Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

tìm hiểu năng lực trí nhớ hình ảnh của học sinh lớp 2 trường tiểu học lê quý đôn thành phố huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.13 KB, 31 trang )

Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tâm lí người có một đặc điểm quan trọng là sự phản ánh thế giới
khách quan luôn được sử dụng trong hành vi sau đó của cá thể. Sự phức tạp
lên của hành vi được thực hiện nhờ sự tích luỹ. Sự tích luỹ kinh nghiệm sẽ
không thể có được nếu những hình ảnh của hiện thực khách quan bị mất đi,
không để lại dấu vết nào. Trong thực tế các hình ảnh đó được cũng cố gìn
giữ và tái hiện lại khi cần. Quá trình ấy gọi là trí nhớ.
Trí nhớ là quá trình tâm lí phản ánh những kinh nghiệm của con
người dưới hình thức biểu tượng. Do đó, trí nhớ đóng vai trò rất quan trọng
trong cuộc sống con người. Con người muốn hoạt động phải có khả năng lặp
lại các thao tác cũ, sử dụng hiểu biết đã có vào công việc hiện tại. Trong
những hành động phức tạp, vai trò của trí nhớ càng quan trọng. Vì vậy, trí
nhớ là điều kiện không thể thiếu để tiến hành hoạt động.
Đối với đời sống tâm lí, trí nhớ là điều kiện để con người phát triển
được những chức năng tâm lí bậc cao, là điều kiện để con người tích luỹ
kinh nghiệm, sử dụng kinh nghiệm đó trong cuộc sống và hoạt động. Nếu
không có trí nhớ thì không có bất cứ sự phát triển tâm lí nào. Con người mãi
mãi ở tình trạng trẻ sơ sinh. Trí nhớ là điều kiện để con người có đời sống
tâm lí bình thường, ổn định, lành mạnh, trở thành một nhân cách. Trí nhơ
đảm bảo cho sự thống nhất, toàn vẹn của nhân cách. Không có trí nhớ con
người không có nhân cách. Không chỉ vậy, trí nhớ còn là công cụ để lưu giữ
các kết quả của quá trình nhận thức, là điều kiện để diễn ra các quá trình tư
duy, tưởng tượng làm cho các quá trình này đạt kết quả hợp lí (cung cấp các
tài liệu do nhận thức cảm tính thu nhận được cho nhận thức lí tình một cách
trung thành và đầy đủ).
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
1
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
Việc tìm hiểu năng lực trí nhớ đã tạo nên những đóng góp to lớn cho


nghiên cứu lí luận cũng như thực tiễn. Đặc biệt giai đoạn đầu lứa tuổi tiểu
học trí nhớ của trẻ chưa thực sự hoàn thiện, điều đó gây nên những khó khăn
cho trẻ khi tập trung kiến thức. Vì vậy việc nghiên cứu năng lực trí nhớ của
trẻ đóng vai trò rất quan trọng đối với quá trình học tập, hình thành và phát
triển nhân cách. Trong khi đó, vấn đề nghiên cứu về trí nhớ (đặc biệt là trí
nhớ hình ảnh) hiện nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Trên địa bàn
thành phố Huế hiện nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu 1 cách
cụ thể về năng lực trí nhớ hình ảnh của học sinh tiểu học. Chính vì vậy,
chúng tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu năng lực trí nhớ hình ảnh của học sinh lớp
2 trường tiểu học Lê Quý Đôn thành phố Huế” để nghiên cứu, từ đó có
những biện pháp nâng cao năng lực trí nhớ hình ảnh của học sinh.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm năng lực trí nhớ hình ảnh của học sinh lớp 2
trường tiểu học Lê Quý Đôn, trên cơ sở đó đề ra một số biện pháp phát triển
trí nhớ hình ảnh cho các em.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Năng lực trí nhớ hình ảnh của học sinh lớp 2
3.2 Khách thể nghiên cứu
Học sinh lớp 2C trường tiểu học Lê Quý Đôn thành phố Huế
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lí luận về năng lực trí nhớ hình ảnh của học
sinh lớp 2.
Nghiên cứu thực trạng về độ nhanh, độ bền, độ chính xác của học
sinh lớp 2C trường tiểu học Lê Quý Đôn thành phố Huế.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
2
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
Đề ra các biện pháp giúp học sinh lớp 2 nhớ nhanh, nhớ bền, nhớ
chính xác.

5. Giả thuyết khoa học
Nếu tìm hiểu được thực trạng về năng lực trí nhớ hình ảnh của các em
thì có thể đề xuất những biện pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực này cho
các em.
- Trí nhớ hình ảnh của trẻ lớp 2 nhớ nhanh nhưng không bền, không
chính xác.
- Trí nhớ hình ảnh của trẻ lớp 2 có đặc điểm: trí nhớ không chủ định
chiếm ưu thế. Trí nhớ có chủ định bắt đầu hình thành.
- Năng lực trí nhớ hình ảnh của trẻ lớp 2 phụ thuộc vào: đặc điểm,
tính chất của nội dung ghi nhớ: tri thức, kinh nghiệm, hoàn cảnh sống của
trẻ.
- Trí nhớ hình ảnh của trẻ lớp 2 có sự khác nhau giữa nam và nữ,
tuy nhiên sự khác nhau này là không nhiều.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phân tích
- Tổng hợp
- Hệ thống hoá
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp dùng bảng hỏi
- Phương pháp thống kê toán học
7. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
7.1. Phạm vi nghiên cứu
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
3
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
Nghiên cứu trên 38 học sinh lớp 2C trường tiểu học Lê Quý Đôn -Huế
7.2 .Thời gian nghiên cứu

Học kì I, năm học 2009 – 2010.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
4
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứư về vấn đề
Trí nhớ là thuộc tính chung của các vật chất hữu cơ. Đối với con
người, trí nhớ là điều khiển chủ yếu, điều kiện cơ sở của toàn bộ đời sống
tâm lý con người. Vì vậy trong suốt lịch sử phát triển của khoa học tâm lý trí
nhớ thường xuyên là đối tượng nghiên cứu được các nhà tâm lý học ưa
thích. Do những cách tiếp cận khác nhau nên nghiên cứu về trí nhớ hết sức
đa dạng.
1.1.1.Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài về trí nhớ
Công trình khoa học đầu tiên về trí nhớ được Hermann Ebbingheus –
một học giả người Đức tiến hành năm 1885. Đề tài này đã nghiên cứu về
cách thức hình thành và ghi nhớ các liên tưởng trong trí nhớ bằng phương
pháp thực nghiệm.
Trong tác phẩm “Phân tích trí nhớ về mặt thần kinh của A.R.Luria
năm 1970 đã trình bày xuất phát điểm coi trí nhớ là một hoạt động tâm lý có
cấu trúc tâm lý và cấu trúc thần kinh của trí nhớ.
Công trình: “Child development” do Peter Ornstein và các đồng
nghiệp của ông tiến hành năm 1975. Mục tiêu đặt ra của nghiên cứu là thấy
được các khác biệt có nguyên nhân độ tuổi diễn ra trong xu hướng trẻ em
thường nhẩm lại những từ mà người ta yêu cầu chúng phải nhớ. Kết quả của
công trình khẳng định rằng khả năng nhớ kém hơn của các em nhỏ tuổi liên
quan đến việc chúng sử dụng các phương pháp nhớ kém hiệu quả hơn.
1.1.2 Các công trình nghiên cứu trí nhớ trong nước
Công trình “Ghi nhớ máy móc và ghi nhớ có ý nghĩa của học sinh lớp
5,6,8 dùng phương pháp thực nghiệm đo khối lượng từ và số”. Nhóm nghiên
cứu trí nhớ, tổ Tâm lý học, khoa Tâm lý học, Trường ĐHSP Hà Nội do

Phạm Minh Hạc chủ trì, 1963. Công trình kết luận rằng : Khối lượng nhớ từ
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
5
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
lớn hơn khối lượng nhớ số. Khối lượng ghi nhớ thị giác là tốt nhất, khối
lượng ghi nhớ riêng rẽ bằng thị giác, thính giác nhỏ hơn khối lượng ghi nhớ
bằng thị giác, thính giác phối hợp. Quá trình quên xảy ra không theo tỉ lệ
thuận với thời gian.
Công trình “Tìm hiểu độ nhanh và độ bền trí nhớ của trẻ mẫu giáo lớn
trường mầm non Hoa Sen” do sinh viên khoa Tâm lý – Giáo dục, trường
ĐHSP Hà Nội tiến hành năm 2005 đã thu được kết luận sau : trí nhớ của trẻ
mẫu giáo lớn có đặc điểm dễ nhớ, nhớ nhanh nhưng không bền. Khả năng
ghi nhớ của trẻ phụ thuộc vào đặc điểm, tính chất của đối tượng ghi nhớ, vào
giới tính, vào môi trường, vào điều kiện sống của trẻ và sự giảng dạy của
giáo viên.
1.2. Các khái niệm liên quan
 Trí nhớ
Trí nhớ là quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm của con
người dưới hình thức biểu tượng bao gồm sự ghi nhớ, gìn giữ và tái hiện lại
sau đó ở trong óc cái mà con người đã cảm giác, rung động, hành động, suy
nghĩ trước đây (Nguyễn Quang Uẩn)
 Trí nhớ hình ảnh
Năng lực trí nhớ hình ảnh là hiệu suất (hiệu quả) tổng quát của trí nhớ
hình ảnh được xác định bởi một loạt các phẩm chất của nó như: Độ nhanh,
độ bền, độ chính xác.
 Những phẩm chất căn bản của trí nhớ
- Độ nhanh (Tốc độ ghi nhớ) : Được xác định bởi thời gian cần
thiết để ghi nhớ đầy đủ tài liệu
- Độ bền (Sự gìn giữ lâu bền) : Được xác định bằng thời gian mà
tài liệu ghi nhớ được giữ lại trong trí nhớ, tức là bằng một thời hạn tối đa mà

sau đó một tài liệu ghi nhớ vẫn có thể nhớ lại.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
6
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
- Độ chính xác: Là mức độ phù hợp giữa tài liệu được tri giác với
biểu tượng tương ứng mà ta nhớ lai.
- Khối lượng ghi nhớ: Là số lượng những tài liệu mà chúng ta có
thể trực tiếp nhớ lại sau chỉ một lần tri giác
 Phân loại
Trí nhớ được phân loại theo đặc điểm của hoạt động mà trong đó diễn
ra quá trình ghi nhớ cũng như tái hiện:
- Dựa vào tính chất của tính tích cực tâm lý nổi bật nhất (giữa địa
vị thống trị) trong hoạt động nào đó, trí nhớ được phân thành trí nhớ vận
động, trí nhớ xúc cảm, trí nhớ hình ảnh và trí nhớ từ ngữ - logic
Trí nhớ vận động: Là loại trí nhớ phản ánh những cử động và hệ thống
các cử động khác nhau. Loại trí nhớ này là cơ sở để hình thành các kĩ xảo
thực hành và lao động khác nhau. Tiêu chí đánh giá trí nhớ vận động là tốc
độ hình thành và mức độ bền vững của những kĩ xảo này.
Trí nhớ xúc cảm: là trí nhớ về một xúc cảm, tình cảm đã diễn ra trong
hoạt động trước đây. Trí nhớ xúc cảm giúp cá nhân cảm nhận được những
giá trị thẩm mĩ trong hành vi, cử chỉ, lời nói và trong nghệ thuật.
Trí nhớ hình ảnh: là trí nhớ đối với một ấn tượng mạnh thuộc về một
cơ quan cảm giác. Dựa vào các cơ quan cảm giác tham gia vào ghi nhớ và
nhớ lại trí nhớ hình ảnh được chia ra thành trí nhớ nghe, trí nhớ nhìn….
Trí nhớ từ ngữ - logic: là loại trí nhớ về những mối liên hệ, quan hệ
mà nội dung được tạo nên bởi tư tưởng của con người. Trí nhớ này phát triển
trên cơ sở các loại trí nhớ đã nêu trên, ngày càng có vị trí thống trị và ảnh
hưởng trở lại các loại trí nhớ đó.
- Dựa vào tính chất mục đích của của hoạt động, trí nhớ được
chia thành trí nhớ không chủ định và trí nhớ có chủ định:

Nguyễn Thị Na – TLGD 3
7
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
Trí nhớ không chủ định: là trí nhớ không có mục đích chuyên biệt ghi
nhớ, gìn giữ và tái hiện tài liệu. Trí nhớ này có trước trong đời sống cá thể.
Trí nhớ có chủ định: là loại trí nhớ có mục đích ghi nhớ, giữ gìn và tái
hiện cái gì đó. Trí nhớ này có sau trí nhớ không chủ định trong đời sống cá
thể nhưng ngày càng tham gia nhiều hơn vào quá trình tiếp thu tri thức.
Trong hoạt động và công việc, trí nhớ có chủ định chiếm một vai trò hết sức
to lớn
- Dựa vào mức độ kéo dài của sự giữ gìn tài liệu đối với hoạt
động, trí nhớ được chia thành trí nhớ ngắn hạn, trí nhớ dài hạn và trí nhớ
thao tác
Trí nhớ ngắn hạn: là trí nhớ ngay sau giai đoạn vừa ghi nhớ. Quá trình
này chưa ổn định, nhưng có ý nghĩa lớn trong tiếp thu kinh nghiệm. Đây là
một sự đặc biệt của sự ghi nhớ, của tích lũy và tái hiện thông tin và là cơ sở
của trí nhớ dài hạn.
Trí nhớ dài hạn: Là trí nhớ sau giai đoạn ghi nhớ một khoảng thời
gian cho đến mãi mãi. Nó rất quan trọng để con người tiếp thu tri thức. Để
trí nhớ dài hạn có chất lượng tốt, ở giai đoạn đầu cá nhân cần có sự luyện
tập, củng cố và tái hiện nhiều lần, sử dụng nhiều biện pháp củng cố và tái
hiện khác nhau.
Trí nhớ thao tác: là trí nhớ ở sau giai đoạn trí nhớ ngắn hạn và trước
trí nhớ dài hạn, về bản chất trí nhớ thao tác là trí nhớ làm việc, tức là huy
động từ trí nhớ dài hạn (đôi khi cả trí nhớ ngắn hạn) để cá nhân thực hiện
những hành động khẩn thiết, đặc biệt là các hành động phức tạp.
1.3. Các quan điểm tâm lý học về bản chất của trí nhớ
Kể từ khi tâm lý học tách khỏi triết học trở thành một khoa học độc
lập, thì trí nhớ trở thành một trong những vấn đề quan trọng của đời sống
Nguyễn Thị Na – TLGD 3

8
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
con người. Trí nhớ được quan tâm nghiên cứu chẳng những trên bình diện
tâm lý, có nhiều khuynh hướng và luận điểm khác nhau về trí nhớ.
Những người theo thuyết liên tưởng (Gartli, Miler, Ben) xem liên
tưởng là nguyên tắc quan trọng nhất của sự hình thành trí nhớ nói riêng và
các hiện tượng tâm lý nói chung. Theo quan điểm này, sự xuất hiện một hình
ảnh tâm lý trong vỏ não bao giờ cũng diễn ra đồng thời (hoặc kế tiếp nhau)
với một hiện tượng tâm lý khác. Đóng góp quan trọng nhất của các nhà tâm
lý học liên tưởng là họ đã đề cập đến vai trò của chú ý có điều kiện và của ý
chí như là một điều kiện trong ghi nhớ (trước khi tâm lý học liên tưởng ra
đời, trí nhớ chưa được phân loại thành trí -nhớ không chủ định và có chủ
định. Tất cả đều được xem là trí nhớ không chủ định, dẫn đến trí nhớ máy
móc). Trong công trình nghiên cứu của Ebbinghaus về sự khác nhau cá biệt
ở hai nhóm người: học thuộc lòng máy móc và học hiểu thấu ý nghĩa, hai
dấu hiệu cơ bản của trí nhớ chủ định và không chủ định. Trí nhớ đã trở thành
đối tượng thực nghiệm. Tuy nhiên các nhà liên tưởng đã sai lầm khi khẳng
định tính vạn năng của liên tưởng và giải tthích cơ chế của sự liên tưởng dựa
trên hoạt động máy móc của não. Do hiểu máy móc về liên tưởng, mà trí
nhớ không được xem như một quá trình, không phải là hoạt động xác định
của con người với các đối tượng hoặc với các hình ảnh của chúng, mà như là
sản phẩm của các liên tưởng. Thuyết này mới chỉ dừng lại ở việc những điều
kiện ở bên ngoài của sự xuất hiện những ấn tượng đồng thời. Trong tâm lý
học, sự mô tả này là rất cần thiết, song các nhà liên tưởng đã sai lầm khi giải
thích đó là những mối liên hệ nhân quả. Thuyết liên tưởng chỉ mới dừng lại
ở sự khẳng định các sự kiện chứ chưa giải thích chúng một cách khoa học.
Năm 1913 có một dòng tâm lý chống lại thuyết liên tưởng là tâm lý
học Gestalt. Họ xem ghi nhớ là sự tạo “dấu vết” trong vỏ não, nó phụ thuộc
vào việc tổ chức tài liệu khi tri giác và khả năng cấu trúc hóa của tài liệu
Nguyễn Thị Na – TLGD 3

9
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
(Keler đã làm thực nghiệm với tài liệu cần nhớ, nếu chúng được xếp theo
các đối tượng gần nhau và giống nhau thì nhớ tốt hơn các đối tượng khác
loại. Ông cho trẻ em nhớ các từ, số, hình, được nhóm thành các cặp đồng
loại và khác loại. Trong tất cả các trường hợp, các thành phần đồng loại
giống nhau đã được trẻ ghi nhớ tốt hơn là khác loại).
Mặt khác, theo các nhà tâm lý học Gestalt, mỗi đối tượng là một cấu
trúc thống nhất các yếu tố tạo nên. Cấu trúc ấy của đối tượng, theo họ là cơ
sở để thống nhất các yếu tố tạo nên. Cấu trúc ấy của đối tượng, theo họ là cơ
sở để tạo nên trong vỏ bán cầu đại não một cấu trúc tương tự của những dấu
vết, và do đó trí nhớ được hình thành. Các nhà tâm lý học Gestalt coi nguyên
tắc tính trọn vẹn của những hình ảnh là quy luật (được gọi là quy luật
Gestalt) tách ra khỏi hoạt động của bản thân con người. Về phương diện
này, quan điểm của các nhà tâm lý học Gestalt không vượt xa được quan
điểm của các nhà tâm lý học liên tưởng. Bởi vì, để ghi nhớ được thì cấu trúc
vật chất là cái căn bản, song cấu trúc này được phát hiện thông qua hoạt
động của cá nhân. Nhờ hoạt động chúng ta phát hiện ra cấu trúc của vật chất
và sử dụng vào mục đích ghi nhớ. Hơn nữa, việc tổ chức tài liệu nhớ cần
được xem xét không phải như một yếu tố tự thân của quá trình trí nhớ như
một trong những điều kiện cơ bản của hoạt động trí nhớ. Lối tiếp cận như
vậy, mở ra khả năng nghiên cứu, đánh giá vai trò và ý nghĩa của việc tổ chức
tài liệu đối với quá trình nhớ.
Như vậy, lý thuyết liên tưởng đi từ cái bộ phận đến toàn thể, còn lý
thuyết cấu trúc đi từ cái toàn thể đến cái bộ phận. Hai lý thuyết này chỉ giải
thích được trí nhớ căn cứ vào tổ chức kích thích ở bên ngoài, không đi vào
diễn biến giải phẩu sinh lý, hóa sinh ở bên trong não, không lưu ý đến tính
tích cực của chủ thể mang quá trình ghi nhớ, cách tạo nên dấu vết khác nhau,
tính lựa chọn của trí nhớ.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3

10
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
Đối với các nhà phân tâm học, trí nhớ hiện ra dưới hình thức không
chủ định là chính. Yếu tố thúc đẩy thúc đẩy con người ghi nhớ chính là sự
say mê. Đại diện cho thuyết phân tâm học, S.Freud cho rằng những điều dễ
chịu và say mê làm cho con người lớn nhớ tốt hơn.
Các nhà tâm lý học hành vi đặt ra đối tượng nghiên cứu là hành vi.
Theo thuyết này, vấn đề tâm lý được đơn giản hóa một cách đáng kể. Các
nhà tâm lý học hành vi đã bỏ qua vai trò của nhận thức chủ định và khi giải
thích hành vi họ đã loại trừ tính mục đích ra khỏi hoạt động. Do đó vấn đề
không chủ định và chủ định đã mất đi ý nghĩa của nó. Trí nhớ chỉ còn là trí
nhớ không chủ định, ngay cả dạng này cũng bị nghèo nàn khi nó mất đi nội
dung của tâm lý. Trong tâm lý học hành vi, vấn đề học tập chiếm vị trí trung
tâm, sự giải thích khác nhau về quá trình học tập dẫn đến các quan niệm
khác nhau về trí nhớ, song đặc trưng hơn cả là nhập khái niệm trí nhớ với
khái niệm học tập. Tuy nhiên, các nhà tâm lý học hành vi đã đề cập đến vai
trò của sự củng cố và nhắc lại các tài liệu (kích thích) trong quá trình nhớ.
Một hướng khác trong nghiên cứu tâm lý học là nhấn mạnh măt tích
cực của hoạt động nhận thức. Wunt đã đưa ra khái niệm “tổng giác” và vai
trò của tư duy trong các chức năng của tâm lý. Trong trí nhớ, các tác giả bắt
đầu nhấn mạnh sự phụ thuộc của trí nhớ vào tính tích cực của tri giác, chú ý,
ý định và tính tích cực đặc biệt của tư duy trong ghi nhớ. Tính có chủ định
của trí nhớ do sự nỗ lực của ý chí. Nhưng rất tiếc lại là ý chí và nhận thức
“thuần khiết” mà không liên quan đến việc cải tổ quá trình ghi nhớ.
Dựa vào nguyên tắc cơ bản của tâm lý học mác xít về mối quan hệ
giữa tâm lý và hoạt động, các nhà tâm lý học mác xít cho rằng : hoạt động
của cá nhân quyết định sự hình thành tất cả các quá trình tâm lý, trong đó có
trí nhớ của cá nhân. Theo đó quá trình ghi nhớ, giữ gìn và tái hiện qược quy
định bởi vị trí của tài liệu với hoạt động của cá nhân, những quá trình đó có
Nguyễn Thị Na – TLGD 3

11
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
hiệu quả nhất khi tài liệu trở thành mục đích của hành động. Đặc biệt, sự ghi
nhớ - giai đoạn đầu tiên của quá trình trí nhớ, không xảy ra trong nháy mắt,
mà nó là kết quả của hoạt động tích cực nhất định của con người với nội
dung tài liệu cần ghi nhớ, điều này được Zintrenco khẳng định: “Sự vật được
ghi nhớ khi nó là đối tượng hoạt động của chủ thể, chứ không phải là mục
tiêu của tri giác thụ động”. Ngay khi ghi nhớ không chủ định (chủ thể không
đặt cho mình mục đích giữ lại trong trí nhớ nội dung tài liệu cần nhớ), thì
khuynh hướng hoạt động của họ tạo sự bền vững và đầy đủ của tài liệu.
Ngoài ra, sự thay đổi số lượng tài liệu là do con người nắm được các phương
thức hoạt động của nó, hoạt phương pháp ghi nhớ. Như vậy, sự hình thành
những mối quan hệ giữa những biểu tượng riêng lẻ không chỉ quy định bởi
bản thân tính chất của tài liệu cần được ghi nhớ, mà trước hết còn phụ thuộc
vào cá nhân làm gì với tài liệu ấy và phụ thuộc vào đặc điểm của hoạt động.
1.4. Các quá trình cơ bản của trí nhớ
Trí nhớ là hoạt động tâm lý phức tạp, tích cực bao gồm nhiều quá
trình khác nhau có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau theo quy luật.
Mỗi quá trình có chức năng riêng, nhưng không đối lập với nhau theo quy
luật. Mỗi quá trình có chức năng riêng, nhưng không đối lập với nhau mà
hợp thành một chỉnh thể thống nhất của hoạt động trí nhớ.
1.4.1. Quá trình ghi nhớ
Ghi nhớ là quá trình hình thành dấu vết của đối tượng mà ta đang tri
giác trên vỏ não, đồng thời là quá trình hình thành các mối liên hệ giữa các
bộ phận của bản thân tài liệu mới với nhau.
Nhờ ghi nhớ mà một tài liệu nào đó được giữ lại trong ý thức của
chúng ta. Điều này rất cần thiết để tiếp thu kinh nghiệm, tri thức. Chất lượng
của trí nhớ phụ thuộc rất lớn vào khâu này (Ghi nhớ có đầy đủ chính xác hay
không).
Nguyễn Thị Na – TLGD 3

12
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
 Hiệu quả của ghi nhớ phụ thuộc vào:
- Nội dung, tính chất tài liệu cần nhớ.
- Động cơ, mục đích, phương thức hoạt động của cá nhân: sự ghi
nhớ một tài liệu nào đó là kết quả hoạt động với tài liệu. Vấn đề quan trọng
là con người làm gì với tài liệu.
 Các cách ghi nhớ: Căn cứ vào mục đích ghi nhớ:
- Ghi nhớ không chủ định:
Là ghi nhớ được thực hiện mà không cần đặt ra mục đích ghi nhớ từ
trước không đòi sự nổ lực ý chí nào, không dùng một cách thức đặc biệt nào
để nhớ mà dường như được thực hiện một cách tự nhiên.
Ghi nhớ không chủ định phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đặc điểm của đối
tượng, màu sắc, sự di động, cảm xúc của con người với đối tượng, tài liệu có
quan hệ đặc biệt với cá nhân (là mục đích, nội dung cơ bản của hoạt động)
Vai trò: Giúp mở rộng tri thức, kinh nghiệm của con người mà không
đòi hỏi sự cố gắng nào.
- Ghi nhớ có chủ định:
Là loại ghi nhớ theo mục đích đã định trước, đòi hỏi một sự nổ lực ý
chí nhất định cũng như những thủ thuật và phương pháp ghi nhớ xác định.
Ghi nhớ có chủ định là sản phẩm của những hành động mang tính
chất kỹ thuật đặc thù, bản thân ghi nhớ là mục đích của hành động.
Hiệu quả của ghi nhớ có chủ định phụ thuộc vào: động cơ, mục đích
của sự ghi nhớ. Muốn ghi nhớ có kết quả cần xác định rõ mục đích, thời hạn
ghi nhớ, biết sử dụng các biện pháp ghi nhớ hợp lý. Nhiệm vụ ghi nhớ cụ thể
đặc biệt quan trọng trong dạy học.
Các hình thức ghi nhớ có chủ định:
+ Ghi nhớ máy móc:
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
13

Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
Là sự ghi nhớ dựa trên sự lặp lại nhiều lần tài liệu một cách đơn giản,
tạo ra mối liên hệ bề ngoài giữa các phần của nội dung tài liệu.
Học vẹt là biểu hiện điển hình của loại ghi nhớ này. Học vẹt là tìm
cách đưa tất cả tài liệu vào trí nhớ một cách chính xác và chi tiết. Nhớ mà
không hiểu.
Người học sẽ học vẹt khi: không hiểu bài, hoặc lười suy nghĩ, các
phần của tài liệu rời rạc không có liên hệ với nhau, giáo viên thường xuyên
yêu cầu học sinh nhớ từng câu từng chữ trong tài liệu….
Ghi nhớ máy móc thường đưa đến sự lĩnh hội tri thức một cách hình
thức, tốn nhiều thời gian, khi quên khó hồi tưởng.
Ghi nhớ máy móc trở nên cần thiết trong các trường hợp phải ghi nhớ
tài liệu không có nội dung khái quát như số nhà, số điện thoại…
+ Ghi nhớ có ý nghĩa
Là ghi nhớ dựa trên cơ sở thông hiểu bản chất, nội dung tài liệu, nhận
thức được những mối liên hệ bên trong của bản thân tài liệu. Ghi nhớ ở đây
gắn liền với tư duy, tưởng tưởng để nắm lấy logic của tài liệu.
Biện pháp điển hình của ghi nhớ này là ghi nhớ theo điểm tựa: tìm ra
những ý lớn, ý nhỏ ( đơn vị logic cấu tạo nên nội dung tài liệu và mối liên hệ
của chúng ). Cụ thể: chia tài liệu thành từng đoạn, đặt cho mỗi đoạn một cái
tên nhất định phù hợp với nội dung ( điểm tựa ), gắn các đoạn thành một
tổng thể bằng một cái tên thích hợp.
Trong khi tiến hành ghi nhớ logic chủ thể sử dụng các biện pháp như:
phân tích, mô hình hóa, so sánh, phân loại, hệ thống tài liệu.
Tái hiện nội dung tài liệu dưới hình thức nói thầm cũng là một biện
pháp ghi nhớ
Trình tự: tái hiện toàn bộ nội dung tài liệu một lần: tái hiện từng phần,
tái hiện toàn bộ.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
14

Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
Trong quá trình đó sử dụng các thao tác: định hướng vào toàn bộ tài
liệu, phân chia tài liệu thành nhóm, xác định liên hệ giữa các nhóm.
Ôn tập cũng là một biện pháp để ghi nhớ.
1.4.2 Quá trình gìn giữ
Là quá trình cũng cố vững chắc những dấu vết đã được ghi lại trên vỏ
não trong quá trình ghi nhớ.
Đây là khâu rất cần thiết của hoạt động trí nhớ. Nếu ghi nhớ nhanh
nhưng không gìn giữ tốt thì không thể nhớ lâu, bền vững và chính xác.
Có hai hình thức gìn giữ:
- Gìn giữ tiêu cực: dựa trên sự tri giác lại nhiều lần tài liệu một
cách đơn giản, thụ động.
- Gìn giữ tích cực: nhớ lại tài liệu trong óc mà không cần tri giác
lại tài liệu đó.
Trong quá trình học tập của học sinh, gìn giữ biểu hiện trong việc ôn
tập. Cách gìn giữ có hiệu quả là ôn tập một cách chủ động, tích cực, hợp lý,
đúng lúc.
1.4.3 Quá trình tái hiện
Là quá trình trong đó những nội dung đã được ghi nhớ trước đây được
làm sống lại.
Kết quả của quá trình ghi nhớ và gìn giữ được thể hiện trong quá trình
tái hiện. Có hai hình thức:
- Nhận lại:
Là khả năng làm sống lại những hình ảnh của đối tượng nào đó khi tri
giác lại nó.
Nhận lại là lúc biểu tượng cũ và hình ảnh tri giác nhập làm một, ở con
người xuất hiện cảm giác quen thuộc
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
15
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức

Nhận lại cũng có thể sai do ta tiếp xúc với đối tượng có những nét
giống nhau, nên khó phân biệt. Vì vậy, không nên lấy nhận lại làm cơ sở
đánh giá trí nhớ.
- Nhớ lại:
Là khả năng làm sống lại những hình ảnh của sự vật hiện tượng đã
được ghi nhớ trước đây khi chúng không còn ở trước mặt.
Các hình thức nhớ lại :
- Nhớ lại không chủ định: Nhớ lại một cách tự nhiên ( chợt nhớ
một điều gì khi gặp một hoàn cảnh cụ thể, không cần xác định mục đích một
nhiệm vụ ghi nhớ).
Nguyên nhân: được kích thích bởi một đối tượng đang tri giác: một
hình ảnh của tưởng tượng, tư duy theo quy luật tưởng tượng.
- Nhớ có chủ định: là nhớ lại có mục đích tự giác, đòi hỏi sự cố
gắng nhất định, chịu sự chi phối của nhiệm vụ ghi nhớ.
- Hồi tưởng: là hình thức nhớ lại có chủ định, đòi hỏi một hoạt
động trí tuệ phức tạp, cá nhân phải cố gắng. Kết quả của nó phụ thuộc vào
nội dung và nhiệm vụ tái hiện được cá nhân ý thức rõ ràng đến mức nào.
Trong hồi tưởng, những ấn tượng được tái hiện một lựa chọn, sắp xếp
lại tùy nhiệm vụ nhớ lại.
Khi nhớ những hình ảnh cũ được cư trú trong không gian, thời gian
gọi là hồi ức.
Khả năng nhớ lại phụ thuộc vào: khả năng ghi nhớ chính xác, bền lâu,
vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, hứng thú, tình cảm cá nhân….
1.4.4 Sự quên
Quên là hình tượng không làm sống lại nội dung, tài liệu (đối tượng)
đã được ghi nhớ trước đây vào thời điểm cần thiết.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
16
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
Là hiện tượng đối lập với nhớ lại và nhận lại, là biểu hiện của sự

không nhớ lại hay nhận lại được.
- Các mức độ:
+ Quên hoàn toàn: không nhận lại hay nhớ lại được.
+ Quên cục bộ: không nhớ lại được nhưng nhân lại được
+ Quên tạm thời: trong một thời gian dài không nhớ lại được nhưng
một lúc nào đó lại đột nhiên nhớ.
- Quy luật của sự quên:
Người ta thường hay quên những gì không liên quan hoạt ít liên quan
đến đời sống, những gì không phù hợp với yêu cầu, hứng thú sở thích cá
nhân.
Những gì ít được củng cố hoặc sử dụng thường xuyên trong hoạt động
hằng ngày cũng dễ quên
Người ta tthường hay quên khi gặp kích thích mới lạ, kích thích mạnh.
Sự quên diễn ra theo một trình tự nhất định sau: quên cái tiểu tiết, vụn vặt
trước, chi tiết nào phù hợp với hứng thú, nhu cầu gây ấn tượng sâu sắc thì
quên sau.
Sự quên diễn ra theo tốc độ không đều, ở giai đoạn đầu quên nhanh,
về sau tốc độ giảm dần.
Quên là một hiện tượng hợp lý và hữu ích, là dấu hiệu của một trí nhớ
hoạt động bình thường, là cơ chế tất yếu, đúng quy luật trong hoạt động của
trí nhớ.
1.5. Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ -
lôgic.
Giai đoạn lớp 1, 2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm
ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
17
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết

cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.
Giai đoạn lớp 4, 5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng
cường. Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi
nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập
trung ghi nhớ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý
tình cảm hay hứng thú của các em
Nắm được điều này, các nhà giáo dục phải giúp các em biết cách khái
quát hóa và đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan
trọng cần ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải
đơn giản dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt phải hình thành ở các em
tâm lý hứng thú và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
18
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
Chương 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Mô tả quá trình nghiên cứu
Lịch tiến hành thực nghiệm lần 1
Ngày
Buổi
Thời gian Đối tượng ghi nhớ
19/11/09 15h – 15h20 Nhớ tranh
19/11/09 15h30 - 15h50 Nhớ từ
Lịch tiến hành thực nghiệm lần 2
Ngày
Buổi
Thời gian Đối tượng ghi nhớ
27/11/09 15h – 15h20 Nhớ tranh
27/11/09 15h30 - 15h50 Nhớ từ
Lịch tiến hành thực nghiệm lần 3
Ngày

Buổi
Thời gian Đối tượng ghi nhớ
4/12/09 15h – 15h10 Nhớ tranh
4/12/09 15h – 15h20 Nhớ từ
2.2. Mô tả phương pháp nghiên cứu
2.2.1.Thực nghiệm nhớ hình vẽ người trong tranh
 Lần 1
- Chúng tôi cho trẻ tri giác bức tranh có vẽ các động tác thể dục khác
nhau. Bức tranh được lấy trong cuốn Bài tập thực hành tâm lý học của Trần
Trọng Thuỷ (trang 116). Các động tác thể dục này rất gần gũi với trẻ.
- Về kích thước của tranh có khổ A0
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
19
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
- Số lượng: 1 tranh vẽ các động tác thể dục mà trẻ cần nhớ, 1 tranh
vẽ 25 động tác dùng để kiểm tra khả năng nhớ của trẻ.
- Kỹ thuật tiến hành:
+ Treo bức tranh thứ nhất lên, cho trẻ tri giác trong vòng 5 phút.
+ Sau đó cất bức tranh ấy đi và phát bức tranh thứ hai (có khổ A4)
cho tất cả các em, yêu cầu các em đánh dấu X vào những hình vẽ giống với
những hình trong bức tranh các em vừa xem.
 Lần 2
- Lần thứ hai khi cho trẻ quan sát tranh, yêu cầu trẻ nhìn kĩ để ghi
nhớ. Đồng thời, ta hướng dẫn trẻ một số biện pháp nhớ tranh như: Động tác
này giống động tác vươn thở, động tác này động tác lưng eo Như vậy, sẽ
thu được kết quả trí nhớ nhanh đối với tranh.
 Lần 3.
- Sau một tuần, chúng tôi phát phiếu điều tra yêu cầu trẻ nhớ lại và
đánh dấu X vào các hình vẽ trẻ đã quan sát lần trước mà không cho trẻ xem
lại tranh. Làm như vậy thu được kết quả đo trí nhớ bền đối với tranh.

Chuẩn đánh giá:
- Đúng 8 - 9 động tác: loại giỏi
- Đúng 6 - 7 động tác: loại khá
- Đúng 3 - 5 động tác: loại trung bình
- Đúng 0 - 2 động tác: loại kém
2.2.2. Thực nghiệm nhớ từ
Chúng tôi đọc cho trẻ nghe các từ có tính cụ thể và trừu tượng để trẻ
nhớ. Các từ đó được sắp xếp một cách rời rạc không liên hệ gì với nhau, số
lượng là 10 từ. Các từ chọn trong thực nghiệm gần gũi, dễ hiểu. Các từ được
sắp xếp theo thứ tự:
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
20
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
1) cha mẹ
2) ngoan ngoãn
3) quyển sách
4) chiến sĩ
5) quả cam
6) khu rừng
7) con vịt
8) hoa hồng
9) đi chợ
10)máy bay
Cũng như thực nghiệm với nhớ tranh, chúng tôi không yêu cầu
trẻ phải ghi nhớ, và không nói rõ số lượng từ.
Lần 1. Chúng tôi đọc to rõ đúng từng từ một cho các em nghe theo
thứ tự từ 1 đến 10. Sau đó phát phiếu điều tra yêu cầu các em đánh dấu (X)
vào những từ nghe được.
Lần 2. Chúng tôi đọc lại từng từ một cho các em nghe và yêu cầu các
em đọc theo mình. Mỗi từ cho trẻ đọc một lần, to, rõ, đúng. Sau đó phát

phiếu điều tra yêu cầu các em đánh dấu (X) vào những từ đã nghe được.
Làm như vậy sẽ đo được trí nhớ nhanh đối với từ.
Lần 3. Sau một tuần đến và phát phiếu điều tra yêu cầu các em đánh
dấu X vào những từ cô đọc lần trước mà không đọc lại. Làm như vậy sẽ thu
được kết quả đo trí nhớ bền đối với từ.
Chuẩn đánh giá:
- Đúng 8 – 10 từ: loại giỏi
- Đúng 5 – 7 từ: loại khá
- Đúng 2 – 4 từ: loại trung bình
- Đúng 0 – 2 từ: loại yếu
2.2.3. Thực nghiệm kiểm tra độ chính xác của trí nhớ tranh và từ
của trẻ.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
21
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
Cho trẻ tri giác một bức tranh mô tả câu chuyện “Rùa và thỏ”.
Kích thước tranh: A0
Số lượng chi tiết: 10 chi tiết (Rùa, thỏ, vạch đích, cây, mây, bãi cỏ, hồ
nước, con đường, mặt trời, bông hoa)
Cách tiến hành: Treo bức tranh lên, cho trẻ tri giác trong vòng 5 phút.
Sau đó, cất bức tranh đi và yêu cầu trẻ ghi lại tên những hình vẽ có trong
bức tranh. Không có bất kỳ gợi ý nào.
Làm như vậy ta thu được kết quả đo độ chính xác của trí nhớ hình
ảnh.
Chuẩn đánh giá:
- Đúng 8 – 10 hình: loại giỏi
- Đúng 5 – 7 hình: loại khá
- Đúng 2 – 4 hình: loại trung bình
- Đúng 0 – 2 hình: loại yếu
Nguyễn Thị Na – TLGD 3

22
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
2.3. Kết quả thực nghiệm
Bảng 2.1 Trí nhớ tranh và từ của trẻ ( Kết quả thực nghiệm lần 1)
STT Mức độ
Tranh Từ
Số lượng % Số lượng %
1 Giỏi 3 7.9 2 5.3
2 Khá 7 18.4 6 15.8
3 Trung bình 19 50.0 16 42.1
4 Yếu 9 23.7 14 36.8
Qua số liệu điều tra cho thấy, nếu không đưa ra yêu cầu ghi nhớ cho
trẻ, không dùng những biện pháp ghi nhớ thì trẻ sẽ ghi nhớ kém. Bởi lẽ trong
trường hợp này trẻ ít chú ý và không biết cách ghi nhớ. Cụ thể:
Nhớ tranh: mức độ giỏi và khá chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp (26.3%), còn
mức độ trung bình và yếu chiếm tỷ lệ cao (73.7%).
Nhớ từ: Mức độ giỏi và khá cũng chiếm tỷ lệ thấp (21.1%), còn mức
độ trung bình và yếu chiếm tỷ lệ rất cao (78.9%).
Bảng 2.2 Trí nhớ tranh và từ của trẻ (Kết quả thực nghiệm lần 2)
STT Mức độ
Tranh Từ
Số lượng % Số lượng %
1 Giỏi 12 31.6 7 18.4
2 Khá 22 57.9 17 44.7
3 Trung bình 3 7.9 14 36.9
4 Yếu 1 2.6 0 0
Qua bảng số liệu đã xử lí ta thấy đa số trẻ có trí nhớ nhanh. Cụ thể:
Nhớ tranh: 89.5% trẻ đạt mức khá giỏi, 10.5% trẻ đạt mức trung bình
và yếu.
Nhớ từ: 63.1% trẻ đạt mức khá giỏi, 36.9% trẻ đạt mức trung bình,

mức yếu không có trẻ nào.
Ta thấy khả năng nhớ tranh của trẻ tốt hơn khả năng nhớ từ. Bằng
chứng là tỉ lệ trẻ đạt mức khá giỏi về nhớ tranh cao hơn so với nhớ từ là
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
23
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
26.4%. Vì tranh là đối tượng trực quan sinh động, gần gũi với trẻ, còn từ thì
trừu tượng hơn và lại được sắp xếp một cách không lôgic nên trẻ khó nhớ
hơn.
Qua kết quả thực nghiệm lần 2 cho thấy trẻ nhớ tranh và từ hơn lần 1
rất nhiều (mức độ khá giỏi đối với nhớ tranh lần hai lớn hơn lần một đến
63.2%, mức độ khá giỏi đối với nhớ từ lần 2 hơn lần 1 đến 42%). Chứng tỏ
nếu như đưa ra yêu cầu ghi nhớ cho trẻ, đồng thời hướng dẫn cho trẻ cách
ghi nhớ thì trẻ sẽ nhớ nhanh hơn.
Bảng 2.3 Trí nhớ tranh giữa trẻ nam và trẻ nữ (19 nam, 19 nữ)
STT Mức độ
Nam Nữ
Số lượng
(Tranh)
% Số lượng
(Tranh)
%
1 Giỏi 8 21.1 4 10.5
2 Khá 10 26.3 12 31.6
3 Trung bình 1 2.6 3 7.9
4 Yếu 0 0 0 0
Qua bảng số liệu 2.3 ta thấy rằng trẻ nam ghi nhớ hình ảnh tốt hơn trẻ
nữ. Cụ thể:
Mức độ khá giỏi trẻ nam chiếm 47.4%, trẻ nữ chiếm 42.1%. Như vậy,
tỉ lệ nhớ tranh của trẻ nam đạt mức độ khá giỏi của trẻ nam lớn hơn trẻ nữ

4.3%. Mức độ trung bình trẻ nam 2.6%, trẻ nữ 7.9%. Như vậy, tỉ lệ nhớ
tranh của trẻ nữ đạt mức độ trung bình lớn hơn trẻ nam 5.3%.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
24
Tiểu luận Tâm lý học nhận thức
Bảng 2.4 Bảng trí nhớ từ giữa trẻ nam và trẻ nữ
STT Mức độ
Nam Nữ
Số lượng (Từ) % Số lượng (Từ) %
1 Giỏi 3 7.9 4 10.5
2 Khá 7 18.4 10 26.3
3 Trung bình 8 21.1 5 13.2
4 Yếu 1 2.6 0 0
Qua bảng 2.4 ta thấy rằng về mức độ ghi nhớ từ thì trẻ nữ lại tốt hơn
trẻ nam. Cụ thể: Mức độ khá giỏi trẻ nam chiếm 26.3% nữ chiếm 36.8%,
nhiều hơn trẻ nam 10.5% mức độ trung bình và yếu trẻ nam chiếm 23.7%,
trẻ nữ chiếm 12.3% ít hơn trẻ nam 10.5%. Mặc dù từ trừu tượng hơn so với
tranh nhưng trẻ nữ lại nhớ tốt hơn so với trẻ nam là vì ở giai đoạn đầu lứa
tuổi tiểu học khả năng nhận thức của trẻ nữ tốt hơn của trẻ nam.
Bảng 2.5 Trí nhớ tranh và từ của trẻ nam
STT Mức độ Tranh (%) Từ(%)
1 Giỏi 21.1 7.9
2 Khá 26.3 18.4
3 Trung bình 2.6 21.1
4 Yếu 0 2.6
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy trẻ nam nhớ tranh tốt hơn nhớ từ. Cụ
thể, ở mức độ khá giỏi nhớ từ đạt 26.3%, nhớ tranh đạt tỉ lệ 47.4% lớn hơn
nhớ từ 21.1%. Ở mức độ trung bình và yếu nhớ tranh là 2.6%, nhớ từ 23.7%.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
25

×