Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

BÀI TIỂU LUẬN phân bón vô cơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.79 KB, 22 trang )

BÀI TIỂU LUẬN:
VAI TRÒ CỦA PHÂN BÓN VÔ CƠ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
TRONG NÔNG NGHIỆP HIỆN NAY Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN
THẾ GIỚI
I.TỔNG QUAN PHÂN BÓN VÔ CƠ
1. Khái niệm và thành phần của phân bón vô cơ
1.1. Khái niệm:
Phân vô cơ là các loại muối
khoáng có chứa các chất dinh dưỡng
của cây. Có 13 chất dinh dưỡng
khoáng thiết yếu đối với sinh trưởng
và phát triển của cây. Trong đó có 3
nguyên tố đa lượng là: N, P, K: 3
nguyên tố trung lượng là: Ca, Mg, S
và 7 nguyên tố vi lượng: Fe, Mn, Zn,
Cu, Mo, B, Cl. Ngoài ra, còn một số
nguyên tố khác cần thiết cho từng loại
cây như: Na, Si, Co, Al…
Phân vô cơ còn gọi là phân
khoáng, phân hoá học.

1.2. Thành phần của phân bón vô cơ
1.2.1 Yếu tố dinh dưỡng vô cơ
- Yếu tố dinh dưỡng đa lượng
- Yếu tố dinh dưỡng trung lượng
- Yếu tố dinh dưỡng vi lượng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Chi Lớp: 11SHH
- Yếu tố dinh dưỡng đất hiếm
1.2.2 Yếu tố vi sinh vật: Bao gồm các Vi sinh vật có lợi như VSV cố định đạm,
phân giải lân, phân giải xenlulo…
1.2.3 Các yếu tố hạn chế sử dụng:


Là các kim loại nặng gồm: Asen (As), Cadimi (Cd), Chì (Pb), Thuỷ ngân (Hg), Ti
tan (Ti) Crôm (Cr) hoặc các vi khuẩn gây bệnh gồm: vi
khuẩn E.coli, Salmonella hoặc các chất độc hại khác với hàm lượng cho phép được
quy định tại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.
Ngoài ra, trong phân bón còn có chứa chất giữ ẩm, chất hỗ trợ tăng hiệu suất sử
dụng phân bón, chất điều hoà sinh trưởng thực vật, chất phụ gia…
2.Phân loại phân bón vô cơ
Phân vô cơ gồm các loại chính :
- Phân vô cơ đa lượng : Phân đạm - Phân lân - Phân kali - Phân phức hợp và
phân hỗn hợp - Vôi bón ruộng.
- Phân vô cơ trung lượng .
- Phân vô cơ vi lượng .
2.1 Phân vô cơ đa lượng:
2.1.1 Phân đạm:
- Phân Urê CO(NH4)2
- Phân amôn nitrat (NH4NO3)
- Phân đạm sunphat (NH4)2SO4
- Phân đạm clorua (NH4Cl)
- Phân Xianamit canxi
- Phân phôtphat đạm
2.1.2 Phân lân
- Phôt phat nội địa
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Chi Lớp: 11SHH
- Phân apatit
- Supe lân
- Tecmo phôt phat (phân lân nung chảy, lân Vân Điển)
- Phân lân kết tủa
2.1.3 Phân kali
- Phân clorua kali
- Phân sunphat kali

- Một số loại phân kali khác
2.1.4 Phân phức hợp và phân hỗn hợp:
Trên thị trường hiện có các loại sau: loại 2 yếu tố (N-P, N-K, P-K), loại 3 yếu tố
(N-P-K), loại 4 yếu tố (N-P-K-Mg).
- Phân NP
- Phân NK
- Phân PK
- Phân N-P-K
2.1.5 Vôi bón ruộng: vôi nghiền, vôi nung, thạch cao.
2.2 Phân vô cơ trung và vi lượng
2.2.1 Phân trung lượng:
- Phân lưu huỳnh: phân supe lân chứa 12% S, phân supe hạt kali chứa 18% S, phân
sunphat amon (SA) chứa 23% S, phân sunphat kali – magie chứa 16-22% S.
- Phân canxi: phân lân nung chảy Văn Điển chứa 28-32% Ca, phân lân NPK Văn
Điển chứa 13-14% CaO, phân supe lân chứa 22-23% CaO.
- Phân magie: phân lân Văn Điển chứa 17-20% Mg, phân sunphat – magie chứa 5-
7% Mg, phân borat magie chứa 19% Mg.
2.2.2 Phân vô cơ vi lượng: gồm:
- Phân Bo: gồm phân axit boric, phân borat natri, borat magie.
- Phân Đồng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Chi Lớp: 11SHH
- Phân Mangan: gồm sunphat mangan, clorua mangan, pecmanganat kali.
- Phân Molipden: gồm molipdat natri, molipdat amon.
- Phân Kẽm: gồm sunphat kẽm, clorua kẽm.
- Phân Sắt
- Phân Coban
II. VAI TRÒ CỦA PHÂN BÓN VÔ CƠ
Từ xa xưa, nhân dân ta đã có những câu “Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân”,
“Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” cũng nói lên vai trò quan trọng của phân
bón với cây trồng. Phân bón vô cơ là một trong những nhân tố chính làm tăng

năng suất cây trồng để nuôi sống nhân loại trên thế giới. Nó là nguồn dinh dưỡng
quan trọng, đã và đang góp phần chủ yếu làm tăng năng suất cây trồng và ổn định
độ phì của đất.
Phân bón vô cơ vai trò không nhỏ đưa
Việt Nam thuộc danh sách 10 nước có
năng suất lúa cao nhất thế giới, từ chỗ
thiếu lương thực trầm trọng trở thành
nước có lượng gạo xuất khẩu ổn định
trên 4 triệu tấn/năm và đảm bảo an
ninh lương thực.

Vai trò của phân bón vô cơ thể hiện ở các điểm chủ yếu như sau:
Đối với năng suất của cây trồng và chất lượng sản phẩm:
Phân bón vô cơ cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng sinh
trưởng phát triển. Nếu chỉ lấy từ đất thì cây trồng hoàn toàn không đủ chất dinh
dưỡng mà phải lấy thêm phần lớn từ phân bón. Phân bón vô cơ chính là thức ăn
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Chi Lớp: 11SHH
nuôi sống cây trồng. Điều tra tổng kết ở khắp nơi trên thế giới đều cho thấy trong
số các biện pháp kỹ thuật trồng trọt, bón phân luôn là biện pháp có ảnh hưởng lớn
nhất đến năng suất cây trồng.

Theo tổ chức FAO, trong thập niên 70-80 của thế kỷ XX, trên phạm vi trên toàn
thế giới trung bình phân bón quyết định 50% tổng sản lượng nông sản tăng thêm.
Ở nước ta, cho đến năm 1990, trung bình phân bón làm tăng 35% tổng sản lượng,
bón 1 tấn chất dinh dưỡng nguyên chất thu được 13 tấn hạt ngũ cốc. Bón phân cân
đối và hợp lý còn làm tăng chất lượng nông sản, cụ thể là làm tăng hàm lượng chất
khoáng, protein, đường và vitamin cho sản phẩm. Tuy nhiên, nếu thiếu chất dinh
dưỡng, hoặc bón quá nhiều và không cân đối cũng có thể làm giảm năng suất và
chất lượng nông sản.
Đối với đất và môi trường:

Bón phân vô cơ hợp lý làm tăng độ phì nhiêu cho đất, đất tốt hơn, cân đối hơn,
đặc biệt bón vôi là biện pháp cải tạo đất rất hữu hiệu. Ở những đất có độ phì nhiêu
tự nhiên ban đầu thấp, tức là đất xấu thì việc bón phân càng có tác dụng rõ. Tuy
vậy bón phân không hợp lý, không đúng kỹ thuật có thể làm cho đất xấu đi hoặc
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Chi Lớp: 11SHH
gây ô nhiễm môi trường, tạo ra nhiều đạm ở thể khí làm đất trở nên độc với cây
trồng và ô nhiễm không khí, nguồn nước.
Đối với hệ thống biện pháp kỹ thuật trồng trọt:
Sử dụng phân bón vô cơ có liên quan đến hiệu lực của các biện pháp kỹ thuật
khác. Ví dụ: sử dụng giống mới cần kết hợp với bón phân hợp lý và đầy đủ.
Đối với thu nhập của người sản xuất :
Do làm tăng năng suất và chất lượng nông sản nên sử dụng phân bón vô cơ hợp
lý làm tăng thu nhập cho người trồng trọt.Tăng chất lượng cuộc sống.
1.Vai trò của phân vô cơ đa lượng
1.1 Phân đạm: là tên gọi chung của các loại phân bón vô cơ cung cấp đạm cho
cây. Bón đạm thúc đẩy quá trình tăng trưởng của cây, làm cho cây ra nhiều nhánh,
phân cành, ra lá nhiều, lá có kích thước to, màu xanh, lá quang hợp mạnh do đó
làm tăng năng suất cây. Có các loại phân đạm thường dùng sau:
Phân Urê CO(NH4)2: là loại phân có tỉ lệ N cao nhất chứa 44-48% N nguyên
chất. Trên thị trường có bán 2 loại phân urê có chất lượng giống nhau: Loại tinh
thể màu trắng, hạt tròn, dễ tan trong nước, có nhược điểm hút ẩm mạnh. Loại có
dạng viên, nhỏ như trứng cá. Loại này có thêm chất chống ẩm nên dễ bảo quản,
vận chuyển nên được dùng nhiều trong nông nghiệp. Phân urê có khả năng thích
ứng với nhiều loại đất và cây trồng khác nhau, thường được dùng để bón thúc,thích
hợp trên đất chua phèn.Có thể pha loãng theo nồng độ 0.5–1.5% để phun lên lá.
Trong chăn nuôi, urê được dùng trực tiếp bằng cách cho thêm vào khẩu phần thức
ăn cho lợn, trâu bò. Phân này cần được bảo quản kỹ trong túi pôliêtilen và không
được phơi ra nắng. Bởi vì khi tiếp xúc với không khí và ánh nắng urê rất dễ bị
phân huỷ và bay hơi. Các túi phân urê khi đã mở ra cần được dùng hết ngay trong
thời gian ngắn.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Chi Lớp: 11SHH
Trong quá trình sản xuất, urê thường liên kết các phần tử với nhau tạo thành biuret.
Đó là chất độc hại biuret đối với cây trồng. Vì vậy, trong phân urê không được có
quá 1,5% biuret (theo Tiêu chuẩn Việt Nam).

Phân amôn nitrat (NH4NO3): có chứa 33-35% N, có dạng tinh thể muối kết tinh
có màu vàng xám, dễ chảy nước, dễ tan trong nước, dễ vón cục, khó sử dụng và
bảo quản. Là loại phân sinh lý chua,tuy vậy, đây là loại phân bón quý vì có chứa cả
NH4+ và cả NO3-, phân này có thể bón cho nhiều loại cây trồng trên nhiều loại đất
khác nhau. Amôn nitrat bón thích hợp cho nhiều loại cây trồng cạn như thuốc lá,
bông, mía, ngô…
Phân này được dùng để pha thành dung dịch dinh dưỡng để tưới cây trong nhà
kính và tưới bón thúc cho nhiều loại rau, cây ăn quả.
Phân đạm sunphat (NH
4
)
2
SO
4
:
Có chứa 20–21% nitơ nguyên chất. Trong phân này còn có 24-25% lưu huỳnh (S).
Trên thế giới loại phân này chiếm 8% tổng lượng phân hoá học sản xuất hàng năm.
Phân này có dạng tinh thể, mịn, màu trắng ngà hoặc xám xanh. Phân này có mùi
nước tiểu (mùi amôniac), vị mặn và hơi chua. Cho nên nhiều nơi gọi là phân muối
diêm.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Chi Lớp: 11SHH
Sunphat đạm là loại phân bón tốt vì có cả N và lưu huỳnh là hai chất dinh dưỡng
thiết yếu cho cây. Phân này dễ tan trong nước, không vón cục. Thường ở trạng thái
tơi rời, dễ bảo quản, dễ sử dụng. Tuy nhiên, nếu để trong môi trường ẩm phân dễ
vón cục, đóng lại thành từng tảng rất khó đem bón cho cây.

Có thể đem bón cho tất cả các loại cây trồng, trên nhiều loại đất khác nhau, miễn là
đất không bị phèn, bị chua. Nếu đất chua cần bón thêm vôi, lân mới dùng được
đạm sunphat amôn. Phân này dùng tốt cho cây trồng trên đất đồi, trên các loại đất
bạc màu (thiếu S).
Đạm sunphat được dùng chuyên để bón cho các loài cây cần nhiều S và ít N
như đậu đỗ, lạc v.v. và các loại vây vừa cần nhiều S vừa cần nhiều N như ngô.
Cần lưu ý đạm sunphat là loại phân có tác dụng nhanh, rất chóng phát huy tác dụng
đối với cây trồng, cho nên thường được dùng để bón thúc và bón thành nhiều lần
để tránh mất đạm.
Khi bón cho cây con cần chú ý là phân này dễ gây cháy lá. Không nên sử dụng
phân đạm sunphat để bón trên đất phèn, vì phân dễ làm chua thêm đất.
Phân đạm clorua (NH
4
Cl): Phân này (NH4Cl) có chứa 24–25% nitơ nguyên chất.
Đạm clorua có dạng tinh thể mịn, màu trắng hoặc vàng ngà. Phân này dễ tan trong
nước, ít hút ẩm, không bị vón cục, thường tơi rời nên dễ sử dụng. Là loại phân sinh
lý chua. Vì vậy, nên bón kết hợp với lân và các loại phân bón khác. Đạm clorua
không nên dùng để bón cho thuốc lá, chè, khoai tây, hành, tỏi, bắp cải, vừng, v.v.
Ở các vùng khô hạn, ở các chân đất nhiễm mặn không nên bón phân đạm clorua, vì
ở những nơi này trong đất có thể tích luỹ nhiều clo, dễ làm cho cây bị ngộ độc.
Phân Xianamit canxi: chứa 20-21% N, 20-28% vôi, 9-12% than. Có dạng bột,
màu xám tro hoặc trắng, không có mùi khai. Thường dùng để bón lót, phân này có
phản ứng kiềm, bởi vậy có thể khử được chua, dùng rất tốt ở các loại đất chua.
thường được dùng. Muốn dùng để bón thúc phải đem ủ trước khi bón. Bởi vì phân
này khi phân giải tạo ra một số chất độc có thể làm hỏng móng chân trâu bò, hại da
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Chi Lớp: 11SHH
chân người nông dân. Thường sau 7 – 10 ngày các chất độc mới hết. Thưởng
xianamit canxi được trộn ủ với phân rác làm cho phân chóng hoai mục. Phân này
không được dùng để phun lên lá cây.
Phân phôtphat đạm (còn gọi là phôt phat amôn)

Là loại phân vừa có đạm, vừa có lân. Trong phân có tỷ lệ đạm là 10-18%, tỷ lệ lân
là 44-50%. Phôtphat đạm có dạng viên, màu xám tro hoặc trắng,nói chung màu sắc
tùy thuộc vào nhà sản xuất và không ảnh hưởng tới chất lượng. Được dùng để bón
lót hoặc bón thúc, thích hợp với đất nhiễm mặn.
Trên thị trường hiện nay đang lưu hành hai loại phân bón ammonphot là DAP(18-
46-0)và MAP(10-50-0).Phân dễ chảy nước. Vì vậy, người ta thường sản xuất dưới
dạng viên và được đựng trong các bao nilông. Phân rất dễ tan trong nước và phát
huy hiệu quả nhanh. Phân được dùng để bón lót, bón thúc đều tốt. Phân là loại dễ
sử dụng.

Một số hình ảnh bao bì của phân phốtphat đạm
Phân DAP là loại phân trung tính nên có thể sử dụng trên các loại đất khác nhau,
còn phân MAP là loại chua sinh lý(pH: 4-4.5) nên không thích hợp đối với các loại
đất chua. Phân có tỷ lệ đạm hơi thấp so với lân, cho nên cần bón phối hợp với các
loại phân đạm khác, nhất là khi bón cho các loại cây cần nhiều đạm.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Chi Lớp: 11SHH
1.2 Phân lân
Có vai trò quan trọng trong đời sống cây trồng. Kích thích sự phát triển của rễ, làm
cho rễ đâm sâu lan rộng nên cây ít đổ ngã, kích thích quá trình đẻ nhánh, nảy chồi,
thúc đẩy cây ra hoa kết quả sớm và nhiều, tăng đặc tính chống rét, chống hạn, chịu
độ chua, chống sâu bệnh hại….
Hiện nay, có một số loại phân lân như sau:
Phôt phat nội địa: là loại bột mịn, màu nâu thẫm hoặc nâu nhạt, chứa 15-25% P
nguyên chất. Dùng để bón lót, không dùng để bón thúc. Trong phân phôtphat nội
địa, phần lớn các hợp chất lân nằm ở dạng khó tiêu đối với cây trồng. Phân có tỷ lệ
vôi cao, cho nên có khả năng khử chua. Vì lân trong phân ở dưới dạng khó tiêu,
cho nên phân chỉ dùng có hiệu quả ở các chân đất chua. Ở các chân ruộng không
chua, hiệu lực của loại phân này thấp; ở loại đất này, loại phân này dùng bón cho
cây phân xanh có thể phát huy được hiệu lực. Phân này chỉ nên dùng để bón lót,
không dùng để bón thúc. Khi sử dụng có thể trộn với phân đạm để bón, nhưng trộn

xong phải đem bón ngay, không được để lâu. Phân này dùng để ủ với phân chuồng
rất tốt. Phân phôtphat nội địa ít hút ẩm, ít bị biến chất, cho nên có thể cất giữ được
lâu. Vì vậy, bảo quản tương đối dễ dàng.
Phân apatit: là loại bột mịn, màu nâu đất hoặc xám nâu. Tỉ lệ lân thay đổi tùy theo
loại: loại apatit giàu có trên 38% lân, loại apatit trung bình có 17-38% lân, loại
apatit nghèo có dưới 17% lân.Thường loại apatit giàu được sử dụng để chế biến
thành các loại phân lân khác, còn loại trung bình và loại nghèo mới được đem
nghiền thành bột để bón cho cây. Phần lớn lân trong phân apatit ở dưới dạng cây
khó sử dụng. Apatit có tỷ lệ vôi cao nên có khả năng khử chua cho đất. Phân này
được sử dụng tương tự như phôtphat nội địa. Sử dụng và bảo quản phân này tương
đối dễ dàng vì phân ít hút ẩm và ít biến chất.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Chi Lớp: 11SHH
Supe lân: là loại bột mịn màu trắng, vàng xám hoặc xám thiếc, có chứa 16-20%
lân nguyên chất và một lượng lớn thạch cao. Phân dễ hòa tan trong nước nên dễ sử
dụng, có thể dùng để bón lót hoặc bón thúc đều được. Trong phân còn chứa một
lượng khá lớn axit, vì vậy phân có phản ứng chua. Phân dễ hoà tan trong nước cho
nên cây dễ sử dụng. Phân thường phát huy hiệu quả nhanh, ít bị rửa trôi. Supe lân
có thể dùng để bón lót hoặc bón thúc đều được. Phân này có thể sử dụng để bón ở
các loại đất trung tính, đất kiềm, đất chua đều được. Tuy nhiên, ở các loại đất chua
nên bón vôi khử chua trước khi bón supe lân. Supe lân có thể dùng để ủ với phân
chuồng. Nếu supe lân quá chua, cần trung hoà bớt độ chua trước khi sử dụng. Có
thể dùng phôtphat nội địa hoặc apatit. Nếu đất chua nhiều dùng 15 – 20% apatit để
trung hoà, đất chua ít dùng 10 – 15%. Nếu dùng tro bếp để trung hoà độ chua của
supe lân thì dùng 10 – 15%, nếu dùng vôi thì tỷ lệ là 5 – 10%. Phân supe lân
thường phát huy hiệu quả nhanh, cho nên để tăng hiệu lực của phân, người ta
thường bón tập trung, bón theo hốc, hoặc sản xuất thành dạng viên để bón cho cây.
Phân này có thể dùng để hồ phân rễ mạ. Supe lân ít hút ẩm, nhưng nếu cất giữ
không cẩn thận phân có thể bị nhão và vón thành từng cục. Phân có tính axit nên
dễ làm hỏng bao bì và dụng cụ đong đựng bằng sắt.
Tecmo phôt phat (phân lân nung chảy, lân Vân Điển): có dạng bột màu xanh

nhạc, gần như màu tro, có óng ánh; chứa 15-20% lân, 30% canxi, 12-13% Mg, có
khi có cả K. Phân này không tan trong trong nước nhưng tan trong axit yếu, cây sử
dụng dễ dàng, có thể dùng để bón lót hoặc bón thúc. Phân có hiệu quả tốt cho đất
cát nghèo, đất bạc màu, ít vi lượng hoặc đất chua. Tecmô phôtphat có phản ứng
kiềm, cho nên không nên trộn lẫn với phân đạm vì dễ làm cho đạm bị mất. Tecmô
phôtphat phát huy hiệu lực tốt ở các vùng đất chua, vì phân có phản ứng kiềm
Phân này thường được bón rải, ít khi bón tập trung và ít được sản xuất dưới dạng
viên. Không sử dụng tecmô phôtphat để hồ phần rễ mạ.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Chi Lớp: 11SHH
Phân lân kết tủa: có dạng bột trắng, nhẹ, xốp trong giống vôi bột, chứa 27-31%
lân nguyên chất và 1 ít canxi. Phân này sử dụng tương tự như tecmo phốt phát.
1.3 Phân kali
Phân kali cung cấp dinh dưỡng K cho cây,có vai trò chủ yếu trong việc chuyển hoá
năng lượng trong quá trình đồng hoá các chất dinh dưỡng của cây. Kali làm tăng
khả năng chống chịu của cây đối với các tác động không lợi từ bên ngoài và chống
chịu đối với một số loại bệnh. Kali tạo cho cây cứng chắc, ít đổ ngã, tăng khả năng
chịu úng, chịu hạn, chịu rét. Kali làm tăng phẩm chất nông sản và góp phần làm
tăng năng suất của cây. Kali làm tăng hàm lượng đường trong quả làm cho màu sắc
quả đẹp tươi, làm cho hương vị quả thơm và làm tăng khả năng bảo quản của quả.
Kali làm tăng chất bột trong củ khoai, làm tăng hàm lượng đường trong mía. Trên
phương diện khối lượng, cây trồng cần nhiều K hơn N. Nhưng vì trong đất có
tương đối nhiều K hơn N và P, cho nên người ta ít chú ý đến việc bón K cho cây.
Trong cây K được dự trữ nhiều ở thân lá, rơm rạ, cho nên sau khi thu hoạch kali
được trả lại cho đất một lượng lớn. Kali có nhiều trong nước ngầm, nước tưới,
trong đất phù sa được bồi hàng năm. Hiện có một số loại phân kali sau:
Phân clorua kali: có dạng bột màu hồng hoặc xám đục, xám trắng, kết tinh thành
hạt nhỏ, chứa 50-60% K nguyên chất và một ít muối ăn. Đây là loại phân chua sinh
lý, có độ rời, dễ bón, có thể bón lót hoặc bón thúc, thích hợp cho nhiều vùng đất
trừ đất mặn. Ngoài ra trong phân còn có một ít muối ăn (NaCl). Clorua kali là loại
phân chua sinh lý. Nhưng nếu để ẩm phân kết dính lại với nhau khó sử dụng. Hiện

nay, phân clorua kali được sản xuất với khối lượng lớn trên thế giới và chiếm đến
93% tổng lượng phân kali. Cloria kali có thể dùng để bón cho nhiều loại cây trên
nhiều loại đất khác nhau. Có thể dùng phân này để bón lót hoặc bón thúc. Bón thúc
lúc cây sắp ra hoa làm cho cây cứng cáp, tăng chất lượng nông sản. Clorua kali rất
thích hợp với cây dừa vì dừa là cây ưa clo. Không nên dùng phân này để bón vào
đất mặn, là loại đất có nhiều clo, và không bón cho thuốc lá là loại cây không ưa
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Chi Lớp: 11SHH
clo. Phân này cũng không nên dùng bón cho một số loài cây hương liệu, chè, cà
phê, vì phân ảnh hưởng đến chất lượng nông sản.
Phân sunphat kali: Là loại phân chua sinh lý nhưng thích hợp với nhiều loại cây
trồng.
Một số loại phân kali khác:
- Phân kali – magie sunphat,được sử dụng hiệu quả trên đất cát nghèo, đất bạc
màu.
- Phân Agripac của Canada: thường dùng để trộn với các loại phân bón khác.
- Muối kali 40% sử dụng hạn chế trên đất mặn.
1.3 Phân phức hợp và phân hỗn hợp
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Chi Lớp: 11SHH
a.Phân NP: gồm có phân Amophor dùng để bón cho đất phù sa,đất phèn; phân
Diamophor thích hợp cho đất phèn,đất bazan. Ngoài ra, phân hỗn hợp dùng để bón
lót.
b. Phân NK: Gồm có phân Kali nitrat dùng để bón bổ sung kali cho đất, phân hỗn
hợp 30:0:10; 20:0:20; 20:0:10, dùng để bón vào cuối thời kỳ sinh trưởng của cây.
c. Phân PK: dùng cho đất bạc màu, đất cát nhẹ.
d. Phân N-P-K: gồm phân Amsuka, phân nitro phoska, phân Amphoska, phân viên
NPK Văn Điển, phân hỗn hợp NPK 3 màu, phân tổng hợp NPK có vai trò quan
trọng bổ sung chất dinh dưỡng thiết yếu cho cây trồng,dùng cho đất bạc màu, đất
phèn.
1.4 Vôi bón ruộng
Cung cấp Canxi (Ca) cho cây trồng, Ca là một nguyên tố dinh dưỡng rất cần cho

cây vì Ca chiếm tới 30% trong số các chất khoáng của cây. Cải tạo đất chua, mặn.
Tạo điều kiện cho vi sinh vật hoạt động tốt, phân giải các chất hữu cơ trong đất,
tăng độ hòa tan các chất dinh dưỡng và tăng khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng
của cây, diệt được một số bệnh hại cây trồng, khử độc cho đất do thừa nhôm(Al),
Sắt(Fe), H2S…Khi thiếu: Lá và đọt non dễ bị cong queo và nhỏ, mép lá không
đều, hay có hiện tượng chồi chết ngọn, rễ đình trệ sinh trưởng và thường bị thối…
Không có triệu chứng dư, tuy nhiên khi lượng canxi cao thường gây thiếu: B, Mn,
Fe, Zn, Cu…
1.5 Phân vô cơ trung và vi lượng
1.5.1 Phân trung lượng:
Mặc dù số lượng yêu cầu không lớn như NPK nhưng các chất trung lượng (canxi,
magiê và lưu huỳnh) là những chất có vai trò vô cùng thiết yếu đối với cây trồng.
Trong đó, canxi là một thành phần của màng tế bào cây nên rất cần thiết cho sự
hình thành tế bào mới và làm màng tế bào ổn định, vững chắc. Nó còn cần cho sự
hình thành và phát triển của rễ cây. Đặc biệt canxi có vai trò như một chất giải độc
do trung hòa bớt các axit hữu cơ trong cây và hạn chế độc hại khi dư thừa một số
chất như K+, NH4+. Nó cũng cần thiết cho sự đồng hóa đạm nitrat và vận chuyển
gluxit từ tế bào đến các bộ phận dự trữ của cây.Giúp cây chịu úng tốt hơn do làm
giảm độ thấm của tế bào và việc hút nước của cây. Ngoài ra, canxi có trong vôi còn
có tác dụng cải tạo đất, giảm độ chua mặn và tăng cường độ phì của đất, giúp cho
cây sinh trưởng tốt. Thiếu canxi thân cây mềm yếu, hoa rụng, nếu thiếu nặng thì
đỉnh chồi có thể bị khô. Ngược lại nếu đất nhiều canxi sẽ bị kiềm, tăng độ pH
không tốt với cây.
Magiê có vai trò khác canxi.Nó là thành phần cấu tạo chất diệp lục nên giữ vai trò
quan trọng trong quá trình quang hợp và tổng hợp chất gluxit trong cây. Magiê
tham gia trong thành phần của nhiều loại men, đặc biệt các men chuyển hóa năng
lượng, đồng hóa lân, tổng hợp protein và lipit.
Magiê giữ cho độ pH trong tế bào cây ở phạm vi thích hợp, tăng sức trương của tế
bào nên ổn định cân bằng nước, tạo điều kiện cho các quá trình sinh học trong tế
bào xảy ra bình thường. Thiếu magiê lá cây sẽ mất màu xanh bình thường và xuất

hiện các đốm vàng, mép lá cong lên, thiếu nặng cây có thể bị chết khô. Nếu dư
thừa magiê sẽ làm thiếu kali.
Riêng lưu huỳnh hiện đang được coi là yếu tố dinh dưỡng thứ 4 của cây trồng sau
đạm, lân và kali. Lưu huỳnh tham gia trong thành phần của các axit amin và
protein có chứa lưu huỳnh, trong đó có axit amin không thể thay thế như
methionin. Lưu huỳnh còn có trong thành phần của men coenzim A xúc tiến nhiều
quá trình sinh lý trong cây như quang hợp, hô hấp và sự cố định đạm của vi sinh
vật cộng sinh.Nó đóng vai trò quyết định trong việc tạo thành các chất tinh dầu và
tạo mùi vị cho các cây hành, tỏi, mù tạt,là chất cần thiết cho sự hình thành chất
diệp lục, thúc đẩy quá trình thành thục và chín của quả và hạt. Ngoài ra, khi cây
trồng hút lưu huỳnh ở dạng SO42- có trong đất qua rễ và SO2 trong không khí qua
lá còn góp phần làm sạch môi trường.

Phân bón lưu huỳnh có vai trò quyết định trong việc tạo mùi
vị cho các cây hành, tỏi.
Cây thiếu lưu huỳnh có biểu hiện giống như thiếu đạm, lá vàng lợt, cây thấp bé,
chồi kém phát triển. Còn thừa lưu huỳnh thì lá nhỏ, đôi khi bị cháy lá.
1.5.2Phân vi lượng: Cung cấp các chất vi dinh dưỡng rất cần thiết để cây phát
triển. Chúng là tác nhân hoạt hoá trong các hệ thống enzyme.Cụ thể vai trò từng
nguyên tố vi lượng trong phân như sau:
Vai trò của Đồng (Cu) : cần thiết cho sự hình thành diệp lục và xúc tác cho một số
phản ứng khác trong cây, nhưng không tham gia vào thành phần của chúng.Giúp
cây hòa thảo trổ hoa,hình thành hạt.
Vai trò của Bo (B) :Bo cần thiết cho sự nảy mầm của hạt phấn, sự tang trưởng của
ống phấn,cần thiết cho sự hình thành tế bào và hạt giống.Bo cũng hình thành nên
phức chất đường/borat có liên quan đến sự chuyển đường và đóng vai trò qua trọng
trong việc hình thành protein.Giúp cây sinh trưởng,phát triển đỉnh sinh trưởng.
Vai trò của sắt (Fe):Sắt là chất xúc tác hình thành nên diệp lục và hoạt động như
một chất mang oxy, giúp hình thành hệ thống men hô hấp.Thiếu sắt gây ra hiện
tượng bạc lá, có thể chuyển toàn bộ cay thành màu vàng tới nhợt nhạt.

Vai trò của Magan: là thành phần của các hệ thống men(enzyme ) trong cây,có vai
trò trực tiếp trong quang hợp, bằng cách hỗ trợ sự tổng hợp diệp lục,tang cường sự
chin và sự nảy mầm của hạt.
Vai trò của Molipden( Mo) :Molipden cần cho sự tổng hợp của men khử Nitrat
thành Ammonium trong cây, có vai trò sống trong việc tổng hợp đạm cộng sinh
bởi vi khuẩn Rhizobia trong nốt sần cây họ đậu,cần thiết cho việc chuyển hóa lân
từ dạng vô cơ sang hữu cơ trong cây.Sự thiếu hụt Molipden có thể gây ra triệu
chứng thiếu đạm cho cây.
Vai trò của Kẽm(Zn):là nguyên tố vi lượng đầu tiên cần thiết cho cây trồng,nhưng
thường là một nguyên tố hạn chế năng suất cây trồng .Kẽm hỗ trợ cho sự tổng hợp
các chất sinh trưởng và các hệ thống men và cần thiết cho sự tăng cường một số
phản ứng trao đổi chất trong cây, cần thiết cho việc sản xuất ra chất Diệp lục và các
Hydratcarbon, sự thiếu Kẽm ở cây bắp gọi là bệnh "đọt trắng" vì rằng lá non
chuyển sang trắng hoặc vàng sáng.
Vai trò của Clo: Clo là nguyên tố vi lượng sống còn cho cây trồng, đặc biệt đối với
cây Cọ dầu và cây Dừa. Clo tham gia vào các phản ứng năng lượng trong cây. Cụ
thể là nó tham gia vào sự bẻ gẫy phân tử nước với sự hiện hữu của ánh sáng mặt
trời và hoạt hóa một số hệ thống men, điều hòa hoạt động của những tế bào bảo vệ
khí khổng, do đó kiểm soát được sự bốc thoát hơi nước v.v
III. ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN BÓN VÔ CƠ TRONG NÔNG NGHIỆP
HIỆN NAY Ở NƯỚC TA VÀ TRÊN THẾ GIỚI
Phân bón mang lại hiệu quả và năng suất trong quá trình canh tác, tuy nhiên bên
cạnh những vai trò hết sức quan trọng sử dụng phân bón trong phát triển nông
nghiệp.Việc sử dụng phân bón vô cơ không hợp lý còn để lại nhiều ảnh hưởng tiêu
cực phân bón cũng có những ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh, lý, hóa học xảy ra
trong đât và những ảnh hưởng tiêu cực khác. Những ảnh hưởng này có những tác
động tiêu cực lâu dài trong quá trình canh tác
3.1Ảnh hưởng trong nông nghiệp trên thế giới
Hiện nay,mức tiêu thụ phân bón vô trong nông nghiệp ngày càng tăng mạnh. Các
số liệu khảo sát cho thấy, bình quân các nước châu Á sử dụng phân khoáng nhiều

hơn bình quân thế giới. Tuy nhiên, Ấn Độ (nước có khí hậu nóng) lại dùng phân
khoáng ít hơn bình quân toàn châu Á. Trong lúc đó Trung Quốc và Nhật lại sử
dụng phân khoáng nhiều hơn bình quân toàn châu Á. Hà Lan là nước sử dụng phân
khoáng nhiều nhất.
Các nước sử dụng nhiều phân bón vô cơ lớn nhất thế giới như: Trung Quốc 18.7
(triệu tấn/năm), Hoa Kỳ 9.1 (triệu tấn/năm),Pháp 2.5 (triệu tấn/năm), Đức 2.0 (triệu
tấn/năm)….
Việc sử dụng một lượng lớn phân bón vô cơ và tình trạng cung vượt quá cầu gây ra
nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng trong lĩnh vực nông nghiệp như:
Vấn đề về ô nhiễm môi trường ngày càng tăng ở các khu vực
Sự suy kiệt vi lượng khoáng chất trong đất gây thoái hóa đất, giảm diện tích đất
canh tác, tại miền Tây Australia những thiếu hụt kẽm, đồng, măngan, sắt và mô líp
đen đã được xác định là nguyên nhân giới hạn sự phát triển của mùa màng và đồng
cỏ trong thập niên 1940 và 1950. Đất đai tại miền Tây Australia rất cũ, bị ảnh
hưởng mạnh của thời tiết và thiếu hụt nhiều chất dinh dưỡng và vi chất quan trọng.
Từ thời điểm đó các vi chất đó thường xuyên được thêm vào trong các loại phân
bón vô cơ được sử dụng trong nông nghiệp tại bang này.
Việc sử dụng không hợp lý lượng phân bón sẽ ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng
và phát triển của cây.Làm giảm năng suất, chất lượng sản phẩm nông sản,hiệu suất
kinh tế sụt giảm và để lại nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng khác.
3.2.Ảnh hưởng của việc sử dụng phân bón vô cơ trong nông nghiệp nước ta
Theo các số liệu khảo sát gần đây cho thấy Việt Nam được coi là nước sử dụng
nhiều phân khoáng trong số các nước ở Đông Nam Á, số liệu tham khảo năm 1999
như sau:Việt Nam: bình quân 241,82 kg NPK/ha, Malaysia: bình quân 192,60,
Thái Lan: bình quân 95,83,Philippin: bình quân 65,62,ndonesia: bình quân
63,0,Myanma: bình quân 14,93,Lào: bình quân 4,50,Campuchia: bình quân 1,49.
Bên cạnh những vai trò hết sức quan trọng của phân khoáng thì nó còn để lại rất
nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng trong ngành nông nghiệp nước ta.
Và những tính toán hiện nay về hiệu suất sử dụng phân đạm mới chỉ đạt từ 30-
45%, lân từ 40-45% và kali từ 40-50%, tùy theo chân đất, giống cây trồng, thời vụ,

phương pháp bón, loại phân bón… Như vậy, còn 60-65% lượng đạm tương đương
với 1,77 triệu tấn urê, 55-60% lượng lân tương đương với 2,07 triệu tấn supe lân và
55-60% lượng kali tương đương với 344 nghìn tấn Kali Clorua (KCl) được bón
vào đất nhưng chưa được cây trồng sử dụng.
Việc sử dụng lượng lớn phân bón vô cơ nhưng nó chưa chưa sử dụng hết,bị dư
thừa,điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng:
Đối với đất nông nghiệp
Trong số phân bón cây không sử dụng được, một phần còn được giữ lại trong các
keo đất là nguồn dinh dưỡng dự trữ cho vụ sau,một phần bị rửa trôi theo nước mặt
và chảy vào các ao, hồ, sông suối gây ô nhiễm nguồn nước mặt; một phần bị trực
di (thấm rút theo chiều dọc) xuống tầng nước ngầm và một phần bị bay hơi do tác
động của nhiệt độ hay quá trình phản nitrat hóa gây ô nhiễm không khí….
+ Ảnh hưởng đến tính chất vật lý của đất: Làm mất cấu trúc của đất, làm đất chai
cứng, giảm khả năng giữ nước của đất, giảm tỷ lệ thông khí trong đất. (Ví dụ dùng
NANO3 không hợp lý gây mặn hóa đất, thay đổi cấu trúc nước, không khí trong
đất).
+ Ảnh hướng đến tính chất hóa học của đất: Phân vô cơ có khả năng làm mặn hóa
do tích lũy các muối như CaCO3, NaCl, … Cũng có thể làm chua hóa do bón quá
nhiều phân chua sinh lý như KCl, NH4Cl, (NH2)2SO4, … do sự có mặt của các
anion Cl-, SO42- hoặc do trong phân có dư lượng axit tự do lớn. Ví dụ bón nhiều
phân (NH2)2SO4thì làm dư thừa SO4—làm đất bị chua, pH giảm, một số vi sinh
vật bị chết, tăng làm lượng Al, Mn, Fe, … linh động gây ngộ độc cho cây.
Đối với môi trường nước:
Phân bón đi vào nguồn nước mặt gây ảnh hưởng xấu như: Gây phì hóa nước và
tăng nồng độ nitrat trong nước.
Hiện tượng tăng độ phì trong nước (còn gọi là phú dưỡng) làm cho tảo và thực vật
cấp thấp sống trong nước phát triển với tốc độ nhanh trong toàn bộ chiều sâu nhận
ánh sáng mặt trời của nước. Lớp thực vật trôi nổi này làm giảm trầm trọng năng
lượng ánh sáng đi tới các lớp nước phía dưới, vì vậy hiện tượng quang hợp trong
các lớp nước phía dưới bị ngăn cản, lượng oxy được giải phóng ra trong nước bị

giảm, các lớp nước này trở nên thiếu oxy. Mặt khác, khi tảo và thực vật bậc thấp bị
chết, xác của chúng bị phân hủy yếm khí, tạo nên các chất độc hại, có mùi hôi, gây
ô nhiễm nguồn nước.
Phân bón bị rửa trôi theo chiều dọc xuống tầng nước ngầm chủ yếu là phân đạm vì
các loại phân lân và kali dễ dàng được giữ lại trong keo đất. Ngoài phân đạm đi
vào nguồn nước ngầm còn có các loại hóa chất cải tạo đất như vôi, thạch cao, hợp
chất lưu huỳnh, Nếu như phân đạm làm tăng nồng độ nitrat trong nước ngầm thì
các loại hóa chất cải tạo đất làm tăng độ mặn, độ cứng nguồn nước.
Đối với không khí
Phân bón trong quá trình bảo quản hoặc bón vãi trên bề mặt gây ô nhiễm không khí
do bị nhiệt làm bay hơi khí amoniac có mùi khai, là hợp chất độc hại cho động vật.
Mức độ gây ô nhiễm không khí trường hợp này nhỏ, hẹp không đáng kể so với
mức độ gây ô nhiễm của các nhà máy sản xuất phân đạm nếu như không xử lý triệt
để.
Như vậy gây ô nhiễm môi trường của phân bón trên diện rộng và lâu dài của phân
bó là việc xảy ra hàng ngày hàng giờ của vùng sản xuất nông nghiệp.
Đối với sự sinh trưởng phát triển của cây trồng:
Dư thừa lượng chất dinh dưỡng sẽ làm ảnh hưởng đến độ sinh trưởng và phát triển
của cây trồng, hiện tượng thân cây quá lớn,lá quá nhiều và một số bệnh khác.
Đối với năng suất và chất lượng sản phẩm: bị sụt giảm,chất lượng không đảm bảo.
Ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp,giảm lợi nhuận kinh tế,tốc độ phát triển
kinh tế bị ảnh hưởng.
Phân vô cơ có nhiều tác dụng, đó là yếu tố thật cần thiết cho thâm canh tăng năng suất,
thiếu phân vô cơ sẽ không thể cho năng suất cây trồng cao. Tuy nhiên, điều quan trọng
là phải sử dụng đúng kỹ thuật vì hầu hết các trường hợp gây ra hậu quả không tốt do
phân bón là do sử dụng không đúng kỹ thuật.
Vì thế hệ hôm nay và mai sau, vì sức khỏe và phồn vinh của loài người. Trong sản xuất
chúng ta phải nâng cao tinh thần trách nhiệm của người sản xuất đối với người tiêu
dùng. Không nên vì lợi ích trước mắt mà làm cho thien nhiên nghèo đi, môi trường sống
của cả cộng đồng bị ô nhiễm.



×