ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌCXÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC
Báo cáo thực tập:
Những biểu hiện lâm sàng trong rối loạn phân ly
ở thanh niên
Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Thu Hương
Sinh viên : Phạm Thị Ngọc
Lớp : K47-TLH
Hà Nội, 10 - 2005
LỜI CÁM ƠN
Với vốn kiến thức về chuyên ngành Tâm lý học Lâm sàng và Tâm bệnh
học còn hạn chế, đề tài báo cáo thực tập: “Những biểu hiện lâm sàng trong rối
loạn phân ly ở thanh niên” hoàn thành với sự giúp đơc nhiệt tình của các thày
cô giáo khoa Tâm lý học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đặc
biệt là Th. s, cô Nguyễn Thị Hương hiện đang là NCS tại Pháp.
Em xin chân thành cảm ơn Th.s Nguyễn Thị Hương, các bác sĩ, y tá khoa
Tâm thần, viện SKTT – Bệnh viện Bạch Mai, và đặc biệt là T. s, B. s, thày Đinh
Đăng Hoè đã giúp em hoàn thành báo cáo thực tập này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 03/10/2005
Sinh viên: Phạm Thị Ngọc
Lớp: K47 – Tâm lý học
Trường Đại học KHXH và Nhân văn
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
2
MỤC LỤC
Phần I : PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài
2. Đối tượng nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Mục đích nghiên cứu
5. Khách thể và phạm vi nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
Phần II: PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
Chương I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Lịch sử nghiên cứu hysteria ( rối loạn phân ly)
2. Khái niệm hysteria
3. Khái niệm bệnh sinh học
4. Lâm sàng các triệu chứng hysteria
Chẩn đoán xác định
Chẩn đoán phân biệt
5. Một số thể lâm sàng chính của rối loạn phân ly
6. Nhân cách bệnh hysteria
7. Nguyên nhân
8. Điều trị và phòng bệnh
Điều trị triệu chứng
Rèn luyện nhân cách
Phòng bệnh
9. Khái niệm thanh niên
9. 1. Khái niệm thanh niên
9. 2. Đặc điểm tâm lý thanh niên
Chương II: PHẦN THỰC TẾ.
1.Nhiệm vụ, kế hoạch chung.
2.Kết quả nghiên cứu: CA 1 CA 2
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
3
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Là sinh viên theo chuyên ngành Tâm lý học lâm sàng, chúng tôi đã có
nhiều đợt kiến tập tại khoa tâm thần của các bệnh viện kách nhau như: bệnh viện
Ban ngày Mai Hương, Bv Nhi Thụy Điển, Bv 103, Bv TTTW1, Bv Bạch Mai
Một thực tế rằng bệnh nhân vào các khoa này ngày càng đông với nhiều rối
nhiễu tâm lý khác nhau. Có ngày, bốn giường bệnh ở phòng tập thư giãn ở Bv
Bạch Mai mà số bệnh nhân có rối loạn phân li lên đến con số 3. Điều đáng lưu
ý, những bệnh nhân hysteria này đa số là trẻ em và thanh thiếu niên.
Hysteria là một bênh tâm thần có căn nguyên tâm lý. Bản chất chính xác
của bệnh đến giờ các nhà Tâm thần học thế giới vẫn chưa xác định được nhưng
các biểu hiện lâm sàng, đặc điểm nhân cách (hay loại hình thần kinh) và yếu tố
sang chấn tâm lý thì đã được làm sáng tỏ. Bệnh cảnh của lọai này đa dạng. Đại
đa số các trạng thái rối loạn phân li khởi đầu đột ngột ( có thể có phản ứng tập
thể xảy ra nhanh chóng). Nếu được xử lý kịp thời thì bệnh cũng thoái lui nhanh,
không để lại di chứng tâm thần.
Theo các tài liệu nước ngoài, tỉ lệ những người mắc bệnh hysteria hàng
năm chiém tới 0, 3 – 0, 5% số dân. Bệnh thường phát sinh ở tuổi trẻ, tuổi mà có
sự nhạy cảm vao và đặc biệt là tâm lý vẫn chưa vững vàng. Bệnh xuất hiện ở nữ
nhiều hơn nam và có thể phát thành dịch.
Ở Việt Nam, trong thời kháng chiến chống Mỹ, đã xuất hiện dich hysteria
ở đội thanh niên xung phong Quảnh Bình vào năm 1968 và đội thanh niên tại
Lâm Đồng năm 1977, đã có tới 30 – 50% số thanh niên trong đội bị bệnh. Nổi
bật trong thời gian vừa qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng đã đề cập
đến các “cơn ngất phân li hàng loạt”, “cơn hysteria tập thể”.
Đối với ta, bệnh tâm căn hysteria không còn lạ nhưng việc lây lan với số
lượng lớn như ở học sinh các trường PTTH Xuân áng, Hạ Hòa, Phú Thọ ( Ngày
24/10/2004), trường THPT Ba Tơ hay trường Nguyễn Hiền – Hòa Cường, Hải
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
4
Châu, Đà Nẵng đã thu hút sự quan tâm của mọi người đặc biệt làm đau đầu bao
nhà khoa học.
Làm báo cáo thực tập này, với kiến thức chuyên môn còn hạn chế, tôi chỉ
xin đề cập đến những biểu hiện lâm sàng trong rối loạn phân ly ở thanh niên,
được mô tả trong từng trường hợp chứ không mang tính chất lây lan, tập thể như
những vấn đề đang nổi cộm hiện nay.
1. Đối tượng ngiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của báo cáo thực tập là những biểu hiện lân sàng
trong rối loạn phân ly ở thanh niên
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Lý luận: Xây dựng cơ cấu lý luận bao gồm tìm hiểu lịch sử nghiên cứu
vaans đè và một số khái niệm liên quan.
+ Khảo sát thực tế: Quan sát tìm hiểu và làm sáng rõ những biểu hiện lâm
sàng trong rối loạn phân lý ở thanh niên.
3. Mục đích nghiên cứu:
+Mô tả, phân tích các biểu hiện lâm sàng
+ Giúp đưa ra đựơc chẩn đoán chính xác các liệu pháp và điều trị thích
hơp đồng thời giúp gia đình, bạn bè có được thái độ đúng đắn đối với bệnh và
với người bệnh.
4. Khách thể và phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu trên 2 hoặc 3 ca rối loạn phân ly ở lứa tuổi thanh niên ( 14, 15
tuổi đến 24, 25 tuổi).
5. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu
+ Sử dụng trắc nghiệm
+ Nghiên cứu trường hợp.
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
5
PHẦN II:PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Lịch sử nghiên cứu của rối loạn phân ly ( hysteria)
Bắt nguồn từ tiếng Hy lạp “ Husteria” danh từ Hysteria có nghĩa là tử
cung. Trong thực tế, theo các tác gia Hy lạp cổ xưa hysteria là một bệnh của phụ
nữ trưởng thành do một sự di truyền tử cung vào mọi nơi của cơ thể tìm kiếm
một sự thăng bằng thể dịch mà nó đang không có các quan hệ tình dục hoặc rất
ít.
Tại thời Trung Đại, do sự áp chế về tôn giáo, kinh tế, chính trị đã tạo nên
các căng thẳng tâm lý làm xuất hiện những dịch hysteria lớn. Người ta cho rằng
đó là biểu hiện của ma quỷ xâm nhập.
Vào thế kỉ XVIII, Charles Lepois bác bỏ quan niệm bệnh phụ thuộc vào
tử cung bởi vì các bé gái, phụ nữ mãn kinh và đàn ông cũng có thể mắc bệnh. T.
Sydenham thì cho rằng đó là bệnh bắt chước các bệnh người khác.
Kết hợp các biểu hiện đa dạng của hysteria thành một đơn vị bệnh riêng,
năm 1859 Charcot cho rằng hysteria là “bệnh giả vờ vĩ đại”. Các triệu chứng
thường tăng trên địa thế nhân cách hysteria, dễ bị tính ám thị. Các triệu chứng
của hysteria và những triệu chứng của các bệnh thực thể được ông mô tả là cơn
co giật, liệt, không nói, mù….
Babinski ( Pháp) thấy được hysteria có những nét giống với triệu chứng
thần kinh của những bệnh thực thể. Bệnh nhân mắc bệnh dễ chịu sự ám thị của
người thày thuốc. Ông đã đề nghị thay thuật ngữ hysteria bằng thuật ngữ bệnh
ám thị.
Pavlov thì nêu lên những đặc điểm cơ bản của hysteria đó là tính tăng cảm
xúc và tăng ám thị.
Năm 1992, Bảng phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 ( ICD 10) gọi bệnh
hysteria là các rối loạn phân ly.
2. Khái niệm hysteria ( Rối loạn phân ly)
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
6
Rối loạn phân ly là những triệu chứng lâm sàng không kèm theo tổn
thương thực thể. Những rối loạn này thể hiện mất một phần hoặc hoàn toàn sự
tổng hợp bình thừơng giữa trí nhớ quá khứ và ý thức về đặc tính cá nhân, kết
hợp với những cảm giác vận động không phù hợp với tổn thương thực tổn.
Theo PGS. TS Võ Văn Bản: “ Rối loạn phân ly là những rối loạn thần
kinh chức năng, rất đa dạng mang tính từng cơn và thương xuất hiện sau những
sang chấn tâm lý ở những người có nhân cách dễ bị ám thị”.
3. Khái niệm bệnh sinh học:
Có nhiều thuyết đề cập về bệnh sinh học, tuy nhiên vẫn chưa có một sự
thống nhất nào:
Charcot thì xem đó là một bệnh mà một tổn thương năng động đã quy
định tính chất ám thị hysteria. Bakinski lại phân biệt một cách có bản tính chất
chức năng với tính chất thực thể. Đối với các hiện tượng chức năng, ông đưa ra
từ pithiatisme hàm chứa sự lệ thuộc của chúng vào tính ám thị cũng như trong
khi làm thôi miên và được chữa khỏi bằng thuyết phục. Theo ông, bản chất của
hysteria (pithiatisme) là tính tự ám thị, điều này khác hẳn với sự giả vờ.
Freud cho rằng hysteria liên quan chủ yếu đến một sự thoả mãn thân thể
(cọmlaisance somatique) của cá nhân để diễn đạt bằng cơ thể những xung đột
tâm lý của mình, tập trung chặt chẽ vào mặc cảm Oedip. Người bị hysteria có
cùng mọt sự sợ hãi dữ dội về bản năng sinh dục và những xung lực sinh dục rất
mạnh. Các xung lực bản năng này đưa người bệnh đến tình yêu Oedipe và cũng
là đối tượng của sự kiểm duyệt bên trong nhưng do cường độ của chúng, chúng
có vượt qua hàng rào của sự dồn nén (refoulement). Để thoả mãn các xung lực
của mình dưới một dạng không làm cho mình sợ, người hysteria đã làm kích dục
tất cả những mối quan hệ mà bình thường ít nhuốm màu tính dục (các giao tiếp
xã hội) nhưng lại tránh mọi sự phong toả tính dục ỏn định và sâu.
Để lẩn tránh mặc cảm Oedipe, sự dồn nén không còn đủ nữa và người
bệnh lại cần đến một sự thoái lui về giai đoạn môi miệng trong đó toàn bộ cơ thể
bị vây hãm bởi một chức năng tình dục khát vọng dương vật để bù trừ lại sự
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
7
thiếu (ở phụ nữ) hoặc sự kém cỏi của đàn ông. Sự thiếu cơ bản này là nguồn gốc
của sự suy yếu của cái tôi, do sự thành thục sớm về tình dục, một mặt là nguồn
gốc có thể có của trầm cảm (trầm cảm hysteria)và về mặt khác dẫn đến một sự
tùy thuộc lớn vào các đối tượng bên ngoài, ở các đối tượng này người hysteria
luôn luôn đòi hỏi sự khôi phục những cơ sở ái kỉ của mình. Mối quan hệ đối
tượng như vậy có đặc trưng là sự luân phiên khộng ngừng giữa sự tìm kiếm
quyền hành ( khát vọng dương vật) và motj nhu cầu chịu phục tùng ( vị thế môi
miệng).
Theo thuyết tập nhiễm của Wolpe bệnh phát sinh theo cơ chế cảm ứng và
bắt chwuwocs trong quá trình tiếp xúc với môi trường xã hội.
Trường phái Pavlov về hoạt động thần kinh cấp cao đã làm sáng tỏ hơn
vấn đề bệnh sinh. Chính sự hỗn loạn hoạt động thần kinh cấp cao ở những người
hoạt động hệ thống tín hiệu thứ hai bị suy yếu trong khi hoạt động của hệ thống
tín hiệu thứ nhất cũng như của phần dưói vỏ não chiếm ưu thế và cuộc sống
thiên về tình cảm hơn lý trí là điều cốt yếu dẫn tới bệnh tâm căn hysteria. Sự
không thăng bằng giữa hai hệ thống tín hiệu là những đặc điểm của nhân cách,
một mặt do bẩm sinh, mặt khác được hình thành trong cuộc sống.
Đặc điểm cơ bản của hysteria là tăng tính cảm xúc và tăng tính ám thị.
Tăng cảm xúc ở những người nhân cách yếu là do võ não suy yếu, do vỏ não
thoát ly sự kiềm chế của vùng dưới vỏ trước kích thích mạnh của sang chấn
không tự kiềm chế được của vỏ não bị lâm vào trạng thái ức chế, bảo vệ cảm
ứng dương tính vùng dưói vỏ. Do không có sự điều hòa của vỏ não, hoạt động
vùng dưới vỏ tăng do đó có những triệu chứng như cười, khóc, gào thét, kích
động, lên sơn co giật, đôi khi rối loạn ý thức, tính ám thị và tự ám thị phát triển
cao trong trạng thái thôi miên, ám thị và tự ám thị là do sự kích thích tập trung
vào một số vùng nhất định của võ não kèm theo cảm ứng âm tính mạnh làm
cách ly hoàn toàn những triệu chứng cho bệnh nhân hysteria cũng như chữa các
triệu chứng này.
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
8
Pavlov cho rằng cần xem người bệnh hysteria như người bị thôi miên nhẹ.
Võ não bị suy yếu nên các yếu tố kích thích trong cuộc sống trở thành quá mạnh
không chịu nổi, dẫn tới các giai đọan khác nhau của trạng thái thôi miên. Cơ chế
ám thị do cảm xúc và lo sợ khác nhau gây nên cũng giống hệt như vậy. Vậy
bệnh dễ gây cảm ứng dây chuyền tập thể.
4. Lâm sàng các triệu chứng hysteria
Chẩn đoán xác định:
Chẩn đoán xác định dựa vào các đặc điểm người có nhân cách yếu và loại
hình thần kinh nghệ sĩ yếu, có chấn thương tâm thần hay hoàn cảnh xung đột
gây bệnh, triệu chứng xuất hiện đột ngột, phát triển lên mức tối đa sau khi có
chấn thương, không có quá trình tiến triển theo quy luật thông thường của một
bệnh. Triệu chứng xuất hiện đơn độc, không có các triệu chứng khác kèm theo
để trở thành một hội chứng nhất định.
Có các nét lâm sàng biệt định cho các rối loạn phân ly biểu hiện bằng
những cơn hoặc trạng thái khác nhau:
+ Các cơn phân ly:
-Cơn co giật phân ly ( hay cơn vật vã phân ly): Thường xảy ra do các tác
động trực tiếp của các yếu tố sang chấn tâm thần.
Biểu hiện bằng nhiều động tác không tự ý thức, lộn xộn như vùng vẫy
chân tay, đập chân tay xuống sàn, giường, uốn cong người, gào thét, có bệnh
nhân giật xé quần áo, rứt tóc, tự cào cấu, lăn lộn khắp sàn nhà. Trong cơn ý thức
bị thu hẹp mà không bị mất hoàn toàn, vẫn còn khả năng phán ứng với các tác
động của môi trườn, mặt không tím tái, không bao giờ cắn lưỡi, không có rối
loạn đại tiểu tiện Nếu vạch mắt của bệnh nhân vẫn thấy nhãn cầu đưa lại. Lưu
ý, cơn thường xuất hiện khi có người ở xung quanh, không bao giờ xuất hiện khi
người bệnh ở một mình hay đang ngủ. Bệnh nhân biết trước là cơn sắp xảy ra
nen thường không va ngã mạnh gây chấn thương.
Cơn co giật mất nhanh nếu điều trị liệu pháp ám thị lời nói hay kích thích
mạnh. Nếu không được điều trị cơn có thể kéo dài hơn 15 phút tới vài giờ
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
9
Tuy vậy, có những cơn xuất hiện rất ngắn nên có thể dễ nhầm với cơn
động kinh. Sau sơn hỏi bệnh nhân vẫn nhớ về và có thể mô tả lại được mọt phần
của cơn.
-Cơn kích động cảm xúc phân ly: Trong cơn người bệnh cười, khóc, cảm
xúc hỗn độn, nói linh tinh, vùng chạy, leo trèo, gào thét, đôi khi kèm theo cơn co
giật. ý thức không bị rối loạn nặng, chịu ám thị xung quanh. Cơn có thể kéo dài
nhiều ngày.
-Cơn ngất lịm phân ly: Bệnh nhân cảm thấy người mềm yếu dần, từ từ
ngã ra và nằm như ngủ, hai mắt chớp nhẹ, mặt không tím tái, mạch và huyết áp
ổn định. Cơn kéo dài từ 15 phút đến 1h.
-Cơn ngủ phân ly: Trường hợp này gặp ít hơn, người bệnh lên cơn co giật
nhẹ rồi nằm yên và ngủ, vạch mi mắt thấy nhãn cầu vẫn đưa đi đảo lại, trong lúc
ngủ thỉnh thoảng thở dài, thổn thức.
+ Các rối loạn vận động phân ly:
- Các rối loạn vận động phân ly rất đa dạng, như lắc đầu, đạt đầu, nháy
mắt, múa giật, múa vờn Thường gặp nhất là run, liệt và các rối loạn phát âm.
- Run: Run không đều, không có hệ thống, run ở một phần cơ thể hoặc
run toàn thân, run tăng lên khi được chú ý.
- Liệt: Liệt cứng hay liệt mềm với những mức độ nặng nhệ khác nhau ở
một chi, hai chi hoặc tứ chi nhưng khám thấy trương lực cơ bình thường, không
có phản xạ bệnh lý, không có bị teo cơ, không có dấu hiệu tổn thương bó tháp,
không rối loạn cơ tròn Trẻ có thể không đi, không đứng được nhưng vẫn cử
động bình thường.
- Các rối loạn phát âm: Khó nói, nói lắp, không nói hoặc nói thì thào, mất
tiếng trong khi cơ quan phát âm bình thường.
+ Các rối loạn cảm giác phân ly:
-Mất hoặc giảm cảm giác đau: Các khu vực mất cảm giác không đúng với
vùng định khu của thần kinh cảm giác. Hay gặp nhất là mất cảm giác kiểu “bít
tất” ở tay và chân. Thậm chí ở cả nửa người thì mất cảm giác còn lan sang bên
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
10
kia đường giữa. Giới hạn các vùng mất cảm giác rất rõ ràng. Nếu khám nhiều
lần có thể thấy vùng mất cảm giác di chuyển vị trí và trong vùng mất cảm giác
không thấy hiện tượng bỏng buốt.
-Tăng cảm giác đau: Rất phức tạp, khu trú khác nhau. Điều này dễ làm
cho nhầm lẫn với các triệu chứng đau “thực vật” và đau ngoại khoa như đau
viêm ruột thừa, đau giun chui ống mật, đau vùng trước tim, đau dây thần kinh
hông
+ Các rối loạn giác quan phân ly:
-Mù phân ly: Xảy ra đột ngột và mù hoàn toàn, khám đáy mắt bình
thường, các phản xạ đồng tử với ánh sàng còn tốt. Quan sát thấy mắt vẫn linh
hoạt, vẫn hướng về người nói chuyện và có thể khỏi do tác động của ám thị.
Ngoài ra, còn có thể gặp các chứng lưỡng thị và đa thị do phân ly.
-Điếc phân ly: Những bệnh nhân điếc phân ly thường xảy ra trong thời
chiến nhiều hơn. Thường xuất hiện sau các chấn động mạnh và đi kèm với câm
thành hội chứng câm - điếc sau chấn thương
+ Các rối loạn thực vật - nội tạng phân ly:
Được biểu hiện thành từng cơn khá phổ biến: như cơn lạnh run, cơn nóng
bừng, cơn đau vùng ngực, đau bụng, cơn khó thở, cơn khó nuốt, cơn nấc hoặc
hòn phân ly Các cơn này qua đi nhanh dưới sự tác động của ám thị.
+ Các rối loạn ngôn ngữ:
-Chứng lặng thinh ( người bệnh câm hoàn toàn): Khác với đa số trường
hợp mất vận động ngôn ngữ, ít nhiều còn di tích của ngôn ngữ, người mắc
chứng bệnh này thường chỉ vào môi mình để ra hiệu là không nói được và dùng
bút để diễn tả những yêu cầu của mình.
-Chứng mất tiếng phân ly: Người bệnh không nói được to chỉ nói thầm
nhưng có thể ho thành tiếng.
-Chứng nói lắp phân ly: Không nói đứt quãng mà chỉ nói chậm và lặp lại
nhièu lần những phụ âm đầu. Ví dụ: t t tôi đ đi. Người nói lắp thường do cơ
quan phát âm bị co thắt, người bệnh không thấy ngượng vì sự thiếu sót ngôn ngữ
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
11
của mình. Điều trị chứng nói lắp bằng liệu pháp tâm lý sẽ khỏi, còn chứng nói
lắp khác phải chữa lâu dài ở khoa phục hồi chức năng.
+ Các rối loạn tâm thần:
-Các cơn quên phân ly: Thường quên các sự kiện mới xảy ra hoặc quên
caccs sự kiện sang chấn tâm lý.
-Các rối loạn cảm xúc: Dễ xúc động, cảm xúc không ổn định, dễ nhạy
cảm với các kích thích, dễ bị ảnh hưởng bởi cảm xúc của người khác.
-Rối loạn tư duy: Lời nói mang mà sắc cảm xúc, thường nói về bản thân,
kể về bệnh tật để lôi cuốn sự chú ý của người khác kèm theo điệu bộ có tính
kích thích trí tưởng tượng phong phú, hay cố bịa chuyện hấp dẫn li kì, thích phô
trương.
-Rối loạn tác phong: Hành vi điệu bộ kịch tính, tự phát, phô trương. Có
thể xảy ra hiện tượng trốn nhà phân ly. Người bệnh bỏ nhà hoặc nơi làm việc ra
đi, có mục đích và vẫn duy trì sinh hoạt cá nhân, tiếp xúc bình thường trong xã
hội ( mua vé tàu xe, hỏi điều chỉ dẫn chuyến đi có tổ chức có thể đeens những
nơi trước đã biết và có ý nghĩa về mặt cảm xúc, thường chỉ đi trong vài ngày,
đôi khi có thể trong một thời gian dai, trốn nhà thường kèm theo hoạt động quên
phân ly.
Không có bằng chứng của một rối loạn cơ thể nào có thể giải thích cho
các triệu chứng.
Bằng chứng có các nguyên nhân tâm lý dưới dạng kết hợp rõ rệt về thời
gian với sự kiện gây sang chấn hoặc các mối quan hệ bị rối loạn.
Chẩn đoán phân biệt: Cần phân biệt với các bệnh thực thể và tâm thần có
biệu hiện giống với các nét lâm sàng của rối loạn phân
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
12
Chẩn đoán phân biệt các cơn hysteria.
Các cơn cáu giận Các cơn
biểu
hiện co
cứng
Các cơn
khóc nức Các động
kinh
Các mất ý thức Các cơn lo hãi
tạm thời ( ngất nhẹ)
5. Một số thể lâm sàng chính của rối loạn phân ly:
Sững sờ phân ly:
Vận động tự chủ giảm hoặc mất. Người bệnh nẳm hay ngồi bất động
trong thời gian dài.
Không hoạt động, không nói, không có các đáp ứng với một số kích thích
như tiếng động, đụng chạm.
Không mất ý thức, hai mắt mở hay nhắm nghiền.
Không có các rối loạn cơ thể hoặc tâm thần khác nhau liên quan đến tráng
thái sững sờ.
Khó phân biệt với sững sờ căng trương lực, sững sờ trầm cảm
Các rối loạn lên đồng và bị xâm nhập:
Bệnh nhân mất ý thức tạm thời, có rối loạn định hướng môi trường và
định hướng đậc tính cá nhân. Hoạt động của bệnh nhân như một nhân cách khác,
một linh hồn khác, một vị thần hoặc một lực lượng nào điều khiển. Sự chú ý và
ý thức của người bệnh chỉ tập trung vào một khía cạnh nào đố của môi trường
trực tiếp. ở bệnh nhân còn xuất hiện một số động tác, tư thế, lời nói hạn chế và
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
13
Các cơn hysteria
Hình thái co giật
Hình thái giả ngất
lặp lại. Các rối loạn này xuất hiện không tự ý, không mong muốn và xuất hiện
giữa các hoạt động thông thường xảy ra ngoài các hoàn cảnh mang tính chất tôn
giáo.
Các rối loạn vận động phân ly:
Bệnh nhân mất khả năng cử động toàn bọ hoặc một phần của chi hoặc
nhiều chi. Liệt có thể một phần hoặc hoàn toàn làm cho các cử động
yeeusoongowts hoặc mất cử động hoàn toàn. Cũng có thể có rối loạn vận động
ngôn ngữ như mất tiếng, nói khó
Co giật phân ly hay giả co giật:
Người bệnh có thể bắt chước rất giống các cơn co giật động kinh nhưng
không cắn vào lưỡi, không đái ra quần, không mất ý thức và cơn co giật có thể
kéo dài vài chục phút đến hàng giờ
6. Nhân cách bệnh hysteria:
Đặc trưng là tính cường điệu : bi thảm hóa, giàu kịch tính, biểu hiện cảm
xúc thái quá, dễ bị ám thị, dễ chịu ảnh hưởng của người khác, cảm xúc nông cạn
và không ổn đinh. Tính vị kỉ cao và có xu hướng muốn mình thường xuyên là
trung tâm chú ý của mọi người, khao khát liên tục được khen, dễ tự ái, chủ tâm
nói dối vói mục đích làm mọi người thích thú, chú ý tói mình, hành vi có tính
toán mưu mô để thực hiện những nhu cầu riêng. Nguyên nhân của nhân cách
bệnh của hysteria có thể do bẩm sinh, do các tổn thương não trong những năm
đầu của cuộc sống. Nhân cách bệnh có thể cũng có thể do căn nguyên tâm lý xã
hội như sự thiếu giáo dục đúng đắn của gia đình hoặc ảnh hưởng xấu của môi
trường.
7. Nguyên nhân:
+ Nguyên nhân chủ yếu:
Căn nguyên chính của bệnh là những sang chấn tâm thần ( căng thẳng tâm
lý) đa dạng và phức tạp hoặc hoàn cảnh xung đột. Các sang chấn đó thường là
những vấn đề mà cá nhân, tập thể không thể giải quyết được, không chịu đựng
được, khiến cho mối quan hệ cá nhân, tập thể đối với môi trường sinh hoạt hiên
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
14
tại bị rối loạn. Nếu không được giải thích, giúp đỡ thì các triệu chứng tâm thần
và cơ thể hình thành. Như vậy, số người cùng môi trường sống, sinh hoạt bị tác
động tiêu cực của cùng một sang chấn tâm lý, kết hợp với một cá nhân đã từng
có rối loạn phân ly trước đó thường gây ra phản ứng rối loạn phân ly dây
chuyền.
+ Yếu tố phụ trợ:
Yếu tố nhân cách: Nhân cách yếu, thiếu tụ chủ, thiếu kiềm chế, thích được
chiều chuộng, thích phô trương, tinh thần chịu đựng khó khăn kém, thiéu lý
tưởng sống lành mạnh.
Các yếu tố có hại khác như: Nhiễm khuẩn, nhiễm độc, suy dinh dưỡng,
chân thương sọ não Các yếu tố có hại này làm suy yếu hệ thần kinh trên nền
giảm sút hoạt động của vỏ não dễ phát sinh các rối loạn ngay trên những người
có loại thần kinh mạnh, thăng bằng.
8. Điều trị và phòng bệnh:
8. 1. Điều trị triệu chứng:
Điều trị triệu chứng là điều trị loại bỏ ngay các triệu chứng phân ly bằng
liệu pháp giải thích hợp lý kết hợp liệu pháp ám thị. Thông thường chỉ cần ám
thị lúc thức là đủ: bằng những lời nói mang tính cương quyết và khẳng định của
thày thuốc.
Trong những trường hợp vần thiết chúng ta có thể dùng ám thị trong giấc
ngủ thôi miên. Đó là trạng thái ức chế không hoàn toàn của vỏ não, bệnh nhân
ngủ nhưng trong não vẫn còn điểm thức, qua điểm cảnh tỉnh này, họ vẫn tiếp thu
được lời ám thị của thày thuốc.
Cần chú ý tới thái độ tiếp xúc với bệnh nhân phân ly: phải hết sức nghiêm
túc, không coi thường cũng không chế giễu bệnh nhân, hắt hủi bệnh nhân. Tuy
nhiên, cũng nên tránh thái độ quá chiều chuộng, quá lo lắng, vô tình ám thị làm
cho bệnh nhân tưởng rằng bệnh quá nặng, điều trị sẽ ghặp nhiêu khó khăn.
Ngoài ra, nên điều chỉnh hoạt động thần kinh cấp cao và tăng cường cơ
thể giúp chống đỡ với sang chấn tâm lý bằng các thuốc: Bromuse và Caffeine,
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
15
thuốc diu giải lo âu ( Seduxen), an thần Aminazine, các sinh tố B1, B6, C , các
yếu tố vi lượng canxi, magie Phối hợp với các liệu pháp tâm lý khác như vui
chơi nhóm, lao động, nhận thức - hành vi.
8. 2. Rèn luyện nhân cách:
Giúp bệnh nhân hiểu được những thiếu sót của mình và khắc phục sửa
chữa, động viên mặt tích cực trong tinh cách để trẻ phát huy. Đưa ra những tình
huống để bệnh nhận tập luyện biết cách tự kiềm chế cảm xúc cà hành vi của
mình, tập thích nghi, với các sự kiện tác động của cuộc sống và sẵn sàng đối đầu
với những sang chấn khác nhau.
Các liệu pháp hướng tới nhân cách cần thiết điều trị lâu dài hàng tháng
đến hang năm, lúc đầu bệnh nhân có thể điều trị một tuần 1 buổi đến 2 buổi. Về
sau bệnh nhân tự luyệ tập ở nhà, thỉnh thoảng đến bệnh viện để tư vấn với nhà
trị liệu.
8. 3. Phòng bệnh:
Cần phổ biến rộng rãi các kiện thức vệ sinh phòng bệnh tâm thần để mỗi
gia đình biết giáo dục con cái ngay từ bé, rèn luyện cho chúng có nhân cách
vững mạnh với nhiều tính cách tốt như có lý tưởng, chịu đựng được gian khổ,
biết kiềm chế bản thân Trong cuộc sống gia đình và tập thể, cần tăng cường
giáo dục tính đoàn kết và thân ái. Tránh những chấn thương tâm lý trong sinh
hoạt, công tác. Trong hoàn cảnh gay go, khó khăn, phải tổ chức sinh hoạt tốt,
tăng cường giải trí, tăng cường thể chất, giải quyết kịp thời các hiện tượng đau
ốm, mệt mỏi, mất ngủ kéo dài, các bệnh nhiễm khuẩn.
9. Khái niệm thanh niên
Khái niệm thanh niên.
Quan niệm vể lứa tuổi thanh niên:
+ Quan điểm sinh vật: Coi yếu tố đàu tiên xây dựng tuổi thanh niên là sự
tiến hóa của vật thể. Các quá trình của sự trưởng thành quy định mọi cái khác.
+ Quan điểm xã hội học: Các nhà xã hội học chú ý trước hết tính xã hội
hóa và coi mức độ xã hội hóa của cá thể là tiêu chí quyết định mọi cái khác.
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
16
+ Quan điểm phân tâm học: Các nhà phân tâm học quan tâm nhiều đến
tính dục, nhân tố chi phối sự phát triển của lứa tuổi này.
+ Quan điểm tâm lý học: Các nhà lý luận tâm lý học lại tập tru ng vào các
quy luật tiến hóa của tâm lý, ý thức là cái cơ bản quyết định sự phát triển.
Vậy tuổi thanh niên là gì? Tuổi thanh niên là giai đoạn phát triển bắt đầu
từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn.
Theo GS. BS Nguyễn Khắc Viện: Tuổi thanh niên bắt đầu vào lúc dạy thì
từ 14, 15 tuổi đến 25 tuổi, chia làm 2 thời kì:
-Từ 14, 15 tuổi đến 17, 18 tuổi: giai đoạn đầu tuổi thanh niên ( còn gọi là
thanh niên mới lớn).
- Từ 17, 18 tuổi đến 25 tuổi: giai đoạn 2 tuổi thanh niên.
9. 2. Một số đặc điểm tâm sinh lý của thanh niên:
- Về sinh lý: Là thời kì dần hoàn thiện sự chín muồi về thể chất. Đa số
thanh niên bước vào thời kì này đã sau dậy thì những vẫn phải hoàn thành một
nhiệm vụ khắc phục tình trạng mất cân đối do sự chín muồi về thể chất.
- Về tâm lý: Trong sự phát triển của ý thức về lứa tuổi thanh niên là một
quá trình lâu dài và trải qua các mức độ khác nhau.
Sự tự ý thức của họ xuất phát từ yêu cầu cuộc sống và hoạt động với địa
vị mới mẻ trong tập thể. Thanh niên thể hiện rõ mình ở phẩm chất nhân cách
như: tinh thần trách nhiệm, tình cảm, lòng tự trọng
Trong tuổi thanh niên mới lớn sự hình thành thế giới quan là một nét chủ
yếu trong sự phát triển tâm lý ở lứa tuổi này. Các em cố gắng xây dựng những
quan điểm riêng hình thành thế giới quan tích cực cho bản thân trong giao tiếp
và trong đời sống tình cảm cũng là một yếu tố quyết định ảnh hưởng đến sự phát
triển tâm lý ở lứa tuổi này sự mở rộng phạm vi giao tiếp. Và sự phức tạp trong
các mối quan hệ cũng như nhu cầu cao trong đời sống tình cảm có nhiều khác
biệt so với lứa tuổi trước đó. Như vậy ta có thể thấy đây là lứa tuổi có nhiều biến
đổi quan trọng không chỉ về mặt thể chất mà còn đời sống tâm lý của thanh niên
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
17
một măt nó là tiền đề vững chắc cho sự phát triển về sau nhưng nó cũng là một
trong những nguyên nhân dấn đến những khuyến khuyết tâm lý ở lứa tuổi này.
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
18
CHƯƠNG II: PHẦN THỰC TẾ
I. NHIỆM VỤ, KẾ HOẠCH CHUNG:
* Sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp quan sát lâm sàng: Vì mục đích của báo cáo thực tạp là
mô tả, phan tích được các biểu hiện lâm sàng trong rối loạn phân ly ở lứa tuổi
thanh niên nên việc đánh giá phải dựa vào việc quan sát các biểu hiện bên ngoài
của bệnh nhân. Chính vì vậy, phương pháp quan sát là phương pháp quan trọng
hàng đầu của đề tài.
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tìm kiếm thông tin trong hồ sơ bệnh
án. Để xác minh hóa các thông tin thu được, hỏi thêm các bác sĩ trực tiếp phụ
trách trường hợp đó.
+ Hỏi chuyện lâm sàng: Tiếp xúc trực tiếp với trẻ hoặc với người thân hỏi
về các thông tin cần thiết.
* Kế hoạch cụ thể:
+ Nhóm thực tập dưới sự hướng dẫn của cô Nguyễn Thị Hương, bao gồm
7 thành viên.
+ Địa điểm: Viện Sức khỏe Tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai
+ Thời gian: Từ ngày 01/08/05 đến 09/08/05
Buổi sáng: 8h ->11h
Buổi chiều: 2h->4h30’
II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Điều kiện làm việc:
Như mọi người đã biết, bệnh viện Bạch Mai là một trong những bệnh viện
có số lượng bệnh nhân đến khám và điều trị không phải là ít. Tại Vện Sức khỏe
tâm thần, khoa thần kinh có rất nhiều bệnh nhân với đủ các bệnh và rối loạn
khác nhau. Tuy nhiên, khách thể không phải lúc nào cũng phù hợp với đề tài của
sinh viên. Do vậy mà có một số sinh viên phải chuyển đổi để tài.
Theo sự chuẩn bị ban đầu, tôi dự kiến đề tài: “ Những biểu hiện lâm sàng
trong rối loạn phân ly ở trẻ em”. Nhưng qua thu thập thông tin và chẩn đoán
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
19
trong hồ sơ bệnh án, tôi không tìm được khách thể thích hợp. Trong bệnh viện
hiện không có bệnh nhân trẻ em nào có chẩn đoán rối loạn phân ly mà chỉ có 1
bệnh nhân nam tuổi 23. Sau đó, ngày 06/08/5/05 một bệnh nhân nữ 20 tuổi vào
viện với chẩn đoán như trên. Vì vậy, tôi quyết định đổi khách thể nghiên cứu là
trẻ em sang thanh niên.
Cũng bởi thời gian không nhiều và khả năng có hạn cảu bản thân nên
trong báo cáo này tôi xin chỉ tập trung vào trường hợp của bệnh nhân LVC và
mô tả không sâu sắc về bệnh nhân VTH
2. Kết quả.
CA 1
HỒ SƠ TÂM LÝ
1. Phần hành chính
Họ và tên: LVC Giường số 15, nhà T4
Giói: Nam. Là con thứ: 2 trong gia đình có 2 anh em trai
Năm sinh: 1981
Nơi sinh: Ninh Hiệp – Gia Lâm
Tình trạng hôn nhân: Đã có gia đình và một con trai
Địa chỉ: Xóm 8 – Ninh Hiệp – Gia Lâm - HN
Dân tộc: Kinh Tôn giáo : Không
Nghề nghiệp: Hiện đang học may
Kinh tế gia đình: gia đình bần nông.
2. Lý do đến khám
Ngày vào viện: 30/07/05
Lý do: CDD sơ bộ: Theo dõi RLPL
Người đưa bệnh nhân đến viện là bố: Lâm Văn Dân ( 60tuổi)
3. Bệnh lịch:
- Bệnh nhân là con thứ 2 trong gia đình có hai anh em trai. Thới nhỏ
thể chất phát triển bình thường.
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
20
- Cách đây 2 năm, anh ruột thắt cổ tự tử vì bị gia đình cấm đoán
trong tình yêu.
- Từ 2 nâm nay, thỉnh thoảng có từng thời kì mệt mỏi, dãy dụa chân
tay, lo âu, bồn chồn, đêm ngủ ít.
- Tháng 2/2004 điều trị tại viện Sức khỏe tâm thần với chẩn đoán rối
loạn phân ly. Đã ra viện, ổn định.
- Tái phát lần 2 này với cũng các triệu chứng trên
- Khám nội khoa chưa phát hiện bệnh lý thực tổn
4. Tiền sử:
Theo như lời kể củ bác LVD, bố của anh LVC thì mẹ mang thai anh với
tình trạng hoàn toàn bình thường, sinh ra trong sự vui vẻ của gia đình. Tuy
không được chào đón với vẻ hào hứng như người anh nhưng anh vẫn nhận được
sự quan tâm chăm sóc chu đáo của gia đình. Cả bố và mẹ anh đều làm nghề
nông
Lúc nhỏ, thể chất phát triển bình thường. Anh hay có những đợt ốm vặt
nhưng thường qua nhanh, ít khi nặng phải đưa vào bệnh viện
Nhà có 2 anh em, những mỗi người một tính nết, tính tình khác nhau. Anh
trai anh C ( hơn anh C 2 tuổi) phát triển chậm hơn, người đậm, bé nhưng được
cái có sức khỏe, tính vui nhộn lại chăm chỉ. Anh C người cao to nhưng yếu hơn,
đau ốm luôn, ít nói và có phần nhút nhát. Anh C rất quý mến anh trai của mình
Từ nhỏ học hành cũng không có gì nổi trội nên tốt nghiệp lớp 12 xong, thi
đại học không đỗ, anh ở nhà. Gần 3 năm sau anh cưói chi L, cùng tuổi, gần nhà.
HIện giờ anh chị đã sinh được một bé trai, hơn 1 tuổi rưỡi
Năm 2002, người anh trai của anh thắt cổ chết. Anh yêu và muốn cưới
một chị làng bên nhưng gia đình không tán thành. Chỉ bởi chị là người khác
làng. Anh không thể thuyết phục được gia đinh, họ hàng. Chính bởi những hủ
tục xưa của xã hội, định kiến mà có lẽ bây giờ vẫn còn tồn tại ở nhiều làng quê
Việt Nam. Người quyết liệt phản đối nhất là người bác ruột bên nội. Anh C
thương anh trai, tiếc cho mối tình sẽ bị dang dở mà không biết phỉa làm gì. Anh
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
21
C chỉ biết trút điều bực dọc này lên người bác ruột của mình. Anh nói bác là
người không tốt. Chính bác là người đã ngăn cấm, cấm đoán anh trai anh. Bác la
ngưòi đã làm cho anh trai phải tự tử.
Tuy nhiên, theo lời kể của người thân đến chăm sóc, đặc biệt là vợ anh,
chị L thì lại giải thích lại rằng bác không phải là người không tốt như anh đã
từng nói. Bác có cấm đoán, nhưng điều quan trọng là bác muốn điều tốt cho
cháu của mình thôi. Gia đình bác cũng đủ ăn. Bác là người hay gúp đõ mọi
người, có công việc gì bênh gia đình anh C bác cũng sang giúp đỡ. Mọi việc hầu
như lớn nhỏ bác đều tham gia.
Tôi hỏi anh để xác minh lại những gì mọi người đã nói. Anh cũng không
phản đối. Anh nói, thực ra mà nói bác vẫn là người hay chỉ bảo, giúp anh nhiều
mặt. Nhưng có điều anh không thích ở bác là mỗi lần giúp xong, bác lại hay kể
công, kể lể. Có lần bác nhờ anh làm việc gì đó ( bây giờ anh không nhớ rõ lắm)
nhưng anh từ chối. Bác đã nói nhiều điều khó nghe. Khiến anh bực và khó chịu
Sau thời gian anh trai mất, anh và bác còn có nhiều lần cãi nhau, tuy nhiên
không đáng lắm.
Trước khi vào viện đợt 2 này, anh đang đi học làm thợ may. Không hiểu
vì lý do gì mà bác cứ nói ra nói vào suốt. Thậm chí còn “nhiếc móc” và “đay
nghiến” anh. Điều này gây cho anh “ức chế” vô cùng.
Thực ra anh không thích học may. Anh học là do bắt buộc. Học với anh
bây giờ chỉ là nghĩa vụ mà thôi.
Anh luôn có cảm giác bác luôn phản đối, luôn không muốn những điều tốt
đến với mình từ khi bác cấm đoán anh trai. Anh nghĩ bác không thích anh.
Từ khi lấy vợ, anh vẫn chưa tìm được cho mình một công việc ổn định.
Kinh tế gia đình “hiện tại cũng khó khăn nhưng không đến nỗi quá túng bấn”.
Chị L kể, anh là người đã có vợ nhưng không chăm lo cho mái ấm gia đình của
mình. Anh vẵn giữ thói quen tụ tập với đám bạn trai ( không nghề nghiệp, đa số
chưa lập gia đình), chơi bời, thậm trí đánh cờ bạc. Có nhiều hôm đi chơi về
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
22
khuya, chị L giận dỗi, không ra mở cửa, anh quát và không chủ động bắt chuyện
với chị nếu chị không nói trước.
Anh thường không giúp đỡ chị được việc gì trong nhà, thường mặc kệ vợ.
Kể cả từ lúc mang thai đến bây giờ. Chị L luôn ao ước gia anh được nửa chòng
người khác cũng được, chả mấy khi anh tâm lý với vợ con.
Khi chị sinh em bé., con khóc anh cũng không dỗ, lại còn hay cằn nhần,
bực bội, và chê chị không biết cách. Chị thây anh hay cáu bẳn, gắt gỏng.
- Tháng 2/2004, anh ốm. Một bác sĩ đã về hưu ở gần nhà ( trước làm ở
bệnh viện Đa Khoa) khám cho anh, nói thiếu canxy, đưa thuốc cho anh uống.
Sau cũng không đỡ. Anh được bác sĩ tiêm canxy nhưng lại bị chệch ven, anh
thấy choáng, đau đầu, không khỏi ốm, và tình trạng nặng hơn.
- Gia đình đưa anh đên bệnh viện Sanh Pôn, không tìm ra được nguyên
do, anh cũng không đỡ. Cùng đợt này con anh cũng ốm và được điều trị tại bệnh
viện này. Chị L phải chạy đôn chạy đáo hết tầng này trông nom con rồi xuống
tầng xuống tầng dưới chăm sóc chồng.
- Điều trị không thấy có hiệu quả, anh được chuyển sang bệnh viện Đa
Khoa. Anh sốt cao. Một buổi chiều anh không chịu ngồi trong phòng bệnh, đi
lang thang ngoài hành lang. Anh nói lẩm bẩm một mình. Sau anh còn quát và
gắt gỏng mọi người đến thăm anh. Anh còn đuổi họ đi. Anh ngội thu lu vào một
góc, ai đến anh cũng mắng họ, đuổi họ. Thỉnh thoảng có những lúc hét toáng lên
hoặc cười một mình. Người như mất hồn.
- Thấy tình trạng của anh như vậy, gia đình đưa anh khám tại khoa Tâm
thần, viện Sức khỏe tâm thần, bệnh viện Bạch Mai. Anh bị mất nhớ trong 2 ngày
và được chẩn đoán là rối loạn phân ly. Điều trị trong 1 tuần anh ổn định và về
nhà.
5. Quan sát, tiếp xúc
Ấn tượng ban đầu:
Nhìn thấy anh trong phòng bẹnh 15 với dáng người cao to, vạm võ, ít ai
tuwongr rằng anh là một bệnh nhân với chẩn đoán rối loạn phân ly. Bước chân
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
23
vào để hỏi chuyên, rất lịch sự anh đứng dậy khỏi giường bệnh, mời tôi ngồi và
rót nước motis tôi uống, lần đầu tiên tôi đi hỏi bệnh mà cảm thấy tự tin đến lạ.
Anh mặc bộ đồ ở nhà, gọn gàng và sạch sẽ.
Quá trình tiếp xúc và quan sát.
Ngồi hỏi chuyện anh được một lúc, có người ở phòng bệnh khác vào, anh
C, với vẻ mặt không hài lòng, nói với anh kia ra ngoài rồi đóng cửa lại “ xin lỗi
chị, em không thích có người lạ trong phòng. Lần trước vì có người lạ mà em đã
mất chiếc di động. Chị thông cảm cho”. Anh nói và tiếp tục ngồi xuống, tả lại
các cơn co giật mà anh đã trải qua.
Chị than phiền rằng anh không có ý chí chịu đựng, không chịu gắng
gượng dậy chứ bệnh cũng đâu nặng đến nỗi phải vào viện. Chị còn băn khoăn
không hiểu tại sao từ lúc vào viện đến nay, bệnh có khi còn nặng hơn, chân tay
không nhanh nhay và mắt thì lờ đờ. Tôi trấn an anh chị rằng đấy chỉ là do tác
dụng phụ của thuốc mà thôi chú không ảnh hưởng gì đến sức khỏe và kết quả
điều trị.
Anh nói hiện tại sức khỏe đỡ hơn. Các cơn co giật bây giờ đỡ hơn khi ở
nhà. Trước khi vào viện cơn co giật xuất hiện 2->3 lần trong một ngày, kéo dài
ít nhất là 15’ va lâu nhất là trên dưới 1 tiếng. Nhưng từ khi vào viện cơn co giật
xuất hiện khoảng 1->2 lần trong ngày.
Những cơn co giật này không xuất hiện vào một thời điểm nào nhất định.
Anh C nói cứ khi nào sức khỏe yếu là lại thấy cơn xuất hiện. Cơn co giật được
thể hiện bằng nhiều động tác không tự ý thức, có những cơn giãy dụa chân tay.
Khi chuẩn bị lên cơn, các ngón tay của anh dần co quắp, cứng lại. Sau đó, giật
cánh tay. Người uốn cong. Bụng có cảm giác quặn lại, các co cứng, giật. Trong
lúc có cơn co giật, anh vẫn ý thức được.
Đợt ở nhà, có lần kích động quá anh đã vớ ngay cây gậy gần nhà, cầm và
đánh đuổi chính mẹ ruột của mình. Anh nói lúc anh hành động như vậy, anh
không biết gì cả, chỉ khi tỉnh lại, nghe mọi người kể, anh mới biết. Đây là cơn
kích động duy nhất mà anh không ý thức được hoàn toàn.
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
24
Trong lần đầu tiên điều trị tại viện này, anh được chẩn đoán là rối loạn
phân ly với cơn mất nhó trong 2 ngày. Anh đã không nhớ được những điều gì
xảy ra trong quá khứ, thậm chí anh còn không nhận ra chính bố mẹ, vợ con và
những người thân trong gia đình. Về sinh hoạt cá nhân, anh vẫn bình thường.
Tuy nhiên, anh ngủ ít. Sau đó lại hồi phục hoàn toàn. Cùng thời gian điều trị tại
bệnh viện Bach Mai, anh đã gặp một khó khăn khác la không đi vệ sinh được.
Nước tiểu bị tắc. Hiện tượng này cũng không kéo dài lâu.
Ngày nhập viện hôm 30/07/05:
Bệnh nhân sau khi uống thuốc thì tỉnh táo. Tuy vậy ân ngủ ít. Tiếp xúc
hạn chế vói người khác ít.
5h, ngày 31/31/07/05:
Xuất hiện cơn giãy duạ chân tay, trong người thấy bồn chồn, than phiền
đau đầu và đau bụng. Có những hành vi kích động, đánh chửi vợ và những
người xung quanh.
Ngày 01/08/05 ->05/08/05:
Anh thấy bứt rứt trong người. Không thấy xuất hiện cơn giãy dụa chân tay
và co giật. Anh dành nhiều thời gian ngồi ngoài hành lang, nói chuyện với mọi
người trong những lúc tỉnh táo, hay đi loanh quanh khu bệnh viện. Anh hút
thuốc nhiều và trên nét mặt ẩn dấu sự căng thẳng, một nỗi lo, mà chính anh
nhiều lúc cũng không hiểu.
Ngày 06/08/05,
Bệnh nhân và gia đình xin ra viện vì thấy các cơn co giật không còn xuất
hiện. Nhưng vừa về đến cửa nhà, liền tức khắc, anh lại lên cơn. Ngay chiều đó,
anh trở lại viện. Anh vẫn đi nhiều khi không có cơn. Hút thuốc liên tục. Vẻ mặt
nhiều khi tỏ ra thò ơ, lanh nhạt, tuy nhiên vẫn vui vẻ khi chúng tôi hỏi thăm về
sức khỏe.
Ngày 06/08 và 07/08/05:
Bệnh nhân tỉnh táo, không có dấu hiệu nào bất thường. Vợ anh thì buồn,
lo lắng và có vẻ mệt mỏi.
Sinh viờn: Phạm Thị Ngọc – K47 Tõm lý học
25