Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Tiểu luận: Bước đầu tìm hiểu về văn hóa – phong tục tập quán của người hoa ở TP Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.79 KB, 45 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA : LỊCH SỬ
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI :
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VĂN HÓA CỦA
NGƯỜI HOA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
GVHD : Thầy NGUYỄN VĂN SƠN
SVTH : KON SƠ K JIÊN
LỚP : 3B
NIÊN KHÓA: 2002 – 2006
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 4/2005
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VĂN HÓA
CỦA NGƯỜI HOA Ở TP. HCM.
A. PHẦN MỞ ĐẦU :
1. Lý do chọn đề tài :
Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay có hơn nửa triệu người Hoa, chiếm 1/2 dân
cư thành phố. Họ đã và đang chiếm giữ những hoạt động kinh tế quan trọng. Như
vậy họ là một lực lượng xã hội có ảnh hưởng đáng kể đến đời sống kinh tế – văn hóa
và xã hội của thành phố hiện nay và mai sau.
Do đó việc nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện về người Hoa để làm cơ
sở khoa học cho các hoạch định những chính sách kinh tế – xã hội của thành phố là
việc làm cần thiết và không thể thiếu được.
Để nghiên cứu về người Hoa có thể tiếp cận từ nhiều góc độ như là : Về lịch
sử di dân, về hoạt động kinh tế. Văn hóa, xã hội … đề tài này chọn hướng tiếp cận
nghiên cứu về văn hóa – phong tục tập quán của người Hoa ở TP. HCM, là để góp
thêm cách nhìn toàn diện và sâu sắc về cộng đồng đặc biệt này. Nghiên cứu về văn
hóa vừa phản ánh đời sống văn hóa, đời sống kinh tế vừa là sự phản ánh những nét
đặc trưng về tộc người của một cộng đồng cư dân.
Xuất phát từ những vấn đề có tính khoa học và thực tiễn trên em đã chọn


“Bước đầu tìm hiểu về văn hóa – phong tục tập quán của người Hoa ở TP. HCM”
làm đề bài tiểu luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vaán đề :
Từ trước đến nay có khá nhiều chương trình nghiên cứu về các dân tộc thiểu
số Việt Nam trong đó có dân tộc Hoa (Hán).
Tài liệu sớm nhất đề cập đến phong tục tập quán của người Hoa ở Đàng trong
được xuất bản vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX là tác phẩn “Gia Định Thành
thông chí” của Trịnh Hoài Đức “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn đã cung cấp
những tư liệu quý về sinh hoạt vật chất, văn hóa tinh thần của cư dân đương thời
Đàng trong trong đó người Hoa ở Nam Bộ.
Dưới thời Pháp thuộc có các công trình đáng chú ý như “Tiểu dẫn về vùng
Nam Kỳ” của Luciew De Grammont, “Lịch sử du hành trong vùng biển Trung Hoa”
của John White đã miêu tả khá tỉ mỉ và có nhiều nhận xét, tinh tế, so sánh giữa
phong tục của người Việt với Người Hoa. Tác giả người Pháp Antoine trong công
trình nghiên cứu “Thức uống và món ăn Đông Dương” đã ca ngợi các món ăn của
người Đàng Trong lúc đoù. Những nghi lễ gia đình và cách ăn uống của người Việt
và người Hoa được miêu tả rất phong phú, hấp dẫn, lạ lùng …
Những tác giả viết về cư dân Nam Kỳ cùng với nhiều tư liệu ảnh về đời sống
gia đình của người Việt và người Hoa có J.C Baurac với tác phẩm “Nam Kỳ và cư
dân” hay “cuộc du hành ở Nam Kỳ những năm 1872 – 1874” của Albert Morice.
Nghiên cứu về lịch sử hình thành và các hoạt động buôn bán của người Hoa ở Chợ
Lớn có J. BouChot với “vài nghi chép lịch sử về Chợ Lớn”.
Trước năm 1975, có khá nhiều tác phẩm nghiên cứu về người Hoa ở Việt
Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng. Tác giả Đào Trinh Nhất “thế lực **** và vấn
đề di dân vào Nam Kỳ” đã đề cập đến vấn đề di dân của người Hoa ở Nam Bộ. Tsai
Maw Kuay với luận án tiến sĩ “người Hoa ở Miền Nam Việt Nam” là công trình đầu
tiên vết về hoạt động kinh tế, đời sống tôn giáo, tín ngưỡng trong gia đình …… của
người Hoa.
Cuốn “các nhóm thiểu số ở Việt Nam cộng hòa” của Joan L. Shrok đã đề cập
một cách khái quát về các sắc tộc thiểu số ở miền Nam trong đó có người Hoa. Sơn

Nam với một loạt tác phẩm như “Đồng Bằng Sông Cửu Long hay văn minh miệt
vườn”, “Cá tính miền Nam”, “Miền Nam đầu thế kỷ XX”. Thiên địa hội và cuộc
Minh Tân, “Tìm hiểu đất Hậu Giang” đã đưa ra nhiều nhận xét về văn hóa vật chất
cũng như tinh thần của cư dân Việt Hoa, khơ me …
Giai đoạn sau năm 1975 đến nay có một số công trình viết về người Hoa ở
Nam Bộ có liên quan đến những phong tục tập quán nghi lễ gia đình của người Hoa
“văn hóa và cư dân đồng bằng Sông Cửu Long” của Nguyễn Công Bình, Lê Quân
Diệu, Mạc Đường, Phan Huy Lê với “Vì việc đánh giá họ Mạc” đã đề cặp đến quá
trình hình thành của cộng đồng người Hoa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, Mạc
đường với một loạt công trình “Xã hội người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh sau
năm 1975 – tiềm năng và phát triển”, “Vấn đề dân cư và dân tộc ở Đồng Bằng Sông
Cửu Long” trong cuốn “văn hóa và phát triển” đã viết về những vấn đề có liên quan
đến các lĩnh vực hoạt động kinh tế văn hóa, xã hội, phong tục tập quán của người
Hoa.
Châu Thi Hải với “Các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam” đã giới
thiệu cho người đọc một cách có hệ thống quá trình di dân và hội nhập của người
Hoa vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trần Khánh “Những khuynh hướng cơ
bản về kinh tế – chính trị – xã hội” của cộng đồng người Hoa ở miền Bắc từ nửa sau
thế kỷ XIX đến 1945 và 1975 ở miền Nam và “Vai trò người Hoa trong nền kinh tế
các nước Đông Nam Á” đã đề cập và hoạt động kinh tế của người Hoa ở các nước
Đông Nam Á và Việt Nam. Viết về văn hóa vật chất của người Hoa có “Văn hóa vật
chất của các dân tộc Đồng Bằng Sông Cửu Long” của Phan Thị Yến Tuyết, nghiên
cu v lnh vc tớn ngng tụn giỏo cú Tớn ngng v tụn giỏo ngi Hoa Qung
ụng Thnh Ph H Chớ Minh do Phan An (ch biờn). Nghiờn cu tng quỏt v
ngi Hoa cú Phan An, Phan Xuõn Biờn V vn v trớ ca ngi Hoa trong cng
ng cỏc dõn tc Vit Nam. ng Nghiờn Vn, Chu Thỏi Sn, Lu Hựng vi Cỏc
dõn tc thiu s Vit Nam, Phm Quang Hoan vi Gia ỡnh, bn cht, cu trỳc,
loi hỡnh, Ngụ Vn L Vi nột v lch s di c, Phan Hu Dt v hỡnh thỏi Con
cụ con cu, Vn húa v l hi ca cỏc dõn tc ụng Nam . Bi vit Quan h
hụn nhõn v gia ỡnh ngi Hoa Bch Long V, Cỏc nhúm Hoa v vn thng

nht tờn gi ca Nguyn Truực Bỡnh l nhng t liu quý so sỏnh gia cỏc thit
ch hụn nhõn, gia ỡnh, vn húa, phong tc tp quỏn ca ngi Hoa.
Nhiu cụng trỡnh nghiờn cu mang lnh vc xó hi hc Hụn nhõn v gia
ỡnh ca ngi Hoa TP. HCM, li sng thanh niờn ngi Hoa TP. HCM ca
s vn húa thụng tin Vin Khoa Hc Xó Hi ti TP. HCM. L nhng t liu cú giỏ
tr tham kho trong tiu lun ny.
3. i tng v phm vi nghiờn cu :
V i tng, ú laứ nghiờn cu v i sng vn húa phong tc tp quỏn
ca ngi Hoa TP. HCM. Qua ú ta xem qua quỏ trỡnh tip bin, giao lu vn húa
ca ngi Hoa cú s bin chuyn nh th no.
Phm vi thi gian ch yu nghiờn cu t 1975 n nay. T 1975 tr v trc
cho n nhng nm cui th k XVII tụi ch gii thiu túm tt bo m tớnh liờn
tc v h thng ca ti. Khụng gian trờn a bn TP. HCM, ch yu trờn cỏc qun
cú ụng ngi Hoa c trỳ nh : Q.11, Q.10, Q.6, Q.8, Q.5
4. Phng phng nghiờn cu :
L mt ti chuyờn ngnh dõn tc hc viờn õy phng phỏp nghiờn cu
dõn tc hc úng vai trũ ch yu, c bit l phng phỏp in gi. õy chớnh l
phng phỏp ch yu khai thỏc ngun t liu chớnh.
Bờn cnh phng phỏp in gi thỡ nghiờn cu so sỏnh v so sỏnh lch s
cng c s dng nh l mt trong nhng phng phỏp cn thit.
Ngoi nhng phng phỏp c bn trờn cũn s dng phng phỏp ca cỏc
ngnh khoa hc hu quan nh : Xó hi hc, dõn s hc, thng kờ hc v phng
phỏp nghiờn cu liờn ngnh nhm xỏc nh mc v phm vi nh hng ca vn
húa Hoa.
* Ngun t lieọu quan trng l ngun ti liu th dch v ti liu nghiờn cu
in dó ca cỏc nh nghiờn cu thuc trung tm nghiờn cu dõn tc hc v tụn giỏo.
B. NỘI DUNG :
CHƯƠNG I :
KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI HOA Ở THÀNH PHỐ
1. Lịch sử di dân và sự phân bố cư trú của người Hoa ở TP. HCM :

1.1. Lịch sử di dân :
Trong các tài liệu nghiên cứu về vấn đề này đều có chung một nhận định :
Việc di dân của người Hoa vào Việt Nam cũng như tơi các nước thuộc khu vực
Đông Nam Á là một quá trình diễn ra rất phức tạp, lâu dài, liên tục và gắn liền với
nhiều đợt, nhiều hình thức trong lịch sử, từ lẻ tẻ, tự phát đến dồn dập, ồ ạt và quy
mô.
Và trong quá trình lịch sử do mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc
không đơn giản, cho nên việc di dân của người Hoa đến Việt Nam cũng liên tục biến
thiên, cho dù hình thức “di dân tự nhiên” là khá thường xuyên và phổ biến.
Thật khó xác định chính xác nhưõng người Hoa đầu tiên đã đến Việt Nam từ
bao giờ, nhưng sự hiện diện của họ trên mãnh đất này đã được ghi nhận cách đây
trên hai ngàn năm. Đúng như Raymon J. de Jeagher trong “người Hoa tại Việt
Nam” đã viết : “Thật khó maø xác định những người Hoa đầu tiên tới Việt Nam khi
nào, nhưng tối thiểu là từ hai ngàn năm nay rồi. Vào thế kỷ II trước công nguyên,
một nhà cai trị người Hoa đã thiết lập vương quốc Nam Việt. Khi vương quốc này
sụp đỗ vaøo năm 111 trước Công Nguyên, vùng đất này trở thành một tỉnh cua đế
quốc Trung Hoa. Tình trạng này kéo dài một ngàn năm”.
Cũng như theo Raymon J. de Jeagher “Người Hoa tiếp tục di dân xuống phía
Nam ngay cả sau khi Việt Nam giành được độc lập vào năm 938
(1)
, một nền độc lập
được kéo dài liên tục, ngoại trừ một giai đoạn ngắn dưới quyền cai trị của người
Trung Hoa trong những thập niên 1400, cho tới khi Pháp chiếm nước này vào thập
niên 1860”. Nguyễn Văn Huy trong người Hoa tại Việt Nam cũng viết : “Vào thế kỷ
II trước công nguyên (năm 111) người Hoa (Hán) đã sáp nhập Việt Nam (thời đó là
Nam Việt) vào miền Nam Trung Hoa, đặt tên là Giao Chỉ Bộ và đã cai trị hơn một
ngàn năm”
(2)
. Các đợt di dân lớn của người Hoa sang Việt Nam để được ghi lại trong
sử sách Trung Quốc và Việt Nam như : “Sử kí Tư Mã Thiên, Hậu Hán Thư, Hoài

Nam Tử, Tam Quốc Chí, Ngô Việt Xuân Thu, Minh Thực Lục, Ức Trai Thi Tập,
Đại Việt Sử Kí Toàn Thư, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, An Nam Chí Lược,
Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Phủ Biên Tạp Lục …
Cuộc di dân lớn đầu tiên của người Hoa xuống phương Nam được bắt đầu từ
chính sách Nam Tiến của các triều đại phong kiến Trung Quốc. “Năm thứ 33 (214
trước Công Nguyên) Tần Thủy Hoàng sai tất cả bọn lang thang, vô thừa nhận, bọn
ăn không ngồi rồi và bọn con buôn đi chiếm đất lục lương. Ông lập ra các quận Quế
LÂm (Quảng Tây), Nam Hải (Quảng Đông) và Quận Tượng (An Nam) và đầy
những kẻ có tội đến ở đó để giữ”
(3)
“Khi Tần Thủy Hoàng đã thôn tính thiên hạ và dẹp yên Dương Việt thù lập ra
các quận Queá LAÂm, Nam Hải và Quận Tượng. Trong mười ba năm, ông bắt bọn
côn đồ, tù tội đem đến các nơi ở với dân Việt”
(4)
. Hai đoạn trích dẫn trên của sử kí
Tư Mã Thiên cho thấy đoàn quân viễn chinh này không phải chỉ có nhiệm vụ đánh
chiếm đất, mà với thành phần cấu tạo của nó, nhà nước phong kiến Trung Quốc có ý
định chuẩn bị cho họ ở lại lâu dài trên vùng đất mới chiếm.
Số binh sĩ trong đoàn quân viễn chinh 50 vạn người đánh chiếm phía Nam
Ngũ Lĩnh có bao nhiêu người ở lại cùng với Triệu Đà sử sách không ghi rõ, nhưng
câu “Ông (Triệu Đà) sai sứ mang thư xin ba vạn con gái hoặc đàn bà góa để làm vợ
cho binh sĩ” trong sử kí Tư Mã Thiên đã chứng tỏ số người ở lại trong đợt này
không phải nhỏ. Và ngoài lớp người “lang thang – vô thừa nhận, bọn ăn không ngồi
rồi và bọn con buôn ….” Ngay đợt di dân này còn có cả những binh lính chính quy
và quan lại định cư nơi đất mới. Đầu năm 111 trước Công Nguyên, Lộ Bá Đức, một
viên tướng Nhà Hán, sau khi thắng Nam Việt đã xóa tên nước của Triệu Đà và chia
nước thành ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, thuộc ách cai trị của Trung
Quốc. Từ đây làn sóng di dân xuống phương Nam có thêm các cựu thần của các
triều đại phong kiến phương Bắc thất thế. Chẳng hạn cuối đời D(ông Hán đầu thời
Tam Quốc có các danh sĩ như Trần Quốc, Viên Huy, Hứa Tịnh … chạy sang Giao

Châu để nương nhờ thái thú Sĩ Nhiếp …
Làn sóng di dân thứ hai xảy ra khi đất nước Trung Hoa xảy ra những biến
động lớn. Các bộ tộc Mông Cổ ở phía Bắc nhân thời cơ rối loạn của nội bộ Trung
Quốc đã tiến công xÂm lược lật đỗ nhà Nam Tống và tiến hành tàn sát dã man
những người Tống yêu nước, thiết lập triều Nguyên, vào năm Hàm Thuần thứ 9
(1273) đang lúc nhà Tống nguy ngập, thần dân nhà Tống không chịu nổi sự đàn áp
của quân Nguyên “ …. Họ đem 30 chiếc thuyền biển chở đầy của cải và vợ con vượt
biển đến La Cát Nguyên. Đến tháng 12, dẫn về kinh an trí ở phường Nhai Tuân, họ
tự xưng là người Hồi Kê. Người nước ta gọi người Tống là Kê Quốc, vì người Tống
có các hàng vải lụa, dược phẩm bày hàng mở chợ buôn bán riêng”
(5)
Ngoài những người chạy loạn sang xin tị nạn ở Việt Nam. Trong những đoàn
người di cư lần này còn có các viên tướng của nhà Tống cùng với binh lính của họ
xin gia nhập đội quân kháng chiến chống Nguyên của nhà Trần : Triệu Trung, một
viên tướng nhà Thống cùng binh lính đến Đại Việt xin tị nạn và tình nguyện xin
nhập đội quân của Trần Nhật Duật trong suốt cuộc kháng chiến chống quân Nguyên
xÂm lượt. Trong suốt thời kỳ nhà Nguyên thống trị Trung Quốc, dựa trên thế lực
của đội quân viễn chinh Mông – Nguyên, nhiều thương gia Trung Quốc đã đến buôn
bán ở các nước Đông Nam Á và Việt Nam. Những đoàn thương thuyền của họ
thường xuất phát từ hải cảng Quảng Châu đi xuống cù Lao Chăm (Quảng Nam)
mua Châu Sa (Cát Đỏ) mang về Trung Quốc.
Bước sang thời kỳ nhà Minh đô hộ Việt Nam, do chính sách khuyến khích
nền kinh tế hàng hóa phát triển, nhà Minh đã xaây dựng hạm đội lớn để tìm kiếm thị
trường buôn bán. Trong gần 30 năm, với 62 chiếc thuyền và 27.000 binh lính, đoàn
của Trịnh Hòa đã 7 lần vượt biển. Kết quả là Trịnh Hòa đã khám phá và mở rộng
thêm con đường giao lưu treân biển, mở đầu thời kỳ di cư hàng loạt của người Hoa
theo đường biển xuống vùng Đông Nam Á. Trong thời kỳ này người Hoa đã tràn
vào Việt Nam với nhiều loại người và nhiều mục đích khác nhau. Ngoài những quan
lại cai trị và binh lính, còn có những người sang Việt Nam chỉ vì mục đích kinh tế.
Dựa vào thế lực nhà Minh, những người Hoa đã nắm giữ một số vị trí quan trọng

trong nền kinh tế Việt Nam chẳng hạn ở miền Bắc, họ mở các công trường khai thác
than và đồng, lập trang trị và buôn bán.
Tuy nhiên, ở Việt Nam kể từ đầu công nguyên cho đến hết thế kỷ XVI,
những dòng người Hoa di cư tuy diễn ra liên tục trong lịch sử nhưng cơ sở kinh tế
của họ còn yếu, cho nên chưa đủ điều kiện để tạo thành những nhóm cộng đồng
người Hoa riêng biệt, chủ yếu họ vẫn sống xen kẻ với cộng đồng dân cư sở tại.
Nhưng qua thế kỷ XVII, và tiếp theo sau đó, tình hình thế giới có nhiều biến
chuyển, nên những làn sóng di dân của người Hoa cũng phát triển khác trước. Từ
đây người Hoa đã tràn vào Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau. Một số vượt
biên giới tràn vào miền núi xuống phía Bắc, một số khác vượt biển tràn vào các
Hương Cảng và đô thị như kẻ chợ. Phố Hiến (Đàng Ngoài), Thanh Hà, Hội An
(Đàng Trong) và nhanh chóng tổ chức guồng máy hoạt động thương mại kinh
doanh.
Những hoạt động này chính là cơ sở của tình hình thành các khu phố thương
mại của Việt Nam trong đó có thị tử FaiFo ở Hội An – Đà Nẵng. Đó là những khu
phố thương nghiệp đầu tiên của Việt Nam do người Hoa nắm độc quyền buôn bán

Trên đây là lượt trình toàn cảnh về vấn đề di dân, định cư của người Hoa ở
Việt Nam nói chung trước thế kỷ XVIII.
Đầu thế kỷ XVI, sau những đợt cấm đoán và triệt đạo (Công Giáo) tại Trung
Quốc, nhiều người Hoa đã chạy loạn theo đường biển xuống phía Nam đến Đàng
Trong xin tị nạn tôn giáo Chúa Nguyễn Hoàng cho định cư tại Hội An (HaiFo) lúc
đó chỉ là một vùng đất nghèo. Nhóm người tị nạn đã xây dựng Hội An thành một đô
thị truyền đạo và một hải cảng sầm uất. Từ đây Hội An thành thương điểm của
nhiều thương nhân phương Tây. Các Chúa Nguyễn đã dựa vào cộng đồng người
Hoa định cư tại Hội An thực hiện các dịch vụ trung gian trao đổi với phương Tây và
Trung Hoa. Nổi nhất là hoạt động của Tào Vụ Ty ở Hội An do những viên chức
người Hoa của nhà Minh cũ được Chúa Nguyễn tuyển dụng để làm công việc kiểm
soát ngoại thương, thu thuế thuyền bè, làm thông ngôn cho lái buôn Trung Hoa và
phương Tây đến trao đổi với Đàng Trong. Một số nhóm người di cư đã giúp Chúa

Nguyễn gây dựng cơ đồ và sống tập trung tại một làng nghèo cách Đà Nẵng khoảng
30 cây số về phía Nam, lấy tên là Minh Hương để tưởng nhớ đến quê hương nhà
Minh. Nhiều nhóm người Hoa khác là thần dân của nhà Minh cũ đến xem tị nạn và
thành lập nhiều làng Minh Hương khác dọc theo các tỉnh miền duyên Hải Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định … sau đó nhiều nhóm người Minh Hương được Chúa
Nguyễn cho tái định cư tại các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Bộ để khai thác và
mở rộng bờ cõi phía Nam.
Công cuộc khai thác miền Đông bắt đầu từ nửa đầu thế kỷ XVII, nhiều nhóm
người Việt nghèo khổ, lánh nạn chiến tranh (Trịnh – Nguyễn), từ miền Trung đi
bằng thuyền nan dọc theo bờ biển tiến vào đất Đồng Nai khai phá đất đai, sinh cơ
lập nghiệp. Miền Đông lúc này còn hoang dãn mênh mông với khoảng 40.000 dân,
đa số là người Khơ Me và lưu dân gốc Việt chủ yếu sống bằng nghề khai khẩn đánh
cá và săn bắn. Năm 1679, hai tướng nhà Minh là Dương Ngạn Định, quan tổng binh
tỉnh Quảng Đông cùng phó tướng là Hoàng Tiến và Trần Thắng Tài cùng phó tướng
là Trần An Bình – những người không chịu đồng hàng nhà Thanh, đã dẫn theo 3.000
binh sĩ và gia thuộc đi trên 50 chiếc thuyền tới cửa bể Tư Dung Xin yết kiến Chúa
Nguyễn và xin tị nạn tại Việt Nam. Chúa Nguyễn Phúc tần chấp nhận, sau đó
Dương Ngạn Địch và Trần Thắng Tài được chúa Nguyễn cho phép hợp lực với lực
lượng của hai vị tướng người Việt là Nguyễn Dương LÂm và Nguyễn Diên Phái
kéo nhau vào miền Đông Nam Kỳ thai hoang lập ấp. Hai tướng nhà Minh cũ chia
quân làm hai toán theo đường biển vào miền Đông. Dương Ngạn Địch và Hoàng
Tiến chuyển binh trên thuyền vào cửa bể Soài Rạp, đến trú tại Lộc Dã (Đồng Nai),
Mỹ Tho (Định Tường) và Cao Lãnh (Cai Lậy), Trần Thắng Tài và Trần An Bình
cùng quân sĩ dừng lại ở Cù Lao Phố (Đồng Nai Đại Phố), Bàn Lăng (Biên Hòa) và
Đê Ngạn (Gia Định cũ) lập nghiệp. Một số nhóm người Minh Hương sinh sống tại
các làng xã dọc bờ biển miền Trung dần dần cũng xin được gia nhập vào hai binh
đoàn cuûa Dương Ngạn Địch và Trần Thắng Tài vào tái định cư ở miền Đông. Từ
đó hai đoàn quân Minh triều cũng cùng với người Minh Hương cùng nhau khai
khẩn, phá rừng, đào kênh, xây nhà, lập chợ …. định cư. Dương Ngạn Địch và Trần
Thắng Tài thay mặt Chúa Nguyễn thu thuế (gạo, cá khô, lÂm hải sản … ) rồi chở ra

Phú Xuân nộp cho triều đình. Về sau hai vị tướng gốc Hoa được lệch phụ giáp Nặc
Ông Nộn bình định đất đai tại Thủy Chân Lạp.
Song song với coâng cuộc khám phá miền Đông là công cuộc khai phá miền
Tây vào giữa thế kỷ XVII, nhiều cuộc khởi nghĩa chống nhà Mãn Thanh đã xảy ra ở
Trung Quốc. Dưới sự lãnh đạo của Trịnh Thành Công – Một vị tướng Minh triều cũ
gốc Triều Châu – dân chúng nổi lên chống lại quân Thanh nhưng thất bại, tất cả làng
xã của người Tiều ở Triều Châu đều bị phá sản. Đoàn quân của Trịnh thành công
phải chạy ra đảo Đài Loan lập chiến khu “Phản thanh Phục Minh”. Trong đám tàn
quân này có một thanh niên Mạc Cửu 17 tuổi, góc ở Quảng Đông cũng đến bờ biển
Cao Miên tự gây dựng cho mình một sự nghiệp tốt đẹp và một tài sản vững chắc.
Trong lãnh thổ mới của mình, Mạc Cửu lập ra thị xã Hà Tiên hu hút những dân lang
thang bị khai trừ chủ yếu từ các tỉnh Quảng Nam, Quãng Ngãi và cả người Chàm
nữa. Mạc Cửu bắt buộc những người di dân mới phải làm ruộng, làm vườn xây cất
nhà ở và dựng nên một haûi cảng nơi thuyền buồn đến từ bốn phương “đông tới
mức người ta không thể đếm xuể số cột buồm”. Hà Tiên thời ấy được mệnh danh là
tiểu Quảng Châu. Mạc Cửu qua đời năm 1736 khi Hà Tiên trở thành một vùng đất
phồn vinh.
Con cả của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tử, còn gọi là Mạc Thiên Tích kế nghiệp
Cha, được bổ làm Tổng Trấn Hà Tiên với quyền lực đặc biệt đảm trách bảo vệ Biên
Thùy. Dưới quyền của Mạc Thiên Tích, Hà Tiên trở thành một vùng đất có quy cũ
với nền hành chính vững mạnh, khắp nơi thành lập những làng xã mới, vùng đất Hà
Tiên hưng thịnh một cách nhanh chóng. Chẳng bao lâu, Mạc Thiên Tích nắm quyền
cai trị tất cả dãi đất kéo dài từ Kampot đeán Cà Mau thu hút vào lãnh thổ của mình
tất cả các phần tử khá dữ sinh sống ở đó. Chẳng những Mạc Thiên Tích kế nghiệp
cha biến Hà Tiên thành một vùng đất dễ chịu cho những ai ngụ cư, mà ông đã xây
dựng nên hình thành nên một trung tÂm của văn hóa và trí thức : những nhà nho đến
từ Phúc Kiến và Quy Nhơn. Và trong số những người này còn có cả những hòa
thượng đã nghe theo tiếng gọi của Mạc Thiên Tích đến định cư. Ông đã lập ra một
thư viện Hàn LÂm theo tinh thần của đạo Nho để quy tục những văn nhân giỏi nhất.
Lịch sử di dân của người Hoa vào Việt Nam có nhiều bước biến động. Sau

cuộc “Chiến tranh nha phiến” năm 1540 và sau phong trào Thái Bình Thiên Quốc
bùng nổ năm 1845 – thời kỳ nghĩa binh phản Thanh phục Minh bị đàn áp, tàn quân
“Thái Bình Thiên Quốc” vượt biên giới tràn sang Việt Nam vào năm 1863, sau đó
“Thổ Phỉ hóa” trở thành giặc “Cờ đen”, “Cờ trắng”, Cờ vàng theo chân các đoàn
thương gia, người Hoa đủ loại tìm cách vượt biển đến những chân trời mới với
mong muốn làm giàu qua các cuộc khai thác thuộc địa của Anh, Pháp, Mĩ
Ở Miền Bắc, giặc Cờ Đen, Cờ Trắng, Cờ Vàng tung hoành ở vùng Quảng
Ninh và vùng biển An Hải, hàng năm có tới hàng trăm thuyền bè của Nhà Thanh đổ
bộ vào Việt Nam tháng 10 năm 1882, vua Thanh lệnh cho Hoàng Quế Lan thông
lãnh 12 doanh quân sang chiếm giữ các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Ninh, Cao Bằng, Thái
Nguyên. Tháng 6 năm 1883, vua Thanh đưa thêm quân sang hợp sức với quân
Hoàng Quế Lan Âm mưu xÂm chiếm Bắc Kỳ. Thời kỳ này, người Hoa ồ ạt tràn vào
Việt Nam suốt những năm 60, 70 và 80 của thế kỷ XIX.
Còn ở Đàng Trong thì sao? Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm 3 chỉnh miền
Đông Nam Kỳ (1859 – 1862) gồm Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho và đảo Côn Lôn,
người Việt đã đứng lên chống trả quyết liệt. Nhưng sau khi Pháp tiếp tục xÂm
chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, sức kháng cự suy sụp, chỉ trong vài ngày (từ 20
đến 24-6-1867) tất cả đều thất thủ, quan kinh lược sứ Phan Thanh Giản – một người
Minh Hương – đã phải đầu hàng và tự vẫn sau đó. Miền Tây (Hà Tiên, Châu Đốc,
Vĩnh Long) lúc đó rất đông di dân người Hoa. Ngay vào lúc quân Pháp đang dùng
toàn lực đánh chiếm ba tỉnh miền Đông, thì để chuẩn bị lực lượng cho kháng chiến,
vào ngày 7 tháng 8 năm Tự Đức 13 (1860), Tham tín Tôn Thất Quân Thư Gia Định
đã gửi thông tin cho xã Minh Hương tỉnh Vĩnh Long kêu gọi người Thanh tòng
quân diệt giặc. Nhưng chẳng bao lâu miền Tây cũng thất thủ.
Đối với người Hoa, Pháp hay Việt cai trị thì số phận họ cũng không coù gì
khác. Hàng loạt hành động đối xử khắt khe của vua Minh Mạng khiến cộng đồng
người Hoa trở nên thụ động và đố kị. Họ lẫn tránh tham gia vào các hoạt động chính
trị, chỉ mong sao được yên ổn để làm ăn sinh sống. Dù sao, so với miền Bắc, miền
đất hấp dẫn đối với di dân người Hoa trước đó.
1.2. Dân số và sự phân bố dân cư của người Hoa ở TP. HỒ CHÍ MINH :

Địa bàn cư trú tập trung của người Hoa ở Nam Bộ – TP. Hồ Chí Minh và một
số tỉnh miền Đông. Theo số liệu thống kê vào năm 1993 thì dân số người Hoa ở
Nam Bộ như sau :
Thành Phố Hồ Chí Minh : 550.000 người
Sóc Trăng : 80.000 người
Cần Thơ : 22.400 người
Kiên Giang : 36.000 người
Minh Hải : 30.000 người
Sông Bé : 20.000 người
An Giang : 17.000 người
Thành Phố Hồ Chí Minh là nơi tập trung người Hoa đông nhất. Theo báo cáo
của ban công tác xã hội người Hoa thì dân số người Hoa chiếm 12% dân số toàn
thành phố. Phân tích về thành phần các nhóm địa phương người Hoa theo thống kê
năm 1992 :
1. Nhóm người Hoa Quảng Đông : 56.5%
2. Nhóm người Hoa Triều Châu : 34.0%
3. Nhón người Hoa Phúc Kiến : 6.0%
4. Nhóm người Hoa Hải Nam : 2.6%
5. Nhóm người Hoa Hẹ (NaKa) : 2.0%
Người Hoa nói tiếng Quảng Đông và Triều Châu có quan hệ đồng hương và
dòng họ ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Đông Nam Á và Bắc
Mĩ. Theo số liệu điều tra năm 1987, trong số 74.957 hộ người Hoa thường xuyên
quan hệ thư tín và nhận hàng từ các nơi gởi về TP. HỒ CHÍ MINH thì có đến 55%.
Số hộ nói trên có thân nhân ở 20 quốc gia trên thế giới. Số thân nhân ở ngoại quốc
này có một vai trò đóng góp to lớn vốn ngoại tệ, máy móc và công nghệ mới cho sự
phát triển thủ công nghiệp người Hoa. Góp phần làm hồi sinh khu vực kinh tế này
đang có nguy cơ tàn lụi sao bao năm chống đỡ trong cơ chế quan liêu bao cấp. Theo
thống kê dân số dân cư 1992, tại TP. HCM vẫn còn một số dân cư tự khai là Hoa
Kiều. Đó là những người chưa có quốc tịch Việt Nam. Họ nằm ngoài cộng đồng
người Hoa ở Việt Nam và không được thành phần dân tộc Hoa của cộng đồng các

dân tộc Việt Nam, mặc dù về tiếng nói, văn hóa, đời sống kinh tế … là giống nhau.
Hoa Kiều là một bộ phận dân cư gốc Trung Hoa không có tư cách pháp nhân và
không được hiến pháp và Việt Nam bảo đảm như là một công dân, họ chịu sự quản
lí theo những quy chế riêng của bộ ngoại giao và Bộ hội vụ của nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Dân số Hoa Kiều vào cuối năm 1992 có khoảng chừng 10.000 nhân khẩu bao
gồm những người.
+ Tự khai theo quốc tịch Đài Loan có 1.048 nhân khẩu
+ Tự khai theo quốc tịch Trung Hoa có 1.686 người
+ Không tự khai quốc tịch nào mà chỉ tự khai là Hoa Kiều có 1.268 người
+ Tự khai là Hoa Kiều Campuchia gồm 8.207 người. Tất cả 5 nhóm người
Hoa tập trung ở các quận 5, 6, 10, 11.
Theo số liệu điều tra dân số năm 1979, toàn thành phố Hồ Chí Minh có 12
địa phương tập trung đông người Hoa, đặc biệt có hai địa phương dân số người Hoa
đạt tới trên 50% tổng dân số. Danh sách12 địa phương ấy là :
STT Địa phương Dân số người Hoa
chiếm (%)
Số nhân khẩu
1 Quận 11 54.04 107,696
2 Quận 5 52.74 101,307
3 Quận 6 38.08 66,938
4 Quận 10 19.62 40.789
5 Quận 8 16.97 36.223
6 Quận 1 15.49 34.503
7 Quận Tân Bình 8.90 23.532
8 Quận 3 6.61 14.125
9 Quận 4 6.42 9.098
10 Quận Bình Chánh 4.56 7.517
11 Quận Gò Vấp 4.18 5.316
12 Quận Phú Nhuận 4.06 5.858

Năm 1898, vào lúc 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 1989, của tổng điều tra dân số
lần thứ hai. Sau khi thống nhất đất nước đã diễn ra trong toàn quốc, trong đó, có
thành phố Hồ Chí Minh.
Cuộc điều tra dân số năm 1989 được tiến hành sau 10 năm so với cuộc điều
tra lần thứ nhất vào tháng 10 năm 1979 và với nội dung mở rộng. Cuộc điều tra này
gồm có 13 chỉ tiêu trong đó có chi tiêu dân tộc. Sự thay đổi về dân số người Hoa ở
12 địa phương nói trên và sự thay đổi về đời sống ở Thành Phố trong 10 năm ấy là
rất cụ thể. Cho đến 0 giơø ngày 1 tháng 4 năm 1989, dân số của 12 địa phương tập
trung đông người Hoa ở TP. HCM được thống kê như sau
(6)
:
STT Địa phương Dân số người Hoa
chiếm (%)
Số nhân khẩu
1 Quận 11 48.2 108.564
2 Quận 5 39.6 84.731
3 Quận 6 32.2 68.821
4 Quận 10 13.4 30.842
5 Quận 8 13.1 33.433
6 Quận 1 10.9 27.563
7 Quận Tân Bình 7.3 24.605
8 Quận 3 4.8 33.433
9 Quận 4 4.5 8.095
10 Quận Bình Chánh 2.8 5.743
11 Quận Gò Vấp 3.2 4.893
12 Quận Phú Nhuận 3.3 5.669
So sánh tình hình đa số người Hoa và tỉ lệ dân số người Hoa trong tổng dân
số của Thành Phố Hồ Chí Minh qua hai lần tổng điều tra dân số, chúng ta có những
số liệu sau đây :
Đa số người Hoa qua hai lần Tổng Điều Tra

Dân số (10 năm) – (10/1979 – 1/1989)
STT Địa phương Tỉ lệ so với
dân số chung (%)
Dân số
1979 1989 1979 1989
Toàn thành phố 14.41 14 474.712 524.499
1 Quận 11 54.04 48.2 107.696 108.564
2 Quận 5 52.74 39.6 101.307 84.731
3 Quận 6 38.08 32.2 66.938 68.821
4 Quận 10 19.62 13.4 40.789 30.842
5 Quận 8 16.97 13.1 36.223 33.433
6 Quận 1 15.79 10.9 34.503 27.563
7 Quận Tân Bình 8.9 7.3 23.532 24.605
8 Quận 3 6.61 4.8 14.125 33.433
9 Quận 4 6.42 4.5 9.098 8.095
10 Huyện Bình Chánh 4.56 2.8 7.517 5.743
11 Quận Gò Vấp 4.18 3.2 5.316 4.893
12 Quận Phú Nhuận 4.06 3.3 5.858 5.669
Qua tổng điều tra dân số năm 1979 và 1989, chúng ta thấy trong 10 năm dân
số người Hoa tăng thêm 49.789 nhân khẩu và hàng năm dân số người Hoa phát triển
ước chừng 5.000 người. Số nhân khẩu gia tăng trong 10 năm qua là dân số trẻ được
sinh ra từ 0 giờ ngày 1 tháng 10 năm 1979. Do đó có thể dự đoán thời kỳ 10 năm
tiếp theo 1989 – 1999, dân số Hoa ở thành phố là 574.400 nhân khẩu và đến năm
2010 có khả năng dân số ấy đạt tới con số 700.000 người. Trong 12 địa phương tập
trung đông người Hoa ở TP. HCM chỉ có 3 địa phương dân số người Hoa năm 1989
tăng hơn năm 1979 từ 1.000 đến 2.000 người (Quận 11, Quận 6, Quận Tân Bình).
Đặc biệt dân số người Hoa ở Quận 3 tăng lên 3 lần so với năm 1979, đặc biệt thấp ở
hai quận 5 và quận 11 là vùng trung tÂm của Chợ Lớn (cũ) tập trung đông nhất
người Hoa ở TP. HCM với hàng năm 5.000 người mà tỉ lệ dân số Hoa trong dân số
chung lại hạ thấp toàn bộ 12 địa phương của thành phố là do sự nhập cư của những

nhóm người Việt (Kinh) vào các địa phương khác trong nội thành đến cư trú chung
với người Hoa.
2. Đặc điểm về kinh tế và tổ chức xã hội của người Hoa ở TP. HCM :
2.1. Đặc điểm về kinh tế của người Hoa ở TP. HCM :
Có thể nói, đối với tuyệt đại đa số người Hoa ở TP. HCm nền kinh tế nhỏ của
hộ gia đình là một tiềm năng có tính truyền thống và là một tiềm năng có tính phát
triển. Người Hoa phải dựa vào nền kinh tế nhỏ để sống và bảo đảm cho gia đình tồn
tại.
Nền kinh tế nhỏ của hộ gia đình người Hoa luôn luôn được bảo trợ chặt chẽ
bởi những quan hệ thân nhân, dùng họ và địa phương ở Thành Phố, các tỉnh Đồng
Bằng Nam Bộ và nước ngoài. Hơn thế nữa, nền kinh tế nhỏ của hộ gia đình người
Hoa bám rất sát với nhu cầu cuộc sống thường ngày để hoạt động kinh doanh nhiều
mặt và hướng tới chuyên nghiệp hóa những ngành tự cụm từ thực tế của nhu cầu thị
trường. Nguyên tắc “Cha truyền con nối” và “Tiệm mẹ đẻ tiệm con” là quy luật phát
triển rất bền vững của nền kinh tế nhỏ của người Hoa trong các hộ gia đình. Nguyên
tắc : “Cha truyền con nối” được biểu hiện trong các hoạt động tiểu thủ công nghiệp
và nghề trồng trọt rau xanh phục vụ cho các cửa hàng ăn uống và nhu cầu rau xanh
ơû thành phố. Ngược lại, nguyên tắc “Tiệm mẹ đẻ tiệm con” được biểu hiện trong
kinh doanh thương nghiệp, đặc biệt là trong các nghề dịch vụ và trước hết là dịch vụ
ăn uống.
Trong nền kinh tế nhỏ của hộ gia đình, vai trò ngươøi đàn ông, nhất là người
chồng và người con trai đều cùng có vị trí đặc biệt quan trọng. Họ là những người
tiếp thu nghề truyền thống của dòng họ để củng cố nền kinh tế nhỏ của hộ gia đình
hoặc là người chọn lựa và quyết định nghề nghiệp mới tạo nên sự chuyển dịch kinh
tế của toàn bộ gia đình. Họ cũng là người tổ chức nhân công và phát triển nền kinh
tế nhỏ ấy cho phù hợp với sự thay đổi của nhu cầu thị trường biến động. Với những
phong tục tập quán gắn bó nhau trong dòng họ và đồng hương, nền kinh tế nhỏ của
các hộ gia đình luôn luôn được sự giúp đỡ của thân nhân sống gần nhau hoặc sống ở
địa phương khác hay thậm chí sống ở nước ngoài. Sự tương trợ về vốn, về kinh
nghiệm sản xuất và kinh doanh, sự thông tin nhu cầu và giá cả trên thị trường, sự

bảo lãnh trong giao dịch thương mại, sự ủy nhiệm trong đại lý, sự bảo vệ cho nhau
trong cạnh tranh thị trường … đã làm cho nền kinh tế nhỏ hộ gia đình người Hoa
luôn luôn phát triển một cách sinh động, vượt qua mọi ngăn trở trong thực tế. Đại đa
số những người Hoa lao động sống bằng những nghề truyền thống thường giữ vững
nguyên tắc kinh doanh theo chữ “Tín” để giữ vững mối quan hệ trên thị trường và từ
đó tiến dần đến độc quyền trong thương mại và sản xuất. TÂm lý cạnh tranh và
hướng tới độc quyền thị trường bằng cách tạo cho người tiêu dùng những lợi ích
trong người Hoa. TÂm lý cạnh tranh và hướng độc quyền theo gia đình người Hoa,
là phong cách “làm ăn” truyền thống của người Hoa ở TP. HCM từ lâu đời.
Thích nghi với nhu cầu thị trường và chuyển dịch kinh tế kịp thời để thu lợi,
tăng trưởng vốn kinh doanh là một trong những tiềm năng phát triển của người Hoa
được thể hiện rõ nét sau năm 1975. nhưng không phải tất cả mà chỉ là một bộ phận :
những người thuộc thế hệ trung niên, thanh niên, nhưõng người có trình độ văn hóa
ở trình độ phổ thông, những người có quan hệ với nước ngoài thông qua bà con và
dòng họ. Ở khu vực Chợ Lớn của thành phố vẫn còn những hộ gia đình người Hoa
tiếp tục những nghề nghiệp truyền thống mà không chuyển dịch kinh tế nhưng họ
vẫn thích nghi với thị trường. Đó là những nghề : trồng rau cải, trồng hẹ, trồng hành,
nuôi vịt lấy trứng lạt, làm trứng muối, làm trưng lộn, lấy lông, làm vịt quay …. Của
ngươøi Triều Châu, nghề đóng ghe chài, nghề làm gạch tàu, làm ấm chén lu khạp,
siêu thuốc … của người Quảng Đông, làm nghề giấy súc, giấy vàng mã, giấy
pơluya, nghề làm nhang các loại của người Quảng Đông …. Đều là những nghề
truyền thống, các nghề đan giỏ cần xé, nghề thổi thủy tinh, nghề thuộc da sống, nghề
trồng hoa lài ướp chè, nghề chế biến thực phẩm của người Hoa ở Chợ Lớn.
Theo thống kê của các phòng kinh tế các quận 5, quận 6, quận 10, quận 11.
Thành Phố Hồ Chí Minh có nhiều cơ sở sản xuất thủ công nghiệp : Cơ khí nhỏ,
nhựa, thủy tinh, may mặc, thuộc da, làm khuôn mẫu …. Các ngành nghề đã thu hút
đông đảo lao động người Hoa.
Năm 1993, riêng Quận 11 có 1.100 cơ sở xí nghiệp cơ khí nhỏ, 232 cơ sở dệt,
700 cơ sở hóa nhựa, 27 cơ sở may mặc 49 cơ sở thủy tinh, 132 cơ sở thuộc da. Thu
hút khoảng 20.000 lao động người Hoa trên địa bàn quận, thành phố.

Giá trị tổng sản lượng thủ công nghiệp của người Hoa trong quận chiếm trên
80% so với toàn quận.
Một số ngành nghề truyền thống của người Hoa : thuộc da, làm thủy tinh,
may mặc, làm nhựa …. Có nghề gần như là bí quyết độc quyền của họ như : làm
mẫu, khuôn chế tạo các sản phẩm nhựa, thuộc da, bốc thuốc …
Bên cạnh ngành sản xuất thủ công nghiệp, người Hoa ở thành phố HCM còn
hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp và dịch vụ. Đây là hoạt động kinh tế nổi bật
cuûa người Hoa ở Nam Bộ nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Ở các
quận có đông người Hoa như Quận 5, Quận 6, Quận 10, Quận 11, Chợ Lớn (cũ) vốn
là một trung tÂm thương mại, buôn bán của người Hoa.
Cũng theo thống kê của các phòng kinh tế quận 5, quận 6, quận 11 trong 251
chợ ở quận 5, quận 6, quận 11 có đến 47.417 hộ kinh doanh người Hoa. Ngoài ra
còn có 134.026 hộ người Hoa kinh doanh tại nhà và trên đường phố. Chỉ riêng Chợ
soái kình lÂm ở Quận 5 nơi buôn bán hàng bông, vải, sợi, mỗi ngày bán ra khoảng 1
triệu mét vải.
Thương nghiệp và dịch vụ của người Hoa nỏi tiếng với các hàng tạp hóa, ở
đây có thể mua được tất cả các mặt hàng nhu yếu phẩm caàn thiết : mắm, muối, kim
chỉ, đồ da dụng, điện máy …
Tóm lại, người Hoa hiện nay hiện diện trong tất cả các lĩnh vực kinh tế và
đóng vai trò quan trọng trong các ngành này. Tuy nhiên phần lớn trong các hoạt
động kinh tế của người Hoa thuộc thành phần kinh tế tư nhân, sản xuất nhỏ.
Hoạt động kinh tế của người Hoa khá nhạy bén, nhất là trong nền kinh tế thị
trường hiện nay. Tuy trải qua nhiều thăng trầm nhưng với tính cần cù. Người Hoa đã
vượt qua nhiều khó khăn, thích nghi với cơ chế thị trường.
2.2. Đặc điểm về tổ chức xã hội của người Hoa ở TP. HCM :
Trước năm 1956, người Hoa có các Bang hay Hội, Bang là tổ chức tập hợp
những người Hoa đồng hương, cùng một nhoùm ngôn ngữ, có 5 Bang : Bang Quảng
Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Hẹ (HakKa). Mỗi bang thường có một
hội quán. Hội là một tổ chức mang tính xã hội, đó là tập hợp của những người hoặc
là cùng họ, cùng nghề, cuøng sở thích, cùng lý tưởng, mục đích nào đó … có hai

hội : Hội của những người cùng họ (Hội tông tộc) Hội của những người cùng nghề
(Hội nghề nghiệp) quy tụ những người cùng nghề, nhất là các nghề thủ công truyền
thống.
CHƯƠNG II :
VĂN HÓA – PHONG TỤC TẬP QUÁN CỦA NGƯỜI
HOA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
Phong tục tập quán là một thành phần gắn liền với sinh hoạt kinh tế xã hội
của một cộng đồng người trong một bối cảnh nhất định : Nó vừa thể hiện cách thích
ứng của con người với môi trường tự nhiên và xã hội, vừa là một nhân tố thúc đẩy
hay kìm hãm sự tiến bộ của xã hội. Phong tục tập quán chính là những lề thói, cách
thức mà người ta thường hay hành động trong suy nghĩ trước các biến cố của cuộc
sống, để giải quyết những vấn đề do các biến cố đó có thể tác động đến nhận thức
của con người.
Gần ba thế kỷ cư trú trên vùng đất Nam Bộ, người Hoa trở thành một dân tộc
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Dù trong quá trình sinh sống, người Hoa có
mối giao lưu văn hóa nhất định với người Việt và các dân tộc anh em, song bản sắc
dân tộc với những nét độc đáo thể hiện truyền thống của người Hoa thì cho đến nay
vẫn còn đậm nét trên các mặt : Phong tục tập quán, tôn giáo – tín ngưỡng và nhất là
trong phong cách, cá tính của mỗi người Hoa, nhân tố chủ thể, bảo lưu và phát huy
nền văn hóa đó.
I. VĂN HÓA VẬT CHẤT :
1. Nhà ở :
Nói đến cách ăn nếp ở của người Hoa, chúng ta sẽ dễ dàng nghĩ ngay đến
cách sống thế nào để thuận tiện cho việc làm ăn là chính. Vì vậy nhà ở của người
Hoa thường chật hẹp, thiếu thốn tiện nghi nhưng lại ở gần mặt đường, dễ giao tiếp,
sản xuất. Nhà ở có thể là phân xưởng, là nơi giao tiếp khách, đồng thời không thể
thiếu bàn thờ ông bà, thần thánh ở trên, dưới góc nhà, trước sân nhà …. Có thể dễ
dàng phân biệt ngôi nhà người Hoa qua các mảnh giấy đỏ dán trước cửa, viết chữ
nhũ, cầu mong bình an, hạnh phúc, phát tài như “xuất nhập bình an”, “Nhất bản vạn
lợi”.

2. Ăn uống :
Trong ăn uống, người Hoa đặc biệt quan tÂm. Điều này thể hiện ngay trong
cách chế biến thức ăn của các tay thợ giỏi nổi danh người Quảng Đông hay Hải
Nam, là hai nhóm Hoa có truyền thống và chế biến thức ăn.
Các tiệm ăn nổi tiếng của người Hoa được người nươùc ngoài tìm đến khi
vào thành phố (trước kia cũng như hiện nay) và một số thực phẩm chế biến hoàn
hảo, độc đáo nhất là vịt quay, sau đó là xá xíu. Heo quay …. Đã làm cho không
những người Hoa mà cả người Việt, khi đã nếm qua một lần sẽ khó quên được
hương vị độc đáo của nó.
Ngoài kỹ thuật khéo léo trong việc sản xuất bánh, trái cây, mứt …. Người
Hoa Quảng Đông còn được nổi tiếng trong nghệ thuật muối các loại cải chua, cải
mặn, trứng, làm đậu nành, đậu hủ, tương, chao …. Hoặc tài chế biến cá khô ở người
Hoa Triều Châu. Do đó không phải ngẫu nhiên mà phổ biến : “Ăn cơm tàu, ở nhà
Tây …” Lương thực chính là gạo nhưng người Hoa thích dùng những thực phẩm
chế biến từ bột gạo và bột mì hơn như hủ tíu, mì sợi, hoàn thánh …. Trong ăn uống,
người Hoa nhiệt tình, không khách sáo, không nghi lễ phiền phức chỉ ở những gia
đình giàu có trước kia mới có người hầu trong khi ăn. Món ăn được dọn lên mÂm
cùng lúc, cả nhà cùng ngồi vào ăn, trò chuyện rôm rả.
Thức uống cũng được người Hoa quan tÂm vì ngoài chức năng giải khát,
nước uống còn phải là một loại thuốc mát, bổ dưỡng “lục phủ, ngũ tạng”. Các loại
trà, sÂm, nước đắng, nước hoa cúc, Lo Han-Kuo …. Là những thứ giải khát thông
dụng trong gia đình.
Nếu như người Hoa Quảng Đông và Hải Nam đã giữ được vị trí quan trọng
trong việc chế biến và buôn bán thực phẩm, thì người Hoa Triều Châu lại giỏi về
ngành nhập và bào chế thuốc Bắc các loại “cao đơn hoàn tán” và dầu gió. Đại lộ
Khổng Tử là một trung tÂm của các loại thuốc Bắc do người Hoa nhập vào và chế
biến.
3. Trang phục :
Trong ăn mặc, người Hoa cũng có sự thay đổi cho phù hợp với thị hiếu hiện
đại. Do tính năng động, nhạy bén sẵn có người Hoa đã góp phần lớn vào việc thay

đổi và mang lại nhiều kiểu mẫu mới lại từ Hồng Kông và các nước du nhập. Từ kiểu
tóc đến vòng trang sức, giày dép người Hoa luôn luôn biết cách “nháy” theo mẫu mã
sẵn có và sản xuất nhanh chong để tung ra thị trường, nên luôn được hưởng ứng.
Ngoài một số người Hoa, có tuổi còn giữ lại y phục cổ truyền của dân tộc, ngày nay
hầu hết trong cưới hỏi, người Hoa thường dùng y phục hiện đại, không có mạng che
mặt cho cô dâu như trước kia. Đối với người Hoa Nam giới, bịt răng vàng vẫn được
xem là một lối trang sức và ở một số phụ nữ Hoa có tuổi vẫn còn ưa dùng thuốc lá.
II. VĂN HÓA TINH THẦN :
Người Hoa ở TP. HCM trong quá trình phát triển xã hội sau 1975 cho đến
nay đã chứng tỏ rằng tiềm năng thích nghi với kinh tế thị trường có định hướng theo
những chính sách của nhà nước quy định và sự hòa nhập kinh tế vào xu hướng phát
triển của quốc gia là rất lớn. Nhưng trong lĩnh vực tinh thần, người Hoa lại có một
tiềm năng lớn hơn để bảo vệ và phát triển bản sắc dân tộc trong văn hóa. Tiềm năng
này giúp cho mối quan hệ giao lưu, tiếp thu và sáng tạo trong nền văn hóa đa dân tộc
ở nước ta phát triển. Mối quan hệ này được nhà thơ người dân tộc nổi tiếng Nông
Quốc Chấn mô tả như sau : “Ngày nay trong đời sống văn hóa ở cơ sở quần chúng
cũng như trên các sân khấu, nhất là sân khấu các đợt hội diễn từ trong tỉnh, từng
vùng đến tập trung trong phạm vi toàn quốc, hình ảnh các dân tộc đã xuất hiện
thường xuyên. Đồng bào miền xuôi, ở thành phố cũng như nông thôn đã làm quen
dần với các điệu múa quạt, múa cà tu, múa khát vọng, tiếng đàn T’rưng tiếng cồng
chiêng … Đồng bào các dân tộc cũng chẳng còn xa lạ mỗi lần được xem biểu diễn
nghệ thuật hát quan họ, hát chèo và dần dần thích xem và nghe kiểu hịch nói, tuồng
cải lương”
(7)
. Nhà thơ Nông Quốc Chấn khẳng định : “Quyền được tôn trọng bản sắc
văn hóa, chữ viết, tiếng nói … của các dân tộc được ghi thành chính sách của Đảng
và Hiến pháp của Nhà nước”
(8)
. Đối với việc phát triển văn hóa mới Nông Quốc
Chấn viết : “Nhà nước ta cũng hết sức chăm lo xây dựng nền văn hóa mới, con

người mới, trong đó có sự quan tÂm thực hiện chính sách dân tộc trong lĩnh vực văn
hóa”
(9)
.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc đều có những nền văn hóa
– Phong tục tập quán riêng. Điều này đã làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú
và đa dạng. Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, nền văn hóa của người Hoa đã góp
phần không nhỏ vào nền văn hóa chung của đất nước. Người Hoa có những điệu
múa, có những phong tục tập quán riêng mang đậm bản sắc dân tộc trong văn hóa cổ
truyền.
Múa lân, múa sư tử, múa rồng, múa kỳ lân là những loại hình nghệ thuật
mang đặc tính quần chung sâu rộng. Trong những ngày lễ lớn của tổ quốc Việt Nam,
ngày lễ Tết, ngày rằm tháng giêng và những ngày vui của người Hoa đều được trình
diễn những loại hình múa dân gian nói trên.
1. Múa lân :
Ở TP. HCM, đội Lân “Nhân Nghĩa Đường” là một đội Lân nổi tiếng ở vùng
Chợ Lớn cũ hiện nay, tiêu biểu cho hàng chục đội lân khác ở đây. Được sự giúp đỡ
của chính quyền địa phương từ năm 1983 trụ sở của đội Lân “Nhân Nghĩa Đường”
đã được thành lập tại đường Hàm Tử (phường 6 quận 5). Phường 6 là một phường
tập trung người Hoa lao động mà phần lớn là thợ thủ công có tay nghề giỏi thuộc
các ngành cơ khí, hóa nhựa phường 6 có đại lộ Hồng Bàng và nhiều con đường giao
tiếp, có mật độ dân cư đông đúc có nhiều khách sạn lớn, có chợ đầu mối và chợ liên
phường.
Vào đầu thập kỷ 80, đời sống và sản xuất của người Hoa ở đây đã sớm đi vào
ổn định, đời sống tinh thần và nhu cầu văn hóa dân tộc đã trở thành hiện thực. Năm
1988, đội lân này tổ chưùc trình diễn thêm loại hình múa sư tử và múa rồng là
những loại hình văn hóa dân gian mang màu sắc dân tộc đậm nét, được nhiều người
ưa dụng. Hiện nay ở khu vực Chợ Lớn cũ đang có đến hàng chục đội Lân hoạt động,
trong đó có nhiều đội nghiệp dư của thanh niên và những môn sinh của các phái võ
thuật.

2. Múa sư tử :
Đội múa “Sư tử Đông Phương” được thành lập từ năm 1980 và hiện nay có
khoảng 10 đội múa sư tử của người Hoa gốc Triều Châu được thành lập. Đội múa
này có nơi diễn tập thường xuyên ở Quận 5 và phát triển thành một tổ chức vừa múa
sư tử vừa phát triển ca múa và tuồng cổ Triều Châu, vừa tuyên bố môn phái Võ Bắc
Thiếu LÂm của người Quảng Đông. Đội múa Phương Đông có xu hướng phát triển
văn hóa địa phương vùng Triều Châu một cách toàn diện. Ở quận 11, tại phường 6,
có đội múa sư tử do những người thợ thủ công người Hoa gốc Triều Châu ở đây
thành lập và hoạt động rất sôi nổi. Những địa phương có các đội múa sư tử là những
nơi có đông người Triều Châu sinh sống từ lâu và ngay từ đầu những năm 1980,
người Hoa ở đây đã vượt qua được những cơn sóng gió của chiến tranh tÂm lý từ
bên ngoài dội vào, đã kịp thời ổn định và phát triển cuộc sống tại chỗ.
3. Múa rồng :
Ở TP. HCM có đội múa rồng Phúc Kiến, đội múa này được thành lập lại vào
tháng 1 năm 1987 để tham gia ngày “Hội văn hóa dân tộc Việt Nam”. Những võ sư
thuộc trường phái võ Phúc Kiến ở Quận 5 đã kế thừa nghệ thuật múa rồng Phúc
Kiến ở Sa Đéc trước đây. Sau quận 5, năm 1990, tại quận 11, những võ sư người Hẹ
lại lập thêm đội múa rồng Ninh Giang.
Ngoài các đội múa, còn có các “nhạc xã”. “Nhạc xã” là những tổ chức văn
nghệ dân gian truyền thống mang tính nghiệp dư của người Hoa đã tồn tại lâu đời ở
vùng người Hoa Chợ Lớn. Các “Nhạc xã” thu hút nhiều nghệ nhân, thanh niên và
quần chúng lao động người Hoa vào các biển sinh hoạt ban đêm từ đường các dòng
họ để ca hát và thưởng thức Âm nhạc dân tộc. Ở đây người xem và người biểu diễn
đều có thể trình bày một bản nhạc đươïc mọi người yêu thích. Tổ chức nhạc xã phát
triển thành những đội nhạc cổ vũ phục vụ ở các nhà Chùa, trình diễn ở nhiều nơi.
Trong các dịp lễ tết hàng năm của đồng bào Hoa, nhạc xã còn phục vụ các đám
cưới, đám chuùc thọ, đám sinh nhật, các ngày lễ chính thức của nhà nước, các tổ
chức nhạc xã thường hòa tấu theo hai chương : Chương trình nhạc võ và chương
trình nhạc văn.
Chương trình nhạc võ là chương trình biểu diễn các nhạc cụ gõ (trống lớn và

trống nhỏ, cồng chiêng, chập chọe, đồng ca, sênh phách …)
Chương trình nhạc văn là chương trình biểu diễn các nhạc cụ dây (đàn hộ,
đàn nhọ, đàn nguyệt, đàn tỳ bà, dàn giáo, đàn tranh … ) kết hợp với các nhaïc cụ
thổi (tiêu, sáo, ốc)
Hiện nay ở khu vực Chợ Lớn cũ có đến hàng chục tổ chức “Nhạc xã” và các
đội nhạc cũ của người Hoa, mỗi đội có đến 50 người tham gia. Những đội nổi tiếng
nhất thành phố là đội Triều Châu (phường 10 quận 5) đội Sư Thúc Hân (phường 14
quận 5) đội nhạc cổ Hoa Sen (quận 6), đội ca cổ nghệ minh (quận 6)…
Tất cả các tổ chức “Nhạc xã” và những tổ chức biến thể của nó là những đội
nhạc cổ hoặc ca múa nhạc cổ đều có mục đích phát huy vốn văn nghệ dân gian của
từng nhóm địa phương người Hoa, đặc biệt phổ cập nhất là vốn văn nghệ dân gian
của ba nhóm chính : Quảng Đông, Triều Châu và Phúc Kiến.
Ngoài các “Nhạc xã” ở TP. HCM còn có các đoàn ca kịch, tiêu biểu là đoàn
ca kịch Thống Nhất Quảng Triều. Đây là đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp của người
Hoa được thành lập từ năm 1976. Đoàn tổ chức thành hai bộ phận liên kết với nội
dung phản ánh cuộc sống hiện đại ở Việt Nam và những cao kịch cổ có nhiều điển
tích dân gian Trung Quốc.
Đoàn ca nhạc kịch tổng hợp Hoa Sen là một đội văn nghệ được thành lập
năm 1985 với hơn 40 nghệ sĩ, phần đông là người Hoa gốc Quảng Đông trong đó
diễn viên và nhạc công đều là nữ. Đội múa nữ thường biểu diễn những đội “múa
quạt”, “múa cung”, “múa lửa” cùng với các chương trình mới như hài kịch, ca múa
nhạc hiện đại.
III. TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG VÀ PHONG TỤC TẬP QUÁN CỦA NGƯỜI
HOA Ở TP. HCM :
Đối với người Hoa, sự định hướng nhân cách và tÂm lý cộng đồng là một
trong những nhân tố phát triển của xã hội. Nó là một tiềm năng tinh thần quan trọng
để củng cố ý thức làm người và ý thức cộng đồng trong cuộc sống. Ý thức làm
người được biểu hiện như là những chuẩn mực đạo đức trong quan hệ gia đình,
người thân. Ý thức cộng đồng được định hướng cho cách ứng xử với người cùng
quê hương, ngươøi cùng dòng họ, người cứu vớt mình khỏi tai nạn, người giúp đỡ

mình lúc khó khăn, về lòng tin vào các thế lực siêu nhiên v.v….
Nhờ có sự định hướng nhân các và tÂm lý cộng đồng, người Hoa có thể vừa
có quan hệ tốt với người ngoài tộc láng giềng, vừa có thể hòa nhập vào quần chúng
lao động. Lại có thể giúp đỡ nhau tồn tại và phát triển bản sắc riêng, tạo sự gần gũi
và hòa nhập lẫn nhau.
Tín ngưỡng tôn giáo là môi trường chủ yếu để tạo nên xu thế định hướng
nhân cách và tÂm lý cộng đồng trong người Hoa. Hơn thế nữa tín ngưỡng và tôn
giáo của người Hoa còn là điều kiện gắn liền văn hóa dân tộc với nội dung giáo dục
nhân cách và tÂm lý cộng đồng. Do đến nay, ở TP. HCM, tín ngưỡng và tôn giáo
vẫn còn là một nhu cầu cần thiết, một nhu cầu của quảng đại quần chúng gắn bó với
cuộc sống thường ngày.
1. Tín ngưỡng trong gia đình :
1.1. Thờ cúng tổ tiên :
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên xuất phát chủ yếu trên cơ sở lòng tin vào sự tồn
tại ở thế giới bên kia của con người sau cái chết. Trong mỗi gia đình người Hoa đều
có bàn thờ tổ tiên được đặt ở vị trí trang trọng nhất trong nhà, được đúc bằng xi
măng hay bằng gỗ được treo trên tường gian chính đối diện với cửa ra vào. Trên bàn
thờ đặt bài vị ghi tên họ, ngày mất của người đã khuất. một lư hương nhỏ, hai đài
cắm nến, một bình bông, một đĩa trái caây nhỏ và một ly nước.
Trong thờ cúng tổ tiên điều quan trọng nhất là những ngày giỗ và người thực
hiện những lễ nghi đó nhất thiết phải là trưởng gia đình.
Ngoài những ngày giỗ vào những dịp lễ tết hay khi trong gia đình có những
việc quan trọng như : đám cưới, đám hỏi, lễ đầy tháng, đầy năm … họ đều cúng tổ
tiên để cầu xin những điều lành, vạn sự như ý …
Nhìn chung tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được người Hoa hết sức coi trọng và
gìn giữ theo những kiêng kị và tập tục cổ truyền. Đây là một trong những hình thức
tín ngưỡng còn được duy trì gần như nguyên vẹn cho tới ngày nay và có ảnh hưởng
sâu sắc tới đời sống của họ.
1.2. Quan thế Âm Bồ Tát :
Quan thế Âm Bồ Tát hay người Hoa còn gọi là Phật Bà Quan Âm. Phật Bà

Quan Âm là một biểu tượng của Phật giáo nhưng được họ coi như một vị cứu tinh,
một nữ thần của sự thái bình, thịnh vượng, ban phát sự may mắn và tốt lành về con
cái.
Phật Bà Quan Âm được thờ trong nhà cùng với tổ tiên và các vị thần khác.
1.3. Quan Công :
Tín ngưỡng Quan Công và suy tôn Quan Công là một bậc thánh hiền với
những đức tính và nhân cách cao quý. Tín ngưỡng Quan Công là một hiện tượng
tÂm linh phổ biến trong người Hoa ở TP. HCM. Tín ngưỡng Quan Công, người
Hoa muốn định hướng nhân cách của mình và gia đình …. Theo khí tiết nhân, nghĩa
dũng tín như Quan Công. Người Hoa xem Quan Công là “vạn cổ nhất nhân”, “vạn
cổ tinh huy”. Người Hoa còn xem Quan Công là vị “Nghĩa khí quần hùng” hay là
“Cung đại tập nghĩa”.
Ở Quan Công, người ta thấy nhân cách cao thượng của người quân tử, lòng
tự trọng cao cả vì danh dự caù nhân tính rộng lượng và thương người, tình thương
và lòng chung thủy đối với người thân và bạn bè, sự chính trực, công minh, tinh thần
trách nhiệm và sự hy sinh vì nghĩa lớn. Nói chung Quan Công là một chuẩn mực
nhân cách và đạo đức của con người mà người Hoa tự xem như là một mục tiêu định
hướng của giáo dục đạo đức làm người.
1.4. Thần Đất :
Việc thờ cúng thần đất bắt nguồn từ tín ngưỡng Trung Hoa cổ đại đó là sự
sùng bái thiên nhiên. Người Hoa tin rằng mỗi một khu đất, coi đó là “vị thần Chúa tể
của đất”. Bàn thờ đặt dưới đất, vì thần đất phải về với đất. Trên bàn thờ đặt một ly
nước. Người Hoa thường cầu xin vị thần đất ban phát cho mọi người sưï bình yên,
hạnh phúc, sự giàu sang và thịnh vượng. Hàng ngày chủ nhà thường thắp nhang vào
hai buổi sáng và chiều. Riêng ngày mồng một Tết và ngày 15 tháng 8 Âm Lịch là
này vừa của thần Đất họ cúng nguyên một con heo đã làm lòng thật sạch sẽ nhưng
chưa nấu chín.
1.5. Thần Tài :
Thần Tài là vị thần mang lại tài lộc cho gia đình nên người Hoa tin thờ cúng
vái. Bàn thờ thần tài thường được xếp cùng chung vối bàn thờ thần đất. Bài vị của

thần tài chỉ viết hai chữ “Thần Tài” hoặc có khi là một pho tượng nhỏ được thỉnh từ
trên Chùa về sau khi đã được “Khai quang điểm nhãn” Thần Tài được cúng quanh
năm.
1.6. Thần Bếp :
Tục thờ thần lửa là một tập tục cổ xưa của cư dân sơ khai trên thế giới. Vị
thần lửa sơ khai kia được Tôn xưng là Đông Trù Tư Mệnh Táo Phú Thần Quân, gọi
tắt là Táo Quân hay Thần Bếp, Vua Bếp. Tuy chỉ là một vị thần nhỏ nhưng quan
trọng vì giữ nhiệm vụ trông nom việc nội trợ và gìn giữ sự bình yên trong gia đình.
Trong gia đình người Hoa, bàn thờ thần bếp được đặt trong nhà bếp trên bàn
thờ đặt bài vị, một lư hương và một ly nước. Hàng ngày người ta đều thắp nhang,
riêng ngày 23 tháng 12 (Âm Lịch) làm lễ cúng tiễn ông về trời để tâu trình với Ngọc
Hoàng những việc làm xấu tốt của gia chủ trong một năm qua. Chiều 30 tháng 12
(Âm Lịch) lại làm lễ đón ông vào nhà. Lễ vật cúng thường là “Tam sanh”. Chè ỉ,
Chè trôi nước, bánh kẹo, vàng mã …
1.7. Thần Cửa :
Thần Cửa hay còn gọi là thần giữ cửa. Đây là một vị thần mà nhà nào cũng
có. Thần cửa không được thờ trên bàn thờ, trên mỗi cửa ra vào đều dán một mieáng
giấy viết 4 chữ : “Thiên quan Trí phước”. Vào những ngày cuối năm, gia như thay
những miếng giấy đó bằng những miếng giấy mới.
1.8. Thiên Quan :
Với quan niệm trời là vị thần cao nhất trong tất cả các vị thần nên người Hoa
thờ trời để mong trời chứng giám cho lòng tin của họ. Bàn thờ trời thường gắn trên
vách tường bên ngoài ngôi nhà với một bài vị bằng giấy đỏ viết 4 chữ “Thiên cung
trí phước”. Hàng ngày gia chủ đều thắp nhang trước bàn thờ trời.
1.9. Thờ Tổ Sư :
Mỗi nghề đều có một vị tổ sư riêng, nên người Hoa Quảng Đông làm nghề
thủ công nào thì tôn thờ và cúng vị tổ sư đó. Bàn thờ tổ sư đặt ở gian được dùng cho
sản xuất hay gia công. Trên bàn thờ đặt bài vị hay chân dung của tổ sư (cũng có khi
là một pho tượng), một lư hương, hai đài cắm nến, một ly nước. Hàng năm đều có
một ngày cúng tổ sư, lễ cúng tùy theo quy mô của cơ sở sản xuất.

1.10. Thờ cúng dòng họ :
Ngươøi Hoa thờ cúng ông tổ của dòng họ tại các đền thờ thuộc dòng họ.
Dòng họ tại cá đền thờ thuộc dòng họ. Dòng họ Trần là dòng họ lớn nhất có đền thờ
tại quận 6 và quận 10. Ngoài ra còn một số họ cũng có đền thờ riêng như : Họ Hà,
Huỳnh, LÂm …. Mỗi dòng họ đều có ngày dỗ riêng của mình.
Nhìn chung tín ngưỡng trong gia đình của người Hoa có thờ cúng tổ tiên, thờ
đa thần và trong những gia đình thờ Phật Bà Quan Âm thì yếu tố tôn giaùo này cũng
bị dân gian hóa.
Việc thờ cúng tổ tiên và các vị thần trong gia đình có ý nghĩa vô cùng quan
trọng, họ rất thành tÂm trong việc thờ cúng và thành thật tin vào việc phù hộ của tổ
tiên và các vị thần trong mọi việc và cuộc sống gia đình của họ.

×