Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

phương hướng và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Giao Thuỷ tỉnh Nam Định 2010 - 2015_luận văn tốt nghiệp lớp cao cấp chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 89 trang )

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Giao Thuỷ- Bùi Văn Khôi
MỞ ĐẦU
1. Tin cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội cung cấp
nhiều loại sản phẩm thiết yếu cho đời sống xã hội, là thị trường rộng lớn
của nền kinh tế, cung cấp nguồn nhân lực và tạo nên tích luỹ ban đầu cho
sự ngiệp phát triển của đất nước. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng,
nông nghịêp đóng vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế. Hầu hết các
nước phải dựa vào sản xuất nông nghiệp để tạo sản lượng lương thực, thực
phẩm cần thiết đủ để nuôi sống dân tộc mình và tạo nền tảng cho các
ngành, các hoạt động kinh tế khác phát triển.
Việt Nam là một nước nông nghiệp với điểm xuất phát thấp, trên
70% dân số sống ở nông thôn và 56% lao động xã hội làm việc trong lĩnh
vực nông nghiệp, sáng tạo ra 68% tổng giá trị kinh tế nông thôn, năng suất
khai thác ruộng đất và năng suất lao động còn thấp… Để giải quyết những
vấn đề này thì thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có ý nghĩa
vô cùng quan trọng với nước ta.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm tạo dựng một ngành
nông nghiệp có cơ cấu kinh tế hợp lý, qua đó phát huy mọi tiềm năng sản
xuất, phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, giải quyết việc làm,
nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống cho người nông dân. Do đó, thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên phạm vi cả nước
cũng như với từng địa phương là rất cần thiết.
Giao Thuỷ là một huyện thuần nông thuộc tỉnh Nam Định với
92,27% dân cư sống ở nông thôn và 76,6% lao động nông nghiệp. Đời sống
của nông dân còn khó khăn, thu nhập thấp, tỷ lệ hộ nghèo gần 6%. Trong
những năm qua, vấn đề tăng cường quản lý Nhà nước để phục vụ chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại huyện luôn được quan tâm và từng
bước hoàn thiện. Tuy nhiên, thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp tại huyện Giao Thuỷ còn chậm, cơ cấu nông nghiệp còn bất hợp lý,
trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng cao, tình trạng độc canh cây lương thực vẫn


tồn tại trong khi đó nhiều tiềm năng phát triển chăn nuôi và thuỷ sản chưa
được khai thác tốt. Thực trạng này đòi hỏi phải có giải pháp thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại huyện Giao Thuỷ một cách hợp
lý.
Từ vấn đề cấp thiết nêu trên, tôi chọn đề tài “Phương hướng và một
số giải pháp nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
huyện Giao Thuỷ tỉnh Nam Định 2010 - 2015” làm luận văn tốt nghiệp
chương trình cao cấp lý luận chính trị - hành chính của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu: Trên cơ sở lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, áp dụng vào thực tiễn đánh giá khách quan thực trạng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Giao Thủy thời gian qua, từ đó đề ra
phương hướng và các giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp huyện Giao Thủy thời gian tới.
- Nhiệm vụ: Với mục tiêu trên, luận văn tốt nghiệp có nhiệm vụ
nghiên cứu tổng quan về cơ cấu kinh tế; cơ cấu kinh tế nông nghiệp; thực
trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện Giao Thuỷ và trên
cơ sở các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát
triển kinh tế – xã hội, phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn đến năm
2020, đưa ra những định hướng và giải pháp chủ yếu để thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện Giao Thuỷ 2010- 2015.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng:
2
Đối tượng nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp là vấn đề cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Đối tượng nghiên cứu cụ thể là cơ cấu kinh tế nông nghiệp, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo phương diện ngành, lĩnh vực, không
nghiên cứu theo các phương diện khác.
- Phạm vi nghiên cứu: thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp của huyện Giao Thuỷ giai đoạn 2006 - 2009 và một số giải pháp
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn
huyện Giao Thuỷ giai đoạn 2010 - 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Về phương pháp luận: Phương pháp nghiên cứu chủ yếu dựa trên
cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin như: duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử và các quan điểm đường lối phát triển kinh tế của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Về phương pháp chuyên môn: Đề tài vận dụng các phương pháp
thống kê và phân tích, so sánh và tổng hợp một cách có hệ thống, phương
pháp nghiên cứu chuyên khảo và một số phương pháp nghiệp vụ khác
nhằm phân tích và làm rõ hơn những vấn đề được nêu.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, luận
văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp và vai trò quản lý của Nhà nước đối với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp.
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
huyện Giao Thuỷ 2006- 2009.
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Giao Thuỷ 2010- 2015.
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ VAI
TRÒ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
1.1 Cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1.1.1 Cơ cấu kinh tế

Cơ cấu được dùng để chỉ cách tổ chức, cấu tạo, sự điều chỉnh các
yếu tố tạo nên một hình thể, một vật hay một bộ phận.
Sự phát triển của sản xuất dẫn đến quá trình phân công lao động xã
hội. Tuỳ thuộc vào tính chất sản phẩm, chuyên môn kỹ thuật mà chia thành
từng ngành, lĩnh vực khác nhau. Nhưng trong nền sản xuất, các ngành, lĩnh
vực này không thể hoạt động một cách độc lập mà phải có sự tương tác qua
lại lẫn nhau, hỗ trợ và thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Từ đó đòi hỏi nhận thức đầy đủ về mối quan hệ giữa các bộ phận. Sự
phân công và mối quan hệ hợp tác trong hệ thống thống nhất là tiền đề cho
quá trình hình thành cơ cấu kinh tế.
Theo Các Mác: “Cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan
hệ sản xuất phù hợp với quá trình phát triển nhất định của các lực
lượng sản xuất vật chất”
1
.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các
ngành, các lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng của
1
C.Mác- Góp phần phê phán kinh tế chính trị học, NXB Sự Thật HN-1964, tr 17
4
chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn đinh giữa chúng hợp thành
trong một khoảng thời gian nhất định”
2
.
Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan phản ánh trình độ phát triển
của xã hội và các điều kiện phát triển của một quốc gia. Sự tác động từ
chiến lược phát triển kinh tế, hay sự quản lý của Nhà nước có tác dụng thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong một thời gian nhất
định chứ không thể thay đổi hoàn toàn nó.
Mặt khác, cơ cấu kinh tế lại mang tính lịch sử xã hội nhất định. Cơ

cấu kinh tế được hình thành khi quan hệ giữa các ngành, lĩnh vực, bộ phận
kinh tế được thiết lập một cách cân đối và sự phân công lao động diễn ra
một cách hợp lý.
Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất là xu hướng phổ
biến ở mọi quốc gia. Song mối quan hệ giữa con người với con người, con
người với tự nhiên trong quá trình tái sản xuất mở rộng ở mỗi giai đoạn lịch
sử, mỗi quốc gia lại có sự khác nhau. Sự khác nhau đó bị chi phối bởi quan
hệ sản xuất, đặc trưng văn hoá - xã hội và các yếu tố lịch sử của mỗi dân
tộc. Các nước có hình thái kinh tế - xã hội giống nhau nhưng vẫn có sự
khác nhau trong việc hình thành cơ cấu kinh tế, bởi vì điều kiện kinh tế - xã
hội, chiến lược phát triển của mỗi nước có sự khác nhau.
Cơ cấu kinh tế được hình thành một cách hợp lý khi chủ thể quản lý
Nhà nước có khả năng nắm bắt các quy luật khách quan, đánh giá đúng
nguồn lực trong nước và nước ngoài để tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
vào quá trình hình thành cơ cấu kinh tế. Nhưng sự tác động này không
mang tính áp đặt ý chí mà là sự tác động mang tính định hướng.
Cơ cấu kinh tế được xem xét dưới các góc độ khác nhau như: cơ cấu
ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế. Đây là ba
2
Từ điển bách khoa Việt Nam 2000
5
bộ phận cơ bản và có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, cơ cấu ngành
kinh tế có vị trí chủ yếu trong cơ cấu kinh tế của mọi quốc gia.
- Cơ cấu ngành kinh tế:
Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các nhóm ngành hợp thành các tương
quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế
quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh trình độ phân công lao động và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất của nền kinh tế.
Hiện nay cơ cấu ngành kinh tế được phân theo ba nhóm chủ yếu sau:
+ Nhóm ngành nông nghiệp: Gồm nông, lâm, ngư nghiệp.

+ Nhóm ngành công nghiệp: Gồm công nghiệp và xây dựng.
+ Nhóm ngành dịch vụ: Gồm thương mại và dịch vụ.
- Cơ cấu vùng kinh tế:
Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ được hình thành bởi việc bố trí sản
xuất theo không gian địa lý. Trong cơ cấu vùng kinh tế có sự biểu hiện của
cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Tuỳ theo tiềm
năng phát triển kinh tế, gắn liền với sự hình thành và phân bố dân cư trên
lãnh thổ để phát triển tổng hợp hay ưu tiên một vài ngành kinh tế nào đó.
Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ phản ánh khả năng khai thác tài nguyên,
tiềm lực kinh tế – xã hội của mỗi vùng trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất.
- Cơ cấu thành phần kinh tế:
Cơ cấu kinh tế gắn với chế độ sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất sẽ
hình thành nên cơ cấu thành phần kinh tế.
Cơ cấu theo thành phần kinh tế phản ánh khả năng khai thác năng
lực tổ chức sản xuất – kinh doanh và mọi nguồn lực phát triển của mọi
thành viên xã hội.
1.1.2. Cơ cấu kinh tế hợp lý
6
Cơ cấu kinh tế hợp lý là một cơ cấu có khả năng tạo ra quá trình tái
sản xuất mở rộng trên địa bàn lãnh thổ trong khoảng thời gian nhất định.
Cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
+ Cơ cấu kinh tế phải phù hợp với các quy luật khách quan
+ Cơ cấu kinh tế phản ánh được khả năng khai thác, sử dụng nguồn
lực kinh tế trong nước và đáp ứng được yêu cầu hội nhập với quốc tế và
khu vực, nhằm tạo ra sự cân đối, phát triển bền vững.
+ Cơ cấu kinh tế phải phù hợp với xu thế kinh tế, chính trị của khu
vực và thế giới.
1.1.3. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất được hình thành sớm

nhất trong lịch sử phát triển kinh tế của nhân loại. Vì vậy, nó luôn có vai
trò quan trọng trong hoạt động của nền kinh tế quốc dân của hầu hết các
nước trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như nước ta
hiện nay. Cho nên phát triển nông nghiệp là một bộ phận quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nước ta hiện nay.
Theo phân ngành kinh tế quốc dân của quốc tế cũng như của nước ta,
nền kinh tế quốc dân được chia thành 3 khu vực chính:
- Khu vực I: bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp.
- Khu vực II: gồm công nghiệp và xây dựng.
- Khu vực III: gồm tất cả các ngành dịch vụ phục vụ cho sản xuất và
tiêu dùng cá nhân.
Từ đó cho thấy, nông nghiệp là một bộ phận cấu thành quan trọng
trong hệ thống nền kinh tế quốc dân. Nhưng đồng thời bản thân nông
nghiệp cũng là một hệ thống nhỏ được cấu thành bởi các bộ phận khác nằm
trong tổng thể hệ thống kinh tế quốc dân. Quá trình phát triển dẫn đến sự
thay đổi của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế nói chung, đòi hỏi bản thân
7
ngành nông nghiệp cũng phải có sự chuyển đổi phù hợp với các điều kiện
và xu thế phát triển chung.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là thuật ngữ chỉ mối quan hệ hợp
thành của các sản phẩm nông nghiệp tuỳ theo mục tiêu sản xuất của con
người ở từng địa bàn cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định.
Cơ cấu kinh tế – kỹ thuật của nông nghiệp được xem xét theo nghĩa
rộng và nghĩa hẹp:
- Ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng) là tổ hợp các ngành gắn liền
với quá trình sinh học gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Khi
phân tích đánh giá cơ cấu kinh tế thì tiêu chí, cơ cấu ngành thường được
xem trọng nhất bởi vì nó phản ánh trình độ phát triển của phân công lao
động xã hội. Lực lượng sản xuất càng phát triển, phân công lao động xã hội
càng sâu sắc, tỷ mỉ thì càng có nhiều ngành kinh tế hình thành và phát triển

đa dạng khác nhau. Ở nước ta cho đến nay, về cơ bản vẫn là một nước nông
nghiệp cho nên sự phát triển của nó giữ vai trò quyết định trong kinh tế
nông thôn, đồng thời là một trong những ngành cơ bản của nền kinh tế
quốc dân. Vì vậy, nó vừa chịu sự chi phối của nền kinh tế quốc dân vừa gắn
bó chặt chẽ với các ngành khác, vừa phản ánh những nét riêng biệt mang
tính đặc thù của một ngành mà đối tượng sản xuất là những cơ thể sống.
- Ngành nông nghiệp (theo nghĩa hẹp): bao gồm trồng trọt và chăn
nuôi. Trong trồng trọt được phân ra trồng cây lương thực, cây công nghiệp,
cây ăn quả… Ngành chăn nuôi gồm có chăn nuôi đại gia súc, gia súc, gia
cầm… Những ngành trên có thể phân ra thành các ngành nhỏ hơn. Chúng
có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình phát triển và tạo thành cơ
cấu nông nghiệp. Hiện nay, trong cơ cấu nông nghiệp có hai vấn đề quan
trọng là cơ cấu hợp lý giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa trồng cây lương
thực và cây công nghiệp, cây ăn quả, cây thực phẩm. Chuyển từ trạng thái
độc canh cây lương thực sang đa canh cây trồng là xu hướng khách quan
8
nhằm sử dụng hợp lý các điều kiện và các nguồn lực như đất đai, lao động,
tăng thu nhập cho người lao động, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội
cũng như phát huy được một cách triệt để tiềm năng, lợi thế của từng địa
phương trong quá trình phát triển.
- Ngành lâm nghiệp bao gồm nhiều chủng loại thực vật và động vật
rừng. Đây là nguồn tài nguyên vô cùng phong phú và đa dạng. Rừng là một
nguồn lợi to lớn về kinh tế và có vai trò quan trọng trong việc phòng hộ,
hạn chế lũ lụt, phát triển du lịch. Cơ cấu kinh tế lâm nghiệp bao gồm các
nội dung: bảo tồn rừng tự nhiên, phát triển và trồng rừng, khai thác tài
nguyên rừng, chế biến lâm sản.
- Ngành ngư nghiệp: là một trong những ngành kinh tế quan trọng
cấu thành kinh tế nông thôn ở nước ta. Cơ cấu kinh tế ngư nghiệp bao gồm
các nội dung chủ yếu: nuôi trồng thuỷ sản, khai thác thuỷ hải sản, chế biến
thuỷ hải sản.

1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình vận động của các bộ
phận, thành phần trong nền kinh tế, là sự biến đổi phá vỡ cơ cấu cũ và
sự điều chỉnh để tạo ra cơ cấu kinh tế mới ổn định, cân đối.
* Để đánh giá mức độ, kết quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, người ta thường căn cứ vào các tiêu chí:
- Tỷ trọng và vị trí, tác động của các ngành phi nông nghiệp (công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ) trong nền kinh tế.
Tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp càng cao thì cơ cấu kinh tế có
trình độ càng cao. Hiện nay, người ta thường cho rằng một nền kinh tế
đang phát triển muốn trở thành một nền kinh tế công nghiệp hoá thì phải
giảm được tỷ trọng nông nghiệp xuống dưới 20% GDP, nâng tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ mỗi ngành lên mức trên dưới 40% GDP. Đối với các nền
9
kinh tế công nghiệp hoá cao thì tỷ trọng nông nghiệp phải giảm dưới 10%,
thậm chí dưới 5%.
- Sự liên kết giữa các ngành, giữa các lãnh thổ: Sự liên kết được thể
hiện qua mối quan hệ phối hợp hoặc cung cấp thiết bị, công nghệ, nguyên
vật liệu, dịch vụ, cũng như kết hợp tạo ra sản phẩm cuối cùng một cách có
hiệu quả. Sự thay đổi cơ cấu vùng theo hướng công nghiệp hoá có thể được
đo bằng các tiêu chí như : Mức độ đô thị hoá, sự tăng trưởng thực tế của
các khu vực công nghiệp, sự chuyển dịch cơ cấu lao động và dân cư.
- Trình độ công nghệ và sức cạnh tranh giữa các ngành :
Trong nội bộ ngành nông nghiệp, tính chất công nghiệp hóa nông
nghiệp thể hiện ở mức độ chuyển hướng các phương pháp canh tác thủ
công cổ truyền, giảm các phương pháp canh tác thô sơ, tăng các hoạt động
canh tác bằng phương pháp công nghiệp, áp dụng cách mạng xanh, cách
mạng trắng, cơ khí hoá, điện khí hoá, tự động hoá, vi sinh hoá…
Trong công nghiệp, đó là mức độ ứng dụng khoa học – kỹ thuật,

công nghệ hiện đại vào sản xuất.
* Cơ cấu kinh tế ở nước ta và các nước trên thế giới chuyển dịch
theo các xu hướng sau:
- Xu hướng chuyển dịch từ nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh
tế hàng hoá.
- Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ
trọng trong công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng trong nông nghiệp.
- Xu hướng chuyển dịch từ cơ cấu nền kinh tế khép kín sang nền
kinh tế mở, hướng xuất khẩu.
- Xu hướng chuyển dịch từ nền kinh tế với công nghệ cũ, lạc hậu, năng
suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém sang nền kinh tế cơ giới hoá với
công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, năng suất lao động và chất lượng sản
10
phẩm cao hơn, từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức với công nghệ cao,
điện tử hoá, tin học hoá, tự động hoá… và đội ngũ lao động trí tuệ đông đảo.
1.2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng
luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu
kinh tế không cố định. Đó là sự thay đổi số lượng các ngành (nông, lâm,
ngư nghiệp) hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng,
các thành phần do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ
tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế là không đồng đều.
Có thể nói, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là sự thay đổi
của cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ trạng thái này sang trạng thái khác
cho phù hợp với môi trường phát triển. Đây không đơn thuần là sự thay
đổi vị trí mà là sự biến đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu. Việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải dựa trên cơ sở một cơ cấu
hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu
hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu kinh tế mới tiên tiến, hoàn thiện và
bổ sung cơ cấu kinh tế cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại

và phù hợp hơn. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực chất là sự điều
chỉnh cơ cấu trên 3 mặt biểu hiện của cơ cấu (ngành, vùng, thành phần)
nhằm hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu kinh tế
- xã hội đã xác định cho từng thời kỳ phát triển.
- Mục đích của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần được tiến
hành khẩn trương. Mục đích của chuyển dịch là tạo ra sự cân đối giữa nông
nghiệp và các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời tạo
dựng một ngành nông nghiệp có cơ cấu hợp lý, qua đó phát huy mọi tiềm
năng sản xuất, lợi thế so sánh của từng vùng, từng miền và trên cả nước
nhằm phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, giải quyết công ăn
11
việc làm cho nông dân, nâng cao thu nhập và mức sống cho người nông
dân ở nông thôn.
- Các điều kiện đảm bảo cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý:
+ Cơ cấu kinh tế phải phù hợp với các quy luật khách quan;
+ Cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải phản ánh khả năng khai thác các
điều kiện tự nhiên và lợi thế so sánh của từng vùng, từng miền và trong cả
nước, đáp ứng được yêu cầu hội nhập với quốc tế và khu vực nhằm tạo ra
sự cân đối, phát triển bền vững.
+ Cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải phù hợp với xu thế kinh tế chính
trị của khu vực và trên thế giới.
Bối cảnh thế giới và trong nước hiện nay đòi hỏi nền nông nghiệp
Việt Nam phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm thích ứng với
sự biến động của quan hệ cung – cầu nông sản hàng hoá ở cả thị trường
trong nước và thế giới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1.3. Những nhân tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp:
Cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn luôn luôn biến
đổi, chuyển dịch dưới tác động của nhiều nhân tố: nhân tố bên trong – bên

ngoài, nhân tố khách quan – chủ quan. Trong những nhân tố tác động, có
những nhân tố tích cực thúc đẩy phát triển, song cũng có những nhân tố
hạn chế, kìm hãm sự chuyển dịch và phát triển. Các nhân tố ảnh hưởng đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn có thể chia thành các nhóm sau:
1.3.1. Nhóm nhân tố tác động từ bên trong
1.3.1.1. Nhân tố thị trường và nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ của xã hội
Thị trường là yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng đến
sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn nói riêng. Nhân tố thị trường tác động đến sự chuyển
dịch cơ cấu các ngành kinh tế ở nông thôn, thể hiện như sau:
12
- Tạo ra quá trình mở rộng và khai thác tiềm năng cho sự phát triển
của các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
- Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, đa dạng hoá ngành nghề ở
nông thôn, khuyến khích mở rộng đầu tư trong và ngoài nước, tạo ra sự
tăng trưởng nhanh cho các ngành kinh tế ở nông thôn nói riêng và cả nước
nói chung.
- Tác động của sự cạnh tranh và nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao trên
thị trường tạo động lực thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, đổi
mới công nghệ ở trong nội bộ từng ngành trở nên bức thiết.
- Thông qua lợi ích kinh tế thu được sẽ tạo ra động lực chuyển dịch
cơ cấu ngành nghề ở nông thôn nhằm đạt hiệu quả ở mức cao hơn.
Như vậy, thị trường và nhu cầu tiêu dùng của xã hội là người đặt hàng
cho tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó không chỉ qui định số lượng mà cả
chất lượng các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ nên nó có tác động trực tiếp đến
quy mô, trình độ phát triển của các ngành, lĩnh vực ở địa phương…
1.3.1.2. Nhân tố các nguồn lực
Các nguồn lực của một quốc gia, một vùng lãnh thổ có vai trò quan
trọng trong việc hình thành và tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh
tế, nhất là ở khu vực nông thôn.

- Vị trí địa lý của một vùng lãnh thổ góp phần tạo ra sự hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng đó.
- Tài nguyên thiên nhiên: gồm khoáng sản, đất đai, khí hậu, lâm sản,
hải sản…là một trong những nguồn lực cơ bản của quá trình sản xuất, là
điều kiện cần thiết để phát triển các ngành kinh tế.
- Tuy nhiên tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn, do đó cần tính toán
chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế để đảm bảo sử dụng có hiệu quả
nguồn tài nguyên đó, đồng thời bảo vệ môi trường sống cho thế hệ sau.
13
- Dân số, sức lao động: được xem là nguồn lực quan trọng cho phát
triển kinh tế nói chung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế nông
thôn nói riêng. Dân số và tốc độ tăng dân số của một quốc gia hay vùng
lãnh thổ có ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng kinh tế cũng như chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Có một nguồn lao động dồi dào thì sẽ có nguồn nhân
lực phục vụ cho sản xuất nhiều hơn, nhưng nếu tốc độ tăng dân số quá cao
sẽ làm tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Việc cải thiện chất lượng lao động hay nguồn nhân lực là cơ sở quan
trọng để phát triển các ngành kinh tế kỹ thuật cao, có tác dụng kích thích
tăng trưởng kinh tế.
- Vốn đầu tư: Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu trong quá trình sản
xuất, quyết định sự tăng trưởng kinh tế. Nhà nước sử dụng ngân sách để
đầu tư phát triển sản xuất sẽ tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là cơ
cấu ngành công nghiệp một cách nhanh chóng.
Vốn đầu tư là chìa khoá cho mọi sự phát triển của quốc gia nói
chung và địa phương nói riêng. Không có vốn đầu tư để hiện đại hoá trang
thiết bị, đổi mới công nghệ thì không có tăng trưởng kinh tế cũng như
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng.
1.3.1.3. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tại khu vực nông thôn
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu lao động và con người có khả
năng sử dụng tư liệu lao động để tác động vào các đối tượng lao động, tạo

ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Lực lượng sản
xuất phát triển sẽ làm thay đổi quy mô sản xuất, công nghệ, trang thiết bị…
làm hình thành và phát triển các ngành nghề mới, chuyển lao động từ đơn
giản thành phức tạp, từ ngành nghề này sang ngành nghề khác… Làm phá
vỡ những cơ cấu cũ, thiết lập một cơ cấu kinh tế mới phù hợp hơn.
1.3.1.4. Cơ chế quản lý của Nhà nước
14
Cơ chế quản lý của Nhà nước có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng.
Cơ chế quản lý khoa học, phù hợp với quy luật khách quan và tình hình
thực tiễn thì nó sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển tạo điều kiện cho quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra nhanh và hiệu quả. Ngược lại nó sẽ
kìm hãm, làm chậm lại quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.3.1.5. Định hướng chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
Nhà nước trong từng giai đoạn
Mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính khách quan và tính lịch sử xã hội,
nhưng nó lại chịu sự tác động, chi phối của Nhà nước. Nhà nước tác động
gián tiếp thông qua định hướng chiến lược, đặt ra các mục tiêu phát triển
kinh tế – xã hội và khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển nhằm
đạt các mục tiêu đề ra.
Nhà nước tuy không trực tiếp sắp đặt các ngành nghề, không quy
định cụ thể về cơ cấu kinh tế song thông qua chiến lược phát triển, mục tiêu
phát triển kinh tế – xã hội, Nhà nước có sự điều tiết vĩ mô, dẫn dắt các
ngành, lĩnh vực kinh tế phát triển theo định hướng chung, đảm bảo tính cân
đối và đồng bộ của nền kinh tế.
1.3.2. Nhóm nhân tố tác động từ bên ngoài
1.3.2.1. Xu thế toàn cầu hoá kinh tế và quốc tế hoá lực lượng sản xuất
Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đã hình thành mạng lưới sản xuất
quốc tế, cùng với việc ứng dụng các công nghệ mới và sự phát triển mạnh
mẽ của các công ty đa quốc gia đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch sản xuất

kinh doanh vượt xa hơn biên giới của một vùng lãnh thổ.
Xu thế này tạo ra sự đan xen vào nhau, khai thác thế mạnh của nhau,
thúc đẩy hợp tác với nhau một cách toàn diện cả trong sản xuất, trao đổi
hàng hoá, dịch vụ và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ. Tính phụ
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế tăng lên, các mối quan hệ hợp tác kinh
15
tế giữa các nước và các khu vực ngày càng trở lên sâu rộng và mật thiết.
Quá trình phân công lao động trở lên sâu sắc và chuyên môn hoá hơn, làm
cơ sở cho quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất (hay công nghiệp hoá
toàn cầu).
1.3.2.2. Xu hướng chính trị xã hội của khu vực và thế giới
Xét đến cùng, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Sự biến
động về chính trị – xã hội của một nước, một khu vực hoặc thế giới sẽ tác
động mạnh mẽ đến hoạt động ngoại thương, đầu tư, chuyển giao công
nghệ…buộc các nước phải điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp, đảm bảo cho nền kinh
tế ổn định và phát triển.
1.3.2.3. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ
Khoa học kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến được coi là nhân
tố quyết định đối với quá trình sản xuất, làm tăng mạnh giá trị kinh tế các
ngành, lĩnh vực, tạo ra những bước đột phá lớn thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
Như vậy, các nhân tố bên ngoài có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội, là nhân tố tác động đến việc hình thành và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế nông thôn. Tuy nhiên, chính các nhân tố bên trong
mới giữ vai trò then chốt và quyết định đối với quá trình chuyển dịch trên.
1.4. Vai trò và nội dung quản lý nhà nước đối với quá trình phát triển
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1.4.1. Vai trò quản lý của Nhà nước
Quản lý Nhà nước về kinh tế trong thời đại ngày nay trở thành nhân

tố cơ bản quyết định sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Đối với nước ta, quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp là vấn đề rộng lớn, phức tạp, chịu tác động bởi nhiều yếu tố
khác nhau như: thể chế, chính sách, điều kiện tự nhiên, khoa học công
16
nghệ, vốn và các điều kiện kinh tế – xã hội, yếu tố vùng địa lý, yếu tố thị
trường và quan hệ quốc tế… thì vai trò quản lý Nhà nước càng có ý nghĩa
quyết định. Vai trò đó được thể hiện trong việc Nhà nước thực hiện một
cách đầy đủ, đúng chức năng quản lý của mình đối với nền kinh tế nói
chung và đối với nông nghiệp nói riêng. Để đáp ứng yêu cầu phát triển
nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
cần thiết phải đổi mới vai trò quản lý của Nhà nước theo hướng xây dựng
một thể chế nông nghiệp, nông thôn hợp lý và đổi mới hoạt động của chính
quyền các cấp, củng cố và tăng cường vai trò của chính quyền các xã.
1.4.2. Nội dung quản lý Nhà nước về phát triển và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp
- Một là, quản lý Nhà nước về quy hoạch phát triển nông nghiệp
Quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp nhằm đưa ra các định
hướng lớn có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với sự phát triển kinh tế –
xã hội ở nông thôn mà còn ảnh hưởng lớn tới bước tiến chung của cả nước.
Vì vậy, vấn đề quy hoạch phát triển nông nghiệp cần được xem xét trong
mối liên hệ chặt chẽ với quy hoạch xây dựng vùng nông thôn mới ở nước ta
hiện nay.
- Hai là, hướng dẫn, hỗ trợ quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất
nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải được gắn liền với quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Điều này được thể hiện trong
quan điểm chỉ đạo của Đảng: “Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn
phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến, gắn sản xuất với thị
trường để hình thành sự liên kết nông – công nghiệp – dịch vụ và thị trường

ngay trên địa bàn nông thôn và trên phạm vi cả nước; gắn phát triển nông
nghiệp với xây dựng nông thôn mới…”
17
- Ba là, phát huy vai trò của các thành phần kinh tế trong nông
nghiệp
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần góp phần xây dựng hệ thống
quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất đó.
Trước tiên, thực hiện công tác quản lý Nhà nước đối với các thành
phần kinh tế cần nắm vững địng hướng XHCN trong việc xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần như Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã nêu:
+ Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần. Trong kinh tế nông nghiệp, mỗi thành phần kinh tế
đều có vai trò riêng và đều được khuyến khích phát triển theo định hướng
XHCN.
+ Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà
nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng với kinh
tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng. Nhà nước tạo điều kiện kinh tế và
pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu
dài.
+ Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động
trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày một tốt hơn.
+ Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức
đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất – kinh doanh và phân
phối thông qua phúc lợi xã hội. Phân phối và phân phối lại hợp lý các thu
nhập, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo.
+ Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, khai thác triệt
để vai trò tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa, hạn chế những tác
động tiêu cực của cơ chế thị trường. Bảo đảm sự bình đẳmg về quyền và
nghĩa vụ trước pháp luật của mọi doanh nghiệp và cá nhân, không phân biệt

thành phần kinh tế.
18
+ Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc
trong quan hệ với bên ngoài.
Thứ hai, thực hiện chủ trương, chính sách đối với từng thành phần
kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.
- Bốn là, phát triển khoa học công nghệ, khuyến khích phục vụ
sản xuất và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
Bước vào thế kỷ 21, trước yêu cầu bức bách về phát triển một nền
nông nghiệp hàng hoá chất lượng cao, nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng nông sản Việt Nam, đòi hỏi lĩnh vực khoa học công nghệ phải được
phát triển nâng lên tầm cao mới, tạo ra bước đột phá về giống cây trồng, vật
nuôi, các tiến bộ về bảo vệ thực vật, thú y, các công nghệ chế biến, quản lý
nguồn tài nguyên thiên nhiên bền vững… ngang tầm với khu vực và thế
giới. Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 của Chính phủ đã chỉ
rõ nhiệm vụ và yêu cầu phát triển khoa học công nghệ như sau: “Trong
thập kỷ tới phải đưa trình độ khoa học công nghệ của nhiều ngành trong
nông nghiệp Việt Nam đuổi kịp các nước trong khu vực và nâng cao mức
đóng góp của tiến bộ khoa học công nghệ vào giá trị gia tăng của nông
nghiệp từ khoảng 30% hiện nay lên trên 50%. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng
cao chất lượng công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đến tận cơ
sở và hộ nông dân, nhằm giúp nông dân hiểu và áp dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm
nông nghiệp.
- Năm là, hỗ trợ và thúc đẩy phát triển công nghiệp và dịch vụ
nông thôn, xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.
+ Để phát triển nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn, Nhà nước cần có những chính sách, giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy công
nghiệp phát triển, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản đồng
thời phát triển mạnh mẽ các dịch vụ nông thôn. Bằng cách này có thể thu

19
hút lực lượng tại chỗ chuyển sang sản xuất công nghiệp và làm dịch vụ,
hình thành các thị tứ, đô thị vùng nông thôn, liên kết với các khu công
nghiệp và đô thị lớn, thực hiện điện khí hoá, cơ khí hoá và thuỷ lợi hóa
trong sản xuất nông nghiệp.
+ Kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn như: thuỷ lợi, giao thông
nông thôn, điện, chợ, trường học… đóng vai trò quan trọng trong việc bảo
đảm cho nông nghiệp tăng trưởng và phát triển. Từ đặc điểm cơ bản của kết
cấu hạ tầng là vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm hoặc gián tiếp,
đòi hỏi Nhà nước phải quan tâm và ưu tiên đầu tư nguồn vốn ngân sách vào
xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn
đầu tư và tạo nên thị trường thông suốt, tạo mối liên kết nhanh chóng với
các vùng trong nước và vươn ra thế giới. Kết cấu hạ tầng càng hoàn thiện
thì quy mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp
càng có điều kiện mở rộng và tăng hiệu quả. Điều này đặc biệt có ý nghĩa
đối với những vùng sản xuất hàng hóa lớn về lương thực, thực phẩm và
nông sản xuất khẩu.
- Sáu là, giải quyết các vấn đề văn hoá - xã hội ở nông thôn:
Bên cạnh việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, Nhà nước
cần tăng cường quản lý và nâng cao đời sống văn hoá - xã hội nông thôn
trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình, giải quyết
việc làm, xoá đói giảm nghèo, dân chủ ở cơ sở…
Ngoài những nội dung quản lý Nhà nước nói trên, trong quá trình
phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đòi hỏi Nhà nước
cũng phải quan tâm đến những lĩnh vực liên quan trong quá trình quản lý
như công tác phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường,
quản lý đất đai, quản lý tài chính, thuế…
20
1.5. Quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước ta

Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, phù hợp
với quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường được quán triệt xuyên
suốt trong các Văn kiện của Đảng và chính sách của Nhà nước.
Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã
xác định: “Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá”
3
. Sự nghiệp CNH, HĐH ngày nay mà Đảng ta đã chỉ ra
là: “Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ,
phương tiện tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và khoa
học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”
4
.
Với mục tiêu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp, có
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, Đảng ta đặc biệt coi trọng
vấn đề công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đồng thời
xác định rõ: “Công nghiệp hoá - hiện đại nông nghiệp, nông thôn là sự
nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, là nhiệm vụ trực tiếp của giai cấp nông
dân liên minh với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng và quản lý của Nhà nước”
5
.
Như vậy theo quan điểm của Đảng ta, CNH, HĐH cùng với chuyển
dịch cơ cấu kinh tế gắn bó chặt chẽ với nhau. Quá trình thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH cần chú ý những vấn đề sau:
3
Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ BCHTW khóa VII, tr 26

4
Văn kiện Hội nghị lần thứ VII BCHTW Khóa VII, tr 65
5
Nông Đức Mạnh- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Hội Nông dân VN lần thứ IV 2003-2008, tr 82
21
Một là, chuyển dịch cơ cấu toàn bộ, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu
vùng và cơ cấu các thành phần kinh tế; huy động đồng bộ mọi điều kiện,
mọi biện pháp, mọi yếu tố để phát triển kinh tế.
Hai là, chú trọng cải tạo, nâng cao trình độ hiện đại của trang thiết bị
hiện có, đồng thời đổi mới quy trình công nghệ trong sản xuất và quản lý ở
mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Nói cách khác, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ
cấu thành phần kinh tế theo hướng hợp lý và hiệu quả cao hơn đòi hỏi nền
kinh tế phải được CNH, HĐH. Ngược lại CNH, HĐH làm cho nền kinh tế
tăng trưởng và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ở nước ta, cũng như từng địa phương xu hướng chung của chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong những năm tới là:
- Về cơ cấu ngành: chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng cơ cấu
nông nghiệp, tăng tỷ trọng cơ cấu công nghiệp và dịch vụ; trong ngành
nông nghiệp tăng tỷ trọng chăn nuôi và thuỷ sản giảm tỷ trọng trồng trọt.
- Xây dựng cơ cấu các thành phần kinh tế phù hợp gồm: kinh tế
Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân),
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Về cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ: chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ theo
hướng phát triển toàn diện và tập trung có trọng điểm, phát triển tổng hợp,
phát triển chuyên môn hoá.
Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước ta là
giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế song vẫn coi trọng phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn: “Phát triển nông- lâm- ngư nghiệp
22

gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế- xã hội”
6
.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: “Thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn,
chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả
kinh tế cao; đẩy mạnh thâm canh các loại cây trồng trên cơ sở áp dụng các
loại quy trình sản xuất đồng bộ và tiên tiến; quy hoạch diện tích sản xuất
lương thực ổn định; phát triển mạnh chăn nuôi theo hướng quy mô lớn, an
toàn dịch bệnh và bền vững về môi trường. Xây dựng các vùng sản xuất
nông sản hàng hoá tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất
và chế biến, khắc phục tình trạng sản xuất manh mún và tự phát”
7
.
Theo đó, Đảng và Nhà nước ta sẽ tập trung thực hiện các giải pháp
đồng bộ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp
và nông thôn, nhất là: đưa nhanh khoa học và công nghệ vào sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp; có chính sách đủ mạnh để khuyến khích phát triển nhanh
các doanh nghiệp và hoạt động dịch vụ ở nông thôn; tiếp tục đầu tư phát
triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội ở nông thôn; tập trung giải
quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc và xây dựng nông thôn mới.
6
Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội,
HN-1991, tr 12
7
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, HN-2006, tr 191
23
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

HUYỆN GIAO THUỶ TỈNH NAM ĐỊNH 2006- 2009
2.1. Đặc điểm tự nhiên - kinh tế- xã hội huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định:
2.1.1. Điều kiện tự nhiên huyện Giao Thủy
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Giao Thuỷ là một trong 3 huyện ven biển của tỉnh Nam Định,
diện tích tự nhiên 328,18km
2
, là khu vực đồng bằng tương đối bằng phẳng,
nằm trong hành lang trọng điểm của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng,
cạnh 2 cửa sông lớn là cửa Ba Lạt và Hà Lạn. Giao Thuỷ nằm ở phía Đông
Nam của tỉnh Nam Định, có toạ độ địa lý từ 20˚10’ đến 20˚21’ vĩ độ Bắc
và từ 106˚21’ đến 106˚35’ kinh độ Đông. Cách thành phố Nam Định 45
km, với trục giao thông chính là quốc lộ 21 và đường tỉnh lộ 489, 481 chạy
qua.
Phía Đông - Bắc giáp với tỉnh Thái Bình
Phía Tây Bắc giáp với huyện Xuân Trường
Phía Tây giáp với huyện Hải Hậu
Phía Nam - Đông Nam giáp với biển Đông.
24
Huyện Giao Thuỷ có đầy đủ giao thông thuỷ và bộ đảm bảo cho phát
triển kinh tế - xã hội, khoa học - kỹ thuật trong tỉnh và cả nước.
2.1.1.2. Địa hình, địa mạo
Địa hình tương đối bằng phẳng, có xu hướng thấp dần từ Bắc xuống
Nam, có thể chia thành 2 vùng chính là vùng nội đồng và vùng bãi bồi ven
biển, đất đai của huyện nhìn chung màu mỡ tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt, với 32 km bờ biển, ngư trường rộng
lớn, sinh vật đa dạng, bãi biển đẹp tạo điều kiện thuận lợi cho ngành thuỷ
sản và ngành du lịch.
Địa tầng khu vực khảo sát nằm trong vùng có cấu trúc địa chất đơn
giản bao gồm các trầm tích sông, hồ, đầm lầy, trầm tích biển.

2.1.1.3. Khí hậu
Khí hậu huyện Giao Thuỷ mang đầy đủ những thuộc tính cơ bản của
khí hậu miền Bắc. Đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, có mùa đông
khá lạnh, ít mưa; mùa hè nóng, nhiều mưa, có 4 mùa rõ rệt.
- Nhiệt độ: Đặc điểm khí hậu khu vực là sự khác biệt giữa hai mùa
(mùa hè và mùa đông) trong năm, nhiệt độ trung bình mùa hè: 27.8˚C, mùa
đông là: 19,5˚C. Nhiệt độ trung bình năm 2008 là 24,2˚C, tháng nóng nhất là
tháng 7 và lạnh nhất là tháng Giêng. Biên độ dao động ngày đêm của nhiệt độ
tương đối nhỏ.
- Lượng mưa: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô
bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa tương đối lớn trung
bình dao động từ 1.400mm đến 1800mm, số ngày mưa trong năm dao động
khoảng 143 ngày. Tháng có lượng mưa trung bình cao nhất là tháng 9.
- Độ ẩm: Năm 2008, độ ẩm tương đối trung bình năm là 82%. Tháng
3 có độ ẩm tương đối trung bình cao nhất là 92%, tháng 11 có độ ẩm tương
đối trung bình thấp nhất là 73%.
25

×