Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

giá trị biểu trưng của trời xanh trong thơ chế lan viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.6 KB, 41 trang )

Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
Giá trị biểu trưng của trời xanh trong thơ Chế Lan Viên
PHẦN MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1. Ngôn ngữ là chất liệu của văn học, là phương tiện phản ánh trong tác
phẩm. Từ ngữ trong tác phẩm văn học không chỉ mang nghĩa từ vựng mà
còn mang nghĩa biểu trưng hàm ẩn bên trong nhờ sự tương tác về nghĩa
với các từ ngữ hình ảnh đi kèm. Ngôn ngữ văn chương nhiều khi rất ngẫu
nhiên mà thoát ra khỏi lớp vỏ âm thanh ngôn ngữ thông thường để gợi lên
những mảnh vỡ tâm linh rất biến ảo, gợi thức những suy nghĩ quan niệm,
những tầng văn hoá sâu xa. Cái phần bóng gió bên ngoài ngôn ngữ mà
tạo cho văn chương tính chất “ý tại ngôn ngoại” còn gọi là những biểu
tượng. Chính những biểu tượng này tạo nên sức hấp dẫn cho ngôn ngữ
nghệ thuật. Tìm hiểu những tầng nghĩa ẩn chứa trong từng biểu tượng sẽ
giúp ta nhìn nhận vấn đề ở những phương diện mới vừa lí thú lại vừa khoa
học. Vì vậy khám phá văn chương từ góc độ biểu tượng thiết nghĩ không
chỉ đơn thuần là công việc của ngôn ngữ học mà còn là việc làm cần thiết
của những người làm công tác nghiên cứu văn học.
2. Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Chế Lan Viên là người ưa tìm
đến những biểu tượng hơn cả. Trong thơ ông ta bắt gặp không biết bao
nhiêu những biểu tượng khác nhau. Chính việc sử dụng những biểu tượng
trong thơ đã làm nên phong cách triết lí trí tuệ của nhà thơ họ Chế này.
Một trong những hình ảnh sống động và gần gũi với chúng ta hơn cả là
hình ảnh trời xanh. Vì vậy trong bài này, chúng tôi đi khảo sát biểu tín
hiệu trời xanh trong thơ của ông. Với mong muốn giải mã tín hiệu này từ
đó tìm ra mã khoá cho phong cách nghệ thuật của nhà thơ Chế Lan Viên.
1
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
B: PHẦN NỘI DUNG


Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỪ - TÍN HIỆU THẨM MỸ
TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC.
1: Quan niệm của từ và nghĩa của từ
M: Gorki đã từng nói rằng: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn
chương”. Phạm Văn Đồng trong bài nói chuyện tại Bộ Giáo Dục ngày 8/9/1973
đặc biệt nhấn mạnh: “Tôi cho rằng trong dạy văn thì từ rất quan trọng. Trong
ngôn ngữ thì từ là cái quan trọng nhất”. Điều đó cho thấy “từ” có một vai trò hết
sức quan trọng trong thực tế đời sống và trong văn học.
Là một thực thể xã hội, ngôn ngữ hình thành do nhu cầu của xã hội và vì
xã hội. Từ được sinh ra để gọi tên các sự vật hiện tượng trong đời sống khách
quan, và để phân biệt sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác. Vì lẽ đó,
khi mới ra đời, từ chỉ có một nét nghĩa đơn nhất, chẳng hạn như các từ đơn giản,
thường gặp trong đời sống: “Bàn”, “ghế”, “sách”, “vở”…, “con đường”, “hàng
cây”,… GS. TS Đỗ Hữu Châu đã chỉ ra từ là một cấp độ nhỏ trong lòng ngôn
ngữ: “Cấp độ từ vựng là cấp độ gồm các đơn vị thường được gọi là từ. Đó là
những đơn vị hai mặt, có hình thức âm thanh, có ý nghĩa, và khả năng trực tiếp
kết hợp với nhau để cho các câu cụ thể, gặp trong khi nói và viết” (Đại cương
ngôn ngữ học, tập 2, NXBGD, H, 1993).
Theo tác giả, từ ngữ trong tác phẩm thường nằm trong các trường hợp ngữ
nghĩa sau:
- Từ ngữ được dùng trong các nghĩa chính sau nghĩa phụ, và chỉ dùng
trong nghĩa đó, tức là cái được trực tiếp nói tới trùng với cái mà nghĩa
của từ biểu thị. Đó được gọi là nghĩa cơ bản hay nghĩa thực.
- Từ ngữ được dùng trong nghĩa tu từ và chỉ có nghĩa tu từ. Có nghĩa là
cái được nói tới không trùng với nghĩa chính hoặc nghĩa phụ của từ mà
là cái được nêu ra trong tác phẩm theo các phương thức chuyển nghĩa
2
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
khác nhau. Trường hợp này người ta còn gọi là từ mang nghĩa biểu

trưng.
- Từ ngữ vừa được dùng trong nghĩa chính, vừa dùng trong nghĩa bóng
tu từ, tức là vừa thuộc trường hợp thứ nhất, vừa thuộc trường hợp thứ
hai (vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa biểu trưng).
(Đỗ Hữu Châu - Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXBGD, H,
1981)
Hai trường hợp sau nghĩa chuyển của từ chuyển đổi dựa theo phương thức
chuyển nghĩa, là “sự sáng tạo các hình ảnh ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật
bằng cách chuyển đổi ý nghĩa của từ và hình ảnh để tạo ra các giá trị biểu cảm
mong muốn” (Từ điển thuật ngữ văn học, NXBGD, 1992).
Ý nghĩa của từ chính là sự vật hiện tượng tồn tại trong thực tế khách quan
phản ánh vào ngôn ngữ thông qua nhận thức chủ quan của con người.Ban đầu,
từ chỉ có một nghĩa gốc, một nghĩa đen, nhưng trong quá trình phát triển của xã
hội con người nhận thức các sự vật hiện tượng trong đời sống không phải chỉ với
những giá trị thực dụng mà còn nhận thức về những giá trị văn hoá, giá trị tinh
thần của những đối tượng đó. Từ đó mà từ mang trong mình những nét nghĩa
phát sinh. Đa số các từ trong tiếng Việt đều mang từ hai nét nghĩa trở lên. Các
nét nghĩa được tập hợp theo một quy tắc nhất định và có mối quan hệ hết sức
chặt chẽ với nhau. Tập hợp các nét ý nghĩa đó của từ được gọi là cấu trúc nghĩa
của từ.
Giá trị văn hoá, giá trị tinh thần tạo nên ý nghĩa của từ không chỉ gồm
những hiểu biết lí tính về sự vật, mà nó còn bao hàm cả tình cảm, thái độ của xã
hội và con người. Với bất kì một thứ ngôn ngữ nào trên thế giới, số từ của nó dù
có phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng chỉ có giới hạn trong khi nhận thức
của con người luôn phát triển và không có điểm dừng. Trong quá trình sống và
làm việc, vì con người luôn tự làm giàu cho nhận thức của mình nên những khái
niệm sẵn có không đủ đáp ứng sự phát triển nhận thức của con người. Vì vậy,
bản thân thực tế đời sống đòi hỏi những khái niệm phải tăng lên để đáp ứng nhu
3
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A

Ngữ văn
cầu, nhưng trí nhớ của con người lại có giới hạn. Do đó con người đã dùng ngay
những từ sẵn có để biểu đạt những khái niệm mới. Tính nhiều nghĩa của từ, tức
là khả năng từ có thể dùng nhiều nghĩa xuất hiện. Nguyễn Thiện Giáp đã khẳng
định: “Ngôn ngữ có một quy luật tiết kiệm vô cùng kì diệu là dùng cái hữu hạn
để thể hiện cái vô hạn… Về mặt từ vựng, quy luật tiết kiệm của ngôn ngữ thể
hiện ở chỗ: Cùng một hình thức ngữ âm có thể diễn đạt được nhiều nội dung
khác nhau. Vì vậy hiện tượng đa nghĩa được xem như một quy luật phổ quát của
ngôn ngữ”. (Từ vựng học tiếng Việt, NXB ĐH THCN, H, 1985).
Tính nhiều nghĩa của từ còn được xem là một qui luật khách quan của quá
trình ngôn ngữ, nó là “kết quả của sự chuyển biến ý nghĩa của từ”
(Đỗ Hữu Châu - Từ vựng nghĩa tiếng Việt, NXB GD, H, 1981).
Trong ngôn ngữ đời sống, một từ mang nhiều nét nghĩa là điều rất phổ
biến và thường gặp. Trong ngôn ngữ văn chương, tính nhiều nghĩa của từ càng
phong phú hơn. Vì thông qua lăng kính sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ, nhà
văn, mỗi từ trong tác phẩm đặt trong mối quan hệ với các từ khác cùng văn cảnh
không chỉ mang nét nghĩa cơ bản – nghĩa từ vựng mà còn có nghĩa hàm ẩn trong
chiều sâu của nó. Bởi vì khi sáng tạo, cùng với tài năng người nghệ sĩ đã gửi
gắm vào đó ý đồ sáng tác, những tâm tư tình cảm và cảm quan nghệ thuật của
riêng mình.
Việc chuyển biến ý nghĩa của từ góp phần quan trọng vào việc sáng tạo
nghệ thuật, như Hoàng Tuệ đã nói: “Quá trình chuyển nghĩa là quá trình biểu
trưng hoá của tín hiệu, một quá trình vốn có nguồn gốc tâm lí của nó trong đời
sống xã hội và được ghi lại một cách tế nhị và độc đáo trong ngôn ngữ”. (Tín
hiệu và biểu trưng, Báo văn nghệ số 11, 1947).
2: Một số vấn đề lí luận về tín hiệu thẩm mỹ.
2.1: Tín hiệu
Để tìm hiểu về từ - tín hiệu thẩm mĩ, trước tiên cần phải tìm hiểu về tín
hiệu. Theo P. Guiraud: “Một tín hiệu… là một kích thích mà tác động của nó đến
cơ thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác” (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu –

4
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
“Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng”, NXB ĐH TNCN, H, 1987). Như vậy, tất cả
những hình thức vật chất có khả năng gợi ra hình ảnh mặc nhiên đều được coi là
tín hiệu, không phân biệt nguồn gốc tự nhiên hay nhân tạo, có chức năng giao
tiếp hay phi giao tiếp.
Ngôn ngữ nghệ thuật có mối quan hệ mang tính chất có lí do, đòi hỏi giải
thích quan hệ giữa chất liệu và nội dung. Các hình thức chất liệu bao gồm nhiều
cấp độ: Các rừ ngữ, kiểu kết cấu, kiểu quan hệ của văn bản nghệ thuật. Và ý
nghĩa nghệ thuật được biểu hiện thông qua hình thức chất liệu đó. Để giải thích
được mối quan hệ đó thì luôn phải đặt các yếu tố ngôn ngữ nghệ thuật trong một
hệ thống các yếu tố văn bản, hệ thống các yếu tố phong cách tác giả, đồng thời
trong hệ thống các yếu tố ngôn ngữ và phông văn hóa (tức mối quan hệ liên văn
bản). Chúng ta có thể xác định ý nghĩa ý nghĩa tín hiệu của ngôn ngữ trên tất cả
những đơn vị mang nghĩa từ “từ” đến “cụm từ”, “câu”, “đoạn”, “văn bản”. Mỗi
từ, ngữ, câu nói nào đó có thể vừa mang những thông tin về sự vật, hiện tượng
được nói tới, vừa bộc lộ những đặc điểm về địa phương, về nghề nghiệp, trạng
thái tâm lí người nói… Nhưng dù ở bất kì cấp độ nào thì một tín hiệu ngôn ngữ
cũng phải bao hàm một hình thức ngữ âm (cái biểu hiện) tương ứng với một nội
dung ngữ nghĩa (cái được biểu hiện), và ở bất kì cấp độ nào giá trị tín hiệu của
ngôn ngữ cũng phải do những mối quan hệ thuộc hệ thống ngôn ngữ quy định.
Nếu ngôn ngữ toàn dân, ngôn ngữ phi nghệ thuật có chức năng giao tiếp
là chủ yếu thì ngôn ngữ nghệ thuật lại được nhấn mạnh ở chức năng thẩm mĩ.
Chức năng thẩm mĩ của ngôn ngữ trong các tác phẩm văn học là ở chỗ các tín
hiệu ngôn ngữ là yếu tố tạo thành của hình tượng. Từ các tín hiệu thẩm mĩ đó
chúng ta sẽ khám phá được vẻ đẹp của văn chương.
2.2: Tín hiệu thẩm mĩ.
2.2.1: Khái niệm tín hiệu thẩm mĩ.
Bước vào thế giới nghệ thuật, các tín hiệu thông thường sẽ chuyển hoá

thành tín hiệu thẩm mĩ, mang nhiều đặc thù riêng biệt của nghệ thuật. Các nhà
5
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
nghiên cứu về tín hiệu thẩm mĩ đều thống nhất thừa nhận “tín hiệu thẩm mĩ là
yếu tố thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện của nghệ thuật”.
“Những phương tiện nghệ thuật được tập trung theo một hệ thống tác
động thẩm mĩ, được chúng ta tiếp nhận như là những tín hiệu đặc biệt, có khả
năng kích thích mạnh mẽ thế giới tinh thần của chúng ta” (Iu.A.Philipiep –
Ngôn ngữ tín hiệu của thông tin thẩm mĩ). “Phương tiện nghệ thuật” ở đây gồm
hai mặt: Mặt thể chất và mặt tinh thần. Mặt tinh thần trừu tượng và phức tạo
hơn, có thể gắn với hiện thực vật chất trong một nội dung hiện thực cụ thể nào
đó, những cái làm nên giá trị nghệ thuật lại nằm ở sức khái quát của nội dung
hiện tượng “đồ sộ hơn rất nhiều so với ý nghĩa của bản thân thực tế, cuộc sống”
(Iu.A.Philipiep).
Tác giả Trương Thị Nhàn quan niệm: “Tìm hiệu thẩm mĩ chính là toàn bộ
những yếu tố hiện thực, những chi tiết, những sự vật hiện tượng của đời sống
được đưa vào tác phẩm vì mục đích thẩm mĩ” (Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các
tín hiệu thẩm mĩ không gian trong ca dao, Luận án phó tiến sĩ năm 1995).
Trên cơ sở các ý kiến, các quan niệm về tín hiệu thẩm mĩ, Phạm Thị kim
Anh đã đề xuất một định nghĩa có tính tác nghiệp về tín hiệu thẩm mĩ như sau:
“Tín hiệu thẩm mĩ là tín hiệu thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện của các
ngành nghệ thuật, bao gồm toàn bộ yếu tố của hiện thực, của tâm trạng (những
chi tiết, những sự vật, hiện tượng, những cảm xúc… thuộc đời sống hiện thực và
tâm trạng), những yếu tố của chất liệu màu sắc với hội hoạ; âm thanh, nhịp điệu
với âm nhạc… được lựa chọn và sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật vì mục đích
thẩm mĩ”. (Tín hiệu thẩm mĩ thuộc trường nghĩa cây trong thơ Việt Nam, Luận
án tiến sĩ năm 2005, ĐHSPHN).
Theo GS. TS Đỗ Hữu Châu thì tín hiệu thẩm mĩ là phương tiện, nhưng là
“phương tiện sơ cấp” của văn học. Ngôn ngữ (chất liệu) trong văn học chỉ là

hình thức, cái hiểu hiện của tín hiệu thẩm mĩ. Để trả lời câu hỏi “Thế nào là một
tín hiệu thẩm mĩ?” tác giả chủ trương căn cứ vào sự tương ứng của tín hiệu thẩm
mĩ với các “vật qui chiếu” thuộc thế giới hiện thực. Chẳng hạn như một cánh cò,
6
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
một con thuyền, một dòng sông… Tín hiệu thẩm mĩ là cái “được tác giả lựa
chọn từ thế giới hiện thực mà xây dựng nên, sáng tạo ra”. Từ các “vật qui chiếu”
của thế giới hiện thực thông qua lăng kính sáng tạo nghệ thuật của nhà văn mà
chúng trở thành các tín hiệu thẩm mĩ.
Như vậy có thể khẳng định tín hiệu thẩm mĩ là toàn bộ những yếu tố hiên
thực, những chi tiết, sự vật hiện tượng của đời sống được đưa vào tác phẩm và
mục đích thẩm mĩ.
2.2.2: Những đặc trưng của tín hiệu thẩm mĩ.
2.2.2.1: Đặc tính về nguồn gốc
Tín hiệu thẩm mĩ có nguồn gốc trước hết từ thế giới hiện thực, thế giới
tâm trạng, gồm những chi tiết, những sự vật hiện tượng, trạng thái có trong đời
sống khách quan, đời sống tinh thần được nghệ sĩ lựa chọn và sáng tạo vì mục
đích thẩm mĩ.
Tín hiệu thẩm mĩ còn có nguồn gốc từ những tưởng tượng lôgíc hoặc phi
lôgíc của trực giác, vô thức… của người nghệ sĩ. Vì vậy cần phải xác định xem
nó được qui chiếu từ nguồn gốc - hiện thực nào, từ thế giới thực hay thế giới ảo
mà Đỗ Hữu Châu gọi chung là “thế giới khả hữu”.
Dù có nguồn gốc như thế nào, khi các tín hiệu được trình bày phục vụ cho
một tưởng thẩm mĩ nhất định, được nhân thức bởi một chủ thể thẩm mĩ nhất
định thì đều trở thành những tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm văn học.
2.2.2.2: Đặc tính về cấp độ.
GS.TS Đỗ Hữu Châu phân biệt tín hiệu thẩm mĩ ở hai cấp độ cơ bản:
- Cấp độ cơ sở (tín hiệu đơn): Tín hiệu tương ứng với một chi tiết, một
sự vật hiện tượng thuộc thế giới khách quan: Mặt trời, con thuyền, nỗi

nhớ… Đó là các tín hiệu cơ sở có chức năng tham gia cấu tạo nên tín
hiệu thẩm mĩ ở cấp độ cao hơn. Cái biểu hiện – tín hiệu ở cấp độ cơ sở
này có thể tương ứng với đơn vị từ trong tín hiệu ngôn ngữ.
- Cấp độ xây dựng (Tín hiệu phức): Là loại tín hiệu thẩm mĩ ứng với
nhiều sự vật, hiện tượng… được xây dựng từ những tín hiệu đơn
7
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
nhưng ý nghĩa không phải là kết quả của phép cộng dơn giản các tín
hiệu đơn. Cái biểu hiện của tín hiệu văn chương – tín hiệu ở cấp độ
xây dựng này có thể tương ứng với các đơn vị câu, đoạn, văn bản trong
hệ thống các tín hiệu ngôn ngữ.
Tín hiệu thẩm mĩ được xét trong đề tài của chúng tôi là những tín hiệu
đơn. Mỗi tín hiệu ứng với một yếu tố hiện thực (vườn, hoa, lá) và được cụ thể
hoá bằng các đơn vị ngôn ngữ nhất định.
2.2.2.3: Đặc tính tác động
Đặc tính tác động thể hiện trong bản chất của tín hiệu là một “kích thích
vật chất” tác động vào kí ức hình thành nên những hình tượng nghệ thuật có sức
mở rộng, lan toả đến vô cùng.
Đặc tính này còn thể hiện chức năng giao tiếp nghệ thuật mang tính đối
thoại đặc thù của tín hiệu thẩm mĩ. Tín hiệu thẩm mĩ bao giờ cũng hướng tới chủ
thể tiếp nhận. Sự tác động của tín hiệu thẩm mĩ đem lại hiệu quả cho giao tiếp
giúp các bên đối tác tự bộc lộ, tự biến đổi nhân thức, tình cảm, hành vi ứng xử…
2.2.2.4: Đặc tính biểu hiện (tính thông tin – miêu tả).
Đây là đặc tính quan trọng liên quan đến sự thực hiện chức năng chung
của nghệ thuật, chức năng phản ánh hiện thực. Tín hiệu thẩm mĩ phải mang
những nội dung hiện thực, gắn với hiện thực. Theo GS.TS Đỗ Hữu Châu tín
hiệu thẩm mĩ phải ứng với một sự vật hiện tượng nào đó trong thế giới hiện
thực, phải có “vật quy chiếu” trong thế giới hiện thực… Sự biểu hiện (hay thông
tin – miêu tả) hiện thực của tín hiệu thẩm mĩ trong các ngành nghệ thuật khác

nhau (hội hoạ, âm nhạc, văn học) đều dựa trên năng lực miêu tả, thay thế, tái
hiện, dẫn các sự vật hiện tượng trong đời sống khách quan vào trong tác phẩm.
Trong hội hoạ là những đường nét, màu sắc của hiện thực. Trong văn học là
những từ ngữ, kết cấu mang nội dung biểu vật, biểu niệm nhất định, gắn với
hiện thực…
2.2.2.5: Đặc tính biểu cảm (bộc lộ).
8
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
Tín hiệu thẩm mĩ là sản phẩm lao động nghệ thuật trong trạng thái cảm
hứng - thẩm mĩ cao độ. Vì thế tín hiệu thẩm mĩ phải bao hàm những thông tin về
cảm xúc, thái độ, về sự đánh giá, về tư tưởng thẩm mĩ của người nghệ sĩ. Trong
tín hiệu thẩm mĩ, cảm xúc vốn là cái chủ quan của chủ thể sáng tạo đã được
khách quan hoá thành một thành phần quan trọng của cơ cấu ngữ nghĩa tín hiệu
thẩm mĩ. Cảm xúc ấy có khả năng khơi gợi sự đồng cảm cao độ ở người tiếp
nhận, là kết quả của sự hoà quyện đồng điệu giữa tình cảm chủ thể cá nhân tác
giả với tình cảm khách thể mang tính nhân loại đã được hình thức hoá, nghệ
thuật hoá. Từ đó, chủ thể tiếp nhận mới có thể cảm thụ và lí giải được tín hiệu
thẩm mĩ.
2.2.2.6: Đặc tính biểu trưng.
Đây là đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ xét trong mối quan hệ hai mặt cái
biểu hiện và cái được biểu hiện. Đó là mối quan hệ “có lí do” liên quan đến năng
lực biểu trưng hoá của các yếu tố, các chi tiết, các sự vật hiện tượng được đưa
vào làm tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm. Pierce cho rằng: “Biểu trưng có quan
hệ với đối tượng của nó chỉ qua một nghĩa có tính chất ước lệ mà người ta “gán”
cho nó trong một hoàn cảnh nào đó… Nghĩa đó là do con người trong cộng
đồng đặt ra mà thôi”. Tính chất ước lệ này chỉ ra những lí do về mặt lịch sử xã
hội trong việc sử dụng các biểu trưng, chỉ ra việc lựa chọn chất liệu – cái biểu
hiện nào làm biểu trưng đều có lí do. Biểu trưng, một mặt có tính hình tượng cụ
thể, cái biểu hiện nó là một đối tượng nào đó được qui chiếu từ hiện thực. Mặt

khác, là ý nghĩa xã hội nào đó được cả cộng đồng chấp nhận.
2.2.2.7: Tính truyền thống và cách tân.
GS.TS Đỗ Hữu Châu khẳng định: “Truyền thống và cách tân là hai
phương diện biện chứng của tín hiệu thẩm mĩ”. Truyền thống là “những thông
tin - ngữ nghĩa của tín hiệu thẩm mĩ đã được kí mã sẵn” trong tâm lí nghệ thuật
dân tộc. Nói đến truyền thống là nói đến tính cố định, tính kế thừa, đến sự “có
sẵn” của tín hiệu thẩm mĩ trong kho tàng nghệ thuật dân tộc.
9
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
Tính cách tân của tín hiệu thẩm mĩ thể hiện ở sự đổi mới, sự sáng tạo khi
sử dụng tín hiệu thẩm mĩ trong mỗi tác phẩm. Không có cách tân, tín hiệu thẩm
mĩ sẽ trở lên bị mài mòn, mất giá trị gợi hình tượng, gợi cảm xúc. Bên cạnh đó,
đặt trong mối quan hệ tương quan với truyền thống, những nét mới mẻ độc đáo
ở mỗi tín hiệu thẩm mĩ mới được bộc lộ. Khi đề cập đến các tín hiệu thẩm mĩ
trong thơ Nguyễn Bính, Đoàn Hương cho rằng việc cách tân, cải tạo một tín
hiệu thẩm mĩ có sẵn khó khăn không kém việc sáng tạo ra một tín hiệu thẩm mĩ
mới.
2.2.2.8: Tính hệ thống.
Hệ thống của tín hiệu thẩm mĩ trước hết là tác phẩm, là hình tượng được
nó góp phần cấu thành. Tính hệ thống là một đặc tính quan trọng của tín hiệu
thẩm mĩ. Tín hiệu thẩm mĩ phải thuộc về hệ thống và chịu sự chi phối của các
yếu tố khác trong hệ thống. Chúng ta chỉ có thể hiểu được một tín hiệu thẩm mĩ
khi đặt nó vào trong hệ thống, nếu tách rời tín hiệu thẩm mĩ khỏi hệ thống sản
sinh ra nó, bao chứa nó thì sẽ có cách đánh giá sai lạc.
3: Khái quát chung về từ - tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm văn học.
Như chúng ta đã biết, đa số các từ trong tiếng việt đều có từ hai nét nghĩa
trở lên. Bên cạnh nghĩa gốc, nghĩa từ vựng, từ còn mang nét nghĩa hàm ẩn trong
chiều sâu không dễ gì nhìn thấy trên bề mặt câu chữ. Những nét nghĩa ấy mới
chính là ý nghĩa đích thực của từ ngữ trong tác phẩm văn học, mà để khám phá

ra đòi hỏi chủ thể tiếp nhận phải có độ tinh nhạy và khả năng cảm thụ đặc biệt,
khả năng phân tích ngữ nghĩa. Những từ đó không đơn thuần là vỏ vật chất của
ngôn ngữ mà là từ mang ý nghĩa thẩm mĩ đặc biệt, là từ - tín hiệu thẩm mĩ trong
tác phẩm văn học.
Từ - tín hiệu thẩm mĩ phân biệt với các từ ngữ thông thường khác ở chỗ ý
nghĩa của nó không bao giờ chỉ dừng lại ở phạm vi tái tạo hiện thực, gọi tên hiện
thực như nó vốn có mà là sự lồng ghép một khái quát nghệ thuật về một tưởng,
một ý nghĩa thẩm mĩ theo chủ quan của người nghệ sĩ.
10
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
Ngôn ngữ khi đã trở thành ngôn ngữ văn chương nó có những đặc thù
riêng, là phương tiện phản ánh của tác phẩm. Nó không tồn tại một cách độc lập
mà có mối quan hệ khăng khít về cấu tạo cũng như ý nghĩa với các từ đứng
trước và sau nó. Vì vậy khi nghiên cứu các từ - tín hiệu thẩm mĩ trong văn học
cần phải đặt chúng trong hệ thống. Cần tránh việc đưa ra những nhận xét, những
kết luận mang tính võ đoán về các từ - tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm văn học.
Bên cạnh đó cũng cần khẳng định thêm rằng ý nghĩa của một từ - tín hiệu
thẩm mĩ trong sáng tác văn học không phải luôn ổn định và bất biến mà có sự
biến đổi cho phù hợp với ngữ cảnh và ý đồ sáng tạo của tác giả, có sự xê dịch
trong cảm nhận của con người trong từng thời đại. Như vậy có thể khẳng định
tín hiệu thẩm mĩ là tín hiệu của cái đẹp, của những giá trị nghệ thuật đầy tính
sáng tạo, đòi hỏi khả năng liên tưởng của cả người sáng tạo lẫn người tiếp nhận.
CHƯƠNG II: KHẢO SÁT, THỐNG KÊ VÀ PHÂN LOẠI
Chế Lan Viên là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ ca Việt
Nam thế kỉ xx. Ông có một trí tuệ sắc sảo, một hồn thơ đa dạng. Điều này được
biểu hiện trên mọi phương diện trong sáng tác của ông. Đặc biệt là việc sáng tạo
hình ảnh. Nhiều hơn cả trong thế giới hình ảnh thơ Chế Lan Viên là những hình
ảnh mang nghĩa tượng trưng. Hầu như tất cả các bài thơ của ông đều có những
hình ảnh mang nghĩa biểu trưng như vậy: Con tàu; Vầng trăng, hoa, mưa… trời

xanh tuy không phải là tín hiệu xuất hiện với tần số lớn nhất nhưng cũng là tín
hiệu mang nhiều giá trị thẩm mĩ mới mẻ sâu sắc.Qua những nghĩa biểu trưng
của tín hiệu này, người đọc cũng hiểu phần nào về tâm hồn thơ Chế Lan Viên.
I: KẾT QUẢ THỐNG KÊ PHÂN LOẠI
a. Thống kê:
Tín hiệu trời xanh xuất hiện trong thơ Chế Lan Viên với một tần số khá
lớn. Tuy không phải là tín hiệu xuất hiện với tần số lớn nhất nhưng có thể nói là
một trong những tín hiệu mang nhiều ý nghĩa thẩm mĩ màu sắc. Tín hiệu này
11
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
xuất hiện phần lớn ở dạng trực tiếp là trời xanh và một số các biến thể như:
Ngọc biếc, sắc biếc, thanh thiên…
Tín hiệu này xuất hiện mang những ý nghĩa sinh động, có khi nằm ngoài
mẫu gốc, mang những nét nghĩa có thể tương đồng, có thể đối lập nhau. Để có
cái nhìn một cách tổng thể chúng tôi lập bảng thông kê về tần số xuất hiện và ý
nghĩa biểu trưng của biểu tượng sau đây. Tuy nhiên bảng thống kê và các nét
nghĩa cũng chỉ mang những nét nghĩa tương đối.
Chú giải:
a: Trời xanh biểu trưng cho một thế giới bát ngát, vĩnh hằng, cho con người lối
thoát.
b: Trời xanh biểu trưng cho niềm vui, vẻ đẹp, niềm khát khao hi vọng.
Tín hiệu
Trời xanh (các biến thể: trời biếc, sắc ngọc, thiên thanh, sắc biếc…)
hướng nghĩa
Các tập thơ
a b c d đ e g h tổng
Tần số
xuất
hiện

Điêu tàn 1 2 2 1 6
Gửi các anh 1 1
Ánh sáng và phù sa 2 3 18 7 1 1 32
Hoa ngày thường - chim báo bão 5 1 2 1 9
Những bài thơ đánh giặc 2 1 1 4
Đối thoại mới 2 4 13 2 2 3 26
Hoa trước lăng Người 1 1
Hái theo mùa 2 2
Di cảo thơ 2 1 1 2 2 1 9
Hoa trên đá 3 2 1 6
Tổng số 7 13 19 31 6 7 6 7 96
12
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
c: Trời xanh biểu trưng của những hình ảnh thiêng liêng gần gũi.
d: Trời xanh biểu trưng cho độc lập, tư do, lí tưởng sự kiên cường bất khuất của
nhân dân.
d: Trời xanh biểu trưng của tội ác man dợ của quân thù.
e: Trời xanh biểu trưng cho đầu tuyến lửa, cho miền Nam ruột thịt.
g: Trời xanh biểu trưng cho quá khứ.
h: Trời xanh biểu trưng cho tâm hồn thi sĩ.
3: Nhận xét :
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy tín hiệu trời xanh xuất hiện trong 10
tập thơ trên tổng số 11 tập thơ của Chế Lan Viên với tất cả là 96 lần. Chỉ có tập
“Ta gửi cho mình” là không xuất hiện tín hiệu này. Số lần tín hiệu trời xanh
xuất hiện trực tiếp là 78 lần, còn gián tiếp với các biến thể là 18 lần.Trong đó có
8 biến thể từ vựng: Trời biếc,thanh thiên, sắc ngọc, khoảng biếc….
10 biến thể kết hợp: Trời đã xanh rồi, trời ta cú biếc, trời rất đỗi trong xanh, bầu
trời màu xanh xa,…
Tần số xuất hiện của trời xanh không đều trong các tập thơ. Chủ yếu nằm ở tập

“Ánh sáng và phù sa” (Xuất hiện cả trực tiếp và gián tiếp là 32 lần chiếm
32,6%) và “Đối thoại mới” (xuất hiện cả trực tiếp và gián tiếp là 26 lần chiếm
27,4%). Còn lại là trong các tập “Điêu tàn”, “Gửi các anh”, “Hoa ngày thường –
chim báo bão”, “Những bài thơ đánh giặc”, “Hoa trước lăng Người”, “Hái theo
mùa”, “Hoa trên đá”, xuất hiện 38 lấn chiếm tổng số 40%.)
Qua số liệu này điều nhận thấy trước tiên là tín hiệu trời xanh trong Chế
Lan Viên xuất hiện tương đối nhiều. Điều này báo trước tín hiệu này sẽ đóng vai
trò không nhỏ trong việc biểu hiện nội dung cũng như việc phản chiếu phần nào
con người và tâm hồn tác giả.
2: Các yếu tố đi kèm
2.1: Những danh từ đi kèm với từ trời xanh
2.1.1: Kết hợp trước với danh từ
13
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
Em (em trời xanh), bóng (trời xanh), màu (trời xanh), Quãng (Quãng trời
xanh), sắc (Sắc trời xanh), góc (góc trời xanh), ngày (ngày trời xanh), phía (phía
trời xanh), bầu (bầu trời xanh), mảng (mảng trời xanh)
2.1.2: Kết hợp sau với danh từ
Biên giới (Trời xanh biên giới), tổ quốc (Trời xanh tổ quốc), em ơi (Trời xanh
em ơi), tâm hồn (Trời xanh tâm hồn), tuổi thơ (Trời xanh tuổi thơ), cu gáy (Trời
xanh cu gáy).
2.2: Những động từ đi kèm với từ trời xanh.
2.2.1: Kết hợp trước với động từ.
Đến (Đến trời xanh), vào (vào trời xanh), là (là trời xanh), có (có trời xanh), yêu
(yêu trời xanh), nhìn (nhìn trời xanh), buồn (buồn trời xanh).
2.2.2: Kết hợp sau với động từ.
Theo (trời xanh theo), ghé (trời xanh ghé đến), bế bồng (trời xanh bế bồng),
khát vọng (trời xanh khát vọng), cho (trời xanh cho), thành (trời xanh thành),
chen (trời xanh chen), thủng (trời xanh thủng), như (trời xanh như), quyến

luyến (trời xanh quyến luyến)
2.3: Những tính từ đi kèm với từ trời xanh.
2.3.1: Kết hợp trước với tính từ.
Tiếc (tiếc trời xanh), biếc (biếc trời xanh), đen (đen trời xanh)
2.3.2: Kết hợp sau với tính từ.
14
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
Xanh (Trời xanh xanh), biếc (trời xanh biếc), ngời chói (trời xanh ngời chói),
nhức nhối (trời xanh nhức nhối), xa (trời xanh xa).
2.4: Những phụ từ kết hợp với từ trời xanh.
2.4.1: Kết hợp trước với phụ từ:
Dưới (dưới trời xanh), đây (đây trời xanh), lúc (lúc trời xanh), vẹn (vẹn trời
xanh), tựa (tựa trời xanh), lắm (lắm trời xanh)
2.4.2: Kết hợp sau với phụ từ.
Rất (trời xanh rất), ấy (trời xanh ấy), vậy (trời xanh vậy), hẳn (trời xanh hẳn),
thế (trời xanh thế), ngoài (trời xanh ngoài), ngang (trời xanh ngang), lại (trời
xanh lại), ở (trời xanh ở), trên (trời xanh trên), trong (trời xanh trong), của (trời
xanh của), đó (trời xanh đó), sau (trời xanh sau), hốt (trời xanh hốt), nhưng
(trời xanh nhưng).
2.5: Số từ kết hợp với từ “Trời xanh”
Một (một trời xanh), cả (cả trời xanh).
2.6: Tình thái từ kết hợp với từ trời xanh
Ới (trời xanh ới).
Nhận xét: Qua kết quả thống kê chúng ta thấy yếu tố đi kèm trước với từ trời
xanh thường là danh từ, động từ, phụ từ. Còn yếu tố đi kèm sau từ trời xanh
thường là phụ từ, động từ, và một số danh từ, tính từ.
15
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn

II: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGỮ NGHĨA.
Trong thơ Chế Lan Viên 96 lần từ trời xanh được xuất hiện như đã thống
kê ở trên vừa được sử dụng với nghĩa thực, vừa được sử dụng với nghĩa biểu
trưng. Nhưng nghĩa biểu trưng không cố định, bất biến mà nó luôn thay đổi tuỳ
theo hoàn cảnh xuất hiện, và tuỳ vào các mối quan hệ với cụm từ, câu. Nếu từ
tách khỏi câu thơ, tứ thơ thì nghĩa biểu trưng của từ ấy hoặc sẽ mờ đi hoặc sẽ trở
về nguyên vẹn với nghĩa gốc. Vì vậy khi khai thác các nét nghĩa của từ cần đặt
từ trong mối quan hệ với các quan hệ xung quanh nó.
Tuy nhiên “Nếu không có lớp ngôn ngữ đầu tiên vốn làm chỗ dựa cho con
người hoạt động có định hướng thì những loại ngôn ngữ nghệ thuật khác thuộc
màu sắc, đường nét, âm thanh không có điều kiện trở thành hiện thực”
(Khrapchencô). Điều đó có nghĩa là muốn hiểu được nghĩa biểu trưng, nghĩa
hàm ẩn chúng ta phải bắt đầu từ nghĩa gốc. Từ nghĩa nguyên gốc của từ mới có
thể khám phá được những nét đẹp thẩm mĩ của từ biểu thị. Vì lẽ đó, trước khi
tìm hiểu nghĩa biểu trưng của từ trời xanh trong thơ Chế Lan Viên trước tiên
cần tìm hiểu nghĩa gốc của nó.
Theo nghĩa từ điển:
Trời xanh:
I: Là một trạng thái của khí quyển, chỉ khoảng không gian bao quanh con người
đang trong trạng thái màu xanh như màu lá tươi.
II: Là chỉ lực lượng siêu nhân ở trên cao, có vai trò sáng tạo và quyết định vạn
vật ở trần gian theo tín ngưỡng của con người.
16
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
Nghĩa từ điển sẽ là cơ sở xuất phát giúp chúng ta tìm hiểu nét nghĩa biểu trưng
của từ thực sự đầy đủ và đúng đắn.
Theo tín ngưỡng văn hoá nhân loại:
Trời xanh là một từ ghép, khi từ này đứng độc lập thì luôn có nghĩa để chỉ
bầu trời nhưng khi đặt vào hoàn cảnh sử dụng cụ thể trực tiếp trong mối quan

hệ với các yếu tố xung quanh thì trời xanh có khi chỉ bầu trời có khi lại chỉ
màu xanh. Vì vậy khi đi tìm hiểu nghĩa trời xanh trong văn học nhân loại
chúng tôi cũng căn cứ trên cả hai nghĩa đó.
Khi tín hiệu trời xanh chỉ trời thì tín hiệu này gần như mang nghĩa phổ
quát mà qua đó con người thể hiện niềm tin vào thần thánh ở trên cao, người
sáng tạo ra vũ trụ và bảo đảm cho sự phì nhiêu của đất. Từ đó có nghĩa là
trời xanh biểu hiện trực tiếp của cái siêu tại, biểu tượng cho uy quyền, cho
sự vĩnh hằng, cho những điều thiêng liêng nhất mà không một sinh vật nào
trên mặt đất này có thể đạt được. Đồng thời tín hiệu này còn có ý nghĩa là sự
vô tận, từ đó tất cả những gì diễn ra trong khoảng không gian này, sự chuyển
động của các yếu tố tinh cầu, mây bay , bão táp… đều mang nghĩa biểu hiện
sự hiển linh vô tận ấy.
Ngoài ra trong quan niệm của nhân loại thì trời xanh chỉ trời còn là biểu
tượng của những uy lực tối cao đối với con người, khi là sự ban ân thiện chí
lúc lại là hậu hoạ đáng sợ. Hay nó có thể được coi là cái ô, cái lọng lớn để
che nắng cho nhân loại. Rồi nó cũng có thể là con chim bồ câu nhỏ để mang
nghĩa tượng trưng lớn là đem hoà bình, tự do đến cho con người, cho nhân
loại. Chữ trong Hán ngữ biểu thị cái mà con người đội lên đầu mình.
Đó là những uy lực bao la không thể dò được và càng không thể khống chế.
trời xanh cũng là nơi cực lạc, là nơi ở của các thánh nhân vì vậy nó mang
nghĩa niềm vui, cái đẹp, cho hạnh phúc mà con người vẫn khát khao đạt
được.
17
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
Trời xanh trong quan niệm của con người còn là biểu tượng của tâm hồn
hay cụ thể hơn là biểu tượng của lương tâm, lương tri, cho cả những hoài bão
của con người. Và ta cũng hiểu vì sao mà người ta lại nghĩ “sấm sét xé trời
lại là tượng trưng đích thực cho sự khai mở tinh thần,sự thức tỉnh lương tri”.
(Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới).

Nhưng khi trời xanh chỉ màu xanh thì tín hiệu này ngoài những nghĩa đã
nói trên còn tượng trưng cho sự chia cắt. Theo quan niệm của phật giáo Tây
Tạng, màu xanh da trời là sự Hiển minh siêu nghiệm của tiềm năng. Ánh
sáng xanh của sự Hiền minh ấy mang sức mạnh chói chang nhưng chính nó
đã mở đường giải thoát. Và chính cái màu trời này là màu của khó hiểu, xa
lắc, gợi lên những liên tưởng mới. Đặc biệt trong ngôn hành dân gian thì màu
này có khi còn mang nỗi sợ hãi, tiêu cực.
Như vậy, trong văn hoá nhân loại, trời xanh là một tín hiệu đa chiều, gợi
nhiều ý nghĩa, khơi nguồn cho những sáng tạo văn học của các dân tộc trên
thế giới.
CHƯƠNG III: CÁC NÉT NGHĨA BIỂU TRƯNG CỦA TỪ “TRỜI
XANH” TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN
I: Các nét nghĩa biểu trưng của trời xanh trong thơ Chế Lan Viên
Chế Lan Viên là nhà thơ có nhiều thăng trầm trong cả đời tư lẫn sự nghiệp. Thơ
của ông cũng luôn vận động để phù hợp với từng chặng đường, từng thời đại.
Khi là một cái tôi cô đơn, mặc cảm, khi là cái Ta hối hả hoà nhập với cuộc đời,
thời cuộc, lúc lại ngậm ngùi chiêm nghiệm về những gì đã qua về thơ, về đời…
Nhưng vẫn có những yếu tố ổn định nhất quán đó là chất trí tuệ thông minh sắc
sảo, một tri thức rất phương đông mà cũng thật phương tây. Chế Lan Viên vì
vậy có cách tiếp cận riêng với đời sống. Ông khám phá sự vật, hiện tượng không
dừng ở cảm xúc, bề ngoài mà luôn nhìn sự vật “ở cái bề sâu, cái bề sau, cái bề
18
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
xa”. Vì vậy các ý nghĩa biểu trưng, hàm ẩn chứa đựng trong những từ ngữ, hình
ảnh ông dùng đều hết sức sâu sắc.
Qua việc tìm hiểu những ý nghĩa biểu trưng của trời xanh trong thơ Chế
Lan Viên sẽ giúp chung ta rõ hơn về một phong cách nghệ thuật rất riêng của thi
sĩ. Thực tế trời xanh không chỉ xuất hiện nhiều trong thơ Chế Lan Viên mà
cũng thường xuất hiện trong sáng tác của các nhà thơ khác. Nhưng với trời

xanh trong Chế Lan Viên thì thực sự có một nỗi niềm riêng rất đáng để chung ta
lưu ý.
1: “Trời xanh” biểu trưng cho một thế giới bát ngát, vĩnh viễn, cho con người
hướng giải thoát.
Biểu tượng trời xanh mang nghĩa biểu trưng này xuất hiện 9 lần chiếm 9,5%
tổng số. Với nét nghĩa này trời xanh không nằm tập trung ở bất cứ tập thơ nào,
giai đoạn sáng tác nào mà nó xuất hiện giải rác từ tập “Điêu tàn”- thuở 17 tuổi
đến tập “Di cảo thơ” - những năm cuối đời. Điều này đã phản ánh một thực tế,
dù ở bất cứ giai đoạn sáng tác nào thì tâm hồn của nhà thơ họ Chế này vẫn còn
những điều uẩn khúc, những bế tắc mà không thể dùng bất cứ hiện thực nào lí
giải được, cũng không một ai có thể giúp nhà thơ tháo gỡ những vướng mắc ấy.
Vì thế trời xanh xuất hiện tựa hồ như một vị thần siêu hình có khả năng giải
thoát mọi uẩn khúc kia.
- Tôi đi giữa siêu hình
Như đất này lợm mửa
Trời xanh màu cứu khổ
Tôi lao vào trời xanh
(Ngoảnh lại mười lăm năm)
- Mà nay ta đau
Trời xanh ghé đến
Chỉ một lòng riêng
19
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
(Đi ra ngoại ô)
Nhưng cũng có khi, nỗi trăn trở về thế giới xung quanh mình tại sao đặc một
màu u ám, rối loạn, nhà thơ cất tiếng gọi trời như tìm đến một sự giải thoát
nhưng cõi siêu hình ấy cũng câm lặng, không tín hiệu phản hồi để tâm hồn
kia vẫn hoàn toàn lạc lõng cô đơn trước thực tại.
“Trời xanh hỡi! Trời xanh khôn nói

Hồn tôi muốn hiểu chẳng cùng cho”
(Đọc sách)
Và cứ như thế trời xanh luôn theo sát từng bước trong sáng tác của Chế Lan
Viên trở thành tôn giáo, linh hồn của ông.
“Con ơi cha từng yêu trời xanh như tôn giáo của trời
Và nước biếc như ái tình của nước”
(Tuyên bố của mỗi lòng người, khẩu súng, cành hoa)
Với nhà thơ thì bầu trời xanh ấy là một thế giới vĩnh hằng bất biến, là điểm
tựa duy nhất, chốn đỗ bình yên cho tâm hồn ông những lúc lòng trăn trở và
cùng đường:
“Dù là ngọc thì cũng nhiều viên ngọc
Chứ đâu phải cứ xanh xanh vĩnh viễn một màu trời”
(Sổ tay thơ)
2: “Trời xanh” biểu trưng cho niềm vui, vẻ đẹp, sự hy vọng
Trong cảm xúc thơ Chế Lan Viên có sự hoà hợp của hai thái cực vui và
buồn. Nỗi buồn đồng nghĩa với sự cô đơn, lạc lõng, với những trăn trở về đời về
thơ, niềm vui đồng nghĩa với tình yêu, niềm hy vọng và sự chiến thắng. Trong
thơ ông nỗi buồn chiếm phần lớn nhưng niềm vui cũng không ít. Vì vậy trời
xanh còn biểu tượng cho niềm vui, vẻ đẹp, hi vọng… Ở nét nghĩa này tín hiệu
trời xanh xuất hiện tới 13 lần chiếm 12,6%.
Cũng như nét nghĩa thứ nhất của tín hiệu này, ở đây trời xanh cũng
không tập trung ở một tập thơ nào mà rải đều trong các tập, trong các thời kì
20
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
sáng tác. Trong thế giới “Điêu tàn” đầy quái đản, vẫn hiện lên một quá khứ đẹp
thanh bình, diễm lệ với những công trình uy nghi, sừng sững dưới trời xanh.
“Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng
Những đền đài tuyệt mĩ dưới trời xanh”
(Trên đường về)

Bao trùm cả tập “Điêu tàn” là nỗi chán chường, tuyệt vọng của thi nhân
với những ám ảnh về một thế giới ngập ngụa những bóng tối và cái chết.
Nhưng sau những ám ảnh dai dẳng ấy cũng có những giây phút trở về với
đời, hưởng niềm hân hoan trong sáng của phục sinh. Trời xanh – cái đẹp của
tự nhiên đã hoàn nguyên trở lại cho con người. Đây chính là những dòng thơ
đẹp nhất, vui nhất của “Điêu tàn”.
“Trưa lên trời. Và xanh thẳm bầu trời
Bỗng mê ly, nằm thấy trắng mây trôi”
(Trưa đơn giản)
Trời xanh được nhắc đi nhắc lại thể hiện cho một thứ tình yêu trong sáng và
tràn đầy hy vọng, thứ tình yêu duy nhất thấu hiểu và đồng cảm với nhà thơ.
- “Thăm thẳm trời cao thăm thẳm xanh
Anh trút tình thương trong sắc biếc
Ru cho em ngủ giấc trưa lành”
(Trưa )
- “Trời xanh ngoài cửa sổ
Như em xa mới về”
(Chim về)
Nhiều nhất là trời xanh mang vẻ đẹp hào hùng tự do trù phú của đất nước
Việt Nam.
- “Trời xanh nắng lộng
Cờ bay tây hồ”.
(Đi ra ngoại ô)
- “Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát”.
21
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
(Người đi tìm hình của nước )
- “Trời xanh xanh bao la
Bể ngời ngời sáng bạc”

(Ném thừng )
Đó là những vần thơ đẹp ca ngợi về tổ quốc, là hình ảnh một đất nước
sống động đáng tự hào xuất hiện khi tâm hồn nhà thơ đã bắt nhịp cùng với
đời sống của nhân dân. Khi nhà thơ rời bỏ “chân trời của một người” hăm hở
tìm đến “chân trời của mọi người”.
22
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
3: Trời xanh biểu trưng cho những hình ảnh gần gũi, thân thiết.
Trời xanh trong thơ Chế Lan Viên không chỉ là niềm vui, vẻ đẹp mà còn
là những hình ảnh rất gần gũi, thân thiết và thiêng liêng với nhà thơ. Xuất
hiện với 19 lần nằm trọn vẹn trong tập “Ánh sáng và phù sa” chiếm 14,7% và
mang nhiều nét nghĩa.
Trời xanh biểu tượng cho một tình nhân luôn gần gũi, yêu thương chia sẻ
cùng nhà thơ, theo nhà thơ suốt những chặng đường sáng tác. Vì vậy trời
xanh mang đầy đủ cung bậc cảm xúc của tình yêu, khi quyến luyến, khi hiền
hoà khi lại đẹp lung linh mê hồn.
- “Đi ra ngoại ô
Trời xanh ra với
Trời xanh theo ta
Hai bên tàu điện
Trời xanh quyến luyến
Như bầy chim ca”.
- “Trời xanh em ơi
Hiền như tuổi thơ
Lại về với anh”
- “Hỡi em trời xanh
Mang đôi mắt biếc”.
(Đi ra ngoại ô)
Có khi trời xanh lại biểu trưng cho tình mẫu tử thiêng liêng:

“Này đây trời xanh
Nuôi đời như mẹ
Ta làm con trẻ
Trời xanh bế bồng”.
(Đi ra ngoại ô)
23
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
Trong tâm hồn mỗi người có thể từ bỏ nhiều thứ nhưng riêng tình yêu và tình
mẫu tử thì ăn sâu vào máu thịt mỗi người. Tuy nhà thơ không nói trực tiếp về
những tình cảm thiêng liêng ấy nhưng đã mượn hình ảnh trời xanh để gián
tiếp khơi lên mạch cảm xúc nguồn cội và bất tử kia. Điều đó cho thấy thơ
Chế Lan Viên không chỉ là chất triết lí của một trí tuệ mang màu sắc khô
khan mà còn là nhà thơ có những tình cảm rất con người.
Trời xanh đã trở thành một người bạn đường đồng hành với nhà thơ, gần
gũi thân thiết và quan trọng như cuộc sống hàng ngày,như con người không
thể sống thiếu không khí.
“Trời xanh, trời xanh
Vây ta bốn phía
Trời xanh, ta đi
Trời xanh, ta nghỉ
Che ta như thành.”
(Đi ra ngoại ô)
Trời xanh đã hiện lên như để bao bọc, chở che, bù đắp cho con người, và
tâm hồn thơ Chế Lan Viên. Do đó nó tượng trưng cho Đảng cho nhân dân.
4: “Trời xanh” biểu trưng cho độc lập, tự do, cũng như lý tưởng, sự kiên
cường và bất khuất của nhân dân.
Chế Lan Viên tuy có rất nhiều những bức phá trong cả nội dung và nghệ
thuật làm thơ nhưng vẫn không thể tách mình ra khỏi cái guồng chung của
một thời kì lịch sử đau thương mà oai hùng của dân tộc. Hơn thế, mạch cảm

xúc thơ của Chế Lan Viên đã dành một phần lớn hướng về ngợi ca dân tộc
Việt Nam anh hùng trong những dòng thơ đầy hứng khởi say mê.
Với một nhà thơ luôn say sưa đi tìm những biểu tượng để gửi gắm nỗi tâm
tình, nói ít mà gợi nhiều như Chế Lan Viên thì trời xanh được lựa chọn với
tầng nghĩa gợi sự thanh bình, tự do, lý tưởng và sự kiên cường bất khuất của
nhân dân. Với lớp nghĩa này, tín hiệu trời xanh chiếm tới 29,5% tổng số
24
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Đàm Thị Duyên - K54A
Ngữ văn
xuất hiện suốt các tập thơ từ sau tập “Điêu tàn” cho đến tập thơ cuối đời. Ở
đây, bên cạnh những từ xuất hiện trực tiếp nhà thơ còn sử dụng các biến thể
của nó như: Trời biếc, trời ta cứ biếc, trời đã xanh rồi… để nói về thái độ
của thi sĩ trước những ngày khói lửa.
Trời xanh xuất hiện để tượng trưng cho tinh thần kiên cường bất khuất của
nhân dân được láy đi láy lại như sự thách thức với quân thù:
“Giặc Mỹ mày đến đây
Thì ta tiêu diệt ngay
Trời xanh ta nổi lửa
Bể xanh ta giết mày”.
(Sao chiến thắng)
Khác với những lần trước trời xanh thường được sử dụng gần với nghĩa thực
hơn, còn ở đây trời xanh - Khoảng không gian rộng lớn bao phủ trái đất lại
tượng trưng cho sức mạnh của nhân dân ta. Sức mạnh ấy là cội nguồn của
thắng lợi. Cội nguồn ấy được nói một cách khẳng khái như một khẩu hiệu có
sức mạnh thiêu đốt quân thù:
“Triệu tấn lửa không cau vầng trán Việt
Lòng ta cứ xanh, trời ta cứ biếc”.
(Nghìn rưởi ngày đêm)
Tinh thần kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam được nhiều thơ văn ca
ngợi, là nguồn cảm xúc bất tận của thơ ca dân tộc. Vì vậy nó không phải là

nội dung mới, nhưng biểu tượng dùng để nói tới nó mà nhà thơ họ Chế đã
dùng thì rất mới, rất Chế Lan Viên. Tinh thần dũng cảm kiên trung của dân
tộc ta được nhà thơ họ Chế đúc rút rất gọn lại trong một câu thơ: “Trên toạ
độ bom gầm sắc biếc cứ ngân nga” làm xúc động bao người đọc cho tới tận
hôm nay.
Nếu như các nhà thơ khác thường hay dùng hình ảnh mùa xuân, lá cờ biểu
trưng cho tự do, độc lập thì Chế Lan Viên lại thường sử dụng hình ảnh trời
xanh để chỉ nét nghĩa ấy:
25

×