Tải bản đầy đủ (.pdf) (206 trang)

BAI GIANG THU Y KHOA 43

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.43 MB, 206 trang )



- 0 -

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TrƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





BÀI GIẢNG THÚ Y
(Dùng cho ngành: NLKH, KN)














Biªn so¹n : TS. Phan ThÞ Hång Phóc

Biên soạn: TS. Phan Thị Hồng Phúc





THÁI NGUYÊN, NĂM 2013




- 1 -

Phần thứ nhất
NHỮNG HIỂU BIẾT CƠ BẢN VỀ THUỐC, QUÁ TRÌNH BỆNH LÝ
VÀ PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN THÔNG THƯỜNG Ở GIA SÚC

Chương I
NHỮNG HIỂU BIẾT CƠ BẢN VỀ BỆNH VÀ PHƯƠNG PHÁP CHẨN
ĐOÁN BỆNH

I. NHỮNG HIỂU BIẾT CƠ BẢN VỀ BỆNH
1.1. KHÁI NIỆM VỀ BỆNH
Từ khi con người biết quan sát và tiến hành trị liệu các bệnh ở người và gia súc,
quan niệm về bệnh đã được hình thành và thay đổi theo nhận thức của con người về
thế giới xung quanh, đặc biệt là nhận thức về thế giới sinh vật và những hoạt động
sống của chúng.
Trong thời kỳ đầu lịch sử phát triển nhân loại, con người còn thiếu những hiểu
biết về tự nhiên, khả năng đấu tranh và chiến thắng thiên nhiên còn rất yếu. Con người
cảm thấy mình nhỏ bé và bất lực trước tự nhiên huyền bí, từ đó tin rằng mọi sự vật
đều do trời sinh ra và chi phối. Trong thời kỳ này, người ta cho rằng bệnh tật là do quỷ
thần gây ra, hoặc do trời trừng phạt. Từ quan niệm về bệnh mà nảy sinh cách trị bệnh
là cúng bái, tế lễ

Trong thời cổ Trung Hoa, người ta cho rằng vạn vật đều do hai lực “âm, dương”
và năm nguyên tố ngũ hành “Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ” sinh ra. Theo quan điểm này
thì cơ thể khoẻ mạnh là do có sự cân bằng hoà hợp giữa các nguyên tố khác nhau, nếu
cơ thể mất đi sự cân bằng hoà hợp đó thì sẽ phát sinh ra bệnh.
Trong thời kỳ cổ đại Hy Lạp, Hypocratus (460-377 trước công nguyên) cho rằng,
chức năng của cơ thể con người là do bốn chất dịch quyết định: máu đỏ do tim tiết ra
và biểu hiện tình trạng nóng, máu đen ở lách biểu hiện tình trạng ẩm, mật vàng ở gan
biểu hiện tình trạng khô và niêm dịch ở mão biểu hiện tình trạng lạnh. Huypocratus
quan niệm rằng: Khi cơ thể khoẻ mạnh thì có sự cân bằng giữa bốn loại dịch đó, còn
khi có sự mất cân bằng của các dịch thì cơ thể bị bệnh. Học thuyết này gọi là học
thuyết thể dịch, mặc dù còn thô sơ nhưng quan điểm về bệnh đã mang tính duy vật
biện chứng.
Trong thời trung cổ (khoảng từ thế kỷ IV đến thế kỷ XII) các quan điểm mê tín
tôn giáo phát triển đến cực độ. Khái niệm về bệnh hoàn toàn mang tính chất duy tâm.


- 2 -

Ở thời kỳ văn hoá Phục Hưng, Paracelcius (1493-1541) đã đưa ra thuyết nguyên
tố hoá học, trong đó nguyên tố hoá học là cơ sở của toàn bộ thế giới hữu cơ. Ngoài ra,
Paracelcius lại cho rằng hoạt lực là yếu tố khống chế sự sống. Nếu hoạt lực thay đổi sẽ
gây nên bệnh tật.
Andre Vesala (1514-1564) đã nghiên cứu về cấu trú cơ thể con người, đặt nền
móng cho môn hình thái học sau này.
Năm 1916, William Harvay (1578-1657) đã công bố phát minh vĩ đại là sự tuần
hoàn máu.
Vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển nhanh
chóng, những phát minh mới trong khoa học đã ảnh hưởng rất lớn đến y học đương
thời như: Định luật bảo toàn vật chất của Lômônôsốp (1711-1765), thuyết tiến hoá
của Đac - Uyn (1759), môn tổ chức học được hình thành, kính hiển vi xuất hiện

Từ những thành tựu khoa học này, Wirechov (1821-1902) - nhà bệnh lý học Đức
đã sáng lập thuyết bệnh lý tế bào. Tác giả cho rằng nguyên nhân của bệnh tật là do sự
tổn thương các tế bào, bệnh chỉ xuất hiện ở cục bộ khi có nhân tố gây bệnh làm tổn
thương ở đó. Thuyết bệnh lý tế bào còn phiến diện và có một sai lầm là không coi cơ
thể là một khối thống nhất, mà chỉ coi đó là sự ghép lại một cách đơn giản và máy
móc các tế bào khác nhau, không có liên quan gì với nhau. Mặc dù vậy, thuyết bệnh lý
tế bào là học thuyết đầu tiên trong lịch sử y học của nhân loại đã dùng quan điểm
khoa học để giải thích về bệnh tật, đưa ra những cơ sở duy vật về bản chất của bệnh.
Đến nửa sau của thế kỷ XIX, Pastơ (1821-1895), Metnhicop, Kok (1843-1900),
Eclich (1854- 1915) đã mở ra một thời đại nghiên cứu về vi trùng trong y học, làm cơ
sở cho môn vi sinh vật học và miễn dịch học sau này phát triển. Trong thời kỳ này,
các môn sinh lý học, sinh hoá học, y học thực nghiệm cũng phát triển rất mạnh.
Clốt Becna (1865) đã nêu lên mối quan hệ khăng khít giữa cơ thể và môi trường
bên ngoài. Ngoại môi (môi trường bên ngoài) luôn thay đổi. Vì vậy, để giữ cho nội
môi năng bảo vệ và điều hoà. Xuất phát từ quan điểm này, tác giả cho rằng: bệnh tật là
sự rối loạn cơ chế bảo vệ và điều hoà của cơ thể.
Ở thể kỷ XX, một số ngành sinh học như di truyền học, miễn dịch học, sinh học
phân tử phát triển rất mạnh và đã có ảnh hưởng rất lớn đến y học, do đó có nhiều
khái niệm khác nhau về bệnh.
Pavlôp - nhà sinh học người Nga đã đề ra học thuyết thần kinh của bệnh. Theo
thuyết này, nội môi và ngoại môi là khối thống nhất, trong đó hoạt động của thần kinh
cao cấp đóng vai trò quyết định đối với khả năng thích ứng của cơ thể với môi trường
bên ngoài. Pavlôp đã nêu rõ: “Trong người bệnh có hai quá trình tồn tại song song, đó


- 3 -

là quá trình bảo vệ sinh lý và quá trình huỷ hoại bệnh lý Tuy vậy, thuyết thần kinh
chưa thể giải thích được một cách hoàn hảo về bệnh.
Cũng trong thời gian này, Hans Sele quan niệm rằng, bệnh là sự rối loạn khả

năng thích nghi của cơ thể.
Lý luận về sự tiến hoá, người ta thấy rằng, mọi sinh vật đều bắt nguồn từ một
đơn bào, sau đó được tổ chức lại ngày càng phức tạp thành những cơ quan có chức
năng khác nhau, có những hoạt động biệt hoá nhưng đều nhằm mục đích chung là duy trì
sự sống. Giữa các bộ phận của cơ thể có mối quan hệ mật thiết, có tác động qua lại ảnh
hưởng lẫn nhau. Mặt khác, cơ thể chịu tác động của ngoại cảm, song cơ thể có khả năng
thích nghi với sự thay đổi của ngoại cảm để duy trì sự hằng định của nội môi.
Từ những quan niệm trên, ngày nay, người ta có khái niệm về bệnh như sau:
“Bệnh là sự rối loạn đời sống bình thường của cơ thể sinh vật do tác động của các yếu tố
gây bệnh khác nhau, gây ra một quá trình đấu tranh phức tạp giữa hiện tượng tổn
thương bệnh lý và hiện tượng phòng vệ sinh lý, làm hạn chế khả năng thích nghi của cơ
thể đối với ngoại cảnh, làm cho khả năng lao động và giá trị kỹ thuật bị giảm sút ”
Quan niệm như vậy về bệnh chỉ có tính tương đối, giúp chúng ta hiểu một cách cơ
bản bản chất của bệnh để có biện pháp tương ứng trong công tác phòng chống bệnh.
1.2. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH
1.2.1. Quan niệm khoa học về nguyên nhân gây bệnh
Bệnh chỉ phát ra khi có sự kết hợp giữa hai yếu tố: Nguyên nhân gây bệnh và
điều kiện gây bệnh. Trong đó, nguyên nhân đóng vai trò quyết định, còn điều kiện thì
phát huy tác dụng của nguyên nhân.
Nguyên nhân gây bệnh là các yếu tố có hại, khi tác động lên cơ thể với một cường
độ nhất định (số lượng, độc lực) sẽ làm phát sinh bệnh với những đặc điểm của bệnh.
Dựa vào các đặc điểm của bệnh mà ta có thể khám phá ra nguyên nhân, để từ đó mà xác
định phương pháp cần thiết để điều trị. Tuy nhiên, nguyên nhân gây bệnh chỉ có thể phát
huy tác dụng trong những điều kiện nhất định.
Ví dụ: Bệnh Tụ huyết trùng lợn do nguyên nhân gây bệnh là vi khuẩn Pasteurella
mutocida, nhưng phải trong điều kiện dinh dưỡng kém, hoặc khi thay đổi thời tiết đột
ngột thì bệnh mới phát ra.
Nguyên nhân và những điều kiện nhất định gây nên một bệnh được gọi là các
yếu tố bệnh nguyên.
Nếu hiểu như trên thì nguyên nhân gây bệnh và điều kiện gây bệnh là hai vấn đề

khác nhau. Song, trong những hoàn cảnh nhất định, một số yếu tố có thể là nguyên
nhân, nhưng trong hoàn cảnh khác nó có thể trở thành điều kiện.


- 4 -

Ví dụ: Nuôi dưỡng kém là nguyên nhân của suy dinh dưỡng, nhưng nuôi dưỡng
kém lại là điều kiện cho các bệnh nhiễm khuẩn phát triển.
Bất cứ bệnh nào cũng đều có nguyên nhân nhất định gây nên. Trong thực tế, có
những bệnh chưa xác định được nguyên nhân gây bệnh, nhưng khi khoa học kiểm tra
phát triển ở mức độ cao hơn sẽ cho phát hiện ra những cái chưa biết.
Nguyên nhân và điều kiện gây bệnh tác động vào cơ thể sẽ dẫn đến hậu quả là
làm phát sinh ra bệnh. Cùng một nguyên nhân có thể gây ra những hậu quả khác nhau
tuỳ theo điều kiện. Ví dụ: Tụ cầu khuẩn gây áp xe khi xâm nhập vào da, gây ỉa chảy
khi xâm nhập vào ruột, gây nhiễm trùng máu khi vào máu Tuy nhiên, một bệnh có
thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Ví dụ: Viêm là quá trình bệnh lý do nhiều nguyên
nhân khác nhau gây nên.
Như vậy, một quan niệm khoa học về nguyên nhân gây bệnh phải có tính toàn
diện, nhận thấy vai trò của nguyên nhân, song cũng không tách rời điều kiện và thể
trạng. Đó chính là cơ sở khoa học đ ể chúng ta đề ra nguyên tắc điều trị bệnh: loại trừ
nguyên nhân, hạn chế tác dụng của điều kiện gây bệnh, tăng cường sức đề kháng của
cơ thể.
1.2.2. Phân loại nguyên nhân bệnh
Nguyên nhân gây bệnh được phân thành hại loại: Nguyên nhân bên ngoài và
nguyên nhân bên trong cơ thể.
1.2.2.1. Nguyên nhân bên ngoài
Tất cả những yếu tố cơ học, lý học, hoá học và sinh học tác động có hại cho cơ thể
động vật đều được coi là nguyên nhân gây bệnh ngoài cơ thể (nguyên nhân bên ngoài).
- Yếu tố cơ học:
Yếu tố cơ học thường gặp trong quá trình gia súc làm việc hoặc chăn thả. Ví dụ

như sự cọ sát của vai cày bừa, sự đánh đập, ngã Các yếu tố cơ học chủ yếu gây tổn
thương các cơ quan, tổ chức của cơ thể. Tuy nhiên, những chấn thương này có thể dẫn
tới hiện tượng cơ thể bị sốc do cơ chế thần kinh và thể dịch.
- Yếu tố lý học:
+ Nhiệt độ là một trong những yếu tố lý học mà cơ thể động vật thường chịu sự
ảnh hưởng. Nhiệt độ cao quá 50
o
C tác động ở cục bộ có thể gây thoái hoá protit tế
bào, đặc biệt là phá huỷ các men. Tuỳ theo mức nhiệt độ cao nhiều hay ít mà gây nên
tượng cảm nóng. Cảm nóng có thể xảy ra với tất cả các loại gia súc làm việc nặng
nhọc trong điều kiện mùa hè, nhất là vào những ngày oi bức, nắng gay gắt hoặc trong
hoàn cảnh nhiệt độ và ẩm độ cao. Cũng hay gặp hiện tượng cảm nóng trong quá trình
vận chuyển gia súc vào mùa hè.


- 5 -

Nhiệt độ thấp dưới 0
o
C cũng gây tổn thương các men tế bào. Khi nhiệt độ thấp
tác động cục bộ cũng gây tổn thương cơ quan, tổ chức. Trường hợp này thường thấy
đối với gia súc cày kéo vào mùa giá rét, chân bị lạnh do lội trong nước có thể dẫn tới
cước chân và hoại tử móng. Nhiệt độ thấp tác động lên toàn thân có thể gây cảm lạnh, dẫn
tới các bệnh đường hô hấp, bệnh khớp, bệnh thận và làm giảm sức đề kháng của cơ thể, tạo
điều kiện cho các mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể và phát huy tác dụng gây bệnh.
+ Tia phóng xạ do các chất phóng xạ có thể gây tổn thương theo hai cơ chế: Một
là nó phá huỷ các men của tế bào như men Photphorylaza, các men ôxy hoá có nhiều
trong chân tế bào; hai là tia phóng xạ gặp nước trong tế bào sẽ gây ra những phản ứng
tổn thương các tế bào sống.
+ Dòng điện: Tác dụng của dòng điện phụ thuộc vào điện thế và tính chất của

dòng điện. Dòng điện một chiều tác dụng nhanh hơn dòng điện xoay chiều. Điện thế
càng cao thì càng nguy hiểm. Dòng điện tác động vào cơ thể động vật theo ba cơ chế:
Thứ nhất, gây co cứng các cơ, nhất là cơ tròn làm tim ngừng đập; thứ hai, gây bỏng
nếu cường độ cao, nhất là chỗ tiếp xúc với dây điện; Thứ ba, gây nên hiện tượng điện
ly vì cơ thể là môi trường điện giải.
- Yếu tố hoá học:
Các chất hóa học như axit, kiềm, muối của các kim loại nặng (chì, thuỷ ngân,
đồng ) thường gây tổn thương men tế bào. Các chất hữu cơ như alcaloit, glucozit của
thực vật hay nọc ong, nọc rắn cũng có tác động khác nhau đối với cơ thể tuỳ theo
từng loại.
- Yếu tố sinh học:
Rất nhiều loại nấm, vi khuẩn, virut, ký sinh trùng xâm nhập cơ thể gia súc, gia
cầm và gây bệnh. Có hai loại bệnh do yếu tố sinh học gây ra là bệnh truyền nhiễm và
bệnh ký sinh trùng.
1.2.2.2. Nguyên nhân bên trong
Có nhiều bệnh người ta không tìm thấy nguyên nhân bên ngoài nào gây ra.
Những trường hợp này có thể là kết quả của hai yếu tố.
- Yếu tố di truyền: Thông qua cơ chế di truyền mà quá trình bệnh lý của thế hệ
trước có thể truyền lại cho thế thệ sau qua tế bào sinh học mang gen bệnh. Ví dụ:
Bệnh Phenylxeton niệu là do thiếu men parahydoroxylaza nên Phenylalanin không
chuyển thành Tyrozin được mà phân huỷ thành Phenylxeton và được đào thải ra ngoài
theo nước tiểu. Bệnh do di truyền thường phát sinh ở những cơ thể thiếu một số gen
chỉ huy tổng hợp nên các loại men của cơ thể.
- Yếu tố thể tạng: Thể tạng là sự tổng hợp các đặc điểm chức năng và hình thái
của cơ thể. Những đặc điểm này được hình thành trên cơ sở tính di truyền và quyết


- 6 -

định những phản ứng của cơ thể đối với tác nhân bên ngoài trong quá trình sống. Như

vậy, thể tạng là yếu tố phức tạp, trong đó yếu tố di truyền đóng vai trò chủ chốt.
Thể tạng phụ thuộc vào giống, loài, giới tính, tuổi, hoạt động của hệ thần kinh -
nội tiết và môi trường mà con vật sinh sống. Cơ thể có thể tạng khác nhau có đáp ứng
khác nhau đối với nguyên nhân gây bệnh. Mặc dù thể tạng là do yếu tố di truyền quyết
định, song nếu thay đổi môi trường sống chúng ta có thể làm thay đổi phần nào tính
phản ứng của cơ thể và do đó có thể làm thay đổi phần nào thể tạng.
1.3. CƠ CHẾ SINH BỆNH (BỆNH SINH)
Nghiên cứu về cơ chế sinh bệnh là nghiên cứu những quy luật cơ bản của sự phát
sinh, phát triển, diễn biến và kết thúc của một quá trình bệnh lý. Hiểu biết về cơ chế
sinh bệnh là yêu cầu cơ bản của công tác phòng trị bệnh, từ đó ngăn chặn sớm diễn
biến xấu của bệnh, hạn chế được tác hại đối với cơ thể và có biện pháp tích cực để
phòng chống bệnh cho đàn gia súc, gia cầm.
1.3.1. Sự phát sinh bệnh
Như đã trình bày ở trên, khi yếu tố bệnh (bao gồm nguyên nhân gây bệnh và điều
kiện gây bệnh) tác động vào cơ thể sẽ làm cơ thể gia súc, gia cầm phát sinh bệnh. Như
vậy, yếu tố nguyên đóng vai trò quyết định trong việc phát sinh bệnh.
Bệnh phát sinh phụ thuộc vào cường độ tác động, vị trí tác động, thời gian tác
động và đường đi của yếu tố bệnh nguyên nhân đối với cơ thể.
- Khi cường độ tác động lớn, bệnh phát sinh nhanh, nguy hiểm đến tính mạng.
Nếu cường độ tác động thấp thì bệnh phát sinh chậm, bệnh nhẹ, ít nguy hiểm hoặc có
thể không phát sinh bệnh.
- Thời gian tác động của yếu tố bệnh nguyên cũng ảnh hưởng đến sự phát sinh
bệnh. Tuy nhiên, thời gian tác động còn phụ thuộc vào cường độ: Nếu cường độ tác
động lớn thì chỉ cần thời gian ngắn cũng làm phát sinh bệnh.
- Vị trí tác động khác nhau của cùng một yếu tố gây bệnh có thể làm cho quá
trình gây bệnh khác nhau.
Ví dụ: Vi khuẩn lao tác động vào phổi, vào hạch lâm ba, vào khớp hoặc vào ruột
thì quá trình gây bệnh khác nhau.
Ngược lại, có trường hợp các yếu tố gây bệnh khác nhau tác động vào những vị
trí khác nhau nhưng lại gây ra quá trình bệnh lý giống nhau.

Ví dụ: Viêm là quá trình bệnh lý do tác động của nhiều yếu tố cơ học, lý học, hoá
học, sinh học vào những vị trí rất khác nhau của cơ thể gia súc, gia cầm.
- Đường đi của yếu tố gây bệnh trong cơ thể: Sau khi xâm nhập vào cơ thể, yếu
tố gây bệnh thường lan đi theo ba con đường: lan theo tổ chức, lan theo thể dịch, lan
theo thần kinh. Tuy nhiên, do cấu tạo của cơ thể gia súc, gia cầm nơi nào cũng có


- 7 -

mạch quản, thần kinh và mạch lâm ba mà trong thực tế các yếu tố gây bệnh thường
lan theo cả ba con đường này. Song, tuỳ theo loại yếu tố gây bệnh và vị trí tác động
mà có thể có đường lan truyền chủ yếu. Nắm được điều này chúng ta sẽ có biện pháp
thích hợp để kịp thời ngăn chặn sự lan truyền căn bệnh trong cơ thể gia súc, gia cầm.
1.3.2. Vai trò của tính phản ứng trong cơ chế sinh bệnh
Tính phản ứng là khả năng đáp ứng của cơ thể đối với mọi kích thích bình
thường hoặc bệnh lý. Nghiên cứu kỹ tính phản ứng của cơ thể mới hiểu được cơ chế
sinh bệnh và khả năng hồi phục của cơ thể khi bị bệnh, tạo điều kiện tốt cho công tác
phòng và chữa bệnh.
Những yếu tố chính ảnh hưởng tới tính phản ứng của cơ thể gồm có:
- Ảnh hưởng của hệ thần kinh:
Khả năng đáp ứng của cơ thể với các kích thích của môi trường bên ngoài nhất
thiết phải có sự tham gia của hệ thần kinh. Sự đáp ứng này phụ thuộc vào: loại hình thần
kinh, sự hoạt động của vỏ não, hoạt động của hệ thần kinh thực vật.
Trạng thái thần kinh ảnh hưởng đến tính phản ứng của cơ thể. Người ta thấy rằng
ở động vật thí nghiệm, khi gây hưng phấn thần kinh bằng cafein thì phản ứng viêm sẽ
mạnh hơn những động vật gây ức chế thần kinh bằng bromua.
Đối với hệ thần kinh thực vật, nếu kích thích phó giao cảm sẽ tăng cường sự tạo
ra kháng thể, tăng phản ứng bạch cầu. Nếu kích thích thần kinh giao cảm sẽ làm tăng
quá trình trao đổi chất và tăng tính phản ứng nói chung đối với protit lạ, vi khuẩn
- Ảnh hưởng của nội tiết:

Các tuyến nội tiết như tuyến yên, tuyến thượng thận, tuyến giáp trạng, tuyến tuỵ
đều ảnh hưởng đến tính phản ứng của cơ thể.
Hoocmon của tuyến yên thường ảnh hưởng đến cơ thể thông qua các tuyến nội
tiết khác. Thí dụ, thuỳ trước tuyến yên có hoocmon ảnh hưởng đến tính phản ứng của
cơ thể thông qua hoocmon miền vỏ tuyến thượng thận, tuyến giáp trạng, tuyến sinh
dục và các tuyến nội tiết khác.
Tuyến thượng thận có vai trò rất quan trọng. Nếu cắt bỏ tuyến thượng thận thì
sức đề kháng với sự nhiễm khuẩn mất đi
Nếu insunlin giảm sẽ dễ nhiễm vi khuẩn lao và các vi khuẩn gây bệnh khác.
- Ảnh hưởng của lứa tuổi:
Ở gia súc non, hệ thần kinh chưa hoàn chỉnh, điều kiện thích nghi với ngoại cảnh
yếu nên sức đề kháng với yếu tố bên ngoài kém. Vì vậy, khi thời tiết thay đổi, gia súc
non dễ ỉa chảy, viêm phổi… Ngoài ra, hệ thống miễn dịch của gia súc non chưa phát
triển đầy đủ, trong khi miễn dịch tiếp thu bị động từ mẹ truyền cho hết dần. Đó cũng
là nguyên nhân sức đề kháng của gia súc non yếu.


- 8 -

Ở gia súc, gia cầm trưởng thành, sức chịu đựng tốt, sức kháng bệnh cao, tính phản
ứng mạnh do hệ thần kinh đã hoàn thiện, hệ thống miễn dịch đã phát triển đầy đủ.
Ở gia súc già yếu, tính phản ứng thường kém, khả năng chống đỡ bệnh tật kém,
bệnh kéo dài và lâu khỏi.
1.3.3. Bệnh phát sinh và phát triển chủ yếu thông qua cơ chế phản xạ
Kích thích bệnh lý tác động trên cơ thể trước tiên gây tổn thương tổ chức, rối
loạn chuyển hoá và rối loạn chức năng tại chỗ bị kích thích. Đồng thời, kích thích
bệnh lý còn tác động trên các thụ thể và thông qua cơ chế phản xạ để gây ra một chuỗi
phản ứng toàn thân phức tạp. Thí dụ, khi bị thương nặng, ngoài tổn thương tại chỗ,
còn phát sinh một trạng thái suy sụp đột ngột toàn bộ chức năng quan trọng của cơ thể
(số 0); hệ thần kinh trung ương hưng phấn, sau đó bị ức chế (lúc đầu là ức chế bảo vệ,

sau là ức chế bệnh lý), huyết áp giảm, mạch nhanh và yếu, hô hấp nông và nhanh,
thân nhiệt giảm, cảm giác giảm, phản xạ giảm, thiểu niệu, thậm chí vô niệu Nếu kịp
thời tác động lên cung phản xạ (phong bế novocain, tiêm mocphin, thuốc liệt thần
kinh ) thì có thể phòng được sốc hoặc giảm nhẹ sốc.
Ngoài cơ chế phản xạ không điều kiện, bệnh còn có thể phát sinh theo cơ chế
phản xạ có điều kiện: sau nhiều lần kết hợp với kích thích bệnh lý, một kích thích
không liên quan có thể gây ra bệnh. Trong thực nghiệm, dựa vào cơ chế phản xạ có
điều kiện, người ta cơ thể gây ra nhiễm độc Mocphin, long não bằng cách tiêm cho
chó dung dịch sinh lý. Trên lâm sàng, phản xạ có điều kiện bệnh lý có thể gây ra một
quá trình bệnh lý (cơn thắt ngực, đau quặn gan, đau quặn thận )
Cơ chế thần kinh - thể dịch là khâu quan trọng trong quá trình điều tiết các chức
năng của cơ chế. Ở người và động vật, giữa hệ thần kinh và hệ nội tiết có mối liên
quan mật thiết với nhau. Mối tương quan giữa vỏ não, dưới đồi thị, tuyến yên và tuyến
thượng thận có một vai trò quan trọng trong cơ chế sinh bệnh. Cả hệ thống đó chi phối
khả năng thích ứng phòng ngự của cơ thể, chi phối các phản ứng không đặc hiệu của
cơ thể đối với tác động của bất cứ kích thích bệnh lý nào. Như vậy, cơ chế phản xạ -
cơ chế sinh bệnh chủ yếu - thực hiện bằng hai đường kết hợp chặt chẽ với nhau:
đường thần kinh và đường thần kinh - thể dịch.
1.3.4. Ảnh hưởng qua lại giữa toàn thân và tại chỗ trong cơ chế sinh bệnh
- Quan niệm sai lầm: Trong y học còn tồn tại xu hướng chia bệnh ra thành bệnh
toàn thân và bệnh tại chỗ. Chịu ảnh hưởng của Viecsop, các tác giả này cho rằng bệnh
chỉ là một quá trình tại chỗ, do tác động trực tiếp của nhân tố gây bệnh. Từ quá trình
tại chỗ chuyển sang quá trình toàn thân, họ cho đó là do tác động của nhân tố gây
bệnh trên diện tế bào rộng lớn hơn.


- 9 -

Quan niệm trên sai về nguyên tắc vì đã phủ nhận tính thống nhất của cơ thể.
Ngoài ra, không có bệnh nào hoàn toàn tại chỗ cũng như không có bệnh hoàn toàn là

toàn thân. Những bệnh hoạt nhìn cho là tại chỗ (viêm, u ác tính ) song trong thực tế
quá trình sinh bệnh phụ thuộc vào trạng thái toàn thân, đồng thời ảnh hưởng sâu sắc
tới toàn thân. Trái lại, những bệnh thoạt nhìn chỉ thấy rối loạn toàn thân (phần lớn các
bệnh truyền nhiễm) song thực tế ở một số cơ quan, tổ chức nào đó có những sự thay
đổi về cấu tạo và chức năng quan trọng.
- Quan niệm khoa học: Bệnh là một phản ứng toàn thân biểu hiện tại chỗ là chủ
yếu. Quá trình bệnh lý tại chỗ phụ thuộc vào tình trạng toàn thân, đồng thời ảnh
hưởng sâu sắc tới toàn thân.
Trước hết, toàn thân ảnh hưởng tới tại chỗ. Tuỳ theo tính phản ứng của cơ thể,
một bệnh có thể diễn biến khác nhau ở những con vật khác nhau. Thí dụ, phản ứng
viêm phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tuổi (gia súc già phản ứng viêm yếu hơn gia súc
non), tình trạng dinh dưỡng của cơ thể (dinh dưỡng kém viêm nặng hơn), tính miễn
dịch (viêm nặng ở cơ thể đã mẫn cảm sẵn), hệ võng mạc nội mô (hệ này bị ức chế thì
viêm nặng hơn), hệ nội tiết (đặc biệt là tuyến yên và tuyến thượng thận), hệ thần kinh
trung ương (hệ thần kinh càng biệt hoá, phản ứng viêm càng rõ rệt). Theo quan điểm
cơ bản của y học phương đông cổ truyền thì chữa bệnh cơ bản là “Làm cho cơ thể bị
bệnh vượng lên, khắc chống được nhân tố gây bệnh” đó là thấm nhuần mối liên quan
giữa toàn thân và tại chỗ.
Ngược lại, quá trình bệnh lý tại chỗ có thể gây ảnh hưởng xấu tới toàn thân. Nói
chung, một quá trình bệnh lý tại chỗ, với một cường độ nhất định có thể gây ra những
sự thay đổi về cấu tạo và chức năng ở xa nơi bị bệnh. Thí dụ, bỏng nặng có thể gây ra
một chuỗi phản ứng toàn thân phức tạp, thậm chí phát sinh sốc: rối loạn thần kinh
trung ương, huyết áp giảm, mạch nhanh yếu, thở nông nhanh, máu cô đặc, rối loạn tiết
niệu (thiểu niệu, vô niệu ).
Như vậy, bệnh là một phản ứng toàn thân mà biểu hiện tại chỗ chủ yếu. Những
quá trình thường gọi là tại chỗ, thực tế chỉ là biểu hiện tại chỗ của một bệnh toàn thân,
do đó không thể tách rời tại chỗ khỏi toàn thân mà phải thống nhất một cách biện
chứng. Vì vậy, trong chữa bệnh, cần biết kết hợp chữa tại chỗ và chữa toàn thân, tránh
sai lầm là thường lãng quên toàn thân mà chỉ chú ý tới tại chỗ.
1.3.5. Quan hệ nhân quả và vòng xắn bệnh lý trong cơ chế sinh bệnh

Những bệnh phức tạp thường diễn biến qua nhiều khâu nối tiếp nhau theo một
trình tự nhất định và có liên quan mật thiết với nhau. Thí dụ, liên cầu khuẩn gây viêm
họng, từ đó có thể gây ra viêm màng trong tim, mà hậu quả là hở hoặc hẹp van.
Những sự thay đổi về cấu trúc van tim gây ra rối loạn tuần hoàn máu trong tim. Lúc


- 10 -

đầu cơ tim còn mạnh, bù đắp được, song dần dần suy yếu, dẫn tới ứ máu tĩnh mạch,
gây phù và tràn dịch, rối loạn chuyển hoá và rối loạn chức năng toàn thân , cứ thế
diễn biến làm cho bệnh ngày một nặng.
Như vậy, trong quá trình sinh bệnh, nguyên nhân ban đầu gây ra những hậu quả
nhất định, những thay đổi này lại trở thành nguyên nhân của nhiều rối loạn mới và các
rối loạn này lại có thể dẫn tới những hậu quả khác. Đặc biệt là trong nhiều quá trình
bệnh lý, những khâu sau lại tác động trở lại khâu trước làm cho bệnh nặng thêm. Thí
dụ, trong bệnh đóng dấu lợn mãn tính, vi khuẩn đóng dấu lợn gây viêm nội tâm mạc,
loét sùi van tim, do đó ảnh hưởng tới tuần hoàn, gây thiếu oxy, từ đó gây rối loạn
chuyển hoá và gây suy tim. Do suy tim mà sự thiếu oxy càng tăng lên, làm cho sự rối
loạn chuyển hoá càng trở nên nghiêm trọng hơn Cứ như vậy, khâu nọ tác động lên
khâu kia, tạo ra vòng xoắn bệnh lý dẫn tới cơ thể không hồi phục được.
Nhiệm vụ của người làm công tác thú y là thấy rõ được mối quan hệ nhân quả
giữa các hiện tượng bệnh lý, đánh giá đúng những thay đổi ấy và kịp thời phát hiện
những thay đổi chủ yếu, nghĩa là những khâu chính trong quá trình sinh bệnh. Điều
này rất quan trọng để có một cách điều trị thích đáng nhằm kịp thời ngăn chặn vòng
xoắn bệnh lý và một khi chúng đã xảy ra thì phải kịp thời cắt đứt, phá vỡ vòng xoắn,
nhằm loại trừ các rối loạn và phục hồi các chức năng.
1.3.6. Diễn biến và kết thúc của bệnh
Trong quá trình phát triển của bệnh, cơ thể có những biến đổi khác với lúc bình
thường. Những biến đổi đó gọi là triệu chứng. Triệu chứng của bệnh rất khác nhau
bao gồm những biến đổi về hoạt động, về chức năng, về chuyển hoá vật chất, về thân

nhiệt, về hô hấp, tim mạch, về thành phần máu, nước tiểu, về hình thái của cơ quan
hay tổ chức.
Nhìn chung, quá trình phát triển của bệnh không những diễn biến theo những
quy luật nhất định mà quá trình này còn có tính chất giai đoạn nhất định. Người ta
thường chia diễn biến của bệnh làm bốn thời kỳ.
1.3.6.1.Thời kỳ nung bệnh
Thời kỳ này còn gọi là thời kỳ ủ bệnh, đước bắt đầu từ khi tác nhân gây bệnh
xâm nhập vào cơ thể và bắt đầu phát huy tác dụng đến khi cơ thể có những phản ứng
đầu tiên.
Ở thời kỳ này khả năng thích ứng của cơ thể còn mạnh, nên những rối loạn còn
chưa thể hiện. Thời kỳ nung bệnh dài hay ngắn phụ thuộc vào điều kiện bên ngoài,
trạng thái cơ thể, đặc tính của từng tác nhân gây bệnh và vị trí tác động của tác nhân
gây bệnh.


- 11 -

1.3.6.2. Thời kỳ tiền phát (tiền chứng):
Thời kỳ này bắt đầu từ khi cơ thể có những phản ứng đầu tiên cho đến khi bắt
đầu xuất hiện những triệu chứng chủ yếu. Ở thời kỳ này, nguyên nhân gây bệnh tác
động mạnh, khả năng thích ứng của cơ thể giảm, con vật có một số biểu hiện những
dấu hiệu đầu tiên của bệnh như: ủ rũ, ăn kém hoặc bỏ ăn, tim mạch và hô hấp thay
đổi, thân nhiệt tăng, niêm mạc xung huyết
1.3.6.3. Thời kỳ toàn phát
Thời kỳ này bắt đầu từ khi cơ thể có những triệu chứng rõ rệt cho đến khi có
những thay đổi đặc biệt, các rối loạn cơ năng biểu hiện rõ ràng, các triệu chứng điển
hình cho từng loại bệnh được thể hiện. Sự rối loạn trao đổi chất và tổn thương bệnh lý
của cơ thể ở thời kỳ này nặng nề nhất.
1.3.6.4. Thời kỳ kết thúc
Thời kỳ này dài, ngắn phụ thuộc vào từng loại bệnh và thường diễn biến được

một trong ba hình thức sau:
+ Khỏi bệnh hoàn toàn:
Trường hợp này các nguyên nhân gây bệnh hết tác dụng, các triệu chứng bệnh biến
mất, các tổn thương được phục hồi hoàn toàn, chức năng của các cơ quan trở lại bình
thường, khả năng lao động và tính năng sản xuất được phục hồi hoàn toàn. Đối với một số
bệnh truyền nhiễm thì lúc này khả năng phản ứng của cơ thể thay đổi, phát sinh trạng thái
miễn dịch với bệnh vừa mắc (ví dụ: bệnh đậu ).
+ Khỏi bệnh không hoàn toàn:
Các nguyên nhân gây bệnh đã ngừng hoạt động, các triệu chứng chủ yếu đã hết,
nhưng về cấu tạo và chức năng của cơ quan thì chưa khôi phục hoàn toàn (ví dụ: mất
khả năng tiết sữa sau khi viêm vú), hoặc còn để lại những dấu vết của bệnh (ví dụ:
hẹp, hở van tim sau khi viêm nội tâm mạc). Trong nhiều trường hợp, sự lành bệnh chỉ
là biểu hiện bề ngoài, sau một thời gian bệnh lại phát ra gọi là hiện tượng “tái phát”.
Nguyên nhân là do yếu tố gây bệnh chưa bị tiêu diệt hoàn toàn, đồng thời sức đề
kháng của cơ thể yếu, nên yếu tố gây bệnh có cơ hội phát triển làm con vật phát bệnh
trở lại.
+ Chết:
Chết là kết thúc của sự sống. Con vật bị chết do cơ thể không thích nghi với
những biến đổi của điều kiện sống. Có hai nguyên nhân chính dẫn đến cái chết: một
là, ngừng hoạt động của tim; hai là, ngừng hô hấp, liệu trung khu hô hấp.
Cái chết có thể rất nhanh, gọi là đột tử. Nhưng thường thì trải qua một giai đoạn
từ từ, gọi là giai đoạn hấp hối. Ở giai đoạn này đầu tiên tim và hô hấp ngừng tạm thời
(trong vòng 0,5-1,5 phút), mất phản xạ mắt, đồng tử mở rộng, vỏ não bị ức chế, các


- 12 -

hoạt động sống đều bị rối loạn; tiếp đó xuất hiện hô hấp trở lại, thở ngáp cá, tim đập
yếu, có thể xuất hiện phản xạ trở lại (trong vòng vài phút đến nửa giờ); sau đó là thời
kỳ chết lâm sàng: hoạt động tim và phổi ngừng, thần kinh trung ương hoàn toàn bị ức

chế (kéo dài 5-6 phút); cuối cùng là chết sinh vật: mọi khả năng hồi phục không còn,
các cơ quan, tổ chức trong cơ thể không chết cùng một lúc mà hệ thần kinh trung
ương chết trước, rồi đến tuần hoàn, hô hấp
II. PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN CƠ BẢN
2.1. Khái niệm
2.2.1. Chẩn đoán
Là phương pháp kiểm tra bệnh (hỏi bệnh, quan sát, sờ nắn, gõ, nghe). Trong
chẩn đoán có chẩn đoán sớm, chẩn đoán lâm sàng. Ngoài ra còn có những phương
pháp chẩn đoán hiện đại phát hiện bệnh nhanh và chính xác
2.2.2. Tiên lượng
Sau khi chẩn đoán đưa ra phán đoán kết quả của bệnh. Có 3 loại tiên lượng:
- Tiên lượng tốt: Chữa nhanh khỏi, ít thiệt hại về kinh tế
- Tiên lượng xấu: Bệnh lâu khỏi, thiệt hại về kinh tế, có thể chết.
- Tiên lượng nghi ngờ: Chẩn đoán chưa chính xác, chưa đủ điều kiện để kết luận,
cần theo dõi kỹ hơn.
2.2.3.Triệu chứng
Là những biểu hiện của bệnh có thể nhận biết dễ dàng qua các phương pháp
khám bệnh: sờ, nắn, gõ, nghe Qua triệu chứng có thể kết luận được bệnh. Ví dụ: ho
là bệnh viêm phổi, ỉa chảy ra máu là xuất huyết ruột. Nhiệt độ cao là sốt
2.2. Phương pháp khám chung
2.2.1. Khám chung
2.2.2.1. Hỏi bệnh
Trước khi khám bệnh cần hỏi tên và địa chỉ của gia chủ để tránh nhầm lẫn giữa
các ca bệnh. Sau đó là hỏi các thông tin liên quan đến bệnh súc như:
- Loài, giống: các loài, giống khác nhau đôi khi mắc các bệnh khác nhau, hoặc
mắc cùng một bệnh nhưng thể hiện triệu chứng khác nhau.
- Tuổi: một số bệnh lại chỉ xảy ra ở một lứa tuổi nhất định
- Tính biệt: bệnh ở con đực khác ở con cái
- Trọng lượng: ở cùng độ tuổi, một số cá thể to khỏe lại dễ mắc một số bệnh.
Mặt khác biết trọng lượng cho phép tính được liều lượng thuốc sẽ đưa vào cơ thể.



- 13 -

- Gia chủ đã mua con vật về lâu chưa: con vật mới bắt về có thể chưa bình
thường trở lại do các stress vận chuyển; một số bệnh lại phát ra ngay sau khi con vật
bị chuyển vùng.
- Mục đích nuôi con vật: nuôi con vật để làm gì, mỗi một loại hình khai thác
con vật sẽ làm nảy sinh các bệnh theo các loại hình khai thác đó.
- Các bệnh đã được tiêm phòng, thời gian tiêm phòng, con vật chưa được tiêm phòng
bệnh nào thì có nguy cơ mắc bệnh đó nhiều hơn.
- Tình hình thức ăn, nước uống, chăm sóc, quản lý con vật: chăm sóc quản lý con vật
không tốt đôi khi làm con vật mắc một số bệnh.
- Tình hình dịch bệnh tại chỗ: nhiều bệnh tồn tại lưu cữu tại địa phương, thỉnh thoảng
lại phát lại. Thời gian mắc bệnh: biết thời gian mắc bệnh cho phép chẩn đoán nguyên nhân
bệnh, tính chất của bệnh, tiên lượng.
- Số lượng gia súc mắc bệnh: cho ta biết tỷ lệ ốm, chết. Sau đó căn cứ vào triệu chứng
để xem con vật mắc bệnh gì, bệnh truyền nhiễm hay trúng độc.
- Nguyên nhân gây bệnh: có khi gia chủ biết nguyên nhân gây bệnh, cũng có khi ta gợi
ý mà gia chủ suy luận ra nguyên nhân.
- Hỏi các phương pháp điều trị mà bệnh súc đã được áp dụng trước đó và tác dụng của
các phương pháp đó. Chẳng hạn bệnh súc đã dùng thuốc gì, liều lượng, liệu trình là bao nhiêu,
hiệu quả của các phương pháp đó như thế nào: từ đó có thể suy ra bệnh. Sau khi biết các
thông tin nói trên, tiến hành hệ thống lại các tài liệu thu thập được, phân tích, đối chiếu tìm
mối liên hệ giữa chúng và từ đó dự kiến chẩn đoán.
2.2.2.2. Quan sát
- Quan sát bên ngoài là phương pháp khá đơn giản nhưng chính xác, được sử dụng rộng
rãi trong thú y. Để đảm bảo an toàn cho người khám, sau khi con vật đã được cố định hoặc
được chủ của nó cầm giữ mới được quan sát.
- Quan sát từ xa lại gần để làm quen với gia súc, tránh tác động đột ngột làm cho con

vật có phản xạ tự vệ bất lợi cho người khám.
- Quan sát bằng mắt thường hoặc có thể dùng đèn chiếu tùy từng trường hợp. Tùy theo
mục đích và vị trí quan sát mà đứng xa hay gần con vật. Cần tập quan sát các con vật trong
trạng thái sinh lý mới dễ dàng phát hiện ra triệu chứng khi chúng mắc bệnh.
Quan sát từ tổng quát đến cục bộ: bắt đầu từ tinh thần, thể cốt, tình hình dinh dưỡng,
sau đó đến các bộ phận như đầu, cổ, lồng ngực, vùng bụng và 4 chân.
- Quan sát vùng đầu: chú y tới sự biến đổi của niêm mạc mắt, mũi, miệng, quan sát
sừng, ngà, vòi chú ý sự gãy, dập.
- Quan sát lưng: chú ý độ cong của xương sống (lưng cong cứng trong bệnh uốn ván).
- Quan sát hai bên sườn, đối chiếu so sánh giữa hai bên (loài nhai lại khi bị chướng hơi
dạ cỏ, bụng bên trái thường rất to; ngược lại khi con vật có thai thì bụng phải to hơn bên trái).
- Quan sát vùng bụng xem vú có sưng không (con cái); quan sát vùng đuôi và âm hộ
(con cái) có dịch chảy ra không, dịch hoàn (con đực) có sưng không


- 14 -

2.2.2.3. Sờ, nắn
Sờ nắn để bắt mạch, đo huyết áp, khám trực tràng, khám thai. Có hai cách sờ nắn:
+ Sờ bề mặt: là sờ những bộ phận nông để biết ôn độ, độ ẩm của da, lực căng của cơ; sờ
để biết tần số hô hấp, tần số mạch đập và hoạt động của thành ngực khi con vật hô hấp.
+ Sờ sâu: để khám các khí quan sâu như sờ dạ cỏ, kiểm tra ngoại vật, khám thai qua
trực tràng.
Sờ nắn tổ chức hay khí quan, tùy theo cảm giác ở tay có thể có những trạng thái sau:
+ Dạng ba động: sờ có cảm giác lùng nhùng, di chuyển, ấn tay có vết lõm. Trạng thái
này gặp khi tổ chức bị thủy thũng, ổ mủ.
+ Dạng nhão bột: cảm giác như ấn tay vào túi bột, chỗ ấn để lại vết tay ấn. Trạng thái
này gặp trong bệnh bội thực dạ cỏ.
+ Dạng cứng: như lúc sờ vào gan
+ Dạng rất cứng: như lúc sờ vào xương 3.


Gõ các cơ quan, tổ chức của cơ thể có vị trí giải phẫu khác nhau, cấu tạo khác nhau và
tính chất khác nhau nên khi bị chấn động cũng phát ra các âm khác nhau. Khi gõ vào cơ quan
tổ chức là tạo ra chấn động và làm phát ra âm thanh. Khi bị bệnh, tính chất của tổ chức thay
đổi nên âm thanh phát ra khác với khi tổ chức bình thường. Sự khác nhau về âm thanh phát ra
lúc tổ chức lành và khi tổ chức bị bệnh cho phép ta chẩn đoán được bệnh. Do vậy, phương
pháp gõ được dụng rộng dãi trong thú y cũng như y tế.
Để có thể chẩn đoán được bệnh thông qua gõ, người khám cần có kinh nghiệm và có
thành thạo về kỹ thuật gõ.
- Gõ trực tiếp: dùng ngón tay gõ trực tiếp lên thân con vật; với con vật nhỏ thì dùng các
ngón tay phải co lại và gõ theo chiều lòng bàn tay úp xuống dưới; với con vật lớn thì gõ theo
chiều lòng bàn tay ngửa lên trên. Cách gõ này lực gõ yếu, âm thanh phát ra nhỏ, trong thú y ít
dùng.
- Gõ gián tiếp: là gõ qua một vật trung gian, có hai cách gõ gián tiếp.
+ Gõ qua ngón tay: dùng ngón trỏ và ngón giữa trái áp lên thân gia súc, ngón giữa phải
cong lại và gõ lên đó. Nên tập gõ từ cổ tay, không dùng lực của cánh tay.
+ Gõ có búa và bản gõ: là thay tay gõ bằng búa gõ, tay đệm bằng bản gõ. Búa gõ làm
bằng kim loại hoặc bằng gỗ, sừng, nhựa; bản gõ cũng có thể được làm từ những chất liệu trên.
Búa gõ và bản có có nhiều loại với kích cỡ khác nhau với mục đích là sao cho dễ cầm khi
khám và gọn nhẹ.
- Các âm phát ra khi gõ: âm trong - âm đục, âm trong vang, âm hưởng dài gặp khi gõ
vào vùng khí quản, vùng phổi, âm đục yếu, ngắn gặp khi gõ vào vùng gan, cơ.
+ Âm trong hay âm đục là do tính chất của tổ chức đặc hay xốp, tính đàn hồi của tổ
chức cao hay thấp, lượng khí tích trong đó nhiều hay ít. Lúc có bệnh, tổ chức vốn xốp chuyển
thành đặc lại, lượng khí chứa trong đó ít hoặc bị đẩy ra hết, đàn tính của tổ chức bị mất làm
cho âm gõ chuyển từ trong sang đục. Ví dụ âm đục ở vùng phổi trong bệnh viêm phổi ở thời


- 15 -


kỳ gan hóa, nhục hóa. Ngược lại, tổ chức vốn đặc nay chứa khí, khi gõ sẽ thấy âm bùng hơi.
Ví dụ gõ vào ổ ung khí thán.
+ Âm cao hay âm thấp: phụ thuộc vào mức độ chấn động của tổ chức được gõ. Chấn
động càng nhiều thì âm gõ càng cao và ngược lại.
+ Âm dài - âm ngắn: do chấn động kéo dài hay tắt ngay, âm này khó phân biệt nên ít có
ý nghĩa trong chẩn đoán.
+ Âm trống: là âm nghe được khi gõ vào túi khí trong tổ chức của cơ thể, âm này to
nhưng không vang. Ví dụ gõ vào phần trên dạ cỏ (trâu, bò), phần dưới manh tràng (ngựa).
Cấu trúc của tổ chức khác nhau nên âm phát ra khi gõ khác nhau, mặt khác trong thú y có
nhiều con vật to, nhỏ khác nhau nên việc phân biệt các âm gõ càng trở nên phức tạp.
Người khám cần phải tập gõ nhiều và nghe quen các âm gõ. Gõ chỉ áp dụng ở vùng tim,
phổi, dạ dày, ruột, gan, lách và xoang trán.
2.2.2.4. Nghe
Nguyên lý của phương pháp nghe là dựa vào âm thanh phát ra từ các cơ quan bộ phận
trong cơ thể khi chúng hoạt động. Do tính chất hoạt động, cấu tạo của các cơ quan khác nhau
nên âm hưởng nghe được cũng khác nhau (giống khi gõ). Có thể dựa vào các âm thanh nghe
được để chẩn đoán bệnh cho con vật.
- Nghe trực tiếp: lấy một miếng vải, một tờ giấy đặt lên vùng nghe, sau đó người khám
áp tai của mình lên đó để nghe. Phương pháp này đôi khi không nghe được ở một số vị trí
khó nên chỉ dùng khi không có ống nghe.
- Nghe gián tiếp: dùng ống nghe, ống nghe có nhiều loại, loại có một tai nghe, loại có
nhiều tai nghe. Nhưng phổ biến hay dùng hiện nay là loại có hai tai nghe. Để nghe được
chính xác thì con vật phải được để ở nơi yên tĩnh và con vật cũng phải trong trạng thái yên
tĩnh; không để cho nó kêu la,dãy đạp, rên rỉ.
2.2.2. Khám một số cơ quan trong cơ thể
2.2.2.1. Khám niêm mạc
Kiểm tra niêm mạc ngoài việc biết được niêm mạc có bệnh gì, còn có thể xác
định được tình trạng chung của cơ thể như hoạt động tuần hoàn, thành phần của máu,
tình trạng hô hấp. Đối với những gia súc da có màu như trâu, bò, ngựa thì việc khám
niêm mạc rất có ý nghĩa trong chẩn đoán bệnh.

Thường kiểm tra niêm mạc mắt, niêm mạc miệng, niêm mạc âm hộ…. Trong đó,
kiểm tra niêm mạc mắt là phổ biến nhất.
* Phương pháp khám niêm mạc mắt
- Ngựa: Khám mắt trái thì người khám đứng bên trái ngựa, tay trái cầm dây
cương cố định ngựa. Ngón trỏ tay phải ấn mạnh vào da trùm khoang mắt trên, ngón
cái phanh phần da khoang mắt dưới để bộc lộ niêm mạc. Ba ngón còn lại để lên phần
ngoài khoang mắt trên làm điểm tựa. Nếu khám bên phải thì tư thế người đứng khám
ngược lại.


- 16 -

- Trâu, bò: Có thể khám niêm mạc mắt theo cách trên hoặc bằng cách: hai tay
cầm chặt 2 sừng, bẻ cong đầu về một phía để bộc lộ niêm mạc.
- Lợn, dê, cừu: Dùng ngón tay trỏ và ngón cái hoặc hai tay hai bên phanh rộng
mi mắt.
* Niêm mạc mắt bình thường:
- Trâu bò: Niêm mạc mắt màu đỏ, ít ánh quang.
- Ngựa: Niêm mạc mắt mầu đỏ thẫm.
- Lợn, dê, cừu: Niêm mạc mắt màu hồng. Tuy nhiên, niêm mạc mắt của lợn, dê,
cừu rất dễ bị thay đổi, nên lúc khám cần nhẹ nhàng.
* Những thay đổi ở niêm mạc mắt
* Niên mạc nhợt nhạt: Niêm mạc mắt nhợt nhạt thể hiện triệu chứng thiếu máu. Tuỳ
mức độ thiếu máu, niêm mạc nhạt màu hoặc có màu trắng bợt hoặc màu xanh tím.
- Niêm mạc nhợt nhạt cấp tính: Do bị mất máu cấp tính như vỡ mạch quản lớn,
vỡ gan, vỡ lách, vỡ dạ dày, vỡ ruột. Ở ngựa có thể do xoắn ruột, lồng ruột, đau bụng,
liệt thần kinh.
- Niêm mạc nhợt nhạt mãn tính: (Có thể ở cả đàn gia súc): Do thức ăn thiếu dinh
dưỡng, do bệnh ký sinh trùng hoặc các bệnh mãn tính khác (viêm ruột, lao ), bệnh
bạch huyết, ở ngựa còn thấy trong bệnh thiếu máu truyền nhiễm.

* Niêm mạc đỏ ửng: Do các mạch quản nhỏ ở niêm mạc xung huyết làm cho
niêm mạc có màu đỏ. Trường hợp này có thể do những nguyên nhân sinh lý (trời nóng
bức, lao động nặng, quá hưng phấn) hoặc nguyên nhân bệnh lý.
- Đỏ ửng cục bộ: Mạch máu nhỏ ở niêm mạc mắt xung huyết, căng to, có trường
hợp nổi rõ như chùm rễ cây, thường thấy trong trường hợp xung huyết não, viêm não,
tụ máu ở não, bệnh ở tim, phổi.
- Đỏ ửng lan tràn: Mạch quản nhỏ đầy máu và niêm mạc đỏ tràn lan. Trường hợp
này thường gặp trong các bệnh truyền nhiễm: nhiệt thán, tụ huyết trùng, dịch tả lợn
hoặc trong bệnh viêm não tuỷ, các trường hợp trúng độc
- Đỏ ửng xuất huyết: Niêm mạc đỏ kèm những điểm xuất huyết, thường thấy
trong những bệnh truyền nhiễm cấp tính hay mãn tính.
* Niên mạc hàng đảm: Niêm mạc có màu vàng, do trong máu tích nhiều sắc tố
mật (bilirubin). Hoàng đảm nặng hay nhẹ tuỳ thuộc số lượng sắc tố mật và màu sắc của
niêm mạc (nếu niêm mạc bình thường có màu trắng thì hoàng đảm rõ).
2.2.2.2. Kiểm tra hạch lâm ba
Kiểm tra hạch lâm ba rất có ý nghĩa trong chẩn đoán bệnh truyền nhiễm, nhất là
trong bệnh lao hạch, bệnh tỵ thư, bệnh lê dạng trùng hạch lâm ba thay đổi rất rõ rệt.


- 17 -

* Phương pháp kiểm tra hạch lâm ba
Quan sát, sờ nắn, khi cần có thể chọc dò
- Trâu, bò: Thường khám hạch dưới hàm, hạch trước vai, hạch trước đùi, hạch
trên vú.
- Ngựa: Thường khám hạch dưới hàm, hạch cổ, hạch trước đùi, hạch trước vai.
- Lợn, chó, mèo: Các hạch thường ở sâu, khó sờ thấy.
+ Hạch dưới hàm ở trâu bò nằm phía trong phần xương hàm dưới, to bằng nhân
quả đào, tròn và đẹp.
* Những biểu hiện khác thường của hạch lâm ba

- Hạch sương cấp tính: Thể tích to, nóng, đau và cứng, các thuỳ nổi rõ, mặt trơn
và ít di động. Hạch sưng thấy trong các bệnh truyền nhiễm cấp tính hoặc do những bộ
phận gần hạch bị viêm (viêm mũi, viêm thanh quản làm hạch dưới hàm sưng); Trâu, bò
bị bệnh Lê dạng trùng thì hạch dưới hàm, hạch trên vú sưng rất rõ.
- Hạch hoá mủ: Thường do viêm cấp tính phát triển thành. Lúc đầu hạch sưng,
nóng, đau, sau đó phần giữa phồng cao, bùng nhùng. Hạch thường tự vỡ hoặc lấy kim
chọc thì mủ chảy ra.
Ở ngựa hạch dưới hàm sưng to hoá mủ, xung quanh viêm thấm ướt là triệu
chứng điển hình của bệnh viêm hạ.ch lâm ba truyền nhiễm. Nếu mủ trong hạch ít, tổ
chức quanh hạch không viêm thường do Lao hay Tỵ thư.
- Hạch tăng sinh và biến dạng: Hạch viêm mãn tính, tổ chức tăng sinh dính với
tổ chức xung quanh làm thể tích hạch to và không di động được, ấn vào không đau, ở
ngựa thấy trong bệnh tỵ thư, viêm xoang mũi mãn tính. Ở bò thấy trong bệnh lao
hạch, xạ khuẩn. Ở lợn nếu hạch cổ, hạch sau hầu sưng cứng thường do Lao.
Trong bệnh bại huyết, hạch lâm ba trên toàn thân sưng to và biến dạng.
2.2.2.3. Đo thân nhiệt
Đo thân nhiệt là một việc không thể thiếu được trong chẩn đoán bệnh. Thân nhiệt
cao hay thấp hơn bình thường được coi là triệu chứng quan trọng.
THÂN NHIỆT BÌNH THƯỜNG CỦA MỘT SỐ LOÀI ĐỘNG VẬT
Loài Thân nhiệt (
o
C) Loài Thân nhiệt (
o
C)
Bò 37,5 - 39,5 Mèo 38,0 - 39,5
Trâu 37,0 - 38,5 Thỏ 38,5 - 39,5
Ngựa 37,5 - 38,5 Gà 40,0 - 42,0
Cừu, dê 38,5 - 40,0 Vịt 41,0 - 43,0
Lợn 38,0 - 40,0 Ngỗng 40,0 - 41,0
Chó 37,5 - 39,0 Ngan 41,0 - 43,0



- 18 -

Trong điều kiện chăn nuôi giống nhau, thân nhiệt ở gia súc non cao hơn gia súc
trưởng thành và gia súc già; thân nhiệt ở con cái thường cao hơn con được.
Trong một ngày đêm, thân nhiệt thấp nhất vào lúc sáng sớm (1- 6h), cao nhất vào
buổi chiều (16 - 18h).
Vào mùa hè, trâu bò làm việc dưới trời nắng gắt, thân nhiệt có thể cao hơn bình
thường 1 - 1,8
o
C.
Thân nhiệt dao động trong vòng 1
o
C nằm trong phạm vi sinh lý. Nếu thân nhiệt
cao hoặc thấp quá 1
o
C kéo dài sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động của cơ thể.
* Cách đo thân nhiệt
Dùng nhiệt kế có khắc “
o
C” theo cột thuỷ ngân.
Trước khi dùng vẩy mạnh nhiệt kế cho cột thuỷ ngân tụt xuống vạch cuối cùng.
- Đối với gia súc, đo thân nhiệt ở trực tràng, ở con cái có thể đo ở âm đạo. Nhiệt độ
trực tràng thấp hơn nhiệt độ máu 0,5 - 1
o
C, nhiệt độ âm đạo thấp hơn nhiệt độ trực tràng
0,2- 0,5
o
C (khi gia súc có chửa nhiệt độ âm đạo lại cao hơn nhiệt độ trực tràng 0,5

o
C).
Trường hợp trực tràng bị viêm hay bị lòi rom, thì có thể đo thân nhiệt ở trong miệng (sát
niêm mạc má). Đo thân nhiệt gia cầm ở gốc cánh.
Đo thân nhiệt hai lần trong một ngày: sáng lúc 7- 9h; chiều 16-18h.
- Đối với trâu bò: Có thể đo lúc trâu bò đứng (không cần cố định).
- Đối với lợn, chó, mèo, dê, cừu: Có thể đứng hoặc cho nằm.
- Đối với gia cầm: Cho nằm để đo.
- Đối với ngựa: Khi đo cần thận trọng vì ngựa rất mẫn cảm (phải cột ngựa vào gióng).
* Cách đặt nhiệt kế
Đưa nhẹ nhiệt kế vào trực tràng (gia súc lớn thì cho gần ngập nhiệt kế, gia súc
nhỏ cho ngập khoảng 1/2 đến 1/3). Để nhiệt kế lưu lại trong trực tràng khoảng 5 phút.
Khi lấy nhiệt kế ra thì dùng bông tẩm cồn lau sạch để xem cột thuỷ ngân dâng đến
vạch nào và ứng với nhiệt độ là bao nhiêu.
2.2.2.4. Kiểm tra hệ hô hấp
Có rất nhiều bệnh ở đường hô hấp của gia súc. Ở trâu, bò,dê, cừu thường gặp
bệnh tụ huyết trùng, viêm phổi - màng phổi truyền nhiễm, viêm phổi, viêm phế quản,
lao, giun phổi. Ở lợn: Bệnh tụ huyết trùng, suyễn, viêm phổi, viêm phế quản, dịch tả
lợn, giun phổi lợn, giun đũa lợn ở giai đoạn di hành. Ở ngựa: Bệnh viêm phổi, viêm
hầu, viêm khí quản, viêm phổi cật, viêm phổi thuỳ, giun đũa ngựa trong giai đoạn đi
hành. Ở gà: Bệnh viêm màng mũi, bệnh lao. Ở chó: Bệnh viêm phổi, bệnh caree (sài
sốt chó con).


- 19 -

Phương pháp chẩn đoán bệnh ở hệ hô hấp thường dùng: Quan sát, sờ nắn, gõ và
nghe. Khi cần thiết chọc dò xoang ngực, kiểm tra đờm và dịch mũi. Chiếu X - Quang
chỉ có tác dụng với gia súc nhỏ. Phương pháp soi phế quản, ghi động tác hô hấp chưa
được sử dụng rộng rãi đối với gia súc.

Trình tự khám hệ hô hấp: Khám động tác hô hấp của đường hô hấp trên, khám
ngực, kiểm tra đờm và các phương pháp khám đặc biệt khác.
* Tần số hô hấp
Tần số hô hấp là số lần thở trong 1 phút. Thường đếm tần số hô hấp trong 2-3
phút rồi lấy số bình quân.
Chú ý: Quan sát hõm hông, thành ngực, thành bụng, xương cánh mũi hoạt động
khi gia súc thở để tính tần số hô hấp.
Tần số hô hấp thay đổi theo con đực hay con cái, giống gia súc, tuổi, trạng thái
dinh dưỡng, thời tiết, khí hậu.
Tần số hô hấp của một số loài gia súc:
Trâu, bò : 10 - 30 lần/ phút Ngựa : 8 - 16 lần/phút
Lợn : 10 - 20 lần/ phút Dê, cừu : 12 - 20 lần/ phút
Chó : 10 - 30 lần/ phút Mèo : 20 - 30 lần/phút
Thỏ : 50 - 60 lần/phút
* Thể hô hấp
- Thể hỗn hợp: Khi thở thì thành bụng, thành ngực cùng hoạt động. Trừ chó,
gia súc khoẻ đều thở theo thể hỗn hợp.
- Thở thể ngực: Lúc gia súc thở thành ngực hoạt động rõ, còn thành bụng, cơ
hoành hoạt động ít hay không hoạt động. Chó thở thể ngực. Những gia súc khác thở
thể ngực là do bệnh: viêm màng bụng, liệt cơ hoành, những bệnh làm thể tích xoang
bụng to lên: giãn dạ dày, đầy hơi ruột, đầy hơi dạ cỏ, dạ cỏ bội thực, cổ chướng, do
gan sưng, lách sưng, bí đái.
- Thở thể bụng: Lúc gia súc thở, thành bụng hoạt động rõ, thành ngực hoạt
động yếu hoặc không rõ. Do viêm màng phổi, khí thũng phổi, tràn dịch màng phổi, có
khi do liệt cơ liên sườn, xương sườn gãy.
* Nhịp thở gia súc
Gia súc thở theo một nhịp điệu nhất định: lúc hít vào, lồng ngực, lồng bụng
phồng ra đều đặn, thời gian hít vào và thở ra theo một tỉ lệ nhất định (ở bò: 1:1,2;
ngựa: 1:1,8; Lợn: 1:1 và chó: 1:1,64). Thời gian nghỉ sau mỗi lần thở bằng nhau.
Nhịp thở thay đổi lúc gia súc sợ hãi, hưng phấn, lao động nặng nhọc.



- 20 -

2.2.2.5. Gõ vùng phổi
Căn cứ vào tính chất của tiếng phát ra lúc gõ vào vùng phổi để phán đoán tình
trạng của phổi.
Với gia súc lớn dùng bản gõ và búa gõ, với gia súc nhỏ có thể gõ bằng ngón tay.
Nên gõ theo trình tự từ trước ra sau, từ trên xuống dưới; mỗi điểm gõ hai cái
điểm này cách điểm khác 3-4 cm. Gõ bên này rồi gõ bên kia để so sánh, để nhận
những thay đổi của bệnh.
Vùng gõ phổi là vùng ngực trong có phổi. Cũng cần chú ý rằng có vùng ngực
trong có phổi nhưng không gõ được như vùng trước bả vai, vùng bả vai.
- Ở loài nhai lại: Vùng võ phổi là một hình tam giác, cạnh trước lấy vùng cơ
khuỷu làm giới hạn, cạnh bên cánh sống lưng khoảng một bàn tay tuỳ gia súc to nhỏ,
cạnh sau là một đường cong đều, được xác định bằng cách: Bắt đầu từ gốc xương
sườn 12, qua các giao điểm của đường ngang từ gờ xương cách hông với sương sườn
11 và đường ngang từ khớp vai với xương sườn 8.
Những con bò sữa gầy có một vùng trước xương bả vai khoảng một bàn tay có
thể gõ phổi được, nhưng kết quả khổng rõ lắm.
- Ở ngựa: cạnh trước và cạnh trên của vũng gõ phổi ở trâu bò. Cạnh sau là một
đường cong điều bắt đầu từ gốc sườn 17 qua các giao điểm của đường ngang kể từ gờ
xương cánh hông và xương sườn 16, đường ngang kể từ móm xương ngồi và xương
sườn 14, đường ngang kể từ khớp xương bả vai và xương sườn 10, tận cùng ở gian
sườn 5.
- Ở lợn: Cạnh sau bắt đầu từ gốc sườn 11 qua giao điểm của đường ngang kẻ từ
mỏm xương ngồi và xương sườn thứ 9, đường ngang kẻ từ khớp xương bả vai và
xương sườn 7, tận cùng ở gian sườn 4.
- Ở chó: Cạnh trước giáp xương bả vai, cạnh trên cách sống lưng 2-3 ngón tay,
cạnh sau bắt đầu từ gốc xương sườn 12, qua các giao điểm của đường ngang kẻ từ gờ

xương cánh hông và xương sườn 11, đường ngang kẻ từ mỏm xương ngồi và xương
sườn thứ 10, đường ngang kẻ từ khớp xương vai và xương sườn 8, tận cùng ở gian
sườn 6.
2.2.2.6. Nghe phổi
Khi đường hô hấp, phổi có bệnh thì âm thanh quản, âm khí quản, âm phế quản và
nhất là âm phế nang thay đổi. Ngoài ra còn có những âm mới gọi là những âm bệnh lý.
- Nghe trực tiếp: Phủ lên gia súc miếng vải mỏng để tránh bẩn, áp sát lỗ tai
nghe trực tiếp.
- Nghe gián tiếp: Nghe qua ống nghe.
Vị trí gõ vùng phổi ở bò


- 21 -

Nghe phổi gia súc khó vì tiếng phế nang rất yếu, nên chỗ khám phải hết sức
yên tĩnh, gia súc phải đứng im mới nghe rõ.
Nên bắt đầu nghe ở phổi, sau đó nghe về phía trước, phía sau, trên và xuống dưới,
những vùng tiếng phế nang yếu hơn vùng giữa phổi. Nghe từ điểm này qua điểm khác, có
thể dùng tay bịt mũi gia súc để gia súc thở dài và sâu, nghe được rõ hơn.
Vùng nghe phổi trên ngực giống vùng gõ phổi. Ở trâu bò có thể nghe được một
vùng trước xương bả vai.
* Những âm hô hấp sinh lý
- Âm thanh quản: Do khí thở từ xoang mũi vào hầu rồi vào khí quản cọ sát vào
khí quản gây nên. Âm thanh nghe được giống phát âm chữ "khờ" khá rõ.
- Âm khí quản: Là âm thanh quản vọng vào, nghe giống âm thanh quản nhưng
nhỏ hơn, vị trí nghe càng xa hầu, âm khí quản càng nhỏ.
- Âm phế quản: Các loài gia súc (trừ ngựa) tiếng nghe rõ ở khoảng sườn 3-4,
kẹp trong xương bả vai. Âm phế quản là dư âm của âm khí quản vào.
- Âm phế nang: Trên toàn bộ vùng phổi gia súc đều nghe được một tiếng nhẹ,
như phát âm chữ "f", đó là âm phế nang. Âm phế nang nghe rõ lúc gia súc hít vào và

yếu hơn khi thở ra.
Cường độ và tính chất của âm phế nang phụ thuộc vào giống gia súc, độ béo,
tuổi gia súc, trạng thái thần kinh và nhiều nhân tố khác.
* Âm hô hấp thay đổi
- Âm phế nang tăng: Nghe rõ, thô và sâu hơn bình thường.
Âm phế nang tăng đều cả hai bên phổi do trung khu thần kinh hưng phấn. Các
bệnh truyền nhiễm cấp tính, các bệnh có sốt cao, hoạt động hô hấp tăng cường, âm
phế nang tăng.
- Âm phế nang giảm: Gia súc thở nông, yếu. Âm phế nang giảm có thể do tổ chức
dưới da thuỷ thũng, sưng dầy nhưng chủ yếu do phổi hoặc màng phổi có bệnh.
Viêm màng phổi do đau, gia súc thở yếu nên âm phế nang yếu; do màng phổi
bị dính, bị sưng dầy, xoang ngực tính nước, âm phế nang giảm.
Phổi khí thũng, viêm phổi, thuỷ thũng phổi, lao, tỵ thư, âm phế nang giảm.
- Âm phế nang thô: Gia súc thở nặng nề, tiếng thở nghe không gọn, không lan
nhẹ khắp vùng phổi, thường do phế quản viêm, sưng dày, lòng phế quản rộng hẹp
không đều.
- Âm phế nang mất: Do phế nang bị tắc hay mất đàn tính; phế quản tắc.
Từng vùng nhỏ mất âm phế nang: viêm phổi, lao, tỵ thư, u, thuỷ thũng phổi.
Cả vùng phổi phía dưới mất âm phế nang: tràn dịch màng phổi, viêm màng
phổi thẩm xuất.


- 22 -

* Những âm thở bệnh lý
- Âm phế quản bệnh lý: Trên ngực ngựa khoẻ chỉ nghe được tiếng phế nang thuần,
nhẹ; còn ở các gia súc khác, âm nghe được trên vùng ngực là âm phế quản lẫn với âm
phế nang.
Nếu ở ngựa, trên vùng ngực nghe được âm phế quản (âm thô rõ hơn âm phế
nang) thì đó là âm phế quản bệnh lý. Ở gia súc khác, khi trên vùng ngực chỉ nghe được

âm phế quản mà không có âm phế nang lẫn vào thì đó cũng là âm phế quản bệnh lý.
Cần chú ý các đặc điểm sau để phân biệt âm phế quản bệnh lý và âm phế nang tăng:
Âm phế nang tăng nghe rõ đều trên toàn bộ vùng phổi và càng gần rốn phổi
nghe càng rõ.
Còn âm phế quản bệnh lý nghe thô, không lan đều, nghe rõ cả khi hít vào, thở
ra, gõ phổi thường có âm đục.
Nhu mô phổi bị thấm ướt, lòng phế quản tắc là nguyên nhân của âm phế quản
bệnh, các bệnh: viêm phổi thuỳ, suyễn lợn, viêm phổi - màng phổi, lao, viêm màng phổi.
- Tiếng ran:
Trong nhiều bệnh ở phổi, lòng phế quản chứa nhiều chất thẩm xuất hoặc bị hẹp
lại, khi thở khí qua lại tạo thành tiếng, gọi là tiếng ran.
+ Tiếng ran khô: do dịch thẩm xuất khô lại, thành phế quản sưng dày hoặc phế
nang căng rộng chèn ép phế quản làm lòng phế quản hẹp lại hoặc dịch thẩm xuất đọng
lại khô tạo thành sợi. Trong tình trạng trên khi thở khí qua lại tạo thành tiếng ran. Tuỳ
tình trạng bệnh, động tác hô hấp và độ to nhỏ lòng phế quản mà tiếng ran rất to như
tiếng mèo kêu, hoặc rất nhỏ như tiếng rít.
Tiếng ran khô ở một vùng phổi nhỏ: lao phổi, ổ mủ, viêm phế quản, viêm phổi - phế
quản. Trên một vùng phổi rộng: viêm phổi - phế quản, khí thũng phổi, viêm phổi thuỳ.
Gia súc non sau khi bị viêm phổi, tiếng ran khô còn lại một thời gian khá lâu,
mặc dù bệnh đã lành.
+ Tiếng ran ướt: là tiếng phát ra khi trong lòng phế quản có dịch hoặc bọt khí.
Tiếng ran ướt nghe như tiếng bọt vỡ, như tiếng nước chớm sôi.
Tiếng ran ướt rất nhỏ, như tiếng bọt vỡ phát ra ở phế quản gần phế nang; nghe
rõ lúc thở ra, còn kỳ hít vào có khi không nghe được. Các quá trình bệnh làm tổ chức
phổi thấm ướt: viêm phổi, lao phổi, thuỷ thũng phổi, xung huyết phổi.
- Tiếng vò tóc :
Nghe như tiếng ran nhỏ, nhưng mịn và đều hơn. Do lòng phế nang và phế quản
nhỏ bị thấm ướt, lúc thở ra chúng dính lại và khi hít vào chúng tách ra gây tiếng vò tóc.



- 23 -

Tiếng vò tóc là triệu chứng của bệnh viêm phổi, thuỷ thũng phổi, xung huyết
phổi. Nếu dịch thẩm xuất nhiều thì tiếng vò tóc mất.
Căn cứ vào những đặc điểm sau để phân biệt tiếng vò tóc và tiếng ran nhỏ:
+ Tiếng vò tóc mịn, đều, phát ra diện rộng; còn tiếng ran thì thô hơn, to nhỏ
không đều, phát ra trên diện hẹp.
+ Tiếng vò tóc ổn định, còn tiếng ran không ổn định, chỗ này mất, chỗ kia xuất hiện.
+ Tiếng vò tóc phát ra thời gian ngắn, còn tiếng ran thì lâu dài, cho đến khi
bệnh lành.
+ Tiếng vò tóc nghe rõ lúc hít vào, còn tiếng ran nghe rõ ở cả 2 kỳ thở.
- Tiếng thổi vò: Do phổi có ổ mủ, ổ hoại thư, lao, tạo thành những hang thông
với phế quản; khi thở khí qua lại giữa hang và lòng phế quản tạo thành tiếng thổi vò.
Ở gia súc rất ít thấy triệu chứng này.
- Tiếng cọ màng phổi: Màng phổi viêm có nhiều fibrin đọng lại làm cho màng
phổi sần sùi, lúc thở các lá của màng phổi cọ sát nhau gây ra tiếng cọ màng phổi.
Tiếng cọ màng phổi là triệu chứng đặc thù của bệnh viêm màng phổi.
Nhưng nếu viêm màng phổi trong các trường hợp sau thì không có tiếng cọ
màng phổi phát ra:
+ Dịch thẩm xuất quá nhiều làm cho lá thành, lá tạng cách xa nhau
+ Màng phổi bị dính
+ Những sần sùi trên màng phổi do cọ sát lâu bị nhẵn.
- Tiếng vỗ nước:
Tiếng óc ách như nước xao động trong lồng ngực. Nguyên nhân là do dịch
thẩm xuất, thẩm lậu tích lại trong xoang ngực, lúc gia súc thở, tim đập, đứng lên nằm
xuống, thay đổi tư thế, gây nên tiếng óc ách.
Chú ý: Tiếng vỗ nước có lúc rất ổn định, ở tư thế nào của gia súc cũng nghe
được. Nhưng có ca bệnh chỉ nghe được tiếng vỗ nước ở những tư thế nhất định.
2.2.2.7. Khám dạ dày loài nhai lại
Dạ dày loài nhai lại gồm dạ dày trước - dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách và dạ múi

khế. Tuy chia làm bốn túi, nhưng các túi dạ dày hoạt động liên hệ mật thiết với nhau.
Ví dụ: Lúc dạ cỏ co bóp mạnh, dạ múi khế tăng cường phân tiết, độ axit tăng. Lúc dạ
cỏ liệt, độ axit trong dạ múi khế giảm rõ rệt.
Ở loại nhai lại thường thấy các bệnh bội thực dạ cỏ, liệt dạ cỏ, chướng hơi dạ cỏ,
nghẽn dạ lá sách và viêm dạ tổ ong do ngoại vật.


- 24 -

* Khám dạ cỏ
Hoạt động của dạ cỏ liên hệ mật thiết với các túi dạ dày khác và tình trạng chung
của cơ thể.
- Quan sát dạ cỏ: Quan sát vùng dạ cỏ thấy căng là do tích thức ăn. Nếu dạ cỏ
chướng hơi nặng thì lõm hông bên trái phình to. Nếu hõm hông trái xuống thường do
đối hay bị ỉa chảy lâu ngày.
- Sờ nắn dạ cỏ: Sờ nắn dạ cỏ để biết tình trạng vận động, độ mẫn cảm, tính chất
và lượng thức ăn chứa trong đó.
Khi sờ nắn cần đặc biệt chú ý nhu động dạ cỏ: Dạ cỏ co bóp làm thức ăn trong dạ
cỏ chuyển động từ phải qua trí, từ trên xuống dưới, hõm hông trái nổi lên rồi hõm
xuống, tắc lại ở phàn giữa. Sờ nắm rất dễ cảm giác được hiện tượng đó.
Số lần nhu động dạ cỏ của gia súc khoẻ trong hai phút:
Trâu, bò: Nhu động 2-5 lần; dê: 2- 4 lần; cừu 3- 6 lần.
Thường đến trong bốn phút rồi lấy số bình quân.
Sờ nắn dạ cỏ có thể thấy những thay đổi sau:
+ Nhu động dạ cỏ giảm, lực co bóp yếu, có bóp ít: Do liệt dạ cỏ, tích thức ăn
trong dạ cỏ, do các bệnh truyền nhiễm, bệnh nội khoa nặng.
Trường hợp dạ cỏ hoàn toàn ngừng nhu động: Do liệt dạ cỏ nặng, đầy hơi nặng,
viêm màng bụng nặng
+ Nhu động dạ cỏ tăng, co bóp nhiều, lực co mạnh: Có thể là giai đoạn đầu của
chướng hơi dạ cỏ, trúng độc

Ấn mạnh vùng dạ cỏ thấy gia súc đau thường do viêm màng bụng.
- Nghe dạ cỏ: Có thể dùng ống nghe hoặc áp sát tai vào vùng dạ cỏ để nghe trực tiếp.
Nhu động dạ cỏ nghe như tiếng sấm từ xa lan đến gần, từ nhỏ đến to dần, rồi ra
xa và tắt. Nhu động cỏ yếu hay mất có thể do liệt dạ cỏ, tích thức ăn dạ cỏ, chướng
hơi dạ cỏ nặng.
- Gõ dạ cỏ:
Gõ trọn vùng hõm hông bên trái. Gia súc khoẻ mạnh, phần trên hõm hông trái có
âm bùng hơi, phần giữa có âm dục tương ứng đối với phần dưới có âm dục tuyệt đối.
Âm bùng hơi mở rộng xuống dưới là do chướng hơi dạ cỏ; âm dục mở rộng là do dạ
cỏ tích thức ăn.
* Khám dạ tổ ong
Ở trâu bò nước ta thường gặp viêm dạ tổ ong do ngoại vật.
Chướng hơi dạ tổ ong thường cùng phát với chướng hơi dạ cỏ.
Dạ tổ ong nằm trên xương mỏm kiếm, khoảng sườn 6-8, hơi nghiêng về bên trái.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×