Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

trọn bộ đề cương ôn tập triết học có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.85 KB, 113 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP MÔN TRIẾT
CHƯƠNG I . LỊCH SỬ TRIẾT HỌC CÁC NƯỚC PHƯƠNG ĐÔNG 4
Câu 1. Triết học là gì? Sự khác nhau cơ bản giữa quan điểm hiện đại và quan điểm lịch sử về triết học?
Vì sao có sự khác nhau đó? Triết học có những chức năng gì? 4
Câu 2. Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề gì? Tại sao lại có vấn đề đó? Ý nghĩa của việc phân tích
vấn đề cơ bản của triết học 6
Câu 3. Có những trường phái triết học cơ bản nào? Khái quát các hình thức phát triển của trường phái
duy vật trong lịch sử. V.I Lê nin đã chỉ ra những nguồn gốc nào của chủ nghĩa duy tâm ? 8
Câu 4. Phép biện chứng là gì? Khái quát các hình thức lịch sử phát triển của phép biện chứng? Phép
siêu hình là gì? Giá trị của phép siêu hình là ở chỗ nào? 11
Câu 5. Thực chất của triết học là gì? Hãy nêu các tính quy luật cơ bản của lịch sử triết học 11
Câu 6. Triết học Trung Hoa và triết học Ấn Độ có những đặc điểm nào? Giải thik tại sao lại có những
đặc điểm đó? Hãy so sánh những nét tương đồng và dị biệt của hai nền triết học này 11
Câu 7.Hãy diễn giải những nội dung của triết học Nho Giáo. So sánh sự khác nhau giữa Nho giáo Cổ
đại và Nho giáo thời phong kiến. Tại sao có sự khác nhau đó? Nho giáo có những giá trị và hạn chế
nào? 11
Câu 8.Hãy diến giải những nội dung chính của triết học Phật giáo? Nhận định các giá trị và hạn chế của
những tư tưởng triết học Phật Giáo 11
Câu 9.Nêu khái quát tư tưởng triết học của các trường phái - Đạo gia và Âm Dương- Ngũ Hành
gia.Nhận định các giá trị và hạn chế của những tư tưởng ấy 13
Câu 10. Nêu khái quát tư tưởng triết học của các trường phái Samkhuya, Mimansa, Lokayta và nhận
định các giá trị,hạn chế của các trường phái đó 21
CHƯƠNG II. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY TRƯỚC MAC 23
Câu 11. Phân tích sự khác nhau cơ bản giữa triết học phương Đông cổ đại (mà Ấn Độ và Trung Quốc là
đại biểu) và triết học phương Tây cổ đại( mà hy Lạp là đại biểu) 23
Câu 12. Trình bày những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại. Trong đó đặc điểm nào được coi
là quan trọng nhất.? vì sao? Phân tích những nội dung chính của sự đối lập giữa đường lối Đêmôcrit và
“đường lối Platon” 24
Câu 13. Nêu lên những nội dung cơ bản của Triết học Tây âu thời Trung cổ. Vì sao Triết học Tây Âu
thời trung cổ, nhìn chung là một bước lùi so với Triết học Cổ đại? 27
Câu 14. Trình bày những đóng góp của triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng đối với sự phát triển của


triết học nhân loại 30
Câu 15. Vì sao triết học Cận đại có tính máy móc siêu hình,thụ động-trực quan và duy vật ko triệt để.
Phân tích những nội dung chính của triết học ph.Becon và R.Đềcáctơ 31
Câu 16 . Phân tích và đánh giá những giá trị và hạn chế của triết học cổ điển Đức.Nêu rõ những đóng
góp của triết học cổ điển Đức đối với sự phát triển của triết học nhân loại 35
Câu 17. Khái quát những tư tương triết học của Heeghen. Thành tựu vĩ đại nhất của triết học Heeghen
là gì? Khái quát những tư tưởng triết học của Phoiobắc. thành tựu vĩ đại nhất của triết học Phoiơắc là j?
36
CHƯƠNG III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MAC LÊ NIN 38
Câu 18. Chứng mính sự ra đời của triết học Mac là một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học. 38
Câu 19. V.I LÊnin đã bảo vệ và phát triển triết học Mác như thế nào 39
Câu 20. Ngày nay có cần phải tiếp tục bổ sung và phát triển triết học Mác nữa ko? Vì sao 41
CHƯƠNG IV. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆC NAM 43
Câu 21. Phân tích những biểu hiện của lập trường duy vật và duy tâm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam
43
Câu 22. Phân tích vị trí của tư tưởng yêu nước Việt Nam trong quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng
Việt Nam và cơ sở hiện thực xã hội của nó 43
1
Câu 23. Phân tích vị trí của đạo làm người trong quan niệm về đạo làm người trong lịch sử tư tưởng
Việt Nam. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với quan niệm về đạo đức làm người trong lịch sử tư tưởng
Việt Nam 45
CHƯƠNG V. THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ VẬN DỤNG TRONG
NGHIÊN CỨU, QUẢN LÝ KINH TẾ 45
Câu 24. Thế nào là thế giới quan triết học? Phân tích chức năng thế giới quan của triết học 45
Câu 25. Trình bày những đặc trưng của thế giới quan duy vật biện chứng. Vì sao thế giới quan duy vật
biện chứng là đỉnh cao trong lịch sử phát triển thế giới quan duy vật trong triết học 47
Câu 26. Phân tích vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức. Liên hệ bài học “ xuất phát từ thực tế
khách quan” với thực tiễn quản lý của cơ quan anh/chị 47
Câu 27. Phân tích tính năng động, sáng tạo của ý thức. Vận dụng phân tích lĩnh vực chuyên môn của
anh/chị

49
Câu 28. Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Liên hệ với những vấn
đề thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay 49
CHƯƠNG VI. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ VẬN DỤNG TRONG
NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ 50
Câu 29. Phép biện chứng duy vật là gì? Nó có những nội dung nào? Tại sao nói: Phép biện chứng duy
vật là hình thái phát triển hoàn bị của lịch sử phép biện chứng? 50
Câu 30. phép biện chứng duy vật có vị trí như thế nào trong triết học Mác- Lê Nin và trong nghiên cứu
khoa học cũng như trong nhận thức giải quyết các vấn đề thực tiễn kinh tế- xã hội. Cho một vài ví dụ
thực tế 53
Câu 31. Phân tích những nôi dung cơ bản của quy luật và xây dựng những ý nghĩa phương pháp luận
cơ bản từ nội dung đó. Phân biệt quan điểm biện chứng và quan niệm siêu hình về mâu thuẫn. Vì sao
nói: Phát triển là một cuộc đấu tranh của các mặt đối lập.? hãy nêu một số loại mâu thuẫn của nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, và phương hướng, biện pháp lớn trong giải quyết
các mâu thuẫn đó (đã được nói trong các văn kiện của Đản) 54
Câu 32. Phân tích những nội dung cơ bản của quy luật lượng- chất và các nguyên tắc phương pháp luận
cơ bản của quy luật này. Có phải mọi sự thay đổi về lượng đều dẫn đến sự thay đổi về chất hay không?
Vì sao? 61
Câu 33. Phân tích nội dung cơ bản của phủ định biện chứng và xây dựng các nguyên tắc phương pháp
luận của nhận thức và thực tiễn. Liên hệ với những vấn đề của thực tiễn đổi mới ở Việt Nam 64
Câu 34. Phân tích khái quát nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của 6 cặp phạm trù cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Liên hệ với thực tiễn quản lý của cơ quan anh/ chị 66
CHƯƠNG VII. THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN
VÀ VẬN DỤNG TRONG KINH TẾ 71
Câu 35. Phân tích sự khác nhau cơ bản giữa thực tiễn và nhận thức. Vì sao hoạt động sản xuất vật chất
là dạng hoạt động thực tiễn cơ bản và quan trọng nhất 71
Câu 36. Trình bày sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.Liên hệ với
hoạt động chuyên môn của anh/ chị 71
Câu 37. Phân biệt tri thức kinh nghiêm và tri thức lý luận. Vì sao kinh nghiệm phải được bổ sung bằng
lý luận 73

Câu 38. Vì sao thống nhất giữa lý luận thực tiễn và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
Mac Lê Nin? Phê phán bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều 74
CHƯƠNG VIII LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀ VẬN DỤNG VÀO
SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA 74
Câu 39. Phân tích vai trò sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển xã hội 74
Câu 40. Vì sao trong nghiên cứu về xã hội xuất phát từ sản xuất vật chất, từ phương thức sản xuất chứ
không thể xuất phát từ ý thức tư tưởng, từ ý chí của người cẩm quyền 76
2
Câu 41. Trình bày nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật đó? Liên hệ với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta 79
Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất 79
Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 79
3. Sự vận dụng quy luật này trong công cuộc đổi mới ở nước ta 81
Câu 42. Con người có thể tự do lựa chọn quan hệ sản xuất theo ý muốn của mình được không? Vì sao?
Liên hệ với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa nước ta 81
Câu 43. Trình bày mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế với chính trị.
Liên hệ với công cuộc đổi mới ở nước ta 86
Câu 44. Phân tích sự phát triển của các hình thái kinh tế -xã hội . ý nghĩa phương pháp luận của phạm
trù đó. Vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta hiện nay 86
Câu 45. Phân tích sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên. Chúng ta
tiến lên Xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có phù hợp với quá trình lịch sử - tự nhiên hay
không? Vì sao 86
CHƯƠNG IX . VẤN ĐỀ GIAI CẤP, DÂN TỘC,NHÂN LOẠI VÀ VẬN DỤNG VÀO SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA 89
Câu 46. Giai cấp là gì/ Cở sở phân định giai cấp? Nguồn gốc trực tiếp và sâu xa của sự phân hóa giai
cấp trong xã hội là gì? 89
Câu 47. Tại sao nói đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của lịch sử trong điều kiện xã hội phân hóa
thành giai cấp đối kháng. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản có vị trí gì đối với sự phát triển lịch sử
nhân loại trong thời đại hiện nay 90

Câu 48. Dân tộc là cộng đồng lịch sử có những đặc trưng cơ bản nào? Phân tích các đặc trưng đó và
liên hệ với quá trình hình thành, phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Làm rõ sự khác nhau vê
nguồn gốc hình thành dân tộc Việt Nam so với lịch sử hình thành các dân tộc Châu Âu 91
Vì sao trong thời đại ngày nay đối với các dân tộc thường là các quốc gia – dân tộc? ý nghĩa của vấn đề
này đối vấn đề giữ vững độc lập dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo đảm chủ quyền an ninh
quốc gia của nước ta hiện nay 91
Câu 49. Giai cấp và dân tộc luôn có mối quan hệ thống nhất biện chứng. hãy Phân tích mối quan hệ đó
và liên hệ với thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước đây và công cuộc đổi mới hiện
nay 92
Câu 50. Nhân loại là gì? Phân tích cơ sở thống nhất của cộng đồng dân tộc, nhân loaj và giai cấp có
quan hệ với nhau như thế nào? Giải phóng giai cấp có ý nghĩa như thế nào đối với sự nghiệp giải phóng
nhân loại? 93
Câu 51. Thế nào là xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ? Bản chất của nền kinh tế độc lập tự chủ
trong thời đại hiện nay? 95
Câu 52. Hội nhập kinh tế quốc tế là thế nào? Phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản nào? Đảng ta quan
niệm như thế nào về hội nhập kinh tế quốc tế? 95
CHƯƠNG X. LÝ LUẬN NHẬN THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ 100
Câu 53. Phân tích bản chất và những đặc trưng của Nhà nước.? Vì sao nói nhà nước không phải cơ
quan điều hòa mâu thuẫn giai cấp? Chứng minh rằng sự ra đời của nhà nước là một tất yếu khách quan
của quá trình phát triển kinh tế- xã hội? 100
Câu 54. Nhà nước có những chức năng cơ bản nào? Quan hệ giữa các chức năng đó? Tại sao chức năng
chính trị là chức năng cơ bản nhất. Vì sao chức năng kinh tế là chức năng riêng có của kiểu Nhà nước
chuyên chính vô sản 101
Câu 55. Nhà nước có những vai trò gì đối với quá trình phát triển kinh tế của xã hội? Vì sao sự phát
triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của vai trò nhà nước? Lấy một số ví dụ về
vai trò của nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế thị trường ở các nước tư bản 102
Câu 56. Hãy nên quan điểm của Đảng công sản Việt Nam về việc tăng cường vai trò quản lý kinh tế của
nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa,hiện đại hóa nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh 104
3

CHƯƠNG XI .QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MAC LÊ NIN VỀ CON NGƯỜI
VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA 105
Câu 57. Phân tích những giá trị trong quan niệm về con người của các nền triết học trước Mác. Triết
học Mác đã kế thừa những yếu tố hợp lý nào trong các quan điểm đó? 105
Câu 58. Cách tiếp cận của triết học Mác đối với con người khác với các tiếp cận của các nền triết học
trước Mác ở chỗ nào? Ý nghĩa của cách tiếp cận đó? 105
Câu 59. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa phương diện sinh học và phương tiện xã hội trong con
người? vận dụng vào lĩnh vực công tác của anh/ chị 109
Câu 60. Phân tích bản chất của con người. Hiểu thế nào là luận điểm “con người vừa là chủ thể, vừa là
sản phẩm của hoàn cảnh?” 109
Câu 61: Vì sao phát triển nguồn nhân lực con người Việt Nam là yếu tố quyết định thành công của sự
nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa? 111
CHƯƠNG I . LỊCH SỬ TRIẾT HỌC CÁC NƯỚC PHƯƠNG ĐÔNG
Câu 1. Triết học là gì? Sự khác nhau cơ bản giữa quan điểm hiện đại và quan điểm lịch sử về
triết học? Vì sao có sự khác nhau đó? Triết học có những chức năng gì?
Khái niệm "Triết học”
Triết học là bộ môn chung nhất, nghiên cứu về các sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội,
nhằm tìm ra các quy luật của các đối tượng nghiên cứu. Mục đích của triết học là giải quyết các vấn đề cơ
bản của bản thể luận và nhận thức luận.
Triết học là hệ thống lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí
của con người trong thế giới đó.
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ
VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung
Quốc, ấn Độ, Hy Lạp. ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết ( ); người Trung
Quốc hiểu triết học không phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí
tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
Sự khác nhau cơ bản giữa quan điểm hiện đại và quan điểm lịch sử về triết học?
* Quan điểm lịch sử
Phương pháp nhận thức các sự vật và hiện tượng theo quá trình phát sinh, phát triển của nó trong

những điều kiện lịch sử nhất định, như là sản phẩm của sự phát triển lịch sử. QĐLS có những nét đặc
trưng cơ bản sau:
1) Nó xem xét không phải sự thay đổi đơn giản, mà là sự tự vận động, kết cấu nội tại, nguồn gốc của
sự tự vận động;
2) Quá trình phát triển của sự vật và hiện tượng, những giai đoạn chủ yếu đã trải qua, thực trạng
hiện nay, xu thế phát triển tương lai, khả năng tối ưu và những điều kiện khách quan, chủ quan cho sự
thực hiện khả năng tối ưu ấy;
3) Tính kế thừa trong sự phát triển của mọi sự vật và hiện tượng. Vận dụng QĐLS, chủ nghĩa Mac
đã phát hiện quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản, đi đến kết luận: chủ nghĩa tư bản sẽ diệt vong; chủ
nghĩa xã hội sẽ thắng lợi, và đề ra những dự kiến khoa học về sự phát triển của xã hội cộng sản chủ nghĩa
tương lai.
* Quan điểm hiện đại
4
Tính hiện đại thường được miêu tả như là sự phản ánh một loạt những nguyên tắc cơ bản sau đây.
1. Nó phủ nhận truyền thống và phong tục tập quán với tư cách một quyền lực tiên thiên, mọi thứ
phải chịu sự phê phán mang tính lý tính (thuần lý).
2. Nó truy tìm tri thức và chân lý khách quan – những nguyên tắc mang tính lý tưởng, tuyệt đối, có
tính quy luật, phi lịch sử, mà chỉ có thể được nhận biết qua lý tính, sử dụng phương pháp có tính hình thức
và thuần lý.
3. Nó thừa nhận rằng, những điều kiện của nhận thức, theo cách nào đó, được quyết định bởi những
năng lực của chủ thể nhận thức; kế tiếp là “sự quay về với chủ thể” và thừa nhận vị thế cao hơn của nhận
thức luận so với siêu hình học; Sự ưu tiên đối với chủ thể cũng được phản ánh trong sự nhấn mạnh giá trị
cá nhân so với giá trị cộng đồng.
Vì sao có sự khác nhau đó?
Sự hình thành, phát triển của triết học có tính quy luật của nó. Triết học gắn liền với cuộc đấu tranh
giai cấp, các lực lượng xã hội; với các thành từu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội; với sự thâm nhập
và đấu trranh giữa các trường phái triết học với nhau.
- Sự phát triển của các hình thái xã hôi khác nhau; triết học găn liền với các điều kiện kinh tế, xã
hội, với cuộc đấu tranh các giai cấp, các lực lượng xã hội.
- Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đem lại nhiều nhận thức mới cho con người.

- Sự phát triển của triết học hiện đại có sự kế thừa và phát triển các tinh hoa của triết học lịch sử.
Những nhà triết học hiện đại quyết định trong tri thức. Thay vào đó, họ tìm kiếm những nguyên lý
mang tính quy luật, tuyệt đối chối bỏ quan niệm cho rằng văn hoá, văn cảnh hoặc truyền thống đóng vai
trò, mang tính nền tảng và những chân lý phi lịch sử, phi thời gian, khách quan.
Ví dụ như Kant từ chối bất kỳ một nền đạo đức học nào dựa trên phong tục tập quán, hoặc truyền
thống, hoặc hành động trong quá khứ, hoặc tác động nào từ bên ngoài. Theo ông, để là “triết học đạo đức”
đích thực, nó phải mang tính quy luật; có nghĩa, nó phải là thứ tiên thiên. Cách tiếp cận của Kant là không
phải chú tâm đến văn hoá, hoặc văn cảnh, hoặc truyền thống cụ thể – công việc của xã hội học, chứ
không phải triết học – mà là suy ngẫm xem chủ thể thuần lý có thể khám phá và “tuân theo” cái gì khi
phản tư về cái nên làm (cái phải là).
Quy luật đạo đức mà Kant tìm kiếm với tư cách quy luật – là cái khách quan, phổ quát và tuyệt đối;
nó mang tính tiên thiên và không chứa các ngoại lệ. Đặc biệt, nó chỉ được “thừa nhận” và có hiệu lực chỉ
duy nhất bởi lý tính – lý tính của mỗi nhân tố cá nhân – vì thế, nó (chỉ trong nghĩa đó) mang tính chủ
quan. Không nhất thiết con người có muốn hay không, có đồng ý hay không, quy luật này không phụ
thuộc vào người lập luật bên ngoài. Đạo đức cũng không phụ thuộc vào hậu quả hay kết quả, mà chỉ tuân
theo lý tính.
Do đó, rõ ràng luật đạo đức là thứ độc lập với bất kỳ một ngẫu nhiên nào của văn hoá, lịch sử, hay
truyền thống. Quả thực, đây là lý do vì sao mà nó áp dụng với tất cả sinh thể thuần lý chứ không phải là
con người nói chung.
Quan điểm của thuyết hiện đại là, người ta phải phán xét tất cả các tuyên bố (tuyên xưng) về văn
hoá, phong tục và truyền thống dưới ánh sáng của lý tính và loại trừ tất cả những gì không phù hợp với lý
tính. Do đó, mối quan hệ giữa triết học và văn hoá không có ý nghĩa gì lắm, hoặc nếu có mối quan hệ này
thì cũng hoàn toàn không quan trọng.
Triết học có những chức năng gì? (Thế giới quan và phương pháp luận)
* Chức năng thế giới quan của triết học
5
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về
cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó.
Trong thế giới quan có sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình
thành thế giới quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi nó đã trở thành niềm tin định hướng cho hoạt

động của con người.
Có thể chia thế giới quan thành ba loại hình cơ bản: Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn
giáo và thế giới quan triết học.
Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn đề thuộc về thế giới
quan. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và xã hội loài người.
Tồn tại trong thế giới, dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân
mình. Những tri thức này dần dần hình thành nên thế giới quan. Khi đã hình thành, thế giới quan lại trở
thành nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận thức thế giới. Có thể ví thế giới quan như
một "thấu kính", qua đó con người nhìn nhận thế giới xung quanh cũng như tự xem xét chính bản thân
mình để xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức hoạt động đạt được mục
đích, ý nghĩa đó. Như vậy thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ
phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi
cộng đồng xã hội nhất định.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển
như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại.
Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
Các trường phái chính của triết học là sự diễn tả thế giới quan khác nhau, đối lập nhau bằng lý luận;
đó là các thế giới quan triết học, phân biệt với thế giới quan thông thường.
* Chức năng phương pháp luận của triết học
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây
dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Xét phạm vi tác dụng của nó, phương pháp luận có thể chia thành ba cấp độ: Phương pháp luận
ngành, phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất.
Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Phép biện chứng
duy vật là lý luận khoa học phản ánh khái quát sự vận động và phát triển của hiện thực; do đó, nó không
chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là sự diễn tả quan niệm về thế giới, là lý luận về thế giới quan. Hệ
thống các quan điểm của chủ nghĩa duy vật mácxít, do tính đúng đắn và triệt để của nó đem lại đã trở
thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, trở thành những nguyên tắc
xuất phát của phương pháp luận.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng, đề phòng và chống chủ nghĩa chủ

quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình vừa là kết quả, vừa là mục đích trực tiếp của việc học tập,
nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng
Câu 2. Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề gì? Tại sao lại có vấn đề đó? Ý nghĩa của việc phân
tích vấn đề cơ bản của triết học
Triết học là hệ thống lí luận chung nhất của con người về tự nhiên, xã hội, tư duy cũng như chỉ ra vị
trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
2.1 Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
6
Nguyên nhân:
 Giải thích mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần là tiền đề, xuất phát điểm của bất kì một
trường phái triết học nào, một học thuyết triết học nào dù theo cách này hay cách khác, dù gián tiếp hay
trực tiếp.
 Ang-ghen là người chứng minh và khẳng định một cách thuyết phục rằng giải quyết mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học nói chung và của triết học hiện đại nói riêng.
2.2 Vấn đề cơ bản của Triết học gồm có 2 mặt . Mỗi mặt trả lời cho 1 câu hỏi lớn.
2.2.1 Mặt thứ nhất (Bản thể luận) :
Bàn về nguồn gốc của thế giới: vật chất có trước hay ý thức có trước, cái nào quyết định cái nào. Có
2 cách trả lời khác nhau đã dẫn đến việc hình thành 2 khuynh hướng triết học lớn đối lập nhau
a) Chủ nghĩa duy vật Những người theo chủ nghĩa duy vật cho rằng và chứng minh rằng : vật chất là cái
có trước, ý thức là cái có sau; vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vất chất.
Trong chủ nghĩa duy vật gồm 3 dạng phái khác nhau:
+ Chủ nghĩa duy vật ngây thơ : là dựa vào việc quan sát một cách trực tiếp các sự vật hiện tượng để từ đó
kết luận về nó. Chính vì vậy mà những kết luận đưa ra thường đúng nhưng không sâu sắc, không đầy đủ,
chưa phản ánh hết sự sinh đọng của thế giới hiện thực khách quan
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình : là dựa vào phương pháp nghiên cứu sự vật trong trạng thái tĩnh tại, không
tính tới qúa trình vận động và phát triển không ngừng của sự vật; cô lập sự vật đó với các sự vật khác. Vì
vậy những kết luận đưa ra thường không đúng và có khi làm méo mó sự vật hiện tượng.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng: là dựa vào phương pháp nghiên cứu, xem xét, đánh giá sự vật ở trong
trạng thái vừa tĩnh tại vừa luôn luôn vận động phát triển không ngừng và trong mối quan hệ với các sự vật
hiện tượng khác nhau. Chính vì vậy mà những kết luận mà họ đưa ra phản ánh đúng sự vật hiện tượng một

cách khách quan.
b) Chủ nghĩa duy tâm là học thuyết khẳng định rằng ý thức là cái có trước, vật chất là cái có sau, ý thức
sinh ra vật chất quyết định vật chất.
- Chủ nghĩa duy tâm có 2 dạng phái:
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan : cho rằng có một thế giới tinh thần, một thế giới ý niệm tuyệt đối tồn tại
trước con người, vĩnh hằng, hoàn hảo, luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng. Trong quá trình vận
động và biến đổi đó tha hoá nên tạo nên thế giới hiện thực. Cũng chính vì quan điểm như vậy mà những
người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng thế giới hiện thực chỉ là cái bóng của thế giới tinh
thần, bị chi phối bởi thế giới tinh thần ấy.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan : cho rằng thế giới hiện thực là sự phức hợp các cảm giác của con người,
khi cảm giác của con người không còn thì thế giới cũng không còn tồn tại.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm làm thành thuyết “Nhất nguyên luận”
Bên cạnh đó còn có một thuyết “Nhị nguyên luận” : ý thức và vật chất cùng song song tồn tại, không có
cái nào quyết định cái nào, không có cái nào sinh ra cái nào
2.2.2 Mặt thứ hai (Nhận thức luận) : bàn về việc con người có khả năng nhận thức hay không; những hiểu
biết, những tri thức của con người có phản ánh được đầy đủ, sâu sắc bản chất về thế giới hiện thực khách
quan hay không.
Trong triết học hiện đại có 2 trường phái :
a) Trường phái Khả tri luận
Trường phái này gồm đa số các nhà triết học theo chủ nghĩa, tuyệt đại bộ phận các nhà triết học theo chủ
nghĩa duy vật ; khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới. Tuy nhiên khả năng nhậ
thức đó lại được hiểu khác nhau:
7
 Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng quá trình nhận thức của con người là
quá trình hồi tưởng lại của linh hồn bất tử
 Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng tri thức là cái có sẵn dưới dạng bẩm
sinh, chủ thể nhận thức chỉ cần tạo điều kiện cho các nhận thức ấy bùng nổ.
 Những người theo chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng nhận thức là một quá trình của con
người đi từ những hiểu biết đơn giản đến những hiểu biết phức tạp, không phải là cái có sẵn dưới dạng
bẩm sinh mà đó là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của mỗi bản thân con người. Khả năng

nhận thức của con người là hữu hạn nhưng khả năng nhận thức của loài người là vô hạn. Về nguyên tắn
cho dù thế giới khách quan có vận đọng không ngừng thì con người hoàn toàn có khả năng nhận thức
được nó.
b) Trường phái Bất khả tri
Cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới, nếu có nhận thức được thì cũng chỉ là nhận thức
được hiện tượng, không thể nhận thức được bản chất của sự vật
2.3 Ý nghĩa:
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ bao trùm của mọi sự vật hiện tượng trong thế
giới, là vấn đề nền tảng và xuất phát điểm để giải quyết những vấn đề còn lại của triết học, là tiêu chuẩn
để xác định lập trường thế giới quan của triết gia và học thuyết của họ.
Hiểu các vấn đề cơ bản của Triết học giúp người nghiên cứu có định hướng từ đó rèn luyện năng lực
tư duy và áp dụng vào thực tiễn.
Phân tích các vấn đề cơ bản của Triết học, chúng ta có cơ sở để phân tích thế giới quan và xây dựng
phương pháp luận khoa học theo các trường phái triết học mà mình theo đuổi, lý giải được các vấn đề
Triết học sau này, ví dụ như: thế giới quan duy vật là thế giới quan khoa học hay thế giới quan duy tâm là
thế giới quan tôn giáo, ….
Câu 3. Có những trường phái triết học cơ bản nào? Khái quát các hình thức phát triển của trường
phái duy vật trong lịch sử. V.I Lê nin đã chỉ ra những nguồn gốc nào của chủ nghĩa duy tâm ?
Các trường phái triết học cơ bản
Triết học có hai hình thái cơ bản: là triết học duy tâm và triết học duy vật
Thần thoại là hình thức thế giới quan đặc trưng cho trình độ nhận thức còn thấp của người nguyên
thủy trong giai đoạn sơ khai của lịch sử loài người. Nó là kết quả của sự cảm nhận còn rất ấu trĩ của người
nguyên thủy về thế giới khách quan và về bản thân mình. Trong đó, các yếu tố hiện thực và tưởng tượng,
cái có thật và cái hoang đường, Lý trí và tín ngưỡng, tư duy và xúc cảm hòa quyện vào nhau mà chưa có
sự tách biệt rõ ràng. Thần thoại lưu tồn ở mọi dân tộc trên thế giới và mãi về sau vẫn tiếp tục tồn tại ở
những cộng đồng dân cư có trình độ sản xuất và năng lực tư duy lý luận còn thấp kém.
Tôn giáo là thế giới quan duy tâm, phản ánh hiện thực một cách hư ảo. Tôn giáo ra đời trong điều
kiện trình độ nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người người còn hết sức thấy kém, khi mà con
người bất lực trước lực lượng tự nhiên cho nên đã gán cho nó một bản chất siêu tự nhiên, một thế mạnh
siêu thế gian. Trong xã hội có giai cấp và thống trị giai cấp, quần chúng lao động do chỗ chưa nhận thức

đúng bản chất của thế lực áp bức, thống trị nên đã phần nào thần thánh hóa sức mạnh của các thế lực đối
lập. Cũng có khi do bất lực và chịu thất bại tạm thời trong cuộc đấu tranh chống lại thế lực áp bức bóc lột,
con người phải tìm đến tôn giáo để tự an ủi thân phận nghèo khổ của mình. Do đó, đặc trưng chủ yếu của
8
thế giới quan tôn giáo là niềm tin vào sự tồn tại của các đấng siêu tự nhiên được coi như là thần thánh
mầu nhiệm, qua đó nhằm gửi gắm nguyện vọng giải thoát khỏi cảnh sống lầm than, đau khổ và vươn tới
cuộc sống tốt đẹp hơn. Những khát vọng đó của con người phần nào chứa đựng mặt tích cực và đó là lí do
làm cho tôn giáo tồn tại ở hầu hết các dân tộc trên thế giới và đã ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của xã
hội với nhiều mức độ khác nhau
, thế giới quan duy vật có những ảnh hưởng hết sức tích cực, đúng đắn và cực kỳ quan trọng đến thái
độ, hoạt động, hành vi của con người. Trước hết thế giới quan duy vật đem lại cho con người một niềm tin
khoa học, trên cơ sở đó con người thấy rằng cần phải tích cực bắt tay vào hành động cải tạo tự nhiên, cải
tạo xã hội để tự định đoạt lấy số phận của mình. Những người có thế giới quan duy vật thường là những
người nhận thức được ý nghĩa tươi đẹp của cuộc sống. Họ thường là con người của hành động, hăng say
tranh đấu, tích cực tham gia những hoạt động thiết thực, có ý nghĩa, bổ ích đối với xã hội, biết vượt lên
trên khó khăn gian khổ để đạt tới những thành công trong cuộc sống.
Các hình thức phát triển của trường phái duy vật trong lịch sử
Chủ nghĩa duy vật biện chứng-hình thức phát triển cao nhất của chủnghĩa duy vật. Trong lịch sử,
cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật được hình thành và phát triển với ba
hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
a. Chủ nghĩa duy vật chất phác
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời kỳ cổ đại. Họ
thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng lại đồng nhất vật chất với một hay dạng tồn tại cụ thể của vật
chất, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của vũ trụ. Đó là sự nhận thức mang tính trực quan nhưng
chủ nghĩa duy vật chất phác Scó ưu điểm là đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên mà
không viện đến một thần linh hay một đấng sáng tạo nào để giải thích thế giới.
b. Chủ nghĩa duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật, phát triển rõ nét từ thế kỷ
XV đến thế kỷ XVIII, và đạt đỉnh cao vào thế kỷ XIX, nó gắn với thời kỳ cơ học cổ điển phát triển mạnh,

do đó chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc. Đặc điểm của chủ nghĩa
duy vật siêu hình là nhận thức thế giới như một cỗ máy cơ giới mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trạng
thái biệt lập, tĩnh tại. Nếu có biến đổi thì chỉ có sự tăng, giảm đơn thuần về số lượng, do những nguyên
nhân bên ngoài gây ra.
Tuy chưa phản ánh đúng hiện thực trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển nhưng chủ nghĩa duy
vật siêu hình đã góp phần vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử
chuyển tiếp từ thời Trung cổ sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu.
c. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng từ những năm 40 của thế kỷ XIX
và được V.I.Lênin phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời trên cơ sở kế thừa tinh hoa trong lịch
sử triết học, dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên vì vậy, đã khắc phục được hạn chế của
chủ nghĩa duy vật chất phác và chủ nghĩa duy vật siêu hình. Trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực
khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng là công cụ vĩ đại
cho hoạt động nhận thức và thực tiễn cách mạng.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác về nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm
9
Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa
duy tâm là mối liên hệ của nó với các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ, nguồn gốc nhận thức
của nó là tuyệt đối hóa một mặt của các quá trình nhận thức (mặt hình thức), tách nhận thức, ý thức khỏi
vật chất
Trong tác phẩm Lútvích Phoiơbắc và sự có chung của triết học cổ điển Đức, Ph.Ăngghen chỉ ra
rằng, ngay từ thời cổ xưa con người đã phải giải thích những giấc mơ, từ đó nảy sinh vấn đề về quan hệ
giữa linh hồn con người và thể xác con người. Khi triết học ra đời, nó không thể không giải đáp vấn đề đó,
nhưng vấn đề đặt ra với tầm khái quát cao hơn, đó là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Quan hệ giữa tư
duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất trở thành vần đề cơ bản của triết học. "Vấn đề cơ bản của toàn bộ
triết học, nhất là của triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại"
1
.
Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất có trước ý thức và quyết định ý thức. Thế giới tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức con người, còn ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ não con

người. Chủ nghĩa duy vật xuất hiện ngay từ thời cổ đại, khi triết học mới bắt đầu hình thành. Từ đó đến
nay, lịch sử phát triển của chủ nghĩa duy vật luôn gắn với lịch sử phát triển của khoa học và thực tiễn. Nó
trải qua các hình thức cơ bản như: chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ thời cổ đại (Talét, Hêraclít,
Đêmôcrít), chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình thế kỷ XII - XIII (CNDV Anh, Pháp, Hà Lan) và chủ
nghĩa duy vật biện chứng (triết học Mác - Lênin). Bên cạch các hình thức trên, trong lịch sử triết học còn
có các dạng khác như chủ nghĩa duy vật tầm thường với các đại biểu như Buykhơnơ, Môlétsốt, chủ nghĩa
duy vật kinh tế cuối thế kỷ XIX.
Đối lập với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm khẳng định: ý thức có trước và quyết định vật
chất. ý thức tinh thần là cơ sở tồn tại của các sự vật, hiện tượng khách quan. Chủ nghĩa duy tâm gồm có
hai phái chính là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Các đại biểu của chủ nghĩa duy tâm chủ quan như Bécơli, Hium, Makhơ cho rằng: cảm giác, ý
thức của con người là cái có trước và quyết định sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng vật chất. Các sự vật,
hiện tượng của thế giới vật chất chỉ là sự phức hợp cảm giác của con người mà thôi.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan quan niệm: có một thực thể tinh thần dưới những tên gọi như
"thế giới ý niệm", "tinh thần tuyệt đối" có trước thế giới vật chất, độc lập với thế giới vật chất, sinh ra và
quyết định sự tồn tại của thế giới vật chất. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng, quá trình của tự nhiên và xã hội
đều là sự thể hiện của thực thể tinh thần đó. Các đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa duy tâm khách quan là
Platôn, Hêghen.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan tuy có khác nhau về cách giải
thích nhưng lại giống nhau ở điểm cơ bản là cả hai đều thừa nhận ý thức, tinh thần là cái có trước và quyết
định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức luận và nguồn gốc xã hội. Về mặt nhận thức luận,
sai lầm của chủ nghĩa duy tâm là ở chỗ nó đã xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa một mặt, một đặc tính nào
đó của qúa trình nhận thức mang tính biện chứng của con người. Theo sự phân tích của V.I. Lênin, "chủ
nghĩa duy tâm triết học là một sự phát triển (một sự thổi phồng bơm to) phiến diện, thái quá, ( ) của một
trong những đặc trưng, của một trong những mặt, của một trong những khía cạnh của nhận thức thành một
cái tuyệt đối, tách rời khỏi vật chất, khỏi giới tự nhiên, thần thánh hóa"
2
. Sự tách rời giữa lao động trí óc
1

. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21, tr.403
2

V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátcơcva, t.29, 1981, tr.385.
10
và lao động chân tay và địa vị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội cũ đã tạo ra
quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tư tưởng, tinh thần. Mặt khác, chủ nghĩa duy tâm thường là
thế giới quan của giai cấp thống trị. Giai cấp này đã sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm vũ khí tinh thần, lấy
những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những quan điểm chính trị - xã
hội để bảo vệ cho lợi ích của giai cấp mình, duy trì, củng cố địa vị thống trị của mình. Đó là nguồn gốc xã
hội của chủ nghĩa duy tâm.
Câu 4. Phép biện chứng là gì? Khái quát các hình thức lịch sử phát triển của phép biện chứng?
Phép siêu hình là gì? Giá trị của phép siêu hình là ở chỗ nào?
Câu 5. Thực chất của triết học là gì? Hãy nêu các tính quy luật cơ bản của lịch sử triết học
Câu 6. Triết học Trung Hoa và triết học Ấn Độ có những đặc điểm nào? Giải thik tại sao lại có
những đặc điểm đó? Hãy so sánh những nét tương đồng và dị biệt của hai nền triết học này
Câu 7.Hãy diễn giải những nội dung của triết học Nho Giáo. So sánh sự khác nhau giữa Nho
giáo Cổ đại và Nho giáo thời phong kiến. Tại sao có sự khác nhau đó? Nho giáo có những giá trị và
hạn chế nào?
Câu 8.Hãy diến giải những nội dung chính của triết học Phật giáo? Nhận định các giá trị và hạn
chế của những tư tưởng triết học Phật Giáo
8.1. Những nội dung chính của Triết học Phật Giáo:
• Thế giới quan: Thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy được phản ánh trong thuyết duyên khởi
và được làm sáng tỏ qua phạm trù vô ngã và vô thường.
+ Duyên khởi là nói tắt câu “Chư pháp do nhân duyên nhi khởi” có nghĩa là các pháp đều do nhân
duyên mà có. Pháp là tất cả mọi sự vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần, kể cả giáo lý. Còn nhân duyên là
nguyên nhân và điều kiện. Duyên giúp cho nhân biến thành quả. Phật giáo cho rằng mọi sự vật, hiện
tượng đều do nhân duyên hòa hợp mà thành. Duyên khởi từ tâm mà ra. Tâm là cội nguồn của vạn vật. Từ
đây, Phật giáo nguyên thủy chủ trương vô tạo giả tức không có vị thần linh tối cao nào tạo ra thế giới.
Quan niệm vô tạo giả gắn liền với quan niệm vô ngã, vô thường.

+ Vô ngã là không có một thực thể tối thượng tồn tại vĩnh hằng nào cả. Trong thế giới, vạn vật và
con người được cấu tạo từ các yếu tố sắc, tức vật chất như đất, nước, lửa, gió và danh, tức tinh thần như
thụ, tưởng, hành, thức mà không có đại ngã hay tiểu ngã gì cả.
+ Vô thường là không có cái gì trường tồn và vĩnh cửu cả. Trong thế giới, sự xuất hiện của vạn vật,
kể cả con người cũng chỉ là kết quả hội tụ tạm thời giữa sắc và danh; khi sắc và danh tan ra, chúng sẽ mất
đi. Điều này có nghĩa là, vạn vật luôn nằm trong chu trình sinh – trụ – dị – diệt; chúng luôn bị cuốn vào
dòng biến hóa hư ảo vô cùng theo luật nhân quả. Nhân nhờ duyên mới sinh ra quả, quả nhờ duyên mà
11
thành nhân mới, nhân mới lại nhờ duyên mà thành quả mới ; cứ như thế, vạn vật biến đổi, hợp – tan, tan
– hợp mà không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng nào cả.
Như vậy, thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính vô thần, nhị nguyên luận ngả về phía
duy tâm chủ quan và có chứa những tư tưởng biện chứng chất phác.
• Nhân sinh quan: Nhân sinh quan là nội dung chủ yếu của triết lý Phật giáo nguyên thủy. Nó thể
hiện cô động trong câu nói của Phật Thích Ca: Hỡi chúng sinh, ta chỉ dạy cho các người chỉ có một điều,
đó là điều khổ và diệt kho; Nếu nước biển có một vị là vị mặn thì học thuyết của ta cũng có một vị là vị
giải thoát. Nhân sinh quan của Phật giáo được trình bày trong thuyết Tứ diệu đế với bốn bộ phận là: khổ
đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
+ Khổ đế là lý luận về những nỗi khổ rõ ràng ở thế gian. Theo Phật có 8 nỗi khổ (bát khổ) trầm luân
bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ (yêu thương
mà phải chia ly), sở cầu bất đắc khổ (muốn mà không được), oán tăng hội khổ (ghét nhau mà phải sống
với nhau), ngũ uẩn khổ (sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn - sắc, thụ, tưởng, hành, thức).
+ Nhân đế là lý luận về những nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ nơi cuộc sống con người. Phật giáo cho
rằng con người còn chìm đắm trong bể khổ khi không thoát ra khỏi dòng sông luân hồi. Mà luân hồi là do
nghiệp tạo ra. Sở dĩ có nghiệp là do lòng ham muốn, tham lam (ham sống, ham lạc thú, ham giàu sang…),
do sự ngu dốt và si mê, nói ngắn gọn là do Tam độc (tham, sân, si) gây ra. Ngoài ra, nhân đế được diễn
giải một cách lôgích và cụ thể trong thuyết Thập nhị nhân duyên (12 nguyên nhân dẫn đến bể khổ): vô
minh, hành, thức, danh – sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão - tử. Trong 12 nguyên nhân ấy thì
vô minh là nguyên nhân thâu tóm tất cả, vì vậy, diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc sự đau khổ nhân sinh.
+ Diệt đế là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống thế gian để đạt tới niết bàn.
Khi vô minh được khắc phục thì tam độc sẽ biến mất, luân hồi sẽ chấm dứt…, tâm sẽ thanh thản, thần sẽ

minh mẫn, niết bàn sẽ xuất hiện… Diệt đế bộc lộ tinh thần lạc quan của Phật giáo ở chỗ nó vạch ra cho
mọi người thấy cái hiện tại đen tối, xấu xa của mình, để cải đổi, kiến tạo lại nó thành một cuộc sống xán
lạn, tốt đẹp hơn. Phật giáo thể hiện khát vọng nhân bản, muốn hướng con người đến cõi hạnh phúc "tuyệt
đối", muốn hướng khát vọng chân chính của con người tới chân – thiện - mỹ.
+ Đạo đế là lý luận về con đường diệt khổ, giải thoát. Nội dung cơ bản của nó thể hiện trong thuyết
Bát chính đạo (tám con đường đúng đắn) đưa chúng sinh đến niết bàn, đó là: chính kiến (hiểu biết đúng),
chính tư duy (suy nghĩ đúng), chính ngữ (lời nói chân thật), chính nghiệp (hành động đúng đắn), chính
mệnh (sống một cách chân chính), chính tinh tấn (thẳng tiến mục đích đã chọn), chính niệm (ghi nhớ
những điều hay lẽ phải), chính định (tập trung tư tưởng vào một điều chính đáng). Chung quy, bát chính
đạo là suy nghĩ, nói năng, hành động đúng đắn… ; nhưng về thực chất, thực hành bát chính đạo là khắc
phục tam độc bằng cách thực hiện tam học (giới, định, tuệ). Trong đó, tham được khắc phục bằng giới
(chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh); sân được khắc phục bằng định (chính tinh tấn, chính niệm, chính
định); si được khắc phục bằng tuệ (chính kiến, chính tư duy).
Ngoài ra, Phật giáo còn khuyên chúng sinh thực hành Ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói dối, không ẩm tửu); rèn luyện Tứ đẳng (từ, bi, hỉ, xa)… Phật giáo phản đối chế
độ đẳng cấp, tố cáo xã hội bất công, đòi bình đẳng công bằng xã hội, khuyên chúng sinh luôn suy nghĩ về
điều thiện và làm điều thiện…
Như vậy, dù nhân sinh quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính nhân bản sâu sắc; nhưng, nó cũng
chứa đầy tính chất duy tâm chủ quan thể hiện qua các quan niệm bi quan yếm thế, không tưởng về đời
sống xã hội, và thần bí về đời sống con người.
8.2. Những giá trị và hạn chế của triết học Phật Giáo:
12
8.2.1. Giá trị của triết học Phật Giáo
Hơn tất cả các học thuyết khác của Phương Đông, Phật giáo chú ý đến mặt phát triển tự nhiên của
con người, đó là sinh, lão, bệnh, tử. Bốn chặng đó của cuộc đời phản ánh sự phát triển tất yếu của cơ thể
con người, mà nếu ai đó nhận thức được thì sẽ không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời, thậm chí còn
bình thản, lạc quan trước cái chết.
Phật giáo đề cập đến vấn đề ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành, thức là những vấn đề có ý nghĩa nhận
thức luận sâu sa. Tuy đối tượng của nhận thức đó là tâm và tính chất là duy tâm nhưng ở trong quá trình
ngũ uẩn chứa đựng một quá trình nhận thức gồm các bước hợp lý: từ sự vật khách quan (sắc), con người

cảm thụ được (thụ), suy nghĩ (tưởng), rồi đem thực hiện (hành) và cuối cùng là hiểu biết (thức). Ở đây,
nếu bóc cái vô thần bi ra, ta thấy có những hạt nhân hợp lý.
Quan điểm biện chứng của Phật Giáo là " vô thường ", " vô ngã ". Ở đó cho thấy Phật giáo nhìn sự
vật trong sự vận động và biến đổi liên tục, không có gì là trụ lại mãi mãi, không có ai là tồn tại mãi mãi.
Tuy nhận thức đó chỉ thấy được cái biến đổi mà không thấy được cái ổn định tương đối, chỉ thấy được cái
vận động mà không thấy được cái hình thức của vận động, tuy dễ đi tới chiều hướng bi quan và thái độ
buông xuôi, nhưng mặt khác phải thấy nhận thức như vậy là có chiều sâu, là thấy được một phương diện
cơ bản của phát triển sự vật.
Phật giáo đề cập đến thuyết nhân duyên, đến mối quan hệ nhân quả, đến việc xét sự vật phải từ kết
quả tìm ra nguyên nhân và xem kết quả này là nguyên nhân của kết quả khác trong mối quan hệ khác.
Phật giáo đề ra tư tưởng từ bi bác ái, chủ trương hỉ xả cứu khổ cứu nạn là những tư tưởng gây được
xúc động lòng người và đã trở thành một trong những nguồn gốc của lòng thương người, của chủ nghĩa
nhân đạo. Tuy ở đó có nội dung báo ứng, có tư tưởng nhẫn nhục chịu đựng và không phân biệt bạn thù,
song việc làm do tác động của tư tưởng trên biểu hiện một sự quan tâm đến con người, cứu vớt con người.
8.2.2. Hạn chế của Phật Giáo
Phật giáo chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con người, chỉ thấy con người nói chung
mà không thấy con người thuộc các giai cấp đối kháng nhau trong xã hội trước đây, không thừa nhận sự
đấu tranh giai cấp trong xã hội. Do đó, không thấy được nguyên nhân xã hội đưa đến sự khổ ải của con
người, không thấy được sự cần thiết phải đấu tranh chống áp bức, bóc lột vì thế quan niện từ bi, bác ái
trong một số trường hợp bất lợi cho sự đấu tranh giải phóng giai cấp, chống áp bức.
Phật giáo không bàn tới lĩnh vực chính trị, vì thế mỗi khi nhà sư bước sang lĩnh vực chính trị - xã
hội, họ phải sử dụng các tư tưởng của nhà Nho hay Lão - trang. Nhà sư Viên Thông cho rằng: "Lòng dân
là gốc trị loạn", trong đó "lòng dân" là khái niệm và tư trưởng của nhà nho; hoặc nhà sư Đỗ Pháp Thuận
nói: "Vô vi cư diện các, xứ xứ tức đao binh" (nếu đường lối vô vi ngự trị trong triều đình, thì nơi nơi sẽ tắt
chiến tranh) trong đó " vô vi" là khái niệm của Lão - Trang, mặc dù khái niệm đó đã được giải thích theo
quan niệm nhà Phật.
Hạn chế lớn nhất của Phật giáo là quan điểm duy tâm thần bí. Quan điểm này khiến người ta không
hướng vào hiện thực, mà hướng vào nghiệp, vào quả báo, vào thần linh để mong được phù hộ, độ trì. Và
một khi tư duy như vậy thì không cần gì đến sự tìm tòi và khám phá, sáng tạo và hành động.
Câu 9.Nêu khái quát tư tưởng triết học của các trường phái - Đạo gia và Âm Dương- Ngũ Hành

gia.Nhận định các giá trị và hạn chế của những tư tưởng ấy
1. Sự ra đời và các đại diện tiêu biểu của Đạo gia
a) Nguồn gốc tư tưởng và sự ra đời:
13
Đạo gia là tên gọi với tư cách một trường phái triết học lớn, lấy tên của phạm trù “Đạo”, một phạm
trù trung tâm và nền tảng của nó. Nguồn gốc tư tưởng của Đạo gia xuất phát từ những quan điểm về vũ trụ
luận, thiên địa, ngũ hành, âm dương, Kinh Dịch…
Đạo gia ra đời và phát triển rực rỡ từ cuối thời Xuân Thu đến cuối thời Chiến Quốc và sau đó có tác
động ảnh hưởng to lớn đến nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, triết học, văn chương, nghệ thuật, âm
nhạc, y thuật, sinh học, hoá học, vũ thuật, địa lí… ở Trung Quốc và một số nước châu Á khác.
b) Người sáng lập và các đại diện tiêu biểu:
Ngoài Lão Tử là người sáng lập, thì Đạo gia còn có hai yếu nhân khác được thừa nhận và tôn vinh
muôn đời, đó là Dương Chu và Trang Tử. Trong đó vị trí của Trang Tử được sánh ngang với Lão Tử, nên
còn gọi là Đạo Lão – Trang.
Lão Tử (khoảng 580 – 500 TCN), sinh ra ở huyện Khổ, nước Sở, nay là Lộc Ấp, tỉnh Hà Nam. Tiểu
sử của ông còn gây nhiều tranh luận trong giới học thuật. Tương truyền, trước khi Lão Tử cưỡi trâu qua
nước Tần và biến mất, ông đã nghe lời Doãn Hy (người gác cửa ải phía tây Hàm Cốc) viết lại "Đạo Đức
Kinh", gồm 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức. Các học giả hiện đại đánh giá, đó
là một tập hợp những ngạn ngữ huyền bí, tối nghĩa, dường như muốn người đọc phải tự lí giải. Chính vì
vậy, về sau có hàng trăm bản dịch nghĩa cho bộ sách này.
Dương Chu (khoảng 440 – 360 TCN) là một đạo sĩ ẩn danh và bí hiểm. Theo luận giải, ông phải
sinh trước Mạnh Tử (372 - 289 TCN) và sau Mặc Tử (478 - 392 TCN). Tư tưởng của ông được diễn đạt
lại thông qua các tác phẩm của cả những người ủng hộ lẫn những người chống đối ông. Chủ thuyết của
ông là quý sự sống, trọng bản thân. Ông thường mượn chuyện Bá Thành Tử Cao không chịu mất một sợi
lông để làm lợi cho thiên hạ, nhằm trình bày tư tưởng của mình.
Trang Tử (365 – 290 TCN), tên thật là Trang Chu, tác giả bộ Nam Hoa kinh, là một trong hai bộ
kinh điển của Đạo gia. Bộ sách gồm ba phần, chứa 33 thiên. Trong đó, có nhiều điểm lấy từ Đạo Đức kinh
làm chủ đề, nhưng không phải bao giờ cũng đồng thuận. Một số nhà nghiên cứu sau này cho rằng phần
lớn nội dung tác phẩm Nam Hoa kinh là do các đệ tử của ông biên tập.
2. NHỮNG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA ĐẠO GIA

Quan điểm triết học của Đạo gia tuy hết sức phong phú, đa dạng, song tựu trung lại không đi sâu
vào giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo cách lý giải của truyền thống triết học phương Tây, mà tập
trung vào vấn đề con người trong mối tương quan và thống nhất với tự nhiên, trực giác tâm linh và phi lý
tính. Nó được thể hiện qua các tác phẩm “Đạo Đức kinh” của Lão Tử, “Nam Hoa kinh” của Trang Tử và
một số tư tưởng của Dương Du được ghi chép tản mạn trong các sách “Mạnh Tử”, “Nam Hoa kinh”, “Hàn
Phi Tử”, “Lã Thị Xuân Thu”, “Liệt tử”…
Mặc dù cả Lão Tử, Dương Chu và Trang Tử đều có những luận điểm khác nhau, đặc biệt là giữa
Dương Chu và Trang Tử, song về cơ bản, những tư tưởng triết học chính yếu của phái Đạo gia đều thống
nhất trên nên tảng các quan điểm về Đạo, tư tưởng biện chứng và quan điểm “vô vi”. Dưới đây xin trình
bày khái quát về ba quan điểm triết học cơ bản đó.
2.1. Quan điểm về “ĐẠO” hay vấn đề bản thể luận:
“Đạo” là một danh từ triết học đã được người Trung Hoa dùng từ thời thượng cổ, nhưng chỉ đạt
được tầm quan trọng đặc biệt và trở nên phổ biến nhờ bộ Đạo Đức kinh của Lão Tử. Theo tiếng Hán cổ,
Đạo có nghĩa là "con đường", "phương tiện", "nguyên lý"…
Còn “Đạo mà ta có thể nói đến được, không phải là Đạo thường còn. Danh mà ta có thể gọi được,
không phải là Danh thật sự. Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật” (Đạo khả đạo, phi
thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh. Vô danh thiên địa chi thuỷ, hữu danh vạn vật chi mẫu –
Đạo Đức kinh)”. Bởi vì: “Đạo chẳng có thể nghe được, nghe được không còn phải là nó. Đạo cũng chẳng
14
có thể thấy được, thấy được không còn phải là nó nữa.Có thể nào lấy trí mà hiểu được cái hình dung của
cái không hình dung được chăng? Vậy thì không nên đặt tên cho đạo” (Nam Hoa kinh).
Khái niệm Đạo được xem là siêu việt, vượt lên trên mọi khái niệm, vì nó là cơ sở của tồn tại và phi
tồn tại, ta không thể luận đàm, định nghĩa được. Đạo sinh ra âm dương và nhờ sự chuyển động của âm
dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng. “Vạn vật trong trời đất sanh từ hữu, hữu sanh từ vô.
Hữu vô đều từ thiên đạo” (Đạo Đức kinh).
Xét về mặt bản thể luận, “đạo” được trình bày dưới ba dạng thức: Thể, Tướng, Dụng. Nhưng nó
không đồng nhất với phạm trù “bản thể” của triết học phương Tây.
2.1.1. Thể của Đạo:
Chỉ nguồn gốc, nguyên lý tối sơ, tối hậu, cái tuyệt đối của vũ trụ vạn vật, cả tồn tại lẫn không tồn tại,
cả hữu hình lẫn vô hình, cả cái tĩnh lặng và cái biến đổi, cả cái đậm đặc và cái trống rỗng. Nó là “đạo

huyền”, “đại đạo”, “đạo thường”, “một”, “cốc thần”, “thái cực” và đồng nhất với “đạo” nói chung, có sức
sáng tạo vô lượng vô biên: “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật”…
Thể của Đạo là vô thủy vô chung: “Ta không biết Đạo con ai mà hình hiện ra ngoài trước cả tiên đế”
(Lão Tử, Đạo Đức kinh). “Đạo tự bản tự căn, vốn tồn tại như xưa, khi chưa có trời đất, làm thiêng liêng
quỷ thần, Thượng đế, sinh ra trời đất, ở trước thái cực mà chẳng là cao, ở dưới lục cực mà chẳng là sâu.
Sinh trước trời đất mà chẳng là lâu, dài hơn thượng cổ mà chẳng là già” (Nam Hoa kinh, Đại tông sư).
Đạo sinh ra vạn vật, là “mẹ” của muôn loài, làm chủ trời đất một cách tự nhiên, không ý chí, không mục
đích, nên cũng không tự cho vạn vật là của mình. Nhờ đó mà trời đất vạn vật phó mặc tự nhiên, cứ sinh
sinh hóa hóa không ngừng…
2.1.2. Tướng của Đạo:
Nhằm ngụ ý đến hình dáng, trạng thái của Đạo. Nó không có một thuộc tính quy định nào ngoài vẻ
tự nhiên chất phác, sâu thẳm, mập mờ, thấp thoáng, trống rỗng, huyền diệu, nhìn không thấy, nghe không
được, không nắm được, không nếm được, không ngửi được, không sáng, không tối… “Thoắt lặng không
hình, biến hóa không thường ” (Trang Tử, Nam Hoa kinh, Thiên hạ). Nói chung, Đạo không thể cảm
giác, không thể diễn tả dưới bất cứ hình thức nào.
2.1.3. Dụng của Đạo:
Nhằm nói đến công dụng và năng lực của Đạo. Đó là trạng thái vận động, biến đổi, sản sinh, nuôi
dưỡng và “huyền đồng”, làm cho vạn vật hiện ra muôn hình vạn trạn, vô cùng, vô tận… theo trật tự của
Đạo. Đạo làm cái không làm, săn sóc cái không việc, không làm mà như đã làm, đã làm mà như không
làm…
2.2. Quan điểm vô vi về chính trị xã hội
“Vô vi”, theo Đạo gia, không có nghĩa là không làm gì, không có hoạt động gì, mà là phải tiến hành
các hoạt động một cách tự nhiên, thuần phác; không làm trái với Đạo, không cố gắng hoạt động mang tính
giả tạo, gượng ép, thái quá, bất cập… Bởi vì “Đạo đức là cái luật tự nhiên, không cần tranh mà thắng,
không cần nói mà ứng nghiệm, không cần mời mà các vật vẫn theo về, lờ mờ mà hay mưu tính”
Như vậy, “vô vi” nghĩa là không làm mất cái đức tự nhiên, thuần phác vốn có của sự vật. Nếu để
mất nó, tức là ham muốn, dục vọng… thì sẽ chuốc lấy tai họa. Về mặt chính trị - xã hội, Đạo gia chủ
trương đường lối trị quốc theo đạo “vô vi”, chống lại chủ trương “hữu vi” cùng mọi chuẩn mực đạo đức
và thể chế pháp luật, vì coi đó là sự áp đặt, cưỡng chế, can thiệp vào bản tính tự nhiên của con người. Nó
là nguyên nhân gây ra điều ác và bất ổn: “Nước nào chính sự lờ mờ thì dân thuần thục, nước nào chính sự

rành rọt thì dân lao đao”; “Thiên hạ nhiều kỵ húy thì dân càng nghèo, dân nhiều khí giới nhà nước càng
loạn, người nhiều tài khéo vật xảo càng thêm, pháp luật càng tăng trộm cướp càng nhiều” (Đạo đức kinh,
chương 57).
15
Lão Tử lên án mạnh mẽ giai cấp thống trị đương thời và ông gọi giới quý tộc thống trị là bọn ăn bám
và đàn áp, gây ra mọi ham muốn và dục vọng nơi dân chúng. Bọn họ chẳng “vô vi”.
Ngược lại: “Ta vô vi mà dân tự hóa. Ta vô tình mà dân tự chính. Ta vô dự mà dân tự giàu. Ta vô dục
mà dân chất phác” (sđd, chương 57). Do đó, cần phải xóa bỏ mọi lễ giáo, pháp luật, văn hóa, kỹ thuật,
nghệ thuật… Nói chung, bỏ tất cả những gì do con người sáng tạo ra trái với bản tính tự nhiên thuần phác.
Tư tưởng “vô vi” chủ trương thực hiện triệt để chính sách ngu dân, “không làm cho dân sáng mà
làm cho dân ngu” (sđd, chương 65); “Trí tuệ sinh thì có đại ngụy” (sđd, chương 18). Bởi hiểu biết càng
nhiều thì trí xảo càng nhiều, trí xảo càng nhiều thì ham muốn càng nhiều, càng muốn tranh đoạt và xâm
phạm lẫn nhau, làm trái với đạo tự nhiên. Con người càng “theo học thì càng phiền phức, mà theo đạo thì
ngày càng bớt, bớt rồi thì lại bớt, bớt đến mức vô vi” (sđd, chương 48). Cũng như: “Không chuộng hiền
khiến dân không tranh, không trọng vật nên dân không trộm cướp, không thấy vật đáng ham khiến lòng
dân khỏi loạn. Cho nên lối trị dân của bậc thánh nhân là làm cho dân lòng trống, bụng no, ý chí yếu,
xương cốt mạnh, thường khiến dân không biết, không muốn” (sđd, chương 3).
2.3. Một số tư tưởng biện chứng:
Quan điểm biện chứng của Đạo gia được thể hiện ngay trong tư tưởng về Đạo, nơi cội nguồn của
mối liên hệ phổ biến và sự vận động biến đổi của vũ trụ vạn vật, mà nguồn gốc là do các mối liên hệ, tác
động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập; cách thức là khi phát triển đến tột đỉnh rồi sẽ trở thành cái đối lập,
tương phản với chính nó; khuynh hướng của sự vận động biến đổi là sự trở về với Đạo.
Đặc biệt, thông qua tư tưởng biện chứng đó, Đạo gia đã khái quát thành hai quy luật căn bản chi
phối toàn bộ vũ trụ vạn vật, đó là luật quân bình và luật phản phục.
2.3.1. Luật quân bình (luật bù trừ):
Bắt nguồn từ tư tưởng Dịch học (quẻ Thái), nói về thế cân bằng, trung dung trong trời đất; là trạng
thái trời đất giao hòa, muôn vật hanh thông, vũ trụ vạn vật vận động biến đổi theo một trật tự điều hòa, tự
nhiên, không có gì thái quá hay bất cập, “gãy thì liền, cong thì thẳng, trống thì đầy, cũ thì mới, ít thì được,
nhiều thì mất” (Lão Tử, Đạo đức kinh, chương 22); “Đạo của trời bớt chỗ dư bù chỗ thiếu” (sđd, chương
42); “Một âm một dương”; “rắn thì nát, nhọn thì nhụt” (Trang Tử, Nam Hoa kinh).

Thế quân bình của Đạo được ví như nước, mềm mại và linh hoạt, làm bằng phẳng tất cả. Nước ở
chỗ thấp, là nơi chỗ cao đổ về, là “nơi thiên hạ họp về”, như biển mênh mông rộng lớn, không gì không
thể chứa đựng. “Trong thiên hạ không có gì mềm yếu hơn nước, mà công phá vật rắn mạnh thì không gì
hơn được nó, không lấy gì thay thế được nó” (Lão Tử, Đạo đức kinh, chương 78).
Nếu vi phạm luật quân bình, phá vỡ trạng thái vận động cân bằng của vũ trụ, thì vạn vật sẽ rối loạn,
trì trệ và có nguy cơ bị phá hoại, chẳng khác nào “nhón gót lên thì không đứng vững, xoạc chân ra thì
không bước được…”.
2.3.2. Luật phản phục:
Quan niệm cái gì phát triển đến tột đỉnh thì tất sẽ trở thành cái đối lập với chính nó; sự vật khi phát
triển đến cực điểm các tính chất của nó thì những tính chất ấy sẽ đi ngược lại để trở thành tính chất tương
phản. Điều đó cần phải hiểu theo hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất, phản phục là sự vận động, biến hóa có tính chất tuần hoàn, đều đặn, nhịp nhàng và
tự nhiên của vạn vật, như hết ngày đến đêm, hết đêm sang ngày, trăng tròn lại khuyết, trăng khuyết lại
tròn… Vạn vật cứ mập mờ, thấp thoáng, khi đầy khi vơi, lúc sinh lúc tử… Đó là vòng biến đổi tuần hoàn
bất tận.
Nghĩa thứ hai, phản phục là sự vận động trở về với Đạo (“phản giả đạo chi động”), “đến chỗ cùng
cực hư không là giữ vững được trong cái tĩnh. Vạn vật cùng đều sinh ra, ta lại thấy nó trở về với gốc. Ôi!
Mọi vật đều trùng trùng trở về với cội rễ của nó. Trở về với cội rễ gọi là tĩnh, thế gọi là quay về với mạng”
(Đạo đức kinh, chương 16). Sự trở về với Đạo của vạn vật chính là sự trở về với trạng thái tự nhiên,
16
nguyên sơ, tĩnh lặng, trống rỗng… Đó là tất yếu và không thể cưỡng lại. “Đạo pháp tự nhiên” là vậy. Mọi
sự can thiệp vào Đạo – luật tự nhiên – nhất định sẽ thất bại.
3. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
Những tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia tuy đã được xây dựng cách đây hơn hai ngàn năm, và
tất nhiên có không ít hạn chế, nhưng đến nay vẫn còn ý nghĩa thiết thực về mặt phương pháp luận, gợi mở
cho chúng ta nhiều điều cả trong hoạt động nhận thức lẫn trong hoạt động thực tiễn.
3.1. Trong hoạt động nhận thức:
Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia nêu trên đã cung cấp cho chúng ta một số hạt nhân
hợp lý về sự tồn tại, vận động và biến đổi không ngừng của thế giới khách quan, độc lập với ý thức con
người. Thế giới ấy thống nhất trong đa dạng và phong phú, thể hiện ra muôn hình vạn trạng, với các mặt

đối lập và vô vàn các mối liên hệ. Thế giới ấy không do ai sáng tạo ra hoặc chi phối nó dưới bất kỳ hình
thức nào, mà tự sinh thành và hoạt động theo những quy luật tự nhiên vốn có.
Do đó, trong hoạt động nhận thức, con người cần tránh lối tư duy gán ghép, máy móc, siêu hình, áp
đặt chủ quan đối với mọi sự vật hiện tượng tự nhiên… Mà phải nhận thức cái khách quan, cái bản tính tự
nhiên thuân phác, vốn có của nó.
Đồng thời, thông qua luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đã cung cấp nhân sinh quan
và nghệ thuật sống mang tính nhân văn sâu sắc, có tác dụng an ủi con người hài lòng và hạnh phúc với
những gì mình có trong cuộc sống, không nên ham muốn, mơ tưởng hão huyền.
Mặc dù quan điểm “vô vi” về chính trị - xã hội của Đạo gia mong muốn quay ngược bánh xe lịch sử
trở về chế độ công xã nguyên thủy ở giai đoạn cuối, nhưng đã hé lộ cho chúng ta những khát vọng chân
chính về một xã hội công bằng, bình đẳng, xóa bỏ mọi bất công, áp bức, bóc lột, không còn chế độ tư hữu
và nhà nước, con người được sống tự do… Nó khiến chúng ta liên tưởng tới và rất có thể là nguồn gốc
lịch sử gián tiếp cho những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng ở Tây Âu sau này.
Với ý nghĩa đó, nếu chúng ta biết rút ra bài học từ những hạt nhân tư tưởng tích cực và tiến bộ, thì
nó sẽ cung cấp cho chúng ta những cơ sở quan trọng để xây dựng và phát triển quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; chống lại chủ nghĩa duy tâm, quan điểm siêu hình… Ngược lại, nếu nhìn về
những mặt hạn chế, nó sẽ dẫn chúng ta đến với chủ nghĩa duy tâm thần bí về “đạo”, tư tưởng biện chứng
tuần hoàn thô thiển, chủ nghĩa khách quan tuyệt đối, thuyết bất khả tri…
3.2. Trong hoạt động thực tiễn:
Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia đã góp phần chỉ ra cho chúng ta, trong hoạt động
thực tiễn, con người cần phải tôn trọng quy luật khách quan, nắm vững và vận dụng phù hợp các quy luật
tự nhiên vào cuộc sống, nếu không sẽ phải trả giá và chuốc lấy hậu quả khôn lường, như Lão Tử cảnh báo:
“Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt” (Đạo đức kinh, chương 73).
Đặc biệt, Đạo gia yêu cầu trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải “thuận theo tự nhiên”,
không được làm trái quy luật tự nhiên, không được cải tạo tự nhiên theo những toan tính lợi ích tầm
thường của mình. Điều này có tính thời sự đặc biệt và sâu sắc trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu
hiện nay, với thiên tai và dịch bệnh luôn đe dọa nghiêm trọng, cộng thêm những bất ổn về chính trị - xã
hội, một hệ lụy trực tiếp từ quá trình con người “nhân tạo hóa thiên nhiên”, tạo dựng một nền “văn minh”
không tương thích với bản tính tự nhiên của vũ trụ vạn vật.
Đồng thời, trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải biết quý trọng mọi sự sống nói chung, gắn

với quý trọng môi trường tự nhiên, không được tàn sát sinh vật và hủy hoại môi trường một cách tùy tiện.
Bên cạnh đó, với việc chỉ ra luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đòi hỏi con người
cần tránh mọi cực đoan, thái quá, nóng vội, chủ quan duy ý chí… Mà phải luôn luôn tạo dựng sự cân
bằng, hợp lý, tự nhiên; khách quan nhưng không ỷ lại, thụ động trước các điều kiện khách quan, không
nên “cầm đèn chạy trước ô tô”…
17
Đạo gia còn dạy con người phải biết sống khiêm tốn, giản dị, mà vẫn ung dung, tự tại, không lo sợ,
không đau buồn… trước mọi biến động xảy ra trong đời; không tham lam, vụ lợi, giả dối; không đấu
tranh, giành giật; không đua đòi, bon chen, đố kỵ… Mà cần phải sống hòa nhã, trung dung, ngay thẳng, tự
nhiên thuần phác, “thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi”…
Tuy nhiên, nếu xét ngược lại, với những mặt tiêu cực và hạn chế, thì Đạo gia chủ trương con người
không nên tăng cường các hoạt động sáng tạo, không cần mở mang trí tuệ, chấm dứt cải tạo tự nhiên và
cải tạo xã hội, mà quay về sống như thời nguyên thủy, đúng với bản tính tự nhiên thuần phác của một loài
động vật bậc cao được sinh ra từ “đạo”… phủ nhận mọi hoạt động thực tiễn của con người.
Ngày nay, mặc dù tồn tại xã hội và ý thức xã hội đã thay đổi vượt bậc, song những tư tưởng triết học
của Đạo gia vẫn có sức sống và tác động đáng kể đối với đời sống con người, đặc biệt ở những nước vốn
chịu sự ảnh hưởng truyền thống của nó
ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH GIA
Âm Dương và Ngũ hành là hai phạm trù quan trọng trong tư tưởng triết học Trung Hoa, là những
khái niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa đối với sự sản sinh biến hóa của vũ trụ. Việc sử dụng hai
phạm trù Âm - Dương và Ngũ hành đánh dấu bước tiến bộ tư duy khoa học đầu tiên nhằm thoát khỏi sự
khống chế về tư tưởng do các khái niệm Thượng đế, Quỷ thần truyền thống đem lại. Đó là cội nguồn của
quan điểm duy vật và biện chứng trong tư tưởng triết học của người Trung Hoa.
- Tư tưởng triết học về Âm - Dương
"Dương" nguyên nghĩa là ánh sáng mặt trời hay những gì thuộc về ánh sáng mặt trời và ánh sáng;
"Âm" có nghĩa là thiếu ánh sáng mặt trời, tức là bóng râm hay bóng tối. Về sau, Âm - Dương được coi
như hai khí; hai nguyên lý hay hai thế lực vũ trụ: biểu thị cho giống đực, hoạt động, hơi nóng, ánh sáng,
khôn ngoan, rắn rỏi, v.v. tức là Dương; giống cái, thụ động, khí lạnh, bóng tối, ẩm ướt, mềm mỏng, v.v.
tức là Âm. Chính do sự tác động qua lại giữa chúng mà sinh ra mọi sự vật, hiện tượng trong trời đất.
Trong Kinh Dịch sau này có bổ sung thêm lịch trình biến hóa của vũ trụ có khởi điểm là Thái cực. Từ

Thái cực mà sinh ra Lưỡng nghi (âm dương), rồi Tứ tượng, rồi Bát quái. Vậy, nguồn gốc vũ trụ là Thái
cực, chứ không phải Âm Dương. Đa số học giả đời sau cho Thái cực là thứ khí "Tiên Thiên", trong đó
tiềm phục hai nguyên tố ngược nhau về tính chất là Âm - Dương. Đây là một quan niệm tiến bộ so với
quan niệm Thượng đế làm chủ vũ trụ của các đời trước.
Hai thế lực Âm - Dương không tồn tại biệt lập mà thống nhất, chế ước lẫn nhau theo các nguyên lý
sau:
- Âm - Dương thống nhất thành thái cực. Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn, tính chỉnh thể, cân
bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và biến
đổi.
- Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến đổi Âm - Dương
đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
Các nguyên lý trên được khái quát bằng vòng tròn khép kín, có hai hình đen trắng tượng trưng cho
Âm Dương, hai hình này tuy cách biệt hẳn nhau, đối lập nhau nhưng ôm lấy nhau, xoắn lấy nhau.
- Tư tưởng triết học về Ngũ hành
Từ "Ngũ hành" được dịch là năm yếu tố. Nhưng ta không nên coi chúng là những yếu tố tĩnh mà nên
coi là năm thế lực động có ảnh hưởng đến nhau. Từ "Hành" có nghĩa là "làm", "hoạt động", cho nên từ
"Ngũ hành" theo nghĩa đen là năm hoạt động, hay năm tác nhân. Người ta cũng gọi là "ngũ đức" có nghĩa
là năm thế lực. "Thứ nhất là Thủy, hai là Hỏa, ba là Mộc, bốn là Kim, năm là Thổ.
Cuối Tây Chu, xuất hiện thuyết Ngũ hành đan xen. Ngũ hành được dùng để giải thích sự sinh trưởng
của vạn vật trong vũ trụ. "Thổ mộc hỏa đan xen thành ra trăm vật", "hoà hợp thì sinh ra vật, đồng nhất thì
18
không tiếp nối" (Quốc ngữ - trịnh ngữ). Tức là nói những vật giống nhau thì không thể kết hợp thành vật
mới, chỉ có những vật có tính chất khác nhau mới có thể hóa sinh thành vật mới. Tiếp theo là thuyết Ngũ
hành tương thắng, rồi xuất hiện thuyết Ngũ hành tương sinh đã bổ khuyết chỗ chưa đầy đủ của thuyết Ngũ
hành đan xen.
Tư tưởng Ngũ hành đến thời Chiến Quốc đã phát triển thành một thuyết tương đối hoàn chỉnh là
"Ngũ hành sinh thắng". "Sinh" có nghĩa là dựa vào nhau mà tồn tại, thắng có nghĩa là đối lập lẫn nhau.
Như vậy, tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng phân tích cấu trúc của vạn vật và quy nó về
những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau, nhưng tương tác với nhau.
Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng sinh - khắc với

nhau theo hai nguyên tắc sau:
+ Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa;
Hoả sinh Thổ, v.v
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim; Kim khắc Mộc;
và Mộc khắc Thổ, v.v
Thuyết Âm Dương và Ngũ hành được kết hợp làm một vào thời Chiến Quốc đại biểu lớn nhất là
Trâu Diễn. Ông đã dùng hệ thống lý luận Âm Dương Ngũ hành "tương sinh tương khắc" để giải thích mọi
vật trong trời đất và giữa nhân gian. Từ đó phát sinh ra quan điểm duy tâm Ngũ đức có trước có sau. Từ
thời Tần Hán về sau, các nhà thống trị có ý thức phát triển thuyết Âm Dương Ngũ hành, biến thành một
thứ thần học, chẳng hạn thuyết "thiên nhân cảm ứng" của Đổng Trọng Thư, hoặc "Phụng mệnh trời" của
các triều đại sau đời Hán.
2. Giá trị và hạn chế
Thuyết Âm dương ngũ hành đã đươc Đổng Trọng Thư kết hợp để giải thích các hiện tượng tự nhiên,
xã hội, con người. Theo ông, giữa con người và tự nhiên có một mối quan hệ thần bí. Khi giải đáp về khởi
nguồn, kết cấu của vũ trụ, ông đã sáng tạo ra một vị thần có nhân cách đứng trên cả vũ trụ, có ý thức và
đạo đức đó là trời. Theo ông, trong vũ trụ con người là sự sáng tạo đặc biệt của trò vượt lên vạn vật, tương
hợp với trời, trời có bốn mùa, con người có tứ chi. Từ thuyết "thiên nhân hợp nhất", ông đã dẫn dắt ra
mệnh đề "thiên nhân cảm ứng", cho rằng thiên tai là do trời cảnh cáo loài người. Ông còn lợi dụng quan
điểm định mệnh trong học thuyết âm dương ngũ hành để nói rằng "dương thiên, âm ác". Tuy Đổng Trọng
Thư đưa ra phạm trù "khí", "âm dương", "ngũ hành" để giải thích quy luật biến hóa của thế giới, song ông
lại cho rằng những thử khí ấy bi ý chí của thượng đế chi phối. Triết học của ông có màu sắc mục đích luận
rõ nét. Bên cạnh đó ông còn nói trời không đổi, đạo cũng không đổi để phủ nhận sự phát triển và biến hóa
của thế giới khách quan.
Tác phẩm "Hoàng Đế Nội kinh" đã sử dụng triết học âm dương ngũ hành làm hệ thống lý luận của y
học. Tác phẩm này đã dùng học thuyết trên để giải thích mối quan hệ giữa con người với trời đất: coi con
người và hoàn cảnh là một khối thống nhất, con người chẳng qua là cơ năng của trời và đất thu nhỏ lại,
con người không thể tách rời giới tụ nhiên mà sinh sống được, con người với giới tự nhiên là tương ứng.
Tự nhiên có âm dương ngũ hành thì con người có "thủy hỏa" ngũ tạng. Nội kinh viết: "âm dương là quy
luật của trời đất tuy không thấy được nhưng chúng ta có thể hiểu được nó thông qua sự biểu hiện của thủy
hỏa khí huyết, trong đó hỏa khí thuộc dương, thủy huyết thuộc âm". Tác phẩm này còn dùng các quy luật

âm dương ngũ hành để giải thích mối quan hệ giữa các phú tạng trong cơ thể. Tác phẩm đã vãn dụng sự
kết hợp giữa học thuyết âm dương với học thuyết ngũ hãnh để giải thích các hiện tượng tự nhiên cũng như
các biểu hiện trong cơ thể con người và mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Đây là một quan điểm
hoàn chỉnh và là một điển hình của phép biện chứng thô sơ.
19
Học thuyết âm dương đã nói rõ sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan với hai mặt đối
lập thống nhất đó là âm dương. Âm dương là quy luật chung của vũ trụ, là kỉ cương của vạn vật, là khởi
đầu của sự sinh trưởng, biến hóa. Nhưng nó sẽ gặp khó khăn khi lý giải sự biến hóa, phức tạp của vật chất.
Khi đó nó phải dùng thuyết ngũ hành để giải thích. Vì vậy có kết hợp học thuyết âm dương với học thuyết
ngũ hành mới có thể giải thích mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội một cách hợp lý.
Hai học thuyết này luôn luôn phối hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau, không thể tách rời. Muốn nhìn
nhận con người một cách chỉnh thể, đòi hỏi phải vận dụng kết hợp cả hai học thuyết âm dương và ngũ
hành. Vì học thuyết âm dương mang tính tổng hợp có thể nói lên được tính đối lập thống nhất, tính thiên
lệch và cân bằng của các bộ phận trong cơ thể con người, còn học thuyết ngũ hành nói lên mối quan hệ
phức tạp, nhiều vẻ giữa các yếu tố, các bộ phận của cơ thể con người và giữa con người với tự nhiên. Có
thể khẳng định, trên cơ bản, âm dương ngũ hành là một khâu hoàn chỉnh, giữa âm dương và ngũ hành có
mối quan hệ không thể tách rời.
Âm dương ngũ hành là những phạm trù cơ bản trong tư tưởng của người Trung Quốc cổ đại. Đó
cũng là những khái niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa để giải thích sụ sinh thành, biến hóa của vũ
trụ. Đến thời Chiến quốc, học thuyết âm dương ngũ hành đã phát triển đến một trình độ khá cao và trở
thành phổ biến trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên. Song học thuyết âm dương ngũ hành cũng như các
học thuyết triết học Trung Quốc cổ đại là thế giới quan của người Trung Hoa ở vào một thời kỳ lịch sử đã
lùi vào dĩ vãng, lúc đó lực lượng sản xuất và khoa học còn ở trình độ thấp, cho nên không khỏi có những
hạn chế do những điều kiện lịch sử đương thời quy định Đặc biệt, sự phát triển của nó chưa gắn với những
thành tựu của khoa học tự nhiên cận hiện đại, nó còn mang dấu ấn của tính trực giác và tính kinh nghiệm.
Song học thuyết đó đã trang bị cho con người tư tưởng duy vật khá sâu sắc và độc đáo nên đã trở thành lý
luận cho một số ngành khoa học cụ thể.
20
Câu 10. Nêu khái quát tư tưởng triết học của các trường phái Samkhuya, Mimansa, Lokayta và
nhận định các giá trị,hạn chế của các trường phái đó

1.Đặt vấn đề
Trong thời kì cổ đại, CNDV đã thu được nhiều thành tựu giúp xác lập chỗ đứng và tạo nên
nền tảng vững chắc là cơ sở cho sự phát triển của CNDV những giai đoạn sau. Xuất phát từ sự
quan sát thực tế, CNDV thời kì cổ đại đã đưa ra nhiều quan điểm đúng đắn nhưng mang tính ngây
thơ, chất phác. Trong thời kì cổ đại ở phương Đông nổi lên có triết học Ấn Độ và Trung Quốc.
2.Nội dung
Ở Ấn Độ những yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị và khoa học…là những cơ sở cho sự phát
sinh và phát triển của những tư tưởng triết học. Mặc dù xuất hiện từ rất sớm nhưng triết học Ấn
Độ chỉ thực sự xuất hiện vào cuối giai đoạn Vesda với những thành tựu nổi bật là sự ra đời của 9
trường phái triết học
Triết học có 9 phái: 6 phái chính thống & 3 tà giáo.
+ 6 phái chính thống
Samkhya, Vaisesika, Nyaya,
Yoga, Mymansa, Vedanta.
+ 3 phái tà giáo
Lokayata, Buddhism, Jaina.
A. Trường phái Samkhya (Số luận)
Trường phái Samkhya bắt nguồn từ tư tưởng triết học ở nhiều tác phẩm rất cổ xưa. Lý luận
về bản nguyên vũ trụ là tư tưởng triết học trung tâm của trường phái này.
Ưu điểm: Những nhà tư tưởng của phái Samkhya sơ kỳ đã bộc lộ những tư tưởng có tính
duy vật và ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Họ đưa ra học thuyết về sự tồn tại của kết
quả trong nguyên nhân trước khi nó xuất hiện và học thuyết về sự chuyển hóa thực tế của nguyên
nhân trong kết quả. Họ cho rằng loại nào có nguyên nhân của loại ấy với luận điểm nổi tiếng "
Trồng Sali được Sali, trồng Vrihi được Vrihi". Từ đó, trong quan niệm về sự hình thành sự vật, họ
cho rằng nếu vạn vật của thế giới này là vật chất thì yếu tố tạo nên vạn vật với tính cách là nguyên
nhân cũng phải là vật chất; đó là "vật chất đầu tiên"(Prakriti) - một dạng vật chất không thể dùng
cảm giác mà có thể biết được. Thế giới vật chất là thể thống nhất của ba yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng,
vui tươi); Rajas (kích thích, động); Tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố trên ở trạng thái cân bằng thì
Prakriti ở trạng thái chưa biểu hiện - tức là trạng thái không thể trực quan được. Nhưng khi sự cân
bằng bị phá vỡ thì đó là điểm khởi đầu của sự sinh thành vạn vật của vũ trụ.

Trái lại, các nhà tư tưởng của phái Samkhya hậu kỳ lại có khuynh hướng nhị nguyên luận
khi thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là vật chất (Prakriti) và tinh thần
(Purusa). Yếu tố tinh thần (Purusa) mang tính phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó truyền sinh khí,
năng lượng và biến hóa vào yếu tố vật chất. ở con người, khi tinh thần chiếu rọi vào Sattva thì
sinh ra trí tuệ; khi tinh thần chiếu rọi vào Rajas thì sinh ra vận động; khi tinh thần chiếu rọi vào
Tamas thì sinh ra hình thể.
Hạn chế: Về bản chất con người, phái Samkhya cho rằng con người có sự ý thức về mình.
Chính vì vậy mà họ nảy sinh ra những lo lắng, ham muốn và hành động để đạt đến cái "tôi". Do
21
đó tinh thần con người không thoát ra được, luôn bị chìm đắm trong vòng luân hồi, khổ não.
Muốn giải thoát, con người phải dùng phương pháp Yoga.
B. Trường phái Mimansa
Kinh điển của triết học Mimansa là "Mimansa - Sutra". Một đại biểu lớn của trường phái
này là Sabara, người viết chú giải cho "Mimansa - Sutra".
Các nhà triết học Mimansa dựa vào tư tưởng triết học - tôn giáo của Véđa, nhưng coi Véđa
như các tập công thức hay thần chú về nghi lễ. Mimansa sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của
thần. Theo Sabara thì chúng ta thiếu chứng cứ về sự tồn tại của thần và cảm giác không nhận thức
được thần. Nhưng cảm giác lại được coi là nguồn gốc của mọi tri thức khác. Phái Mimansa không
phản đối việc coi thần linh như cái tên hay âm thanh cần thiết cho các câu thần chú của nghi lễ.
Nghi lễ không phải là hành động khẩn cầu, sùng bái thần linh, mà nghi lễ tự nó có sức mạnh, có
thể đưa lại hiệu quả. Họ hiểu nghi lễ như một hành động ma thuật. Tuy nhiên, tinh thần duy vật và
vô thần của phái Mimansa không được tiếp tục phát triển. Những nhà triết học Mimansa hậu kỳ đã
thừa nhận sự tồn tại của thần.
Về nguồn gốc thế giới, phái Mimansa có quan điểm duy vật cho rằng thế giới được sinh ra
từ các nguyên tử (Anu)
Ưu điểm: Phái Mimansa coi đời người là khổ và vấn đề đặt ra là phải thoát khỏi nỗi khổ ấy.
Họ chủ trương thoát khổ bằng cách duy trì các nghi lễ, đặc biệt là lễ "Hiến sinh". Họ cho rằng cần
phải biết kết hợp lòng tin và kiến thức để đạt đến giải thoát. Có hai con đường để tạo kiến thức là
bằng giác quan và bằng suy luận.
Hạn chế: Khi giải quyết mối quan hệ giữa tinh thần với thể xác, họ lại đứng trên lập trường

duy tâm coi tinh thần tồn tại mãi mãi, còn thể xác thì mất đi.
C. Trường phái triết học Lokayata và phong trào tư do tư tưởng ở Đông Ấn
Đông ấn là vùng đồng bằng sông Hằng với điều kiện tự nhiên, khí hậu điều hòa, đất đai phì nhiêu,
màu mỡ thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, chăn nuôi, công, thương mại và kỹ nghệ tạo nên
những khu đô thị, những trung tâm kinh tế, buôn bán sầm uất trong nước cũng như giao lưu với
bên ngoài, hình thành những tầng lớp điền chủ, đại công thương làm chủ về kinh tế, về tư tưởng
và sinh hoạt xã hội. Trên cơ sở đó đã nảy sinh những tư tưởng triết học mới với những trường phái
triết học duy vật, vô thần. Họ cố gắng giải thích thế giới bằng các sự vật, hiện tượng của tự nhiên
như nước, lửa, không khí, đất , phủ nhận linh hồn bất tử và đưa ra các khái niệm, phạm trù của
triết học. Đặc biệt trong các trào lưu duy vật, vô thần, hoài nghi tôn giáo và thần linh ấy là trường
phái triết học duy vật Lokayata.
Trong học thuyết về tồn tại, phái Lokayata cho rằng tất cả mọi sự vật và hiện tượng trong vũ
trụ đều do bốn nguyên tố đất, nước, lửa và không khí cấu thành. Chúng có khả năng tự tồn tại, tự
vận động trong không gian để tạo thành vạn vật, kể cả con người. Tương ứng với bốn nguyên tố là
bốn nguyên tử đất, nước, lửa và không khí tồn tại ngay từ đầu, không thay đổi và không thể tiêu
diệt được. Mọi đặc tính của các vật thể đều phụ thuộc vào chỗ chúng là kết hợp của các nguyên tử
nào, vào số lượng và tỷ lệ kết hợp của các nguyên tử. ý thức, lý tính và các giác quan cũng xuất
hiện do sự kết hợp của các nguyên tử và sẽ mất đi khi sự kết hợp đó bị tan rã.
Ưu điểm: Về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, họ giải thích trên quan điểm duy vật thô
sơ, mộc mạc. Theo họ, ý thức là thuộc tính cố hữu của cơ thể; rời khỏi nhục thể thì người ta không
22
thể có ý thức. Khi con người chết đi, thể xác tan ra thì ý thức về "cái tôi" cũng hết.
Về đạo đức học, họ phê phán những thuyết tuyên truyền cho sự chấm dứt khổ đau bằng cách
kiềm chế mọi ham muốn, dục vọng và hy vọng cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia sau khi chết.
Họ chủ trương hãy để cho mọi người sống, hoạt động, hưởng thụ tất cả mọi thứ trong cuộc đời
nên đạo đức học của họ được gọi là "chủ nghĩa khoái lạc"
Hạn chế: Về nhận thức luận và lôgic học, phái Lokayata mang tính chất duy cảm, thừa nhận
cảm giác là nguồn gốc duy nhất xác thực của nhận thức. Chỉ có cái gì cảm giác biết được thì mới
tồn tại. Các giác quan có thể tri giác được sự vật bởi vì bản thân các giác quan cũng gồm các
nguyên tố giống như các sự vật. Theo họ, suy lý, kết luận hay những chứng minh của kinh Véđa

đều là những phương pháp sai lầm của nhận thức. Từ đó, họ phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế,
linh hồn.
3. Kết luận
Những thành tựu của chủ nghĩa duy vật ngây thơ, chất phác trong triết học Ấn Độ có ý nghĩa rất lớn
đến sự phát triển của chủ nghĩa duy vật nói chung và sự nhận thức của con người nói riêng về thế giới.
Những thành tựu này góp phần tạo thành bộ khung cơ bản nhất để mô tả thế giới. Những tư tưởng của các
nhà triết học phương Đông dù còn rất sơ khai nhưng bước đầu nó đã cho thấy quan hệ biện chứng trong tự
nhiên và mối quan hệ biện chứng trong xã hội.
CHƯƠNG II. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY TRƯỚC MAC
Câu 11. Phân tích sự khác nhau cơ bản giữa triết học phương Đông cổ đại (mà Ấn Độ và Trung
Quốc là đại biểu) và triết học phương Tây cổ đại( mà hy Lạp là đại biểu)
Thứ nhất, đó là Triết học phương Đông nhấn mạnh vào sự thống nhất trong mối quan hệ giữa con
người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân, là một nguyên tắc ‘thiên nhân hợp nhất’. Đối với phương
Tây lại nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người là chủ thể, là chúa tể để nghiên cứu chinh
phục vũ trụ - thế giới khách quan. Và cũng chính từ thế giới khách quan khác nhau dẫn đến hướng nghiên
cứu tiếp cận cũng khác nhau :
Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới dạng thuần túy mà thường đan
xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và phát
triển cho nên ít có những triết gia với những tác phẩm triết học độc lập. Và có những thời kỳ người ta đã
lầm tưởng triết học là khoa học của khoa học như triết học Trung Hoa đan xen với chính trị lý luận, còn
triết học Ấn Độ lại đan xen tôn giáo với nghệ thuật. Nói chung, ở phương Đông thì triết học thường ẩn
dấu đằng sau các khoa học.
Ở phương Tây, ngay từ thời kỳ đầu, triết học đã là một khoa học độc lập với các môn khoa học khác
mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng sau triết học. Và thời kỳ Trung cổ là điển hình : khoa học muốn
tồn tại phải khoác áo tôn giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận của giáo hội.
Thứ ba, lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy vọt về chất có tính vach ra ở các
thời điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Ở Ấn Độ, cũng như Trung Quốc, các trường phái
có từ thời cổ đại vẫn giữ nguyên tên gọi cho tời ngày nay (từ thế kỷ VIII – V trước công nguyên đến thế
kỷ 19).
Ngược lại, ở phương Tây lại có điểm khác biệt. Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh các truờng

phái cũ lại có những trường phái mới ra đời, có tính chất vạch thời đại như thời cổ đại bên cạnh trường
23
phái Talét, Hêraclit,… đến Đêmôcrit rồi thời đại khai sáng Pháp, CNDV ở Anh, Hà Lan, triết học cổ điển
Đức, v.v. Và hơn nữa, cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật mang tính chất quyết liệt, triệt để hơn.
Thứ tư, sự phân chia trường phái triết học cũng khác :
Ở phương Đông, đã xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm biện chứng, siêu hình không rõ
nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu vào những nội dung cụ thể thường là có mặt duy vật, sơ kỳ
là duy vật, hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới quan thiết nhất quán, thiếu triệt để của
triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội phương Đông cũng không mạch lạc như phương Tây.
Ngược lại, triết học phương Tây có sự phân chia các trường phái rõ nét hơn và các hình thức tồn tại
lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô sơ đến duy vật siêu hình rồi đến duy vật biện chứng.
Thứ năm, hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cũng khác so với triết học phương Tây ở 3
mảng :
- Về bản thể luận : phương Tây dùng thuật ngữ ‘giới tự nhiên’, ‘bản thể’, ‘vật chất’. Còn ở phương
Đông lại dùng thuật ngữ ‘thái cực’, đạo sắc, hình, vạn pháp,… hay ngũ hành : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ,
….để nói về bản chất của vũ trụ, đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ thì phương
Tây dùng phạm trù khách thể - chủ thể, con người với tự nhiên, vật chất và ý thức, tồn tại và tư duy. Còn
phương Đông ại dùng Tâm – vật, năng – sở, lí – khí, hình – thần. Trong đó, hình – thần là những phạm trù
xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất.
- Nói về tính chất, sự biến đổi của thế giới : phương Tây dùng thuật ngữ ‘biện chứng’ siêu hình,
thuộc tính, vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu tranh cái động là chính. Đối với phương Đông dùng thuật
ngữ động – tĩnh, biến dịch, vô thường, thường còn, vô ngã, và lấy cái thống nhất, lấy cái tĩnh làm gốc – là
vì phương Đông triết học được xây dựng trên quan điểm vũ trụ là một, phải mang tính nhịp điệu.
- Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì phương Tây dùng thuật ngữ
‘liên hệ’, ‘quan hệ’, ‘quy luật’. Còn phương Đông dùng thuật ngữ ‘đạo’, ‘lý’, ‘mệnh’, ‘thần’, cũng xuất
phát từ thế giới quan thiên nhân hợp nhất nên tất cả phải mang tính nhịp điệu, tính quy luật, tính xoắn ốc
của vũ trụ như thái cực đến lưỡng nghi Có nhịp điệu là hài hòa âm dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng lồ
các xoắn ốc…
Thứ sáu, tuy cả hai dùng triết học phương Đông và phương Tây đều nhằm giải quyết vấn đề cơ bản
của triết học nhưng phương Tây nghiêng nặng về giải quyết mặt thứ nhất, còn mặt thứ hai chỉ giải quyết

những vấn đề có liên quan. Ngược lại, ở phương Đông, nặng về giải quyết mặt thứ hai cho nên dẫn đến
hai phương pháp tư duy khác nhau.
Phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nên tư duy tất định – tư duy vật lý chính xác nhưng lại
không gói được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn phương Đông đi từ khái quát đến cụ thể bằng các ẩn dụ
triết học với những cấu cách ngôn, ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại hiểu cách nào cũng được, nó
gói được cả cái ngẫu nhiên mà ngày nay khoa học gọi là khoa học hỗn mang – dự báo.
Câu 12. Trình bày những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại. Trong đó đặc điểm nào
được coi là quan trọng nhất.? vì sao? Phân tích những nội dung chính của sự đối lập giữa đường lối
Đêmôcrit và “đường lối Platon”
Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
Quá trình lịch sử lâu dài với không ít những thăng trầm của vùng đất Hy Lạp cổ đại gắn liền với sự
phát triển kinh tế - xã hội và tư tưởng triết học của nó trong đó sự phân chia xã hội thành giai cấp , sự
24
phân công lao động xã hội thành lao động trí óc và lao động chân tay đã dẫn tới sự hình thành một đội ngũ
các nhà trí thức chuyên nghiệp chuyên nghiên cứu về khoa học, triết học.
Triết học Hy Lạp cổ đại xuất hiện vào lúc xã hội này đã phát triển lên chế độ chiếm hữu nô lệ với
hai giai cấp chủ yếu là chủ nô và nô lệ nên nó là hệ tư tưởng, là thế giới quan của giai cấp chủ nô thống trị,
đồng thời nó còn là công cụ bảo vệ, duy trì địa vị, quyền lợi của giai cấp chủ nô, là công cụ nô dịch, đàn
áp các giai cấp khác về mặt tư tưởng. Bên cạnh tính giai cấp rõ rệt đó, triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng,
đề cao vai trò của con người, coi con người là tinh hoa của tạo hoá. Do là một trong những nền triết học
mở đường trong lịch sử triết học nhân loại hơn nữa các quan niệm triết học được rút ra trên cơ sở suy luận,
suy đoán từ sự quan sát trực tiếp các sự kiện xảy ra trong tự nhiên, trong xã hội nên triết học Hy Lạp cổ
đại mang nặng tính sơ khai, chất phác, ngây thơ. Tuy nhiên, từ trong sự khởi đầu đó, các nhà triết học sau
này đã nhìn thấy ở triết học Hy Lạp cổ đại mầm mống của tất cả các kiểu thế giới quan sau này và xem nó
là một đỉnh cao của triết học nhân loại. Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ lịch sử, tuỳ từng không gian địa lý cụ
thể mà triết học Hy Lạp cổ đại chia thành các trường phái và các giai đoạn phát triển khác nhau.
Có thể nói nền triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp
xướng của triết học phương tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên tiềm tàng của triết học nhân loại làm
tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương tây sau này.
Nhìn chung triết học Hy Lạp có những đặc điểm cơ bản sau đây:

Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý nhất của nhận thức nhân loại từ
PTSX thứ nhất đến PTSX thứ hai ở phương Tây vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ bản của
thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con người, mặc dầu chưa thoát khỏi
trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ…Ph. Ăngghen nhận
xét như sau: “Chính vì trong các hình thức muôn vẻ của triết học Hi Lạp đã có mầm mống và đang nảy nở
hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”.
Đặc điểm thứ hai, triết học Hi Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, coi trọng vấn đề về con người.
Nó khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù vậy, con người ở
đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, Triết học Hi Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phátvà biện chứng sơ khai, cố gắng
giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng.
Gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây
dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong
nó.Với ý nghĩa đó, những tư tưởng biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên
của phép biện chứng. Đây cũng chính là đặc điểm qun trọng nhất của Triết học Hi Lạp cổ đại, là nền tảng
cơ bản cho phép suy luận biện chứng sau này.
-Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị.
- Có sự phân chia và các sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy vật - duy tâm, biện chứng -
siêu hình, vô thần - hữu thần.
25

×