Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Luận văn tốt nghiệp: Thanh toán quốc tế tại ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển, chi nhánh Hà Thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.22 KB, 93 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính tất yếu nghiên cứu đề tài:
Cùng với xu hướng toàn cầu hoá, Việt Nam đang từng bước hội nhập
thế giới. Nền kinh tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng đã bắt
đầu khởi sắc. Điều này gắn liền với hoạt động thanh toán xuất nhập nhẩu ở
lĩnh vực ngân hàng.
Trong bối cảnh Việt Nam ra nhập WTO, kinh tế Việt Nam sẽ phải chịu
nhiều tác động lớn của kinh tế thế giới, nhiều ngành nghề mới xuất hiện thêm
vào đó phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng phát triển đòi hỏi
các phương thức thanh toán ngày càng hoàn thiện và đa dạng hơn. Điều này
đòi hỏi hệ thống thanh toán quốc tế chặt chẽ, hiệu quả tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
Xuất phát từ thực tiễn nói trên, sau một thời gian thực tập tại Ngân
hàng Đầu Tư và Phát Triển, chi nhánh Hà Thành em đã chọn đề tài:“ Thanh
toán quốc tế tại ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển, chi nhánh Hà Thành ”
để có điều kiện tìm hiểu rõ hơn về thực tế hoạt động thanh toán xuất nhập
khẩu trong doanh nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
_ Phân tích thực trạng thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Đầu Tư và
Phát Triển, chi nhánh Hà Thành.
_ Hệ thống hoá vấn đề lý luận chung về các phương thức thanh toán
quốc tế và vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
_ Trên cơ sở lý luận thực tiễn, đề tài đưa ra một số giải pháp hoàn thiện
và kiến nghị mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Đầu Tư và
Phát Triển, chi nhánh Hà Thành.
1
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
_ Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đề tài tập trung nghiên cứu thực tế và lý luận về phương thức thanh
toán quốc tế trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
_ Phạm vi nghiên cứu:


Đề tài nghiên cứu thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế trong giai
đoạn từ năm 2003 đến nay của chi nhánh Hà Thành thuộc Ngân hàng đầu tư
và Phát triển Việt Nam.
4. Kết cấu của đề tài:
Đề tài có ba phần chính như sau:
Chương I: Tổng quan về thanh toán quốc tế.
Chương II: Thực trạng về thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Đầu Tư và
Phát Triển, chi nhánh Hà Thành.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện thanh toán quốc tế tại Ngân hàng
Đầu Tư và Phát Triển, chi nhánh Hà Thành.
2
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ
I_ Khái niệm và vai trò của thanh toán quốc tế: [ 8, trang 57]:
1_ Khái niệm thanh toán quốc tế:
Mỗi quốc gia, mỗi con người do hạn chế về điều kiện tự nhiên, khí hậu,
địa lý cũng như do trình độ phát triển không thể tự sản xuất ra những thứ
mình cần. Thực tế cũng đã chứng minh các quốc gia trên thế giới đều phải
phụ thuộc lẫn nhau về rất nhiều loại hàng hóa phục vụ cho sản xuất và tiêu
dùng do đó dẫn đến nhu cầu trao đổi sản phẩm hàng hoá nhằm vào những
mục tiêu khác nhau. Từ nhu cầu trao đổi ấy nảy sinh nhu cầu chi trả khác
nhau giữa các chủ hàng, giữa các quốc gia khác nhau…
Tiền tệ ra đời là một bước tiến mới giúp cho trao đổi hàng hoá trong
các quốc gia diễn ra thuận lợi và nhanh chóng hơn, giúp cho hoạt động trao
đổi thuận tiện, thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng hoá phát triển hơn và kéo
theo đó là sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Các mối liên hệ giữa các
nước ngày càng phát triển và dần hình thành một thị trường kinh tế thế giới
thống nhất. Những mối liên hệ đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ tiền tệ của
nước này với nước khác từ đó có khái niệm về thanh toán quốc tế: Việc thanh
toán nghĩa vụ tiền tệ phát sinh có liên quan tới các quan hệ kinh tế, thương

mại và các mối quan hệ khác( chính trị, ngoại giao, hợp tác văn hoá, khoa học
kỹ thuật…) giữa các tổ chức, công ty và các chủ thể kinh tế khác nhau của
mỗi quốc gia gọi là thanh toán quốc tế.
Khái niệm khác về thanh toán quốc tế thông qua cầu nối ngân hàng làm
trung gian đó là: Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và
quyền lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế
giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức và các cá nhân nước khác hay
giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ các ngân hàng của
các nước liên quan.
3
2_ Vai trò của ngân hàng đối với hoạt động thanh toán quốc tế:
Ngân hàng đóng vai trò là trung gian cầu nối giữa các khách hàng, tiến
hành thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, bảo vệ quyền lợi cho khách
hàng trong giao dịch thanh toán. Ngân hàng cũng thực hiện tư vấn cho khách
hàng về các dịch vụ sản phẩm nhằm tạo sự tin tưởng cho khách trong quan hệ
giao dịch mua bán, tạo hiệu quả cao hơn trong kinh doanh, tránh những rủi ro
có thể xảy ra. Ngân hàng là người cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tài chính
hỗ trợ cho các hoạt động thanh toán. Ngân hàng cung cấp các phương án lựa
chọn phương thức thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu, bảo đảm an toàn
và quyền lợi cho các bên thông qua hoạt động ngoại thương và mở rộng quan
hệ giữa các quốc gia trên thế giới.
Không có sự tham gia của ngân hàng các hoạt động thanh toán xuất
nhập khẩu sẽ trở lên khó khăn hơn, kém đảm bảo và hiệu quả hơn. Nếu ngân
hàng không ra đời các hoạt động trao đổi hàng hoá chỉ dừng lại ở trao đổi thô
sơ, thanh toán quốc tế sẽ không được hiểu theo đúng nghĩa đầy đủ của nó, các
bên mua bán không có nhiều lựa chọn trong trao đổi, thanh toán và chi trả.
Tại Việt Nam, hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc
thực hiện chính sách mở cửa, phát triển quan hệ giao thương với các quốc gia
khác trên thị trường thế giới. Trong thời kỳ mở cửa nền kinh tế, ngân hàng nổi
lên là vai trò trung gian tài chính, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh cũng

như lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng vậy đều cần có hệ thống ngân hàng làm cầu
nối. Thanh toán quốc tế chính là chất xúc tác, là cầu nối và là điều kiện bảo
đảm an toàn, hiệu quả cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu.
3_ Vai trò của thanh toán quốc tế trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng:
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, việc phát triển và hoàn
thiện hệ thống thanh toán quốc tế đóng vai trò rất quan trọng. Thanh toán
4
quốc tế không chỉ là một nghiệp vụ thanh toán mà còn là một mặt không thể
thiếu trong hoạt động thanh toán của ngân hàng.
Một ngân hàng có hệ thống thanh toán quốc tế phát triển không chỉ đáp
ứng tốt nhu cầu của khách hàng mà còn là cơ sở ra tăng quy mô hoạt động, uy
tín của ngân hàng đó trên phạm vi thế giới.
Hoạt động thanh toán quốc tế phát triển cũng ra tăng được nguồn ngoại
tệ, tạm thời quản lý được nguồn vốn nhàn rỗi ở các doanh nghiệp có quan hệ
thanh toán quốc tế trong ngân hàng. Đồng thời cũng giúp cho ngân hàng phát
triển được các nghiệp vụ thanh toán kinh doanh ngoại tệ, thu được ngoại tệ
lớn và thông qua đó tạo điều kiện phát triển đa dạng hoá các nghiệp vụ thanh
toán quốc tế ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, thu hút
khách hàng đến với ngân hàng nhiều hơn.
Hoạt động thanh toán quốc tế cũng là một trong các hoạt động của ngân
hàng, giúp ngân hàng ra tăng doanh thu. Hoạt động thanh toán quốc tế phát
triển tốt sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường quốc
tế, vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia hoà nhập khối ngân hàng thế giới.
Nhận thức được sự vai trò của thanh toán quốc tế đối với nền kinh tế
đất nước và rộng hơn là hội nhập kinh tế thế giới, Đảng và nhà nước ta ngày
càng quan tâm hơn đến vấn đề này tạo điều kiện cho thanh toán quốc tế mở
rộng, thuận lợi nhanh chóng cải cách hệ thống ngân hàng, thành lập nhiều hệ
thống ngân hàng hơn giúp tháo gỡ vướng mắc thanh toán, tăng doanh thu

thanh toán thu ngoại tệ trong nước để kinh tế trong nước ngày càng phát triển
ngang tầm kinh tế thế giới.
II_ Các phương tiện và phương thức thanh toán quốc tế:
1_ Các phương tiện thanh toán quốc tế thông dụng :
Các phương tiện lưu thông tín dụng (hối phiếu, kỳ phiếu, séc…) được
dùng làm phương tiện thanh toán quốc tế hình thành trên cơ sở của sự phát
5
triển tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng, có vai trò rất quan trọng
trong thanh toán quốc tế.
Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản hiện đại với sự phát triển và mở rộng
của chế độ tín dụng tư bản chủ nghĩa với quy mô phát triển cực kỳ rộng lớn
của các nghiệp vụ cho vay, các phương tiện lưu thông tín dụng đã trở thành
vật mang hình thái tiền tệ đặc thù.
Khác với tiền tệ kim loại, các phương tiện thanh toán quốc tế lưu thông
không có giá trị nội tại của nó mà chỉ có dấu hiệu tiền tệ mà thôi. Song nếu
tiền giấy là ký hiệu của tiền thật do nhà nước phát hành thì phương tiện lưu
thông tín dụng phần lớn là do kết quả của hợp đồng mua bán hàng hoá và các
nghiệp vụ của ngân hàng tạo ra.
* Hối phiếu: [ 8, trang 74]
Khái niệm hối phiếu theo định nghĩa hối phiếu của luật hối phiếu 1882
của nước Anh ( ULB), hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do
một người ký phát cho người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy phiếu
hoặc đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong
tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh
của người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm phiếu.
Hối phiếu có ba đặc điểm quan trọng : Thứ nhất là tính trừu tượng của
hối phiếu, hối phiếu không cần phải ghi nội dung của quan hệ tín dụng hay
nói cách khác không ghi nguyên nhân sinh ra việc lập phiếu mà chỉ ghi rõ số
tiền phải trả và nội dung liên quan đến vấn đề trả tiền. Thứ hai là tính bắt
buộc trả tiền của hối phiếu, người trả tiền hối phiếu phải trả tiền theo đúng

những nội dung ghi trên tờ hối phiếu mà không được viện bất cứ lý do riêng
nào để từ chối trả tiền chỉ trừ trường hợp hối phiếu được lập không đúng luật
điều chỉnh. Thứ ba là tính lưu thông của hối phiếu, hối phiếu có thể được
chuyển nhượng một hay nhiều lần trong thời hạn hiệu lực của nó.
*Séc: [ 8, trang 89]
6
Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện của người chủ tài khoản,
ra lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên
trong séc, hoặc trả theo lệnh của người ấy hoặc trả cho người cầm séc một số
tiền nhất định, bằng tiền mặt hay bằng chuyển khoản.
Séc ra đời từ chức năng làm phương tiện thanh toán của tiền tệ và được
sử dụng rộng rãi trong các nước có hệ thống ngân hàng phát triển cao. Hiện
nay séc là phương tiện chi trả được dùng hầu như phổ biến trong giao lưu
thanh toán nội địa của tất cả các nước. Séc cũng được sử dụng rộng rãi trong
thanh toán quốc tế về hàng hoá, cung ứng lao vụ, du lịch và về các chi trả phi
mậu dịch khác.
*Kỳ phiếu: [ 8, trang 96]
Ngược lại với hối phiếu, kỳ phiếu do con nợ viết ra hứa cam kết trả tiền
cho người hưởng lợi. Kỳ phiếu là một tờ giấy hứa cam kết trả tiền vô điều
kiện do người lập phiếu phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng
lợi hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác theo quy định trong kỳ
phiếu đó.
*Thẻ ngân hàng:
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời
từ phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền với việc
áp dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Thẻ ngân hàng
là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành cấp cho khách hàng sử dụng để
thanh toán hàng hóa, dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số dư tiền gửi
hoặc trong hạn mức tín dụng được cấp.
Hiện nay thẻ ngân hàng được sử dụng như một phương tiện thanh toán

hiện đại và ngày càng được các ngân hàng quan tâm phát triển ngày một
phong phú đa dạng hơn như: Thẻ tín dụng (Credit Card), thẻ thanh toán
(Charge Card), thẻ ATM, thẻ ghi nợ (Debit Card),…
7
2_ Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu: [ 8, trang 202_237
+ 9, trang 128_131]
Phương thức thanh toán là cách thức thanh toán tiền hàng trong giao
dịch thương mại quốc tế giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu, hay nói
cách khác đây là cách mà người bán dùng để thu tiền về và cũng là cách mà
người mua dùng để trả tiền.
Trong giao dịch thanh toán quốc tế có nhiều phương thức thanh toán
khác nhau để phục vụ yêu cầu của người mua và người bán. Các phương thức
thanh toán quốc tế gồm có 5 phương thức đó là: Phương thức chuyển tiến,
phương thức nhờ thu, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, phương thức
ghi sổ và phương thức giao hàng trả tiền ngay.
2.1. Phương thức chuyển tiển ( Remittance):
* Khái niệm:
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó một
khách hàng được gọi là người chuyển tiền yêu cầu ngân hàng phục vụ mình
chuyển một số tiền nhất định cho một người khác được gọi là người hưởng lợi
ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu
cầu. Ngân hàng chuyển tiền thường thông qua đại lý của mình ở nước người
hưởng lợi để thực hiện nghiệp vụ chuyển tiền.
* Nhận xét về phương thức chuyển tiền:
_ Phương thức chuyển tiền có lợi cho nhà nhập khẩu, thủ tục nhanh
gọn, đơn giản, thuận tiện.
_ Trong phương thức này ngân hàng chỉ giữ vai trò trung gian thanh
toán đơn thuần, không ràng buộc về việc thanh toán, chi phí chuyển tiền thấp.
_ Phương thức chuyển tiền có nhược điểm là việc trả tiền cho người
bán phụ thuộc vào thiện chí của người mua. Bởi vậy quyền lợi của bên bán

không được đảm bảo, ngược lại trường hợp bên bán nhận tiền trước cũng
không bíêt việc giao hàng của bên bán có đúng hợp đồng hay không.
8
_ Rủi ro có thể xảy ra với người mua trong trường hợp người mua áp
dụng thanh toán trả tiền trước cho người bán mà không nhận được hàng như
đã ký trong hợp đồng.
Do đó khi chọn phương thức thanh toán này yêu cầu các bên giao dịch
thanh toán phải có sự tin cậy nhất định, hợp đồng áp dụng phương thức thanh
toán này thường có giá trị nhỏ như chuyển vốn đầu tư từ tài khoản này sang
tài khoản khác, chi phí bảo hiểm, vận chuyển, bồi thường thiệt hại, thanh toán
mậu dịch…
2.2. Phương thức nhờ thu (Collection of payment):
*Khái niệm:
Phương thức nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người bán sau
khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hay cung ứng dịch vụ thì uỷ thác cho
ngân hàng của mình thu hộ số tiền của người mua trên cơ sở hối phiếu do
mình ký phát ra.
*Dựa trên cở sở cách thức yêu cầu thanh toán của bên bán có thể phân
biệt hai hình thức nhờ thu:
_ Nhờ thu phiếu trơn (sử dụng hối phiếu trơn): Là phương thức thanh
toán trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền ở
người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ hàng hóa thì
gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng.
Nhận xét về phương thức nhờ thu phiếu trơn:
+Quy trình thanh toán đơn giản, trách nhiệm của ngân hàng thấp, phi
sử dụng dịch vụ thấp
+Với phương thức này quyền lợi của người bán không được đảm bảo,
sự trả tiền và nhận hàng tách rời không có ràng buộc nhau. Người mua có thể
nhận hàng nhưng có thể trì hoãn việc trả tiền.
Có thể sử dụng phương thức này khi hai bên trong nội bộ công ty, có

quan hệ lâu dài, hoặc liên doanh liên kết, có quan hệ chặt chẽ. Phương thức
9
thanh toán nhờ thu phiếu trơn có thể sử dụng để thanh toán phí như phí bảo
hiểm, cước vận chuyển, vận tải hàng hoá dịch vụ trong kinh doanh xuất nhập
khẩu không có chứng từ rắc rối đi kèm.
_Phương thức nhờ thu kèm chứng từ: Là phương thức thanh toán trong
đó người bán sau khi hoàn thành nghĩa cụ giao hàng thì lập ngay một bộ
chứng từ kèm theo hối phiếu gửi đến ngân hàng phục vụ mình nhờ ngân hàng
thu hộ tiền tờ hối phiếu với điều kiện người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả
tiền thì ngân hàng mới trao cho người mua bộ chứng từ để đi nhận hàng.
Nhận xét về phương thức nhờ thu kèm chứng từ:
+So với phương thức nhờ thu phiếu trơn và phương thức chuyển tiền,
phương thức nhờ thu kèm chứng từ đảm bảo quyền lợi cho người bán hơn vì
ngân hàng ngoài đòi hộ tiền hối phiếu còn giữ hộ bộ chứng từ do đó người
bán không sợ mất hàng nếu không đòi được tiền.
+Hạn chế của phương thức này là thời gian thanh toán lâu hơn, khi chờ
ngân hàng khống chế bộ chứng từ, người bán không thể buộc người mua trả
tiền mà chỉ khống chế quyền định đoạt của người mua, không khống chế
được việc thanh toán.
2.3. Phương thức giao hàng (chứng từ) trả tiền ngay (COD/COA):
* Khái niệm:
Theo phương thức này, người nhập khẩu tiến hành ký quỹ tại ngân
hàng phục vụ người xuất khẩu một khoản tiền bằng 100% trị giá của hợp
đồng mua bán và đề nghị ngân hàng trả ngay tiền cho người xuất khẩu nếu
người xuất khẩu xuất trình được cho ngân hàng đủ chứng từ theo yêu cầu
hoặc trả tiền ngay sau khi người xuất khẩu giao hàng xong cho kho ngoại
quan và lấy được giấy biên nhận kho hàng (Warehouse Receipt) trên đó có
chữ ký của đại diện phía nhập khẩu.
*Nhận xét phương thức giao hàng (chứng từ) trả tiền ngay:
_ Phương thức này có ưu điểm là người xuất khẩu giao hàng xong có

10
thể lấy được tiền ngay, bộ chứng từ xuất trình đơn giản, người nhập khẩu
được lợi là không phải trả phí dịch vụ thanh toán.
_Nhược điểm của phương thưc này đối với nhà nhập khẩu: Nhà nhập
khẩu có thể bị ứ đọng vốn trước khi nhận được hàng và phải cử người kiểm
tra kiểm soát việc giao hàng.
Phương thức này thường sử dụng khi hàng hoá khan hiếm, hàng hóa
bán chạy khi thị trường thuộc về phía người xuất khẩu, áp dụng trong hoạt
động trả tiền ngay. Đối với phương thức COD thì chỉ sử dụng được ở những
nơi có kho ngoại quan hoạt động.
2.4. Phương thức ghi sổ (Open Account):
*Khái niệm:
Phương thức ghi sổ là phương thức thanh toán trong đó người bán mở
tài khoản hoặc một quyển sổ để ghi nợ cho người mua sau khi đã hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng hoặc cung cấp dịch vụ đến từng định kỳ thanh toán người
mua mới tiến hành trả tiền cho người bán.
*Nhận xét về phương thức ghi sổ:
Phương thức này thực chất là phương thức tín dụng thương mại (mua
bán chịu) không có sự tham gia của các ngân hàng với chức năng là người mở
tài khoản và thực thi thanh toán
Phương thức này chỉ mở tài khoản đơn biên, không mở tài khoản song
biên, nếu người mua cùng mở tài khoản để ghi thì tài khoản ấy thường chỉ là
tài khoản để theo đó theo dõi, không có giá trị thanh quyết toán giữa các bên.
Phương thức này thường được áp dụng khi hai bên có mối quan hệ thực
sự tin cậy lẫn nhau, và được sử dụng trong thanh toán nội địa nhiều hơn còn
thanh toán quốc tế thì rất ít.
Phương thức này dùng cho hình thức mua bán hàng đổi hàng thường
xuyên, nhiều lần theo định kỳ nhất định. Thường dùng cho thanh toán các loại
phí dịch vụ như: Phí bảo hiểm, phí hoa hồng môi giới, phí vận tải, lãi cho vay…
11

2.5. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Document Credit):
* Khái niệm:
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán
trong đó ngân hàng được gọi là ngân hàng mở thư tín dụng theo yêu cầu của
khách hàng được gọi là người xin mở thu tín dụng cam kết sẽ trả một số tiền
nhất định cho người thứ ba được gọi là người hưởng lợi hay chấp nhận hối
phiếu do người thứ ba này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người thứ ba
này xuất trình được cho ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những
quy định đã đề ra trong thư tín dụng.
* Nhận xét:
So với phương thức thanh toán nhờ thu và chuyển tiền, phương thức
này người nhập khẩu được đảm bảo quyền lợi hơn, ngân hàng đứng ra trả tiền
nhà xuất khẩu do đó đảm bảo thanh toán hơn, việc thanh toán không phụ
thuộc vào thiện chí của người mua và không sợ mất quyền sở hữu hàng hóa vì
có ngân hàng đứng ra khống chế bộ chứng từ hàng hóa đó.
Nếu như phương thức thanh toán trước nếu một bên có lợi, một bên bị
thiệt thì phương thức này người nhập khẩu cũng có lợi, không phải trả tiền
ngay, tận dụng được khoản tín dụng nhận được từ ngân hàng.
Trong thực tế, khi ngân hàng và nhà nhập khẩu có quan hệ lâu dài,
chưa tin cậy một số ngân hàng yêu cầu ký quỹ mở thư tín dụng một số tiền
nhất định tuỳ thuộc vào giá trị hợp đồng, mức độ thân quen của nhà nhập
khẩu và ngân hàng.
Phương thức thanh toán này, ngân hàng sẽ giúp nhà nhập khẩu kiểm tra
bộ chứng từ hàng hoá do đó độ tin cậy được bảo đảm hơn. Người nhập khẩu
chỉ trả tiền ngân hàng khi nhận bộ chứng từ phù hợp, đảm bảo hàng hoá đúng
như hợp đồng ký kết.
Song phương thức này cũng có thể gặp phải rủi ro khi chứng từ và hàng
hóa không phù hợp trùng khớp. Phương thức này có mức độ phức tạp cao, chi
12
phí cao, nhà nhập khẩu chịu phí là phần lớn khi sử dụng phương thức thanh

toán này.
Hiện nay phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức
được sử dụng rộng rãi nhất trong thanh toán quốc tế vì sự an toàn và đảm bảo
quyền lợi một cách tương đối cho cả người mua ( nhà nhập khẩu) và người
bán ( nhà xuất khẩu).
3_ Hệ thống mạng điện tử sử dụng trong thanh toán quốc tế:
Hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng có thể thực hiện trao
đổi thông qua các phương tiện viễn thông như: Điện thoại, thư, telex, fax,
swift… Để có thể thực hiện thanh toán được qua mạng điện tử các ngân hàng
thường cung cấp các code SWIFT của ngân hàng cho nhau. Tại Việt Nam
hiện nay mạng SWIFT là mạng điện tử được sử dụng nhiều nhất.
SWIFT là một hệ thống thanh toán viễn thông liên ngân hàng quốc tế
( Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunication), được thành
lập từ năm 1973, trụ sở tại Bỉ, đến nay có hơn 90 quốc gia trên thế giới sử
dụng mạng điện tử này. SWIFT phục vụ cho thanh toán các giao dịch quốc tế
phục vụ các tổ chức tài chính khắp thế giới. Mạng này cung cấp cho người sử
dụng một số dịch vụ viễn thông thay thế như: thư, điện tín, telex, đó là một
phương tiện viễn thông cho các dịch vụ ngân hàng thế giới. Ngày nay nhiều
ngân hàng Việt Nam sử dụng hệ thống thanh toán này để trao đổi thông tin và
thực hiện thanh toán trong thanh toán quốc tế giữa các ngân hàng trong nước
và nước ngoài, SWIFT là một hệ thống thanh toán thuận tiện chính xác, độ tin
cậy an toàn cao, chi phí phải chăng.
Khi sử dụng mạng SWIFT có nhiều tiện dụng như:
_ Mạng SWIFT sử dụng các chuẩn mực nhất định của từng mẫu điện
phục vụ cho các loại nghiệp vụ khác nhau bằng một ngôn ngữ thống nhất đó
là tiếng anh, từ đó giúp cho người sử dụng giảm được sự khó khăn trong bất
đồng ngôn ngữ khi thực hiện giao dịch.
13
_ Tự động hoá cao: Các điện thanh toán trong mạng này đều được phân
loại và xử lý thông qua hệ thống máy tính. Các điện có chi tiết thanh toán đầy

đủ đạt chuẩn hoá sẽ được xử lý trực tiếp hoàn toàn tự động. Các điện có thông
tin không chính xác, rõ rang hoặc không đầy đủ sẽ được máy tính báo từ đó
cán bộ thanh toán sẽ tra cứu rà soát lại.
_ Lưu giữ được các giữ liệu, thuận lợi cho việc tra cứu. Thời gian lưu
trữ điện có thể kéo dài trong vài tháng nên dễ dàng cho tra soát.
_ Mạng SWIFT khá an toàn nhờ việc mã hoá dữ liệu khi truyền đi và
có sự phối hợp cùng các biện pháp bảo mật.
_ Thời gian sử dụng không giới hạn, tính quốc tế cao về không gian và
thời gian.
III_ Các nhân tố ảnh hưởng trong thanh toán quốc tế:
1_ Các nhân tố khách quan bên ngoài:
Môi trường hoạt động của ngân hàng là một trong những nhân tố ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói
chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng. Để đưa ra được những chiến
lược hoạt động kinh doanh đúng đắn thì việc phân tích đánh giá môi trường
hoạt động có vai trò quan trọng.
Những nhân tố có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh mà cụ thể là
hoạt động thanh toán của ngân hàng như: Môi trường kinh tế, môi trường
chính trị, môi trường pháp lý, năng lực kinh doanh của khách hàng.
* Môi trường kinh tế ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán của ngân
hàng:
Một môi trường kinh tế ổn định và phát triển sẽ dấn đến các vấn đề về
thanh toán hiệu quả và an toàn hơn. Nền kinh tế ổn định sẽ dẫn đến các hoạt
động tài chính, tín dụng phát triển hơn, các hoạt động của ngân hàng sẽ có
điều kiện phát triển hơn. Khi đó ngân hàng sẽ được tự tin hơn khi tham gia
14
vào thị trường thế giới, từ đó có điều kiện học hỏi tiếp thu kiến thức kinh
nghiệm từ các nước bạn để phát triển sản phẩm dịch vụ ngân hàng nước mình,
từ đó tăng thu ngoại tệ, làm giàu thêm cho đất nước.
Ngược lại nếu nền kinh tế bấp bênh đang theo đà suy thoái, nợ nhiều

chưa có điều kiện chi trả, uy tín sẽ bị giảm sút, các cơ hội đầu tư ngày một
kém dẫn đến hoạt động ngân hàng trở nên trì trệ, không thể được ổn định. Lúc
này niềm tin của khách hàng quốc tế đối với ngân hàng cũng giảm, họ có thể
lo ngại về khả năng thanh toán của ngân hàng, liệu ngân hàng có đủ tin cậy để
thực hiện những hợp đồng kinh doanh có số vốn lớn. Do đó sẽ không có điều
kiện phát triển củng cố sản phẩm dịch vụ, tạo niềm tin cho khách hàng. Ngân
hàng sẽ không những thất thu từ các nghiệp vụ thanh toán quốc tế mà còn bị
lâm vào khủng hoảng dễ dẫn đến sụp đổ về tài chính.
Môi trường kinh tế là hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh
của ngân hàng nói riêng và hoạt động thanh toán quốc tế nói chung. Vì vậy
phải luôn luôn củng cố, đổi mới và phát triển nền kinh tế luôn luôn vững
mạnh.
*Môi trường chính trị :
Đất nước có nền chính trị ổn định mới phát triển được kinh tế, người
dân từ đó mới được đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Nền chính trị ổn định
người dân an tâm làm việc sinh sống và từ đó phát triển các nhu cầu tiêu
dùng, sinh hoạt, phát triển các nhu cầu thanh toán. Ngân hàng ra đời sẽ đáp
ứng không chỉ nhu cầu trong nước mà cả nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu
sang nước khác.
Một nền chính trị ổn định vững chắc là tiền đề cho tài chính kinh tế
phát triển, dân mới giàu đất nước mới phát triển vững mạnh. Hệ thống ngân
hàng có điều kiện củng cố, và tăng cơ hội phát triển các sản phẩm dịch vụ đặc
biệt là sản phẩm dịch vụ thanh toán quốc tế khi giao thương với các nước trên
thế giới. Sản phẩm dịch vụ ngân hàng phát triển ngày càng thu hút nhiều
15
khách hàng trong và ngoài nước, gia tăng vị thế ngân hàng, tăng các mối quan
hệ kinh tế quốc tế với các nước trong và ngoài khu vực. Do đó quan hệ kinh
tế quốc tế càng được củng cố và mở rộng phát triển các hoạt động kinh tế_
chính trị, văn hóa_ xã hội.
* Môi trường luật pháp:

Hoạt động kinh doanh không thể thành công nếu như thiếu hiều biết về
luật pháp và tập quán thương mại của các nước khác. Giống như vậy, nếu
không hiểu rõ về luật pháp cũng như môi trừơng pháp lý của nước khác hoặc
hiểu sai lệch sẽ dẫn đến những rủi ro cho các hoạt động ngoại thương. Trên
thế giới hiện nay, mỗi quốc gia có những quy định pháp lý khác nhau không
đồng nhất. Quy tắc và những quy định về luật thanh toán cũng rất khác nhau ở
mỗi giai đoạn thời kỳ phát triển. Bởi vậy để đạt hiệu quả cao trong kinh
doanh, giao thương cần phải tìm hiểu kỹ lưỡng về luật pháp các nước cũng
như luật kinh tế, những quy định thanh toán trong hợp đồng dẫn chiếu theo
luật của quốc gia nào, trong thời kỳ nào để thực hiện.
* Năng lực kinh doanh của khách hàng:
Năng lực kinh doanh của khách hàng là một trong những nhân tố khách
quan ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. Khách hàng
có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khách hàng
có năng lực kinh doanh hiệu quả sẽ tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh
của ngân hàng phát triển như: việc thanh toán đúng hạn tăng thu ngoại tệ cho
ngân hàng.
Khách hàng có khả năng kinh doanh có khả năng nắm thời cơ kinh
doanh tạo doanh thu lớn từ đó sẽ gia tăng các nghiệp vụ thanh toán tại ngân
hàng thông qua các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu. Từ các hợp đồng
này ngân hàng sẽ tăng doanh thu từ hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu như
tăng thu ngoại tệ, phí thanh toán, các khoản phụ thu khác. Khách hàng có khả
năng kinh doanh cũng giảm thiểu rủi ro về lừa đảo kinh doanh dẫn đến không
16
thu được tiền về khi đó sẽ dẫn đến thất thu, nợ khó đòi…
* Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang trong giai đoạn phát triển
nhanh với nhiều thời cơ và thách thức mới, triển vọng gia nhập WTO cùng
với xu hướng hội nhập, dỡ bỏ bảo hộ, tạo nên một sân chơi lành mạnh, bình
đẳng là động lực, thúc đẩy nền kinh tế đất nước tiếp tục phát triển khởi sắc,
buộc BIDV không thể tự mãn với quá khứ mà cần phải tỉnh táo để có thể xác

định lộ trình, xác lập hướng đi phù hợp với tình hình mới.
Gia nhập WTO sẽ làm tăng nhu cầu về dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là
dịch vụ ngân hàng quốc tế. Do các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội
tiếp cận với thị trường hàng hoá quốc tế, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, đồng
thời, các nhà đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài cũng có nhiều cơ hội thâm
nhập và xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Việt Nam nên các luồng vốn chu
chuyển thông qua hệ thống tài chính, ngân hàng cũng gia tăng. Đồng thời, gia
nhập WTO là động lực đối với sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp Việt
Nam. Quá trình hội nhập quốc tế buộc các doanh nghiệp phải đổi mới, nâng
cao năng lực và kinh doanh có hiệu quả hơn, vì vậy, môi trường kinh doanh
ngân hàng có mức độ rủi ro thấp hơn, hoạt động của các ngân hàng sẽ an toàn,
lành mạnh và hiệu quả hơn.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn
thiện hệ thống pháp luật và năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài
chính. NHNN đã có những cải cách đáng kể theo hướng thị trường và mở cửa
hệ thống ngân hàng, chẳng hạn như thực hiện tự do hoá lãi suất, nới lỏng
kiểm soát tỷ giá và các biện pháp quản lý ngoại hối, tự do hoá tài khoản vãng
lai, cải cách hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế
(Basel). Hội nhập kinh tế quốc tế là động lực thúc đẩy các NHTM Nhà nước
tự cải cách, tăng cường năng lực cạnh tranh để tạo thế phát triển bền vững.
Hội nhập kinh tế quốc tế, đặc bịêt gia nhập WTO có thể mang lại nhiều
17
thuận lợi, song cũng không ít khó khăn cho Việt Nam nói chung và ngành
Ngân hàng nói riêng.
Gia nhập WTO đặt ra những thách thức trước áp lực cạnh tranh từ phía
các ngân hàng nước ngoài với năng lực tài chính tốt hơn, công nghệ, trình độ
quản lý và hệ thống sản phẩm đa dạng và có chất lượng cao hơn, có thể đáp
ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Ngoài ra, hội nhập quốc tế với việc gia
nhập WTO có thể mang đến rủi ro về khách hàng cho các NHTM Nhà nước.
Khách hàng chủ yếu của các NHTM Nhà nước là các doanh nghiệp nhà nước

mà phần lớn trong số đó vẫn còn tồn tại những yếu kém. Việc mở cửa thị
trường hơn đặt các doanh nghiệp này trước nguy cơ bị cạnh tranh, có thể dẫn
tới mất thị phần, kinh doanh thua lỗ và phá sản. Điều này có thể làm tăng rủi
ro cho hoạt động ngân hàng. Hơn nữa, vấn đề thị phần hoạt động của các
ngân hàng hiện nay sẽ phải phân chia lại bởi sự tham gia của các ngân hàng
nước ngoài.
2_ Các nhân tố chủ quan:
* Chính sách đối ngoại của ngân hàng:
Chính sách đối ngoại của ngân hàng là kim chỉ nam cho hoạt động
thanh toán quốc tế trong xử lý các giao dịch phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ngân hàng có chính sách đối ngoại đúng đắn sẽ giúp cho ngân hàng có những
cơ hội kinh doanh thuận lợi hơn, xây dựng được nhiều mối làm ăn tin cậy và
lâu dài. Chính sách đối ngoại tốt sẽ giúp cho ngân hàng có nhiều cơ hội tiếp
xúc với khách hàng, gia tăng sự thấu hiểu nhu cầu khách hàng từ đó cung cấp
các sản phẩm dịch vụ đến tay khách hàng một cách tốt nhất mà khách hàng
mong đợi.
Chính sách đối ngoại tốt giúp cho ngân hàng có khả năng thu nhiều lợi
nhuận cao hơn, thu hút được nhiều khách hàng trong và ngoài nước. Phát
triển chính sách đối ngoại ngân hàng sẽ làm gia tăng các mối quan hệ với
18
ngân hàng khác trên thế giới tạo điều kiện học hỏi, thu thập kinh nghiệm mới
để sản phẩm, dịch vụ và hoạt động ngân hàng ngày càng trở lên hoàn hảo hơn.
Do vậy trong các chính sách đề ra ngân hàng nên quan tâm đến chính
sách đối ngoại trong kinh doanh để hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển
hơn, đặc biệt sản phẩm dịch vụ ngày càng phong phú và đa dạng hơn nữa.
* Chính sách phát triển dịch vụ của ngân hàng thương mại:
Dịch vụ là một vấn đề không thể thiếu trong hoạt động của ngân hàng
nhằm thu hút khách hàng. Một sản phẩm hoàn hảo bao giờ cũng kèm theo nó
là dịch vụ hoàn hảo, trong thanh toán quốc tế cũng vậy. Nếu như sản phẩm
thanh toán hoàn hảo nhưng các dịch vụ tư vấn, quảng cáo, các dịch vụ gia

tăng khác của sản phẩm không được đáp ứng sẽ khiến cho khách hàng có sự
so sánh khi sử dụng. Một ngân hàng có sản phẩm dịch vụ thanh toán tiện lợi
phải là một ngân hàng có sản phẩm dịch vụ thanh toán nhanh chóng tiện lợi,
cung cấp và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Muốn có được điều đó
ngân hàng phải thường xuyên đổi mới, phát triển, có chính sách phát triển
dịch vụ tới tay người tiêu dùng nhanh nhất, tiện dụng nhất. Ngân hàng phải
thường xuyên quan tâm, mở rộng các nghiệp vụ để tránh lạc hậu mất khách
hàng truyền thống thu hút khách hàng mới đồng thời tránh lạc hậu không theo
kịp đà tiến bộ với các ngân hàng khác và hơn nữa là theo sự tiến bộ của xã
hội.
* Hoạt động Marketing của ngân hàng:
Marketing ngân hàng cũng dựa trên cơ sở chung của marketing căn
bản, có vai trò to lớn đối với sự thành bại của mỗi ngân hàng trong cơ chế thị
trường. Đích cuối cùng là lợi nhuận, các ngân hàng đều phải thừa nhận rằng
marketing là công cụ kinh doanh, được coi như một công nghệ ngân hàng
hiện đại không thể thiếu được nếu muốn tồn tại và phát triển.
Marketing là công cụ kết nối hoạt động của các ngân hàng với thị
trường, là điều kiện tiên quyết trong hoạt động của các ngân hàng ngày nay.
19
Có gắn với thị trường, hiểu được sự vận động của thị trường, nắm bắt được sự
biến đổi liên tục của nhu cầu khách hàng trên thị trường cũng như khả năng
tham gia của bản thân ngân hàng mình thì mới có thể có những chính sách
hợp lý nhằm phát huy tối đa nội lực, giành lấy thị phần. Như vậy ngân hàng
nào có độ gắn kết với thị trường càng cao, khả năng thành công của ngân
hàng đó càng lớn và ngược lại.
Marketing còn là công cụ hữu hiệu thu hút khách hàng. Nhìn chung các
dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam hiện nay đều thuộc loại dịch vụ truyền thống
và khá giống nhau giữa các NHTM. Nhằm thu hút và giữ chân khách hàng,
các ngân hàng đã chú ý hơn đến việc thiết kế và triển khai dịch vụ mới phù
hợp hơn với nhu cầu của khách hàng. Khắc phục tình trạng này, không còn

cách nào khác là các ngân hàng phải xây dựng một chiến lược marketing hợp
lí, được chương trình hoá từ khi tìm hiểu nhu cầu khách hàng cho đến khi sản
phẩm dịch vụ đến tay khách hàng, đưa đến cho khách hàng những dịch vụ
phù hợp nhất, nhanh nhất, với giá cả hay mức phí hợp lý nhất, tạo cho khách
hàng cảm giác thoải mái nhất và thuận tiện trong giao dịch.
* Nền tảng công nghệ thông tin:
Hiện nay kinh tế thế giới ngày càng phát triển sôi động, trình độ công
nghệ thông tin, văn minh tri thức ngày một phong phú và đa dạng. Trong thời
kỳ kinh tế hội nhập phát triển như ngày nay, yếu tố nền tảng thông tin ngày
càng trở nên quan trọng thiết yếu.
Dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại, việc truyền các dữ liệu
thông tin sẽ mang lại hiệu quả cao hơn, tốc độ và thời gian truyền tin nhanh
chóng và chính xác hơn từ đó mang lại hiệu quả kinh tế lớn. Nhờ các phương
tiện truyền tin hiện đại cũng giúp cho việc xử lý các giao dịch thanh toán quốc
tế trở nên nhanh chóng, an toàn và hiệu quả hơn.
Trình độ công nghệ của ngân hàng bao gồm toàn bộ cơ sở vật chất,
mạng lưới thông tin truyền thông được sử dụng trong quản lý điều hành, thực
20
hiện quy trình nghiệp vụ thanh toán. Để phát triển được ngân hàng cần phải
có trình độ công nghệ thông tin theo tiêu chuẩn của thế giới phục vụ tốt cho
hoạt động quản lý điều hành, thanh toán quốc tế, phát triển sản phẩm, tăng
doanh thu, lợi nhuận.
* Chính sách tỷ giá của ngân hàng:
Tỷ giá là một công cụ để điều tiết các hoạt động kinh tế đối ngoại của
mỗi nước, do vậy, người ta áp dụng chế độ nhiều tỷ giá chính thức để điều tiết
nền kinh tế. Có thể thi hành nhiều chế độ tỷ giá khác nhau để điều chỉnh cán
cân ngoại thương, cán cân thanh toán quốc tế và tỷ giá hối đoái.
Ngân hàng có thể thu hút khách hàng bằng tỷ giá hợp lý, linh hoạt và
đúng đắn, phù hợp với cơ chế thị trường, đôi bên cùng có lợi. Ngân hàng cần
có những bảng tỷ giá hợp lý được xây dựng cho từng giai đoạn thời kỳ khác

nhau, được thông báo hàng ngày đáp ứng nhu cầu của khách hàng để năng
cao hiệu quả kinh doanh.
* Nhân tố con người ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế của
ngân hàng:
Trình độ cán bộ ngoại thương ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác
kinh doanh đối ngoại nói chung và thanh toán quốc tế trong ngân hàng nói
riêng do đó cần thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho các
nhân viên cán bộ trong bộ phận thanh toán quốc tế và của cả hệ thống ngân
hàng. Mở riêng các lớp đào tạo kiến thức về hoạt động ngoại thương: Thương
mại quốc tế, vận tải bảo hiểm, thẩm định, đánh giá khách hàng, Marketing
ngân hàng, kỹ thuật tư vấn… hỗ trợ hoạt động thanh toán quốc tế.
21
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU
TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM, CHI NHÁNH HÀ THÀNH
I_ Giới thiệu khái quát về hoạt động của ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam, chi nhánh Hà Thành:
1_ Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển,
chi nhánh Hà Thành:
Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam có tiền thân là Ngân hàng
Kiến thiết Việt Nam. Ngày 26/04/1957, Thủ tướng chính phủ đã ký nghị định
177-TTG thành lập Ngân hàng kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ Tài chính.
Ngân hàng thực hiện chức năng thay thế cho Vụ cấp phát vốn kiến thiết cơ
bản, nhiệm vụ chủ yếu là thanh toán và quản lý vốn do nhà nước cấp cho kiến
thiết cơ bản, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế và phục vụ cho công cuộc
kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược. Từ năm 1957 - 1981, ngân hàng là
một cơ quan của Bộ tài chính, hoạt động của ngân hàng nặng về kiểm soát,
đánh giá và quản lý vốn, thanh toán các công trình xây dựng cơ bản hơn là
cho vay.
Đến ngày 24/06/1981, Hội đồng chính phủ đã ra quyết định số 259/CP

về việc chuyển Ngân hàng kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ Tài chính thành
Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam. Ngân hàng vẫn chưa thực hiện nhiệm vụ kinh doanh, mà nhiệm vụ
chính của ngân hàng là thu hút và quản lý các nguồn vốn xây dựng cơ bản, tài
trợ cho các công trình không đủ vốn tự có hoặc không nằm trong danh sách do
ngân sách cấp, là đại lý thanh toán các công trình thuộc diện ngân sách đầu tư.
Ngày 14/01/1990, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng đã ra quyết định số
401/CT thành lập Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ( BIDV), thay thế
22
cho Ngân hàng Đầu Tư và Kiến Thiết cũ. Ngân hàng đã bắt đầu thực hiện
chức năng kinh doanh và ngày càng khẳng định vị thế của mình trong nền
kinh tế, là một trong năm ngân hàng Quốc doanh có vai trò đi đầu trong lĩnh
vực đầu tư và phát triển của nước ta.
Phát triển trên cơ sở chú trọng nghiên cứu nhu cầu thị trường để mở
rộng chi nhánh và các phòng giao dịch do đó ngày 16/09/2003 chi nhánh Hà
Thành được thành lập. Chi nhánh được đặt tại Quận Hoàn Kiếm, Thành Phố
Hà Nội, là nơi tập trung nhiều mối giao thoa kinh doanh buôn bán và cũng là
trung tâm thành phố. Là đơn vị thứ 76 của ngân hàng đầu tư phát triển Việt
Nam, chi nhánh Hà Thành được thành lập trên cơ sở tách ra từ Sở Giao Dịch I
của BIDV. Chi nhánh là chi nhánh cấp 1, hoạt động theo định hướng là ngân
hàng bán lẻ áp dụng công nghệ và quản lý để tạo ra các sản phẩm dịch vụ tiên
tiến theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế tập trung phục vụ chuyên sâu
trong lĩnh vực nguồn vốn và dịch vụ tiện ích của BIDV.
2_ Đặc điểm hoạt động kinh doanh của chi nhánh Hà Thành:
Ngay từ khi thành lập chi nhánh Hà Thành, tổng giám đốc Ngân Hàng
Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam đã trực tiếp chỉ đạo định hướng hoạt động và
nhiệm vụ kinh doanh của chi nhánh Hà Thành theo các đặc điểm như sau:
Thứ nhất, chi nhánh tập trung chuyên sâu phục vụ các đối tượng doanh
nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh cho nền kinh tế quốc dân bao gồm: Các
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty

liên doanh, công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài, các hộ kinh doanh cá thể và
các nhu cầu hợp pháp khác về tín dụng và dịch vụ ngân hàng của các khách
hàng ngoài quốc doanh và các nhu cầu vốn để đầu tư chiều sâu nâng cao sự
cạnh tranh của sản phẩm. Chi nhánh hoạt động với mục tiêu:” Hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp là mục tiêu của BIDV”.
23
Thứ hai, sản phẩm và dịch vụ kinh doanh của chi nhánh tập trung vào
sản phẩm tín dụng, sản phẩm tiền gửi, sản phẩm -dịch vụ kinh doanh tiền tệ,
sản phẩm dịch vụ tài trợ thương mại, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ ngân quỹ
và các sản phẩm dịch vụ khác. Trong đó:
Sản phẩm tiền gửi gồm có các loại: Tài khoản thanh toán, tiền gửi có
kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm
dự thưởng, tiết kiệm “ổ trứng vàng”, tiết kiệm rút dần, kỳ phiếu, trái phiếu,…
Sản phẩm tín dụng gồm: Cho vay cá nhân, cho vay các tổ chức kinh tế.
Sản phẩm dịch vụ kinh doanh tiền tệ gồm có:
_ Giao dịch giao ngay: Là giao dịch mà ở đó một đồng tiền này được
trao đổi với một đồng tiền khác theo tỷ giá xác định vào ngày giao dịch và
việc thanh toán sẽ được thực hiện trong vòng 02 ngày làm việc tiếp theo của
Ngân hàng.
_ Giao dịch kỳ hạn tiền tệ: Là giao dịch mua (hoặc bán) giữa hai đồng
tiền với tỷ giá xác định ngay trong ngày giao dịch, ngày giá trị sẽ là một ngày
trong tương lai do Ngân hàng và khách hàng tự thoả thuận.
_Giao dịch quyền chọn tiền tệ: Là giao dịch ở đó khách hàng có quyền
(nhưng không có nghĩa vụ) mua hoặc bán một số lượng tiền tệ theo một tỷ giá
đã xác định trong khoảng thời gian hoặc một ngày cố định trong tương lai.
_Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ: Là giao dịch ở đó BIDV đồng thời thực
hiện mua và bán (hoặc bán và mua) cùng một lượng tiền tệ với khách hàng,
thời hạn của hai giao dịch này là khác nhau và tỷ giá được xác định ngay tại
thời điểm ký hợp đồng.
Sản phẩm tài trợ thương mại gồm có các sản phẩm:

_Chuyển tiền đến: BIDV nhận lệnh thanh toán từ ngân hàng đại lý sẽ
trả cho người hưởng lợi theo chỉ dẫn.
_Chuyển tiền đi: BIDV nhận lệnh chuyển tiền từ khách hàng và thực
24
hiện thanh toán theo chỉ dẫn thong qua ngân hàng giữ tài khoản Nostro. BIDV
có thể chuyển tiền đến bất cứ địa điểm nào vào bất cứ thời
gian nào.
_Nhờ thu Hối phiếu trơn: Khi nhận được chứng từ tài chính, BIDV sẽ
gửi chứng từ đòi tiền đến ngân hàng nhờ thu đòi tiền người trả tiền.
_Phát hành Hối phiếu: BIDV phát hành hối phiếu ngân hàng theo thỏa
thuận với ngân hàng có quan hệ đại lý theo yêu cầu của khách hàng
_Phát hành thư Tín dụng (L/C): là việc BIDV phát hành ban hành văn
bản theo chỉ dẫn của người yêu cầu cam kết thanh toán cho người hưởng lợi
khi xuất trình chứng từ phù hợp với điều kiện điều khoản của tín dụng thư.
_Thông báo L/C: Sản phẩm này cung cấp chức năng thông báo tín dụng
thư của chi nhánh hoặc ngân hàng đại lý phát hành đến người hưởng lợi.
_Thông báo và xác nhận L/C: Sản phẩm này cung cấp chức năng thông
báo và xác nhận tín dụng thư của chi nhánh hoặc ngân hàng đại lý phát hành
đến người hưởng lợi.
_L/C chuyển nhượng: Qua việc nhận được L/C chuyển nhượng theo
yêu cầu của người hưởng lợi thứ nhất, BIDV có thể chuyển nhượng L/C cho
bên thứ 3 với một giá trị nhỏ hơn giá trị của toàn bộ thư tín dụng, và phần
chênh lệch sẽ được trả cho người hưởng lợi thứ nhất.
_ Nhờ thu kèm chứng từ hàng nhập: là xử lý các chứng từ theo chỉ dẫn
của ngân hàng gửi tiền để nhận được các khoản thanh toán hoặc chấp nhận
thanh toán từ người được ký phát.
_Nhờ thu kèm chứng từ hàng xuất: OBC được lập trên cơ sở nhân được
các chứng từ tài chính hoặc thương mại từ khách hàng , BIDV sẽ gửi các
chứng từ này đến ngân hàng nhờ thu tại nơi khác hoặc quốc gia khác để nhờ
thu cho người ký phát.

_Thông báo bảo lãnh: sản phẩm được thiết kế để cung cấp chức năng
thông báo bảo lãnh của BIDV
25

×