Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

đặc điểm giao tiếp của người dân phố cổ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 47 trang )

§¹i häc quèc gia Hµ Néi
Trêng §¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n
Khoa t©m lý häc

BÁO CÁO THỰC TẬP:
Đề tài: Đặc điểm giao tiếp của người dân phố cổ Hà Nội
Giáo viên hướng dẫn : TS Nguyễn Minh Hằng
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Miền
Lớp : K49 - TLH-TC

Hà Nội 06-2008
Mục lục
Mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Đối tượng nghiên cứu 3
6. Khách thể nghiên cứu 3
7. Phạm vi nghiên cứu 3
Nội dung 4
A. Cơ sở lý luận của đề tài 4
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 4
2. Khái niệm giao tiếp 7
1. 1. Các định nghĩa về giao tiếp 7
2. 2. Đặc trưng giao tiếp 8
2. 3. Các chức năng giao tiếp 1
2. 4. Các yếu tố tham gia vào quá trình giao tiếp 1
2. 5. Các vai trò xã hội trong giao tiếp 1
2. 6. Các kiểu hành vi trong giao tiếp 1
2. 7. Phân loại giao tiếp. 1


2. 8. Vai trò của giao tiếp 1
B. Nghiên cứu thực tiễn 1
1. Nhận thức tầm quan trọng của giao tiếp trong cuộc sống
hàng ngày
1
2. Mục đích giao tiếp 1
3. Đối tượng giao tiếp 2
4. Mức độ thân thiết và gần gũi của những người dân 2
5. Các kiểu hành vi ứng xử trong khi giao tiếp 2
6. Nội dung giao tiếp 3
7. Các loại giao tiếp 4
8. Hình thức giao tiếp 4
9. Các nhân tố ảnh hưởng. 4
Kết luận và kiến nghị 4
1. Kết luận 4
2. Kiến nghị 4
Tài liệu tham khảo 5
Phiếu trưng cầu ý kiến

2
3
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, cho dù sống trong
bất kỳ hoàn cảnh nào con người cuĩng phải tham gia vào các quan hệ xã
hội. Các mối quan hệ này được hình thành nhờ các mối quan hệ giao tiếp,
hay nói cách khác giao tiếp là điều kiện tất yếu không thể thiếu được
trong hoạt động của mỗi người.
Sống trong một xã hội, con người không chỉ có quan hệ với sự vật
hiện tượng bằng hoạt động có đối tượng mà còn có quan hệ giữa con

người với con người, giữa con người với xã hội, đó là quan hệ giao tiếp.
Nhu cầu giao tiếp được xem như là nhu cầu bẩm sinh của con người, con
người sinh ra và lớn lên luôn có nhu cầu quan hệ giao tiếp với mọi người,
với xã hội. Thông qua giao tiếp con người không chỉ nhận thức người
khác mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự so sánh và đối chiếu
mình với người khác, với chuẩn mực xã hội. Giao tiếp không chỉ là điều
kiện để con gnười tồn tại mà còn để con người hình thành và phát triển
nhân cách bản thân mình. Chính vì vậy mà có rất nhiều công trình nghiên
cứu về giao tiếp.
Hiện nay, vấn đề giao tiếp của người Hà Nội nói chung và đặc biệt
là của người dân phố cổ nói riêng đang là một trong những vấn đề rất
nhiều người đến tìm hiểu. Hà Nội là thủ đô, là trung tâm văn hóa chính trị
của cả nước. Hàng năm có một lượng khách du lịch trong nước và nước
ngoài dến thăm quan và tìm hiểu những nét đặc trưng văn hóa của Hà Nội.
Nói đến Hà Nội, là người ta thường nhớ đến phố cổ bởi nơi đây đã tập
hợp những nét văn hóa đặc trưng nhất của mảnh đất ngàn năm văn hiến.
Đó không chỉ là nơi diễn ra những hoạt động buôn bán tấp nập mà còn tạo
ra một bức tranh giao tiếp muôn màu sắc. Chính những nét nổi bật đó đã
thúc đẩy nhóm nghiên cứu chúng tôi thực hiện đề tài: “ Đặc điểm giao
tiếp của người dân phố cổ Hà Nội”. Họ đã giao tiếp với nhau như thế nào
4
để vẫn lưu giữ được nét đặc trưng văn hóa của mình cùng với cuộc sống
tấp nập của nền kinh tế thị trường ngày nay.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nhằm chỉ ra hiện trạng giao tiếp của người dân sống trong cùng một
ngõ xóm ở phố cổ
Đưa ra kiến nghị và giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại trong
giao tiếp thúc đẩy mối quan hệ giao tiếp tích cực giữa những người dân
với nhau góp phần xây dựng bầu không khí tập thể đoàn kết, vững mạnh.
3. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU:

- Người dân trong cùng một ngõ xóm ở phố cố có giao tiếp và mối
quan hệ rất tốt với nhau
- Đặc điểm giao tiếp của họ bị ảnh hưởng nhiều từ phong tục tập
quán văn hóa truyền thống gia đình
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
- nghiên cứu lý luận về giao tiếp: làm rõ các khái niệm và lý luận
về giao tiếp
- Chỉ ra thực trạng giao tiếp của nguời dân phố cổ thông qua
những tiêu chí sau:
+ Nhận thức về vai trò của giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày
+ Nội dung giao tiếp
+ Mục đích giao tiếp
+Phương pháp giao tiếp
+ Phương tiện giao tỉếp
+ Các mức độ than thiết trong giao tiếp
+ Các kiểu hành vi trong giao tiếp
+ Đối tượng giao tiếp
- Các yếu tố ảnh hưởng đến giao tiếp của người dân phố cổ
5. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Đặc điểm giao tiếp của người dân phố cổ
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
5
- khách thể nghiên cứu: 150 ngươi dân phố cổ từ 18 tuổi trở lên
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu mối quan hệ giữa những người
dân sống trong cùng một khu xóm ngõ
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tìm hiểu các vấn đề lý luận liên
quan đến nội dung nghiên cứu đã được thực hiện dựa vào các sách chuyên
ngành, báo, tạp chí và các tài liệu có lien quan. Trên cơ sở kế thừa một
cách có chọn lọc.

- Phương pháp nghiên cứu bằng điều tra bảng hỏi: nhằm tìm hiểu
thực trạng giao tiếp của người dân phố cổ ở Hà Nội.
6
NỘI DUNG
A. CỞ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:
Giao tiếp là một khái niệm khoa học được các nhà nghiên cứu quan
tâm chú ý và tập trung nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn trong nhiều
lĩnh vực khoa học khác nhau.
Trước thế kỷ XIX giao tiếp chưa được nghiên cứu sâu dưới góc độ
tâm lý học, nó chỉ được một số nhà triết học nhắc đến như là một sự phản
ánh mối quan hệ giữa con người với con người. Sang thế kỷ thứ XIX giao
tiếp được đánh giá như là một vấn đề quan trọng đặc biệt trong sự hình
thành và phát triển nhân cách của cá nhân trong xã hội.
C. Mac và Ph. Ăngghen đã nghiên cứu giao tiếp như là một điều
kiện để biến con người sinh học thành con người xã hội. C. Mac đã nhấn
mạnh đến vai trò của giao tiếp: Sự phát triển của một cá thể được quy
định bởi sự phát triển của các cá thể khác, mà nó giao tiếp trực tiếp hay
gián tiếp. Ông còn nhấn mạnh thêm rằng : thông qua giao tiếp với người
khác mà con người có thái độ với bản thân mình, coi người khác và giao
tiếp với người khác là chiếc gương để mỗi người tự soi mình.
Trong lịch sử phát triển các quan điểm về giao tiếp nửa đầu thế kỷ
XX này không ai không thể nhắc tới vai trò của các nhà tâm lý học Đức.
C. Giatspe( 1883-1969) đã đưa ra thuyết “ giao tiếp hiện sinh” cho
rằng: “ con người phải có sự giao tiép liên tục hàng ngày, giao tiếp là điều
kiện tổng quát của sự tồn tại của con người với con người”. Giao tiếp hiện
sinh là cuộc trò chuyện giữa những người gần gũi về các vấn đề quan
trọng đối với họ.
M. Bubơ (1878-1965); “ tồn tại là sự đối thoại hay tiếp xúc giữa các
nhân cách. Con người chỉ tồn tại khi có đối thoại trực tiếp hay gián tiếp

với những người khác”
Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, ở Liên Xô cũ xuất hiện một số
bài báo về giao tiếp giới thiệu ở 3 hội nghị tâm lý học về giao tiếp đã
7
được tổ chức vào tháng 3 năm 1970; thang 3 - 1973; thang 5 -1973. Tại
các hội nghị này các nhà nghiên cứu đã được đề cập đến những vấn đề
sau:
- Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu giao tiếp
- Các phương pháp và công cụ nghiên cứu giao tiếp
- Cơ chế giao tiếp
- Giao tiếp trong quàn chúng
- Ảnh hưởng của những đặc điểm cá nhân trong quá trình giao tiếp
- Mô hình hóa quá trình giao tiếp
Bên cạnh đó còn có hàng loạt các công trình nghiên cứu khác:
- A. N. Leonchiep với tác phẩm “tâm lý học giao tiếp”(1974); “giao
tiếp sư phạm”(1979)
- Xacophin “về bản chất giao tiếp của con người”(1973)
- I. L. Kôlôminxki với tác phẩm “ tâm lý và mối quan hệ qua lại
trong nhóm nhỏ”(1976)
……
Ở phương tây, cũng có các nghiên cứu về giao tiếp của Ghighione
năm 1981, 1983, 1986. Của BeauVour (1981) và Trognon (1986), những
nghiên cứu này đã chỉ ra rằng: sự phân tích về giao tiếp được thực hiện
theo một phương pháp gọi là “ phân tích mệnh đề ngôn ngữ” bằng lý luận
về giao tiếp. Ghighione (1986) đã phân tích mối quan hệ của chủ thể giao
tiếp và đối tượng giao tiếp xuất phát từ quan hệ chiếm hữu.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về giao tiếp mới chỉ được
tiến hành từ cuối những năm 70 trở lại đây.
Một số bài lý luận như: “ C. Mac và phạm trù giao tiếp” của Đỗ
Long (1963); “Bàn về phạm trù giao tiếp” của Bùi Văn Huệ (1981); các

tác phẩm của giáo sư Trần Trọng Thủy:
“Giao tiếp, tâm lý nghiên cứu” (1981); “giao tiếp và sự phát triển
nhân cách của trẻ” (1981) và “ Đặc điê, r giao tiếp của sinh viên sư phạm”
của PTS Nguyễn Thạc và PTS Hoành Anh (1991)
8
Đến năm 1992 vụ giá viên xuất bản cuốn “ Một số vấn đề tâm lý
học về giao tiếp”; “ khoa học giao tiếp ” của Trần Tuấn Lộ; “Khoa học
giao tiếp” của Nguyễn Ngọc Lâm.
Bên cạnh đó còn có một số luận văn, khóa luận về giao tiếp như:
“ kỹ năng giao tiếp sự phạm của sinh viên trường cao đẳng sư phạm
lạng sơn”(1999) – luận án thạc sĩ Ngô Thị Nai; “ Giao tiếp của nữ giảng
viên có uy tín với sinh viên” – luận văn tốt nghiệp của Phạm Thu Uyên
(2000); “ tìm hiểu giao tiép của người cao tuổi quận Thanh Xuân Hà Nội”
– lúận văn tốt nghiệp của Nguyễn Thị Huế (1996)….
2. KHÁI NIỆM NGHIÊN CỨU.
Các định nghĩa về giao tiếp.
Sau đây chúng tôi xin đề cập tới một số định nghĩa đặc trưng cơ bản
của giao tiếp.
B. B. Parưgin định nghĩa : “ giao tiếp là một quá trình tác động
giữa các cá thể, là quá trình thông tin quan hệ giữa con người là quá trình
hiểu biết lẫn nhau và trao đổi cảm xúc”
X. L. Rubinstein cho rằng: “ Giao tiếp là hình thức tiếp xúc con
người với nhau”
A. L. Kôlôminxki đã khẳng định rằng : “ giao tiếp là sự tác động
qua lại và thông tin giữa những con nguwoif trong quá trình tác dộng qua
lại đó quan hệ liên nhân cách được thực hiện, bộc lộ và hình thành”
Trong cuốn “ tâm lý học sức khỏe” định nghĩa: “ giao tiếp là một
hiện tượng tâm lý, xã hội. tồn tại dựa trên mối quan hệ giữa con người với
con người là một dạng hoạt động đặc thù của con người. Thông qua giao
tiếp bàng ngôn ngữ và các cử chỉ phi ngôn ngữ, cùng với sự trợ giúp của

các phương tiện khác, con người trao đổi thông tin, nhận thức và tác động
qua lại lẫn nhau nhằm đạt được mục đích nhất định”
Trong cuốn “ nhập môn khoa học giao tiếp” của Trần Trọng thủy :
“Giao tiếp của con người là một quá trình có chủ dịnh hay không chủ định
9
có ý thức hay không có ý thức mà trong đó các cảm xúc, tư tưởng được
biểu đạt trong các thông điệp bằng ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ”
Chúng ta rút ra định nghĩa chung về giao tiếp như sau:
Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa hai hoặc nhiều người với nhau
nhằm trao đổi thông tin, tình cảm, tri giác và ảnh hưởng lẫn nhau, thông
qua các công cụ phương tiện, diễn ra trong tình huống cụ thể, nhằm thực
hiện mục đích nhât định
Đặc trưng giao tiếp
Theo Nguyễn Thạc – Hoàng Anh giao tiếp có những đặc trưng sau:
Giao tiếp là hoạt động đặc thù của con người chỉ riêng con người mới
cónó thực hiện với nhau tạo ảnh hưởng lẫn nhau. Đây là một hoạt động
kép.
V. N. Panphêrop: “ giao tiếp là sự tác động qua lại giữa con
nguwoif với con người có nội dung và sự nhận thức và trao đổi thông tin
với sự giúp đỡ cửa các phương tiện khác nhau nhằm mục đích thông báo
và xây dựng mối quan hệ có lợi cho sự hoạt động của con người”
X. M. Côcơnhin: “ giao tiếp như là một sự tồn tại có thực của các
quan hệ xã hội mà các cá nhân tham gia vào. Nó như là mặt ngoài, mặt
hiện thực của các mối quan hệ đó”
Ka-gun: “ hiểu giao tiếp là sự tác động qua lại giữa chủ thể với
nhau, sự tác động này hết sức phức tạp, luôn mang tính tích hợp chẳng
những tích hợp về mặt hình thức biểu hiện mà còn tích hợp cả về mặt nội
dung”
Ở Việt Nam khái niệm giao tiếp cũng đã được nhiều tác giả đề cập
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện: “ giao tiếp là sự trao đổi giữa người với

người thông qua ngôn ngữ nói, viết cử chỉ điệu bộ”.
GS. Phạm Minh Hạc khẳng định: “ Giao tiếp là hoạt động xác lập và
vận hành các mối quan hệ giữa con người với con người để hiện thực hóa
các mối quan hệ của con người với nhau”.
10
SGK tâm lý học đại cương định nghĩa: “ giao tiếp là sự tiếp xúc tâm
lý giữa người với người thông qua đó con người với nhau về chủ thể và
khachs thể. Con người trong giao tiếp vừa là chủ thể vừa là khách thể của
giao tiếp”
- Giao tiếp được con người ý thức dựa trên nền tảng của nhận thức
và sự hiểu biết lẫn nhau
- Giao tiếp được thực hiện thông qua sự tiếp xúc có mục đích có nội
dung nhằm trao đổi thông tin tư tưởng tính chất thế giới nhân sinh quan
của con người
- Giao tiếp sử dụng những phương tiện nhât định và diễn ra trong
những hoàn cảnh cụ thể.
Trong cuốn “ giáo trình tâm lý học xã hội” của PGS Trần Thị Minh
Đức đã đưa ra đặc trưng cơ bản của giao tiếp như sau:
Thứ nhất, giao tiếp là một quan hệ xã hội mang tính chát xã hội,
quan hệ xã hội của giao tiếp dược thể hiẹn thông qua sự trao đổi giữa con
người với nhau tạo ra các giá trị chuẩn mực điều khiển diều chỉnh hành vi
của con người
Thứ hai, tính chủ thể của giao tiếp tức là quá trùnh giao tiép dược
thực hiện bởi một cá nhân cụ thể. Con người trong giao tiếp là chủ thể của
quá trình giao tiếp. mức độ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chủ thể giao tiếp
và hiệu quả giao tiếp phụ thuộc rất nhiều vào vị trí xã hội, tính cách, uy
tín, giới tính cũng như các mối quan hệ tương quan.
Thứ ba, qua quá trình giao tiếp con người trao đổi các kiến thức, sự
hiểu biết lẫn nhau.
Thứ tư, thông qua giao tiép con người tiếp thu được kinh nghiệm cá

nhan cũng như kinh nghịêm lịch sử loài người.
Thứ năm, giao tiếp xã hội là sự lan truyền lây lan các cảm xúc tâm
trạng.
2. 3. Các chức năng giao tiếp
* Chức năng thông tin liên lạc
11
Chức năng này bao quát tất cả các quá trình truyền và nhận thông
tin. Hiệu quả của quá trình trao đổi thông tin phụ thuộc cả vào người
nhận. Những khác biệt về ngôn ngữ, trình độ nghề nghiệp, vốn hiểu biết
và định hướng giá trị sẽ làm cho quá trình trao đổi thông tin gặp ách tắc
cản trở. Trong quá trình giao tiếp không có sự phân cực giữa người phát
và người nhận thông tin, luôn đổi vai trò cho nhau, tạo nên sự tác động
ngược lại, hoặc sự liên hệ ngược. Thành công của giao tiếp phụ thuộc vào
hiểu biết bản thân mình và hiểu biết người khác trong quá trình này sự
kích thích lẫn nhau và điều chỉnh lẫn nhau được thực hiện
* Chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi
Chức năng này chỉ có ở con người với sự tham gia của quá trình
nhận thức, cuả ý chí và tình cảm.
Chức năng điều khiển điều chỉnh hành vi trong giao tiếp thể hiện
khả năng thích nghi lẫn nhau, khả năng nhận thức và đánh giá lẫn nhau
của các chủ thể giao tiếp, ngoài ra nó còn thể hiện tính linh hoạt, mềm
dẻo của các phẩm chất tâm lý cá nhân trong giao tiếp, thể hiện vai trò tích
cực của chủ thể giao tiểptong quan hệ giao tiếp
* Chức năng kích động liên lạc
Chức năng này liên quan đến lĩnh vực cảm xúc của con người trong
quá trình giao tiếp con người không chỉ truyền thông tin cho nhau hay có
tính điều chỉnh lẫn nhau mà còn là yếu tố quan trọng xác định trạn thái
cảm xúc của con người
2. 4. Các yếu tố tham gia vào quá trình giao tiếp
Nhà nghiên cứu truyền thông Larwell đã đưa ra một số yếu tố cần

quan tâm khi truyền đạt thông tin
* Ai? ( chủ thể giao tiếp):
Đây là người tham gia vào quá trình giao tiếp. Chủ thể giao tiép với
các đặc điểm cá nhân như tri thức và trình độ hiểu biết, các đặc điểm
ngoại hình, tâm lý và xã hội tham gia vào các quá trình giao tiếp. Quá
12
trình giao tiếp còn phụ thuộc khá nhiều vào cách mà chủ thể nhìn nhận
đánh giá vấn đề hay đánh giá bản thân.
*Nói gì? ( nội dung và mục đích giao tiếp).
Nội dung của giao tiếp luôn được xác định từ trước trên cơ sở
những mục tiêu cụ thể mà chủ thể muốn đạt tới. Mục đích giao tiếp
thường nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó: Nhu cầu trao đổi thông tin,
nhu cầu chia sẻ tình cảm, nhu cẩu giải trí, nhu cầu khẳng định bản thân
trứoc người khác.
*Với ai?( đối tượng giao tiếp):
Hiệu quả giao tiếp không chỉ phụ thuộc vào người nói mà còn phụ
thuộc vào người nghe. Nhiều khi đối tượng giao tiếp, tiếp nhận thông tin
khác xa so với những gì mà chủ thể truyền đạt. Sự khác nhau này phụ
thuộc vào những đặc điểm cá nhân riêng của họ: trình độ học vấn, nghề
nghiệp, tuổi tác, giới tinh, quan điểm sống, nhu cầu động cơ cá nhân… do
vậy, để giao tiếp thành công chủ thể giao tiếp cần tìm hiểu đối tượng giao
tiếp của mình thông qua việc quan sát đối tượng, nắm bắt sự đáp ứng của
họ và điều chỉnh kịp thời cho phù hợp.
*Bằng cách nào?( các phương tiện giao tiếp)
Được thực hiện thông qua hệ thông tín hiệu ngôn ngữ, tiếng nói,
chữ viết, ký hiệu và giao tiếp phi ngôn ngữ
*Hoàn cảnh giao tiếp
Phụ thuộc địa điểm, thời gian trong quá trình giao tiếp được thực
hiện
*tâm trạng của người được giao tiếp

Tâm trạng của chủ thể giao tiếp ảnh hưởng đến thái độ, quan điểm.
cách nhìn nhận vấn đề, phong cách ứng xử và xu hướng nhận định, đánh
giá vấn đề của họ.
*Lây truyền cảm xúc.
13
Sự lây truyền cảm xúc có thể làm cho quá trình giao tiếp có hiệu
quả khác nhau, chủ thể có xu ướng truỳen cảm xúc, tâm trạng hoặc tích
cực hoặc tiêu cực cho đối tượng giao tiếp và ngược lại
2. 5. Các vai xã hội trong giao tiếp.
Trong vấn đề giao tiếp cua Nguyễn Hiến Lê, đưa ra hai kiểu phân
loại các vai:
Theo kiểu thứ nhất: tác giả phân biệt ba loại vai:
- Vai thường xuyên: được đặc trưng bởi lứa tuổi, nghề nghiệp
- Vai lâm thời – thể chể: như giáo viên – học sinh, thủ trưởng nhân
viên, cha mẹ - con cái, vợ - chồng
- Vai lâm thời – tình huống: giữa người mua với người bán, giữa hai
ngườiva chạm xe trên đường…
Theo cách thứ hai: tác giả phân biệt:
- Vai người nói ngang hàng với người nghe
- Vai người nói cao hơn người nghe
- Vai người nới thấp hơn người nghe
2. 6. Các kiểu hành vi trong giao tiếp.
+ Hành vi thụ động:
Đây là biểu hiện củ anhững người luôn luôn thụ động, họ luôn hành
động theo ý người khác, không dám nói ý kiến riêng của mình vì sợ làm
mất lòng người khác, họ tự phủ dịnh mình, chờ ngừoi khác quyết định
thay cho bản thân
+ Hành vi lấn át gián tiếp:
Khi giao tiếp cá nhân không dám phát biểu khẳng định ý kiến của
mình, mà giả với đồng tình với người giao tiếp, bề ngoài cá nhân khong

trực tiếp phẩn đối ý kiên của đối tác mà họ hi vọng đối tác sẽ ngầm hiểu
mình.
+ Hành vi lấn át:
Những người luôn luôn áp đặt, ra lệnh cho người khác thích tham
gia và quyết định mọi chuyện cho người khác. Họ luôn muốn thắng thế
14
trong các cuộc tranh luận, giành mọi phần lợi về mình thậm chí có những
lời nói xúc phạm đến người khác.
+ Hành vi tự khẳng định mình:
Là hành vi của những người tự trọng, biết bảo vệ quyền lợi và ý
kiến riêng của mình trong sự tôn trọng và không xúc phạm người khác.
Họ diễn đạt nhu cầu ước muốn của mình nhưng không làm hại đến những
điều đó của người khác
2. 7. Phân loại giao tiếp.
a. Căn cứ vào tính chất trực tiếp hay gián tiếp của quá trình giao
tiếp:
* Giao tiép trực tiếp: là sự tiép xúc trao đổi giữa các chủ thể giao
tiếp, được thực hiện trong cùng một khoảng thời gian và không gian nhất
định. Giao tiếp trực tiếp còn được gọi là đàm thoại
* Giao tiếp gián tiếp: là loại giao tiép được thực hiện thông các
phương tiẹn trung gian như: điện thoại, thư tín, sách báo, tivi…
b. Căn cứ vào mục đích của giao tiếp:
* Giao tiếp chính thức: là giao tiép giữa các cá nhân đại diện cho
nhóm, hoặc giữa các nhóm mang tính hình thức được thực hiện theo các
nghi lễ nhất định, đựoc quy định bởi các chuẩn mực xã hội hay pháp luật
Trong các giao tiếp chính thức nội dung giao tiếp thường rõ ràng,
khúc triết, ngôn ngữ đóng vai tro chủ đạo.
* Giao tiếp không chính thức: Là giao tiếp không mang tính hình
thức, Không có sự quy định về nghi lễ, đó là giao tiếp giữa cá nhân và
nhóm mang tính chất cá nhân, khôgn đại diện cho ai cả

c. Căn cứ vào đối tượng giao tiếp:
* Giao tiếp theo số lượng người tham gia:
- Giao tiếp sóng đôi: là giao tiếp trong đó đối tượng và chủ thể là
hai cá nhân tiếp xúc với nhau, là hình thức giao tiếp cơ bản đầu tiên và
phổ biến hơn cả trong các hình thức giao tiếp
15
- Giao tiếp nhóm: là giao tiếp giữa cá nhân với nhóm hoặc giữa các
thành viên trong nhóm và ngoài nhóm với nhau. Đây là kiểu giao tiếp đại
trà
* Giao tiếp mang tính chất nghề nghiệp:
Các nghề khác nhau cũng quy định các hình thức giao tiếp khác
nhau, có bao nhiêu nghề đặc trưng thì có bấy nhiêu hình thức giao tiếp.
2. 8. vai trò của giao tiếp.
Giao tiếp giữ vai trò đặc biệt qua trọng đảm bảo việc định hướng
cho sự tác động và tham gia vào quá trình thực hiện kiểm tra hoạt dộng
của con người. Giao tiếp như chiếc cầu nối tinh thần làm cho con người
xích lại gần nhau hơn, giúp con người trao đổi thông tin và kinh nghiệm,
giúp con người tự nhận thức về mình qua người khác để từ đó phát triển
hơn về mặt nhân cách. Giao tiếp là nhu cầu không thể thiếu của con
người.
Giao tiếp nhằm hình thành, phát triển và vận hành các mối quan hệ
người người, giao tiếp đặc trưng cho tâm lý người.
Giao tiếp đóng vai trò quan trọng trong viẹc hình thành và phát triển
con người. qua giao tiếp con người hình thành nên những mối quan hệ xã
hội, sự phong phú cac mối quan hệ xã hội sẽ làm phong phú cho đời sống
nhân cách của cá nhân. Những nét đặc trưng tâm lý của con người đều
được hình thành và phát triển thông qua giao tiếp. Bằng tấm gương giao
tiếp chủ thể tự điều chỉnh chính mình cho phù hợp với chuẩn mực xã hội,
giao tiếp là cơ chế bên trong cho sự tồn tại và phát triển của mỗi người.
Nhờ giao tiếp con người có những thông tin về bản thân và về những

nguwoif khác, từ đó họ có thể so sánh đối chiếu để tự đánh giá bản thân
mình. Nói cách khác, qua giao tiếp con người biết được giá trị xã hội của
nguwoif khác, của bản thân tạo cơ sở cho quá trình giao dục và tự giao
dục bản thân chủ thể giao tiếp
B. Nghiên cứu thực tiễn
16
1. Nhận thức tầm quan trọng của giao tiếp trong cuộc sống hàng
ngày.
Để tìm hiểu nhận thức tầm quan trọng của giao tiếp trong cuộc sống
của chính người dân phố cổ chúng tôi đã đưa ra câu hỏi tục ngữ có câu:
“Bán anh em xa, mua láng giềng gần”, theo ông (bà) điều này có đúng
không? (câu 1).
Kết quả thu được là:
STT Phương án n %
1 Rất đúng 49 32, 67
2 Đúng 94 62, 67
3 Không đúng 7 4, 66
Qua bảng số liệu chúng tôi thấy phần lớn người dân chọn phương án
2 chiếm tỷ lệ cao nhất có 94 người (62, 67%). Điều đó chứng tỏ người dân
nhận thấy được vai trò của những người hàng xóm mình. Họ cho rằng
những người hàng xòm là những người thường xuyên tiếp xúc qua lại, có
thể giúp đỡ họ những lúc khó khăn hoạn nạn một cách kịp thời nhất, như
ca dao xưa cũng từng nói “tối lửa tắt đèn có nhau”. Nhưng bên cạnh đó lại
có một người không đồng tình với quan điểm đó, có 7 người (4, 66%). Vì
họ cho rằng với cuộc sống thực tại ngày nay thì con người thay đổi rất
nhiều, mọi người sống không có tình người nữa, thờ ơ, biệt lập nhau, sống
theo quan niệm nhà nào nhà nấy lo, chẳng đoái hoài đến hàng xóm láng
giềng cả, thời đại của đồng tiền đã làm mất đi hết tình cảm của con người,
họ thường chạy theo đồng tiền mà quên hết những nhiệm vụ và trách
nhiệm của mình. Điều đó chứng tỏ trong họ đã mất hết niềm tin vào

những người hàng xóm của mình.
Dường như câu tục ngữ đó chỉ đúng cho trước kia, mọi người đề cao
tình cảm của con người. Ngày nay thì họ đã quên đi điều đó lúc nào
không ai hay.
2. Mục đích giao tiếp:
17
Hoạt động nào cũng có mục đích của nó, mục đích là cái mà chúng
ta hướng tới, khi chúng tôi đưa ra câu hỏi nhằm tìm hiểu mục đích giao
tiếp của người dân “xin ông (bà) cho biết mức độ quan trọng của những
nội dung sau, bằng việc giao tiếp với những người hàng xóm xung quanh”
thì có được bảng số liệu sau:
STT Nội dung
Mức độ
Quan
trọng
Bình
thường
Không
quan
trọng
ĐTB
X.
h
n % n % n %
1
Trao đổi
thông tin
64
42,
67

76
50,
67
10 6, 66
2,
35
5
2
Giúp đỡ đùm
bọc lẫn nhau
khi gặp khó
khăn
113
75,
33
34
22,
67
6 4
2,
75
5
3
Hiểu biết lẫn
nhau
84 56 62
41,
33
4 2, 67
2,

53
3
4
Tạo sự thoải
mái, vui vẻ
trong cuộc
sống
105 70 43
28,
67
2 1, 33
2,
42
4
5
Tạo mối quan
hệ cần thiết
69 46 75 50 6 4
2,
69
2
Qua bảng số liệu, chúng tôi thấy rằng:
Mục đích “giúp đỡ đùm bọc lẫn nhau khi gặp khó khăn” có tỷ lệ lựa
chọn cao nhất: 113 người (75, 33%) cho rằng đó là mục đích quan trọng
nhất. Đây cũng là mục đích rất đúng đắn, chứng tỏ họ nhận thấy sự cần
thiết của những hàng xóm và họ hiểu rằng cuộc sống của con người không
phải lúc nào cũng như mong muốn, điều quan trọng nhất của con người là
lúc khó khăn hoạn nạn được sự giúp đỡ đùm bọc chia sẻ của hàng xóm.
18
Nhưng trên thực tế thì muốn người khác giúp đỡ mình đùm bọc chia sẻ

với mình thì trước hết mình phải làm những việc đó trước.
Mục đích “tạo sự thoải mái, vui vẻ trong cuộc sống” đứng vị trí thứ
2 có 105 người (70%) cho rằng đây là mục đích quan trọng. Cuộc sống
chỉ thấy đẹp khi con người cảm thấy thoải mái vui vẻ. Đây là ước mơ của
nhiều người, không chỉ riêng ai, khi tâm hồn được thoải mái thì họ yêu
cuộc sống thế gian này hơn, quý trọng thời gian, không phải tự mình có
thể làm được mà cần rất nhiều yếu tố chi phối, đặc biệt là giao tiếp.
Mục đích “hiểu biết lẫn nhau” có 84 người (56%) cho là rất quan
trọng. Chúng ta cho rằng đây là một mục đích đáng quý, giao tiếp để hiểu
biết lẫn nhau, khi hiểu nhau chúng ta sẽ sống với nhau tốt hơn.
- Mục đích “tạo ra mối quan hệ cần thiết” có 69 người (46%) cho
rằng là quan trọng. Tạo lập được một mối quan hệ cần thiết không phải là
dễ, đó là cả một vấn đề, khi tạo lập được rồi thì rất tốt cho cuộc sống.
Mục đích “trao đổi thông tin” có 64 người (42, 67%) cho là quan
trọng, đây là mục đích mà ít người lựa chọn nhất, điều đó chứng tỏ rằng
người dân cũng ý thức được có những thông tin mình không biết, thông
qua giao tiếp với những người xung quanh họ có thể biết.
Để thấy rõ sự sắp xếp vị trí của các mục đích này ta xem xét biểu đồ
sau, với quy ước điểm trung bình: quan trọng 3 điểm; bình thường 2 điểm,
không bình thường 1 điểm.
Biểu đồ: Mục đích giao tiếp của người dân phố cổ (tính theo điều
trung bình).
19
C¸c môc ®Ých
§iÓm trung b×nh
2,
69
3
2
1

0 1 2 3 4 5
2,
36
2,
75
2,
53
2,
42
Chú giải

:
1. Giao tiếp để trao đổi thông tin
2. Giao tiếp để giúp đỡ những khó khăn
3. Hiểu biết lẫn nhau
4. Tạo mối quan hệ thân thiết
5. Tạo sự thoải mái vui vẻ trong cuộc sống.
Qua biểu đồ nhận thấy mục đích giao tiếp để giúp đỡ, đùm bọc lẫn
nhau khi khó khăn có tỷ lệ lựa chọn cao nhất với điểm trung bình 2, 75.
Chúng tôi cho rằng sở dĩ đây là mục đích cao nhất của người dân phố cổ
vì phần lớn họ cảm nhận thấy trong cuộc sống không bao giờ êm đẹp như
mình nghĩ, mà có rất nhiều lúc trắc trở khó khăn cần phải có sự giúp đỡ
đùm bọc của những người xung quanh, điều đó là rất cần thiết.
Mục đích giao tiếp để “trao đổi thông tin” có điểm trung bình thấp
nhất 2, 36. Chúng tôi cho rằng mục đích này ở vị trí thấp nhất là vì người
dân hiện nay chỉ một số người có tư tưởng mối giao tiếp để trao đổi thông
tin, phần lớn họ có những mục đích lớn hơn, đem lại những lợi ích cho
bản thân nhiều hơn. Liên hệ với mục đích “tạo mối quan hệ cần thiết” ở vị
trí thứ hai 2, 69 điểm. Đây là hai mục đích khỏc nhau về bản chất nhưng
lại chung nhau về tìm hiểu xem người đó có thể tin cậy được không.

3. Đối tượng giao tiếp.
20
Để tìm hiểu đối tượng giao tiếp của người dân, chúng tôi đã đưa ra
câu hỏi “xin ông (bà) cho biết những người mà ông (bà) muốn giao tiếp
là” (câu 20) kết quả thu được là.
S
TT
đối tượng giao tiếp n %
1 Tôi muốn giao tiếp với tất cả mọi người 1
14
7
6
2 Tôi chỉ muốn giao tiếp với những người
mang lại lợi ích cho bản thân tôi
2
0
1
3, 3
3 Tôi rất hạn chế giao tiếp với mọi người 1
6
1
0, 7
Qua bảng số liệu chúng ta thấy:
Phần lớn mọi người được hỏi thì đều trả lời họ muốn giao tiếp với
mọi người. Điều đó chúng tỏ họ muốn giao tiếp với tất cả mopị người bất
kể người đó như thế nào, người đó có thiện cảm hay không có thiện cảm.
Có 20 người (13, 3%) lại cho rằng họ chỉ muốn giao tiếp vói những
người mang lại lợi ích cho bản thân họ. Điều đó chứng tỏ họ chỉ muốn
giao tiếp với những người có chức có quyền trong xã hội để được hưởng
hoa hồng từ phía họ. Với thực tại hiện nay vấn đề này đang có chiều

hướng ra tăng, cần phải có những suy nghĩ đúng đắn hơn.
Có 16 người (10, 7%) cho rằng họ rất hạn chế giao tiếp với mọi
người. Điều này cũng rất đúng với những người phố cổ nói riêng và người
dân Hà Nội nói chung. Họ rất ít tiếp xúc với những người xung quanh của
mình, họ chỉ giao tiếp khi cần thiết, ngoài ra họ thường ở trong nhà làm
những việc riêng.
4. Mức độ thân thiết và gần gũi của những người dân.
Khi chúng tôi đặt ra câu hỏi nhằm tìm hiểu về mức độ thân thiết và
gần gũi của những người dân sống cùng ngõ xóm “xin ông (bà) cho biết
khi tiếp xúc với những người xung quanh ông (bà) cảm thấy như thế nào?
(câu 11). kết quả thu được:
21
S
TT
Múc độ n %
1 Tôi cảm thấy thoải mái với tất cả mọi
người
3
9
2
6
2 Tôi chỉ cảm thấy thoải mái với một số
người
1
11
7
4
3 Tôi không cảm thấy thoải mái với bất kỳ
ai
0 0

Qua bảng số liệu chúng ta thấy rằng chiếm tỷ lệ phần trăm cao nhất
thuộc về ý kiến cho rằng “tôi chỉ cảm thấy thoải mái với một số người” là
74%. Điều đó chứng tỏ rằng mức độ thân thiết, gần gũi của những người
dân sống cùng ngõ xóm hầu như là rất ít. Nếu như họ nói rằng chỉ cảm
thấy thoải mái với một số người thì đây có thể là những người họ hàng
thân quen, những người họ có thiện cảm, những người bạn bè hay hàng
xóm thân thiết, còn ngoài ra họ không quan tâm đến những người khác.
Đây là một thực trạng thường xuyên xảy ra đối với người dân phố cổ nói
riêng và người dân Hà Nội nói chung. Thông thường họ sống theo kiểu
“đèn nhà ai nhà ấy rạng” lạnh lùng và vô cảm đối với cuộc sống của
những người mà họ cảm thấy không cần thiết phải biết đến. Chính vì điều
này đã làm cho tính cố kết cộng đồng ngày càng giảm đi.
Có 39 người chiếm 26% lại đưa ra ý kiến rằng họ cảm thấy thoải
mái với tất cả mọi người. Nhưng số lượng những người đó là không
nhiều. Những người này thường rất thích giao tiếp với tất cả mọi người.
Trong số những người được hỏi thì không người nào chọn ý kiến
“tôi không cảm thấy thoải mái với bất kỳ ai. Như vậy hầu như người nào
cũng có những người bạn thân thiết của riêng mình. Để thấy rõ sự tương
quan giữa đối tượng giao tiếp và mức độ thân thiết của người dân, chúng
ta cũng đi xem xét biểu đồ sau:
22
76
74
80
Biểu đồ so sánh câu 11 và câu 20
Đối tượng giao tiếp
Mức độ thân thiện
Chú giải

:

1. Tôi muốn giao tiếp với tất cả mọi người
- Tôi cảm thấy thoải mái với tất cả mọi người.
2. Tôi chỉ muốn giao tiếp với những người mang lại lợi ích cho bản
thân tôi.
- Tôi chỉ cảm thấy thoải mái với một số người.
3. Tôi rất hạn chế giao tiếp với tất cả mọi người.
- Tôi không cảm thấy thoải mái với bất kỳ ai.
Qua đó chúng ta có thể thấy mức độ tương quan quan giữa đối
tượng giao tiếp với mức độ thân thiết.
Trong số 150 người được hỏi có 16 người (10, 7%) cho rằng tôi rất
hạn chế giao tiếp với tất cả mọi người” (câu 20) nhưng sau đó chúng tôi
lại kiểm tra lại với câu hỏi 14 thì họ cho rằng “tôi không cảm thấy thoải
mái với bất kỳ ai”. Như vậy chứng tỏ rằng họ rất ít giao tiếp với những
người xung quanh mình.
Từ biểu đồ chúng ta cũng thấy rõ có sự chênh lệch giữa lời nói và
việc làm của họ.
Có 114 người (76%) cho rằng họ muốn giao tiếp với tất cả mọi
người, Nhưng khi hỏi mức độ thiện cảm thì lại chỉ có 39 người (26%) cho
23
10,
20
0 1 2 3
26
40
60
13,
rằng tôi cảm thấy thoải mái với tất cả mọi người. Như vậy giữa lời nói
của họ và việc làm của họ có sự chênh lệch khá rõ một mặt là thích giao
tiếp với tất cả mọi người, mặt khác lại chỉ cảm thấy thoải mái với một số
ít người, điều đó có nghĩa muốn giao tiếp với tất cả mọi người nhưng mức

độ thiện cảm lại tùy từng trường hợp cụ thể.
Tương quan giữa đối tượng giao tiếp và mức độ thiện cảm gần gũi.
Có 13, 3% người dân cho rằng “tôi chỉ muốn giao tiếp với những người
mang lại lợi ích cho bản thân tôi” và có tới 74% người dân lại cho “tôi chỉ
cảm thấy thoải mái với một số người”. Như vậy ở đây họ chỉ cảm thấy
thoải mái với những người mang lại lợi ích cho bản thân họ thì họ giao
tiếp. Điều đó cũng rất đúng khi mà nền kinh tế thị trường đang phát triển
cuộc sống không còn bình yên nữa mà họ phải hoạt động rất nhiều để đảm
bảo sự tồn tại, chính vì vậy mà họ quên đi tất cả những tình cảm tinh thần
của làng xóm láng giềng, đồng tiền đã đảo lộn cuộc sống của con người.
Để tìm hiểu thêm mối quan hệ giữa những người dân với nhau như
thế nào, chúng tôi đưa ra câu hỏi: “Ông (bà) đánh giá như thế nào về mối
quan hệ của mình với những người xung quanh” (câu 12).
24
Kết quả thu được là:
STT Đánh giá n %
1 Rất tốt với tất cả mọi người 53 34
2 Chi tốt với một số người 99 66
3 Thường xuyên căng thẳng xung đột với tất cả
mọi người
0 0
Qua bảng số liệu cho chúng ta thấy phần lớn mọi người cho rằng họ
chỉ tốt với một số người, có tới 99 người chiếm 66%. Chúng tỏ không
phải người nào cũng tốt được mà có sự chọn lọc, họ cho rằng chỉ có thể
tốt những người mình có thiện cảm, những người tốt với họ còn ngoài ra
họ không tốt với ai cả, điều đó là một suy nghĩ hoàn toàn sai lầm, trên đời
này không phải mình tốt với người ta mà người ta tốt lại ngay được, mà
có sự gián tiếp của người khác, lúc này có người này giúp lúc giúp, lúc
khác lại có người khác giúp, chính những suy nghĩ đó đã làm mất dần tính
đoàn kết của con người, mọi người giao tiếp với nhau theo nhóm, theo đối

tượng, theo sở thích. Dường như nó đang ngày càng phát triển theo chiều
hướng đó.
Chính trong suy nghĩ của họ tin rằng mình tốt với một số người cho
nên cũng nghĩ rằng chí có một số người tốt lại mà thôi. Đó là quy luật “có
đi có lại mới toại lòng nhau”. Mình cho cái gì thì nhận lại cái đó, ít khi
người ta cho không ai cái gì. Điều đó là không đúng, mình tốt với người
này thì sẽ có người khác tốt lại với mình. Khi mà chúng ta cũng tốt với
nhiều người thì cũng có rất nhiều người tốt lại, chúng ta hãy sống thực
với chính bản thân mình.
Để kiểm tra xem mức độ thân thiết thực của người dân, chúng tôi
đưa ra thêm câu hỏi: “Ông (bà) đánh giá như thế nào về những người hàng
xóm của mình? (câu 13).
Kết quả thu được
STT Nhận thức n %
25

×