ chức và cá nhân vay trong nền kinh tế. Hoạt động chủ yếu của
ngân hàng là hoạt động tín dụng, tức là hoạt động đi vay để cho vay.
2.2.2.2/ Chức năng của tín dụng
Thứ nhất: Phân phối lại tài sản dưới hình thức vốn tiền tệ
17
Theo chức năng này, vốn tiền tệ của người tạm thời chưa dùng đến,
không muốn vốn đó nằm im, không sinh lời, nên đã nhượng cho tổ chức, cá
nhân khác thiếu vốn cần sử dụng, tạo ra hiệu quả kinh tế xã hội. Nhà nước ngân
hàng sẽ sử dụng chức năng này của tín dụng để thu hút vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế. Chức năng phân phối của tín dụng được thực hiện qua hai con đường:
- Phân phối trực tiếp chuyển từ người cho vay sang người vay, không qua
trung gian.
- Phân phối gián tiếp là sự phân phối qua người trung gian, môi giới, tức
là qua trung gian tài chính (ngân hàng, hợp tác tín dụng, tín dụng nhân dân,
công ty tài chính).
Thứ hai: Chức năng này tạo vốn tiền tệ của tín dụng
Những nguồn vốn nhàn rỗi được huy động, các tổ chức và nhân dân hình
thành nguồn vốn lớn của các tổ chức tín dụng, tạo ra vốn rối từ đó cung ứng tín
dụng cho các doanh nghiệp sản xuất lưu thông, dịch vụ và các tổ chức tín dụng.
Chức năng này thúc đẩy hình thành thị trường vốn ngắn hạn và dài hạn ngày
càng sôi động và mở rộng.
Thứ ba: chức năng kiểm tra của tín dụng
Vốn tiền tệ cho vay, không làm thay đổi quyền sở hữu của người có vốn
cho vay. Người cho vay không chỉ tính tới sự bảo toàn vốn gốc mà còn phải có
tiền lời, tức là phát triển được số vốn đã có, chống mọi sự rủi ro, mất vốn.

Chính vì vậy mà họ phải kiểm tra sự sử dụng vốn của người vay. Sự kiểm tra
vốn tín dụng là nhằm bảo đảm vốn tín dụng được sử dụng đúng mục đích, được
cung ứng theo kế hoạch sử dụng, phát huy hiệu quả, ngăn chặn rủi ro, có tài sản
thế chấp để đảm bảo vốn được thu hồi.
18
2.2.2.3/ Các hình thức tín dụng
Thứ nhất, tín dụng nặng lãi
Ra đời từ giai đoạn đầu của chế độ nô lệ và phát triển rộng hơn trong chế
độ phong kiến. Nó có những đặc điểm chủ yếu là:
- Lãi suất cao, thường vượt xa quá mức sản phẩm thặng dư.
- Mục đích chủ yếu của vay nặng lãi là do nhu cầu tiêu dùng.
- Ban đầu hình thức cho vay là hiện vật, sau là cả tiền và hiện vật.
Thứ hai, tín dụng thương mại
Xảy ra do việc mua bán chịu hàng hoá, người bán hàng hoá chưa đòi phải
có tiền trả ngay, bán chịu; người mua hàng chưa có tiền để trả ngay, mua chịu.
Sau một thời gian người mua mới trả tiền cho người bán.
Đặc điểm của nó là:
- Số vốn tiền tệ cho vay là giá trị hàng hoá bán được thên cả lãi suất của
người sản xuất hay người kinh doanh thương mại.
- Giá trị hàng hoá cho vay là một bộ phận trong vốn lưu động của họ.
- Quan hệ tín dụng thương mại dựa trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau giữa
các nhà sản xuất kinh doanh.
Tín dụng thương mại có tác dụng thúc đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng
hoá và sớm có yếu tố vật chất cho quá trình sản xuất mới, giữa các đơn vị sản
xuất lưu thông hàng hoá. Nhưng nó có nhược điểm quan trọng là khi không có
khả năng chi trả sẽ gây ra nợ nần, đọng vốn, tổn thất vốn và có thể lôi cuốn dây
chuyền ảnh hưởng đến nhiều đơn vị khác có liên quan.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng
Là tín dụng bằng tiền do ngân hàng và các tổ chức tài chính, tín dụng
đúng ra làm trung gian, cầu nối giữa người có vốn cho vay và người cần có vốn

để sử dụng. Quan hệ tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng phát triển cao của
19
nền kinh tế tiền tệ. Nó nảy sinh do yêu cầu khách quan của sự phát triển cao của
sản xuất, lưu thông hàng hoá, dịch vụ trong cơ chế thị trường. Nó ra đời để giải
quyết quan hệ cung cầu, điều hoà quan hệ cung cầu vốn tiền tệ trong nền kinh tế
tiền tệ.
Đặc điểm:
- Tín dụng bằng tiền
- Ngân hàng và các tổ chức tài chính là trung gian
- Ngân hàng vừa là người vay nợ vừa là người chủ nợ
Thứ tư, tín dụng nhà nước
Là quan hệ tín dụng mà nhà nước là người đi vay, dân cư, tổ chức kinh tế
xã hội là người cho vay và ngược lại nhà nước là người cho vay, các tổ chức
kinh tế xã hội là người đi vay. Tín dụng Nhà nước còn nảy sinh trong quan hệ
đối ngoại giữa chính phủ nước này với nước khác hoặc với các tổ chức tín dụng
quốc tế.
Trong nhà nước hiện đại, tín dụng Nhà nước mang tính chất sản xuất đầu
tư phát triển kinh tế là chủ yếu, trong trường hợp khác khoản vốn tài trợ của nhà
nước với nhân dân là để XĐGN. Hình thức tín dụng nhà nước ở trong nước là
công trái, tín phiếu kho bạc, trái phiếu trong đó có trái phiếu trung hạn và dài
hạn.
2.2.3/ Thuế
2.2.3.1/ Khái niệm
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho
Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho
mục đích công cộng.
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong, vốn có của
thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định tương đối qua từng giai đoạn phát
20
triển và biểu hiện thành những đặc điểm riêng, qua đó giúp ta phân biệt giữa

thuế với các công cụ tài chính khác.
2.2.3.2/ Đặc điểm của thuế
- Tính bắt buộc: là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa
thuế với các hình thức động viên tài chính khác của ngân sách Nhà nước. Phân
phối mang tính chất bắt buộc dưới hình thức thuế là một phương thức phân phối
của Nhà nước, theo đó một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển
giao cho Nhà nước mà không đi kèm song song, đối ứng với một sự cấp phát
hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế. Tuy nhiên tính chất bắt
buộc không mang nội dung hình sự, nghĩa là việc đóng thuế cho Nhà nước
không phải là kết quả nảy sinh từ hành vi phạm pháp mà là nghĩa vụ đóng góp
được pháp luật thừa nhận và xã hội tôn vinh.
- Tính không hoàn trả trực tiếp được thể hiện cả trước và sau khi thu
thuế. Trước khi thu thuế, Nhà nước không hứa hẹn cung ứng trực tiếp một dịch
vụ công cộng nào cho người nộp thuế. Sau khi nộp thuế, Nhà nước cũng không
có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế. Cũng như vậy, người nộp thuế
không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế với lý do họ không được hoặc
ít được hưởng những lợi ích trực tiếp từ nhà nước. Lợi ích từ việc nộp thuế sẽ
được hoàn trả gián tiếp thông qua các dịch vụ công cộng của nhà nước cho cộng
đồng và xã hội.
- Tính pháp lý cao: điều này được quyết định bởi quyền lực chính trị của
Nhà nước. Nhà kinh tế học Joseph E.Stiglitz nói rằng: “Việc chuyển giao bắt
buộc này giống như là ăn trộm, chỉ có một điểm khác chủ yếu là: trong khi cả
hai cách chuyển đều là không tự nguyện, thì cách chuyển qua Chính phủ có
mang tấm áo choàng hợp pháp và sự tôn trọng do các quá trình chính trị ban
cho”.
21
2.2.4/ Bảo hiểm
2.2.4.1/ Định nghĩa về bảo hiểm
“Bảo hiểm là một phương pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền do những người
có cùng khả năng gặp một loại rủi ro nào đó đóng góp tạo nên”. Định nghĩa này

chỉ mới đề cập đến phương pháp lập quỹ dự trữ bảo hiểm mà chưa chỉ rõ
phương thức sử dụng nó.
“Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường
(theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong từng trường hợp
xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một
khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba”. Điều này có nghĩa là người
tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để
hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người
bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo
hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người tham gia
đăng kí với người bảo hiểm.
2.2.4.2/ Bản chất của bảo hiểm:
Thực chất của hoạt động bảo hiểm là quy trình phân phối lại tổng sản
phẩm trong nước giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính
phát sinh khi tai nạn, rủi ro bất ngờ xẩy ra gây tổn thất đối với người tham gia
bảo hiểm.
Phân phối trong bảo hiểm là phân phối không đều, không bằng nhau,
nghĩa là không phải ai tham gia cũng được phân phối và phân phối với số tiền
như nhau. Phân phối trong bảo hiểm là phân phối cho số ít người tham gia bảo
hiểm không may gặp rủi ro bất ngờ gây thiệt hại đến sản xuất và đời sống trên
cơ sở mức thiệt hại thực tế và điều kiện bảo hiểm. Điều đó cũng có nghĩa phân
phối trong bảo hiểm không mang tính bồi hoàn, tức là dù có tham gia đóng góp
22
vào quỹ bảo hiểm nhưng không tổn thất thì không được phân phối (trừ một số
sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hưu trí).
Hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên tắc “Số đông bù số ít”. Nguyên tắc
này được quán triệt trong quá trình lập quỹ dự trữ bảo hiểm cũng như quá trình
phân phối bồi thường, quá trình phân tán rủi ro.
Hoạt động còn liên kết, gắn bó các thành viên trong xã hội cùng vì lợi ích
chung của cộng đồng, vì sự ổn định, sự phồn vinh của đất nước. Bảo hiểm với

nguyên tắc “Số đông bù số ít” cũng thể hiện tính tương trợ, tính xã hội và nhân
văn sâu sắc của xã hội trước rủi ro của mỗi thành viên.
2.2.4.3/ Các loại hình bảo hiểm
Hiện nay, các nước trên thế giới thường triển khai các loại bảo hiểm như
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm thương mại.
- BHXH là nhu cầu khách quan của người lao động, nó đảm bảo thay thế
được hoặc bù đắp được một phần thu nhập của người lao động khi họ gặp phải
những sự kiện bảo hiểm làm giảm hoặc mất khả năng lao động nhằm bảo đảm
đời sống cho người lao động và gia đình họ.
- BHYT được tách ra từ chế độ “chi phí y tế” trong hệ thống các chế độ
BHXH. Do đó, nó mang đầy đủ tính chất của BHXH. Ngày nay, BHYT phát
triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu khám và chữa bệnh của mọi thành viên trong
xã hội nên nó không chỉ dừng lại ở lực lượng lao động mà mở rộng đến mọi đối
tượng có nhu cầu dưới hình thức tự nguyện.
- BHTN cũng được tách ra từ BHXH do sự phát triển của nền kinh tế và
lực lượng lao động xã hội. BHTN phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động, do đó,
giải pháp BHTN liên quan đến trách nhiệm của xã hội của người sử dụng lao
động và cả của người lao động.
23
- BHTM là loại hình bảo hiểm kinh doanh. Hoạt động của BHTM chịu sự
chi phối của luật pháp nhất là luật kinh doanh bảo hiểm, các điều ước quốc tế và
tập quán quốc tế. BHTM không chỉ xâm nhập vào mọi hoạt động kinh tế - xã
hội khắp đất nước liên quan đến tài sản, trách nhiệm dân sự và con người mà
còn phát triển và mở rộng ra thị trường thế giới thông qua hoạt động phân tán
rủi ro.
3/ Sự cần thiết tăng cường các giải pháp tài chính ở địa bàn Hà Nội
3.1/ Những tác động của nghèo đói đối với sự phát triển kinh tế
Cái vòng “luẩn quẩn” của sự đói nghèo này lại kéo theo vòng “luẩn
quẩn” khác của sự phát triển đất nước. Vì vậy, muốn phát triển được thì phải
phá vỡ các điểm mấu chốt cơ bản như hạn chế gia tăng dân số, nâng cao sức

khoẻ và dinh dưỡng của dân cư, hạn chế thất học, nâng cao trình độ dân trí, …
3.1.1/ Về mặt kinh tế
Đói nghèo cũng tạo ra những vòng “luẩn quẩn” có mối quan hệ với nhau
giữa cung và cầu.
Về phía cung
Do thu nhập thấp, tiêu dùng của dân cư không thể chuyển sang tiết kiệm
để hình thành vốn, đầu tư cho kỹ thuật, máy móc thiết bị ít, dẫn đến năng suất
lao động thấp không thể nâng lên được để cuối cùng vẫn là thu nhập thấp. Cứ
như vậy, vòng tròn nghèo đói ngày càng thắt chặt trói buộc sự phát triển.
Tích luỹ thấp
Năng suất thấp Trình độ kỹ thuật thấp
24
Thu nhập thấp
Về phía cầu
Do thu nhập, quy mô thị trường hàng hoá nhỏ, sức mua của người dân
hạn chế nên không khuyến khích các nhà đầu tư. Việc thiếu nguồn lực đầu tư
đến lượt mình không làm cho năng suất tăng lên được và phải duy trì thu nhập ở
mức thấp. Một đất nước đã nghèo lại càng không thể tạo ra thị trường để thúc
đẩy đầu tư. Vòng “luẩn quẩn” cứ tiếp diễn kìm hãm sự phát triển xã hội.
Hiện nay nền kinh tế thế giới đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức,
có những nước đã đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao trong thời kỳ dài, nhưng
tình trạng nghèo khổ vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Theo thống kê của Ngân hàng thế
giới hiện nay trên toàn cầu có khoảng 1,2 tỷ người nghèo đói đang phải sống
dưới mức tối thiểu. Đa số những người nghèo này là phụ nữ, trẻ em và nhóm
người “yếu thế” dễ bị tổn thương trong xã hội.
3.1.2/ Về mặt xã hội
Nghèo đói tự nó kéo dài mãi trong vòng tròn “luẩn quẩn” là lực cản của
mỗi quốc gia trên con đường phát triển, nghèo đói sẽ dẫn đến thất học, suy dinh
dưỡng, tệ nạn xã hội, gia tăng dân số, bệnh tật, ô nhiễm môi trường,
Từ nghèo đói về kinh tế dẫn đến thất học, suy dinh dưỡng ảnh hưởng đến

nguồn lực con người, không có nguồn lực con người tốt thì lại không thực hiện
được công cuộc XĐGN, nghèo đói vẫn tiếp tục diễn ra.
Thu nhập thấp Quy mô thị trường hạn chế
Năng suất thấp Hạn chế đầu tư
25

×