MỤC LỤC
trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Chương 1 11
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LAO ĐỘNG NỮ VÀ 11
CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ Ở VIỆT NAM 11
Chương 2 48
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM 48
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 48
Chương 3 85
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM 85
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. CEDAW: Công ước xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
2. CMKT: Chuyên môn kỹ thuật
3. CNKT: Công nhân kỹ thuật
4. CP: Cổ phần
5. GTVL: Giới thiệu việc làm
6. ILO: Tổ chức lao động thế giới
7. OECD: Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
8. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
9. TP: Thành phố
10. ThS: Thạc sĩ
11. TS: Tiến sĩ
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Phân biệt giữa Giới và Giới tính
Bảng 1.2: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã
qua đào tạo phân theo giới tính, thành thị và nông thôn (giai đoạn 2000-2010)
Bảng 1.3: Lực lượng lao động phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật và giới
tính 6 tháng đầu năm 2011
Bảng 1.4: Tuổi nghỉ hưu tại các quốc gia OECD thời kỳ 1949-2035
Bảng 2.1: Tỷ lệ lao động nữ tham gia lực lượng lao động của Việt Nam (giai
đoạn 2005-2010)
Bảng 2.2: Số trung tâm giới thiệu việc làm, số phiên giao dịch việc làm, số
lao động nữ được giới thiệu việc làm phân theo tỉnh/thành phố năm 2009
Bảng 2.3: Tỷ lệ lao động có việc làm từ đủ 15 tuổi trở lên phân theo giới tính
(giai đoạn 2000-2010)
Bảng 2.4: Tỷ lệ thất nghiệp phân theo giới tính (giai đoạn 2000-2010)
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã có những
đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước. Là một lực lượng lao động xã hội đông đảo, phụ nữ Việt Nam luôn tỏ
rõ vai trò, khả năng, sức sáng tạo của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội.
Bước vào thời kỳ hội nhập thế giới, khi nền kinh tế của chúng ta càng
phát triển, phụ nữ Việt Nam càng có nhiều cơ hội hơn. Nó phá vỡ sự phân
công lao động cứng nhắc theo giới, cho phép phụ nữ tham gia vào nền kinh tế
thị trường và khiến nam giới phải chia sẻ trách nhiệm chăm sóc gia đình. Nó
có thể giảm nhẹ gánh nặng việc nhà cho phụ nữ, tạo cho họ nhiều thời gian
nhàn rỗi hơn để tham gia vào các hoạt động khác. Đồng thời nó còn tạo ra
nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ trên thị trường lao động v.v… Với hơn 50% dân
số và gần 50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham
gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và giữ những chức
vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Chỉ cần điểm qua một vài con số, năm
2011 có 25,76% đại biểu nữ trong Quốc hội – xếp thứ hai khu vực châu Á và
là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế giới, số
phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp trên 20%. Chính nhờ Đảng có sự
lựa chọn đường lối đúng đắn cho sự phát triển của đất nước mà vai trò của
người phụ nữ trong xã hội Việt Nam không ngừng được nâng cao.
Tuy nhiên, đó cũng chỉ mới là những bước khởi đầu thuận lợi. Hiện thời
chúng ta vẫn còn nhiều hạn chế cần phải được khắc phục trong vấn đề bình
đẳng giới, nhất là về mặt tư tưởng, quan điểm của con người trong xã hội, kể
cả nam giới và nữ giới. Không chỉ có nam giới chưa nhận thức hoặc có thái
độ không chấp nhận vai trò, vị trí của phụ nữ mà ngay chính bản thân nhiều
phụ nữ cũng hiểu biết mơ hồ, từ đó có những thái độ lệch lạc và không thể có
cách giải quyết đúng đắn các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống có liên quan
đến vai trò, vị trí về giới của mình. Điều này gây ra sự bất bình đẳng giữa lao
động nam và lao động nữ, chẳng hạn như: học vấn, việc làm, cơ hội thăng
tiến, trách nhiệm nặng nề của người phụ nữ trong gia đình… Những vấn đề tự
nhiên cũng như các vấn đề xã hội phần nào đã hạn chế quyền tự do độc lập, tự
do lao động, cơ hội thăng tiến mà lao động nữ thường chịu thiệt thòi hơn lao
động nam trong quan hệ lao động. Vì thế khi tham gia quan hệ lao động, lao
động nữ phải chịu áp lực tâm lý từ nhiều phía, từ công việc ở doanh nghiệp,
công sở đến công việc gia đình.
Xuất phát từ đặc điểm của phụ nữ ngoài việc thực hiện những nghĩa vụ
lao động còn phải đảm nhận thiên chức làm mẹ, làm vợ, làm dâu, chính sách
việc làm đối với lao động nữ luôn được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước.
Bộ luật Lao động đã dành một chương riêng (Chương X) đối với lao động nữ
nhằm đảm bảo các quyền làm việc của phụ nữ được bình đẳng về mọi mặt với
nam giới. Không thể phủ nhận, việc thực hiện những chính sách việc làm đối
với lao động nữ đã góp phần phát huy quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh
vực lao động việc làm, góp phần khẳng định vị thế của họ trong xã hội. Tuy
nhiên, tại nhiều đơn vị, quyền lợi của người lao động nữ vẫn chưa được thực
hiện nghiêm túc đúng quy định. Thể hiện giữa chính sách và thực tế còn nhiều
bất cập. Người sử dụng lao động còn có nhiều vi phạm như không ưu tiên
tuyển dụng lao động nữ, không ký hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập
thể, chưa thực hiện đúng các quy định về vệ sinh an toàn lao động, điều kiện
môi trường lao động, thời giờ việc làm, thời giờ nghỉ ngơi, chậm trả lương, nợ
bảo hiểm xã hội, không thực hiện đúng chính sách thai sản cho lao động nữ…
nên đã xảy ra một số vụ tranh chấp lao động, đình công, ngừng việc tập thể,
ngộ độc thức ăn trong thời gian qua. Mặt khác, trong hệ thống chính sách việc
làm đối với lao động nữ hiện nay đã có những điểm cần phải sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với tình hình thực tế.
Quá trình nghiên cứu các chính sách việc làm dành cho lao động nữ hiện
nay cho thấy một số bất cập, chưa hợp lý nên em xin mạnh dạn nghiên cứu đề
tài: “Hoàn thiện chính sách việc làm đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện
nay”. Đề tài không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn
bởi việc lồng ghép giới vào phản biện chính sách cũng là một trong những
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Khi nói đến lao động nữ, người ta thường nhắc đến cuốn sách “Vai trò
của phụ nữ trong phát triển kinh tế” của Ester Boserup (1970). Theo nhà
khoa học nữ này thì cho đến những năm 1970, những nghiên cứu chỉ ra rằng
mặc dù phụ nữ thường là những người có đóng góp chính vào năng suất chủ
yếu của cộng đồng, nhưng những đóng góp của họ không được tính đến trong
thống kê quốc dân cũng như trong kế hoạch hoá và thực hiện các dự án phát
triển. Cuốn sách của E. Boserup đã được coi là lần đầu tiên đặt lại vấn đề
trong cách đánh giá về vai trò của phụ nữ, qua cuốn sách của mình, bà đã
chứng minh vai trò kinh tế của phụ nữ thông qua nghiên cứu phụ nữ nông dân
vùng Tây Sahara, châu Phi. Điều này trước những năm đầu của thập kỷ 70,
các nhà hoạch định chính sách và trong giới nghiên cứu kể cả những nhà khoa
học nữ đã không thấy hết, và do vậy không công nhận một cách đúng đắn vai
trò kinh tế rất quan trọng của phụ nữ.
Ngày nay, nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển, luôn
quan tâm đến lao động nữ , đặc biệt là các chính sách việc làm đối với họ.
Các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (World Bank), tổ chức Alive &
Thrive và UNICEFT luôn theo dõi, khuyến khích và tài trợ cho các chính
sách bình đẳng giới nói chung và chính sách việc làm đối với lao động nữ nói
riêng.
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về phụ nữ cũng như lao
động nữ. Công trình nghiên cứu về phụ nữ đầu tiên xuất bản được phát hành
rộng rãi và dịch ra nhiều thứ tiếng là cuốn “Phụ nữ Việt Nam qua các thời
đại” của Lê Thị Nhâm Tuyết (1973, 1975). Nhìn từ góc độ nhân học xã hội,
tác giả đã phân tích trong cuốn sách những nét cơ bản về các truyền thống của
phụ nữ Việt Nam trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Một phần tư thế kỷ sau,
Lê Thị Nhâm Tuyết lại cho xuất bản cuốn “Hình ảnh Phụ nữ Việt Nam trước
thềm thế kỷ XXI”. Cuốn sách này đã thu thập những ý kiến khác nhau xung
quanh những vấn đề lớn của người phụ nữ Việt Nam và đặc biệt là giới thiệu
các kết quả thu được qua các cuộc điều tra khoa học. Cuốn sách tập trung vào
những đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử, trong lao động
nghề nghiệp, trong gia đình, trong quản lý xã hội.
Trong những năm gần đây, có rất nhiều bài viết đăng tải trên các báo,
tạp chí đề cập đến vấn đề nguồn lực phụ nữ như: “Quan tâm bồi dưỡng
nguồn nhân lực nữ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”
của PGS. Bùi Thị Kim Quỳ (Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 2, 1996); “Phụ
nữ - Giới và Phát triển” của TS. Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng (2000);
“Cơ sở khoa học và thực tiễn để xác định nghề đào tạo dự phòng cho phụ
nữ“ của TS. Nguyễn Tín Nhiệm và TS. Phan Thị Thanh (Tạp chí Khoa học
về phụ nữ, số 4, 2002) …
Tập trung nghiên cứu về vấn đề việc làm của lao động nữ, đáng chú ý
có các công trình nghiên cứu sau đây:“Tác động của quá trình đổi mới tới lao
động nữ Việt Nam” của Trần Thị Tuyết Mai (1997); “Việc làm, đời sống phụ
nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam” của Lê Thi (1999); “Việc làm của
nữ thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước” của
Hà Thị Phương Tiến (2002); “Giới và vấn đề việc làm của phụ nữ” của
Nguyễn Phương Thảo (2004); “Bình đẳng giới trong lao động và việc làm
với tiến trình hội nhập ở Việt Nam: Cơ hội và thách thức” của TS. Nguyễn
Nam Phương (2006); “Thực trạng tuyển dụng và việc làm của lao động nữ di
cư đến các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam” của Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội (2007); “Tuổi nghỉ hưu của lao động nữ: Bình đẳng
giới trong chính sách bảo hiểm xã hội” của TS. Nguyễn Lan Hương (2009)…
Có thể nói, lao động nữ luôn luôn là đối tượng được nhiều người quan
tâm. Những công trình trên đây đã đề cập đến nhiều khía cạnh liên quan đến
lao động nữ nhưng chưa có công trình nào thực sự tập trung nghiên cứu về
hoàn thiện chính sách việc làm đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hi vọng đóng góp một phần công sức nhỏ bé
của mình vào việc hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà
nước trong lĩnh vực lao động – việc làm và bình đẳng giới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Mục đích nghiên cứu của luận văn là đưa ra một số giải
pháp hoàn thiện chính sách việc làm đối với lao động nữ ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ: Để đạt mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
+ Nghiên cứu lý luận chung về lao động nữ để làm rõ những đặc điểm về
giới, những khó khăn mang tính chất đặc thù tác động đến chính sách việc
làm dành cho lao động nữ.
+ Nghiên cứu lý luận về chính sách và thực trạng chính sách việc làm
dành cho lao động nữ ở Việt Nam hiện nay.
+ Làm rõ sự cần thiết phải hoàn thiện chính sách việc làm đối với lao
động nữ.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng thực thi chính sách việc làm đối với
lao động nữ ở Việt Nam trong thời gian vừa qua, tổng kết những kết quả đạt
được, những vấn đề còn tồn tại và làm rõ nguyên nhân.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách việc làm đối với
lao động nữ ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là người
lao động nữ và người sử dụng lao động nữ thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ
luật Lao động. Bên cạnh đó là hệ thống chính sách việc làm hiện hành áp
dụng đối với lao động nữ ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình thực
thi chính sách việc làm đối với lao động nữ có quan hệ lao động (có thực hiện
giao kết hợp đồng lao động) được quy định tại Bộ luật Lao động Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh; vận dụng quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác
phụ nữ và bình đẳng giới trong lao động và việc làm.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn kết hợp sử dụng các phương
pháp nghiên cứu:
+ Nghiên cứu tài liệu, phân tích, so sánh, tổng hợp, phân loại, khái
quát, hệ thống các nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài luận văn;
+ Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu;
+ Tham khảo ý kiến chuyên gia;
+ Truy cập các nguồn tư liệu mở qua Internet.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách việc làm đối
với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay nhằm tạo điều kiện tốt nhất, môi trường
tốt nhất cho việc mở rộng cơ hội phấn đấu của lao động nữ, đồng thời góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực lao động – việc làm
và bình đẳng giới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Đóng góp về lý luận:
+ Hệ thống hoá chính sách việc làm đối với lao động nữ ở Việt Nam.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng và nguyên nhân hạn chế về việc thực
hiện chính sách việc làm đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay.
+ Đề xuất sửa đổi và bổ sung một số điều trong hệ thống chính sách việc
làm đối với lao động nữ ở Việt Nam.
- Đóng góp về thực tiễn:
+ Bổ sung thêm những cơ sở khoa học có thể tham khảo trong hoạch
định chiến lược tổng thể và chính sách cụ thể liên quan đến vấn đề nguồn
nhân lực nữ ở Việt Nam.
+ Làm căn cứ để hoàn thiện chính sách việc làm đối với lao động nữ ở
Việt Nam hiện nay.
+ Làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập về
nguồn nhân lực trong các trường, các cơ quan chức năng.
Đề tài không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn
bởi việc lồng ghép giới vào phản biện chính sách cũng là một trong những
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về lao động nữ và chính sách việc làm đối
với lao động nữ ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng chính sách việc làm đối với lao động nữ ở Việt
Nam hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện chính sách việc làm đối với lao
động nữ ở Việt Nam hiện nay.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LAO ĐỘNG NỮ VÀ
CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ Ở VIỆT NAM
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Khái niệm về lao động và việc làm
● Khái niệm về lao động và lao động nữ
Ngay trong Lời nói đầu của Bộ luật Lao động nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã nêu rõ: “Lao động là hoạt động quan trọng nhất của
con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao
động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát
triển của đất nước” [11], [33], [45].
Pháp luật lao động điều chỉnh quan hệ lao động giữa người lao động
làm công ăn lương với người sử dụng lao động và các quan hệ xã hội liên
quan trực tiếp với quan hệ lao động. Theo quy định tại Điều 6 Bộ luật Lao
động: “Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và
có giao kết hợp đồng lao động. Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ
quan, tổ chức hoặc cá nhân, nếu là cá nhân thì ít nhất phải đủ 18 tuổi, có
thuê mướn, sử dụng và trả công lao động” [11], [33], [45]. Quan hệ lao động
giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác lập và tiến hành qua
thương lượng, thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn
trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau, thực hiện đầy đủ những điều đã
cam kết.
Căn cứ Điều 1 Nghị định số 23/CP ngày 18/4/1996 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về
những quy định riêng đối với lao động nữ thì người lao động nữ được xác
định là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động thực hiện giao kết hợp
đồng lao động, bao gồm:
- Người lao động nữ làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế, các hình thức sở hữu;
- Người lao động nữ làm việc trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp
Nhà nước mà không phải là công chức, viên chức Nhà nước; nếu là công
chức, viên chức Nhà nước thì phải là những người được làm những công việc
mà quy chế công chức không cấm;
- Người lao động nữ làm việc trong lực lượng vũ trang nhân dân, nhưng
không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan và chiến sĩ;
- Người lao động nữ làm việc trong các đoàn thể nhân dân, các tổ chức
chính trị, xã hội khác mà không phải là cán bộ chuyên trách của đoàn thể, tổ
chức đó;
- Người lao động nữ là người nước ngoài làm việc trong các doanh
nghiệp, tổ chức và cá nhân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam, trừ trường hợp
Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc
tham gia có quy định khác;
- Nguời lao động nữ làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các doanh nghiệp
trong khu chế xuất, khu công nghiệp, các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước
ngoài hoặc tổ chức quốc tế đóng tại Việt Nam mà không phải là công chức,
viên chức Nhà nước;
- Trẻ em là nữ chưa đủ 15 tuổi làm việc ở một số nghề và công việc
theo quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
Cũng tại Điều 1 Nghị định số 23/CP, người sử dụng lao động có sử
dụng lao động nữ được quy định là:
- Mọi tổ chức, cá nhân có sử dụng lao động nữ thuộc các thành phần
kinh tế, các hình thức sở hữu bao gồm: doanh nghiệp Nhà nước; doanh nghiệp
tư nhân; công ty cổ phần; công ty trách nhiệm hữu hạn; hợp tác xã; tổ hợp tác
có thuê lao động nữ; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp; cá nhân, tổ chức, cơ
quan nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế đóng tại Việt Nam.
- Các cơ quan hành chính, sự nghiệp Nhà nước, lực lượng vũ trang
nhân dân, đoàn thể nhân dân, tổ chức chính trị, xã hội khác có thuê lao động
nữ.
- Người sử dụng lao động nữ là: Tổng Giám đốc, Giám đốc doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoặc người được Tổng Giám đốc, Giám
đốc ủy quyền bằng văn bản; Thủ trưởng các cơ quan, tổ chức hoặc người
được Thủ trưởng ủy quyền bằng văn bản đúng quy định của pháp luật về ủy
quyền.
● Khái niệm về việc làm
Theo Điều 13 Bộ luật Lao động:“Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập
và không bị pháp luật cấm, đều được thừa nhận là việc làm” [11], [33],[45].
Theo quy định này, các hoạt động được xác định là việc làm bao gồm:
- Tất cả các hoạt động tạo ra của cải vật chất hoặc tinh thần, không bị
pháp luật cấm, được trả công dưới dạng tiền hoặc hiện vật;
- Những công việc tự làm mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu
nhập cho gia đình, cho cộng đồng, kể cả những công việc không được trả
công bằng tiền hoặc hiện vật.
Khái niệm việc làm theo Bộ luật Lao động bao gồm một phạm vi rất
rộng: từ những công việc được thực hiện trong các nhà máy, công sở, đến các
hoạt động lao động hợp pháp tại khu vực phi chính thức đều được coi là việc
làm.
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với
mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao
động lớn như nước ta. Đây được xem là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố
con người, ổn định và phát triển kinh tế, góp phần xây dựng xã hội “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
1.1.2. Khái niệm về chính sách và chính sách việc làm
● Khái niệm về chính sách
Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách hay
chính sách công vẫn là một chủ đề khó đạt được sự nhất trí rộng rãi. Từ thực
tế chính sách của các ngành, các địa phương và các quốc gia, cũng như qua
những cuộc thảo luận trên các diễn đàn nghiên cứu chính sách, nhiều nhà
nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm khác nhau về chính sách.
Theo Peter Aucoin (1971):"Chính sách công bao gồm các hoạt động
thực tế do Chính phủ tiến hành" [7, tr.14];
William Jenkin (1978): “Chính sách công là một tập hợp các quyết
định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị
gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục
tiêu đó” [7, tr.14];
Guy Peter (1990): "Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của Nhà
nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công
dân"[7, tr.14];
Wiliam Dunn (1992): "Chính sách công là một kết hợp phức tạp những
sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động,
do các cơ quan Nhà nước hay các quan chức Nhà nước đề ra” [7, tr.14];
James Anderson (2003): "Chính sách là một quá trình hành động có
mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn
đề mà họ quan tâm"[7, tr.14];
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như
sau: "Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ.
Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực
cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc
vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa"[7, tr.14].
Như vậy, có thể hiểu "Chính sách công là những hành động ứng xử
của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể
hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo
định hướng"[7, tr.15].
Trong thực tế, các tổ chức, doanh nghiệp, hiệp hội, đoàn thể… có thể
đề ra những chính sách riêng biệt để giải quyết các vấn đề trong nội bộ tổ
chức nhưng những chính sách này chỉ có hiệu lực thi hành trong các tổ chức
ban hành đó. Vì vậy, chúng được coi là “chính sách tư” và có nhiều đặc trưng
khác biệt với “chính sách công” của Nhà nước.
Những đặc trưng quan trọng của chính sách công đó là:
Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước.
Thứ hai, chính sách công là một chuỗi hay một loạt các quyết định
cùng hướng vào việc giải quyết một vấn đề chính sách, do một hay nhiều cấp
khác nhau trong bộ máy Nhà nước ban hành trong một thời gian dài.
Thứ ba, các quyết định này là những quyết định hành động, mang lại
kết quả thực tế.
Thứ tư, chính sách công được đề ra và được thực hiện nhằm giải quyết
một hoặc một số vấn đề đang đặt ra trong đời sống xã hội.
Thứ năm, xét theo nghĩa rộng, chính sách công bao gồm những việc
Nhà nước định làm và không định làm.
Thứ sáu, chính sách công tác động đến các đối tượng của chính sách.
Đối tượng chính sách là những người chịu sự tác động hay điều tiết của chính
sách. Phạm vi điều tiết của chính sách có thể rộng hay hẹp tùy theo nội dung
của từng chính sách.
Thứ bảy, chính sách công được Nhà nước đề ra nhằm phục vụ lợi ích
chung của cộng đồng hoặc của quốc gia.
Những đặc trưng nói trên cho phép chúng ta có một cái nhìn tổng thể
về chính sách công. Bản chất của chính sách là công cụ định hướng của Nhà
nước cho mọi hành vi xã hội đối với các quá trình phát triển. Điều kiện tồn tại
của một chính sách là tổng hòa những hành động tích cực theo định hướng
chính trị của Nhà nước nhằm tác động, giải quyết những vấn đề nảy sinh
trong từng giai đoạn phát triển.
Một tiến trình chính sách có thể quy về 3 giai đoạn cơ bản là: hoạch định
chính sách, thực thi chính sách và đánh giá chính sách.
Hình 1.1: Sơ đồ quy trình chính sách
Các giai đoạn này có liên hệ chặt chẽ với nhau theo nguyên tắc: giai
đoạn trước là nền tảng cho giai đoạn tiếp theo và kết quả của giai đoạn trước
là thông tin cần và đủ cho giai đoạn tiếp theo. Về thực chất, khó có thể mô tả
tiến trình chính sách một cách đơn giản và rõ ràng, vì nó vừa có tính liên tục,
vừa có tính biến động. Thực tế cho thấy rất khó xác định một chính sách nào
đó hoàn toàn ổn định trong một thời gian dài vì chúng thay đổi thường xuyên
và cần được điểu chỉnh, bổ sung theo hướng ngày càng hoàn thiện. Điển hình
như chính sách việc làm dành cho lao động nữ ở Việt Nam.
● Khái niệm về chính sách việc làm
Đến nay, khái niệm chính sách việc làm vẫn chưa được chuẩn hoá,
chưa có một nhà khoa học hay tổ chức lý luận nào đưa ra khái niệm chuẩn
mực. Từ cơ sở lý luận về chính sách, chính sách việc làm có thể được hiểu
như sau:“Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải
pháp mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các đối tượng và khách thể quản
lý nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu về lao động,
việc làm”.
Nói cách khác,“Chính sách việc làm là sự thể chế hoá pháp luật của
Nhà nước trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan điểm,
phương hướng mục tiêu và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao
động”[26, tr.394].
Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của
mọi quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định, và phát triển xã hội.
Ở nước ta, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
Hoạch định
chính sách
Thực thi
chính sách
Đánh giá
chính sách
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế đang đặt ra hàng loạt vấn đề bức xúc liên quan đến việc làm và
chính sách giải quyết việc làm. Điều 13 Bộ luật Lao động khẳng định: “Giải
quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội
có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn
xã hội” [11], [33], [45]. Theo số liệu mà Tổng cục Thống kê công bố, dân số
trung bình nước ta năm 2011 ước tính 87,84 triệu người. So với năm 2010,
lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 51,39 triệu người, tăng 1,97%; lực
lượng lao động trong độ tuổi lao động là 46,48 triệu người, tăng 0,12%. Lực
lượng lao động dồi dào vừa là thế mạnh, tiềm năng của việc phát triển kinh tế
- xã hội vừa là một sức ép rất lớn đối với chính quyền các cấp về giải quyết
việc làm cho người lao động. Nếu không có chính sách việc làm một cách
đúng đắn và kịp thời thì sẽ lãng phí rất lớn nguồn tài nguyên quốc gia cũng
như để lại hậu quả to lớn. Chính sách việc làm vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế,
vừa có ý nghĩa về mặt chính trị và xã hội. Thực hiện tốt chính sách việc làm,
nguồn nhân lực được sử dụng có hiệu quả thì hiện tượng thất nghiệp sẽ giảm
đi, như vậy chính sách bảo hiểm xã hội sẽ giảm được chi phí cho các trợ cấp
thất nghiệp. Ngược lại, khi chính sách việc làm chưa được giải quyết tốt, nhất
là vào thời kỳ kinh tế suy thoái, nạn thất nghiệp sẽ tăng lên, và cùng với nó là
tình trạng đói nghèo, các tệ nạn xã hội sẽ dễ dàng phát sinh. Khi đó gánh nặng
đối với các chính sách về bảo trợ xã hội, an sinh xã hội sẽ tăng lên, thậm chí
còn có thể gây ra bất ổn định về chính trị, xã hội.
1.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG NỮ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH
SÁCH VIỆC LÀM ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ
1.2.1. Giới tính và Giới
Giữa nam giới và nữ giới có những sự giống và khác, sự đối lập và
bổ sung cho nhau. Đó là những khác biệt về thuộc tính sinh học và thuộc
tính xã hội. Chương trình Bình đẳng giới khu vực Đông Nam Á (SEAGEP)
đã đưa ra định nghĩa về giới và giới tính như sau:
Giới tính là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ không
thể thay đổi được. Chỉ có một số khác biệt nhỏ về vai trò của nam và nữ về
mặt sinh học và sinh lý trên cơ sở giới tính. Ví dụ như việc mang thai, sinh nở
và sự khác biệt về sinh lý có thể là do các đặc điểm giới tính.
Giới là sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam giới và phụ nữ như vai trò,
thái độ, hành vi ứng xử và các giá trị. Vai trò giới được biết đến thông qua
quá trình học tập và khác nhau theo từng nền văn hóa và thời gian, do vậy
giới có thể thay đổi được. Ví dụ: nữ thường để tóc dài, nam thường để tóc
ngắn…
Khác với vấn đề giới tính vốn chỉ đề cập tới sự khác biệt sinh học giữa
nam giới và phụ nữ, khái niệm giới đề cập đến những khác biệt về mặt xã hội
do các nhóm xã hội con người tạo ra. Cả nam giới và phụ nữ đóng nhiều vai
trò trong xã hội và các vai trò này là khác nhau theo giới. Các vai trò giới là
tập hợp các hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi ở phụ nữ và nam giới liên
quan đến những đặc điểm và năng lực mà xã hội coi là thuộc về nam giới
hoặc thuộc về phụ nữ trong một xã hội hay một nền văn hóa cụ thể nào đó.
Đó cũng là các mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới: ai nên làm gì, ai là
người ra quyết định, khả năng tiếp cận nguồn lực và các lợi ích…
Phân biệt hai khái niệm về giới và giới tính có thể tóm tắt như sau:
Bảng 1.1: Phân biệt giữa Giới và Giới tính
Giới (Gender) Giới tính (Sex)
Chỉ sự khác biệt về mặt xã hội Chỉ sự khác biệt về mặt sinh học
Do dạy và học mà có Sinh ra đã có
Đa dạng Đồng nhất
Thay đổi theo hoàn cảnh xã hội, và
chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố văn
hóa, lịch sử. Khác nhau giữa các
vùng, quốc gia.
Không chịu ảnh hưởng của yếu tố lịch
sử, văn hóa, khó có thể thay đổi.
Giống nhau trên toàn thế giới.
Thay đổi theo không gian và thời
gian.
Không thay đổi theo không gian và
thời gian.
Nguồn: PGS,TS. Nguyễn Đình Cử (1997), Giáo trình dân số và phát triển,
Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
Trong xã hội có một sự phân công lao động giữa nam giới và phụ nữ.
Sự phân công lao động theo giới đề cập đến công việc khác nhau của nam
giới và phụ nữ trong gia đình, trong sản xuất và trong cộng đồng. Sự khác
nhau này có liên quan đến vị trí quyền lực của mỗi giới và che giấu sự tồn tại
đáng kể của sự bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ, nó ảnh hưởng và
khẳng định vị trí phụ thuộc của phụ nữ. Một số nhiệm vụ có truyền thống là
“công việc của phụ nữ”, trong khi đó nhiều nhiệm vụ khác có truyền thống là
“công việc của nam giới”.
Trình độ văn minh của nhân loại ở mỗi thời kỳ lịch sử đã để lại những
dấu ấn rõ rệt trong cách ứng xử, đối xử về giới. Tuy nhiên, xét về mặt xã hội,
rõ ràng giới nữ đã chịu nhiều thiệt thòi và bất công. Ví dụ như người phụ nữ
ở Việt Nam thời phong kiến không được phép đi học, đến thời Pháp thuộc,
bên cạnh vô vàn tội ác của thực dân, cũng đã có một số chuyển biến theo
hướng hiện đại như sử dụng lao động nữ làm phu đồn điền, công nhân nhà
máy…, tuy bị bóc lột nặng nề, song họ bước đầu biết thế nào là sự tự chủ
kinh tế vì đi làm có lương. Trường học mở ra cũng tạo điều kiện cho nhiều
trẻ em và thanh niên trai gái tiếp thu tri thức mới. Lần đầu tiên nữ học sinh
đến lớp, đến trường. Tuy nhiên, phụ nữ đi học cũng chỉ được làm một số
nghề, không được cử làm quan cai trị dân, điều đó chỉ dành cho nam giới.
Qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng, vai trò của phụ nữ dần dần được nâng
lên. Và đến nay, phụ nữ đã được đi học trong và ngoài nước, làm tất cả
những công việc theo năng lực và nhu cầu, đạt đến học hàm Giáo sư, Tiến
sỹ, tham gia chính quyền, là đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân các cấp… Có được điều này một phần là do sự quan tâm sâu sắc và
đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước ta, và hơn hết là do tinh
thần ham học hỏi, không ngừng rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu đóng góp hết
mình của phụ nữ Việt Nam vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ
gìn các giá trị văn hoá truyền thống và vẫn “đảm việc nước, đảm việc nhà”.
Như vậy, giới là một khái niệm bao hàm một nội dung khá đa dạng thể
hiện sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam giới và phụ nữ như vai trò, thái độ,
quan niệm, sự phân công lao động, sức khỏe. Vai trò của cả nam và nữ là
khác nhau nên cả hai có những vị trí xã hội không giống nhau. Tuy nhiên,
không thể dựa vào những khác biệt này để tạo sự phân biệt đối xử không bình
đẳng về giới mà những khác biệt giữa phụ nữ và nam giới phải được công
nhận và đánh giá một cách bình đẳng. Vai trò, vị thế và quyền lợi pháp lý của
phụ nữ phải được tôn trọng và bảo đảm.
Với những khác biệt về giới, trong công tác phát triển cần có sự quan
tâm hướng đến phụ nữ để hoạch định các chính sách phát triển, mục đích phải
thu được:
- Các chính sách thực tế hơn (việc xác định tốt hơn nhóm mục tiêu hoặc
các nhóm bị ảnh hưởng sẽ giúp ích cho công tác lập kế hoạch kinh tế).
- Các chính sách hiệu quả hơn (việc xác định rõ hơn các nhiệm vụ, các
cơ hội, những cản trở và những động lực khác nhau gắn với phụ nữ và nam
giới giúp cho các chính sách hỗ trợ hợp lý hơn và sử dụng các nguồn tài
nguyên hiệu quả hơn).
- Các chính sách công bằng hơn (quan tâm tới sự khác nhau về vị trí
kinh tế và xã hội của phụ nữ và nam giới tạo điều kiện cho việc phân chia các
chi phí và lợi ích của các chính sách cụ thể để đạt được một sự tác động bình
đẳng).
Hiện nay chúng ta đang quan tâm đến vấn đề bình đẳng giới.“Bình
đẳng giới là môi trường trong đó nữ giới và nam giới được hưởng vị trí
ngang nhau, họ có các cơ hội bình đẳng để phát triển đầy đủ tiềm năng của
mình nhằm cống hiến cho sự phát triển quốc gia và được hưởng lợi từ các kết
quả đó” [12], [15]. Điều này được hiểu là sự đối xử ngang quyền giữa hai giới
nam và nữ, cũng như giữa các tầng lớp phụ nữ trong xã hội, có xét đến những
đặc điểm giống nhau và khác nhau của mỗi giới, và được điều chỉnh bởi các
chính sách đối với từng giới một cách hợp lý.
Bình đẳng giới trong lao động và việc làm bao gồm ba nội dung chính
sau đây:
Một là, đảm bảo cơ hội ngang bằng cho cả nữ giới và nam giới trong
lĩnh vực lao động và việc làm, bao gồm cơ hội trong việc tiếp cận các nguồn
lực đầu tư cho “vốn con người”, các nguồn lực sản xuất, cơ hội được tham gia
thị trường lao động và có được việc làm phù hợp với khả năng, sở thích và có
thể phát huy hết tiềm năng của bản thân.
Hai là, từng bước xóa bỏ những khác biệt trong vai trò và nhu cầu giới
giữa nam và nữ không do đặc điểm sinh học khác gây nên, đồng thời bù đắp
cho những bất lợi mà nữ giới hay nam giới phải chịu do những đặc tính sinh
học tạo nên trong lĩnh vực lao động và việc làm. Cụ thể là, cần phá vỡ sự
phân công lao động cứng nhắc theo giới, khuyến khích phụ nữ tham gia vào
những lĩnh vực mà trước đây phần lớn do nam giới đảm nhiệm, đồng thời
khuyến khích nam giới chia sẻ trách nhiệm trong lĩnh vực mà phụ nữ vẫn đảm
nhiệm chính.
Ba là, kiên quyết loại bỏ sự phân biệt đối xử theo giới trong lĩnh vực lao
động và việc làm, có nghĩa là xóa bỏ mọi rào cản để nữ giới và nam giới phát
huy được tiềm năng của mình trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và trong lĩnh
vực lao động, việc làm.
1.2.2. Sức khỏe
Sự khác biệt sức khỏe giữa nam giới và phụ nữ không chỉ do môi trường,
nuôi dưỡng và tập quán xã hội, mà còn do bẩm sinh, di truyền…
Xét về về đặc điểm sức khỏe sinh lý, phụ nữ thường hạn chế về thể lực so
với nam giới, nên không thích hợp với công việc nặng nhọc, những công việc
trên độ cao lớn, những nghề làm việc dưới nước, những công việc tiếp xúc
với hóa chất, hay những công việc đòi hỏi cường độ lao động cao. Như vậy,
do đặc điểm sức khỏe sinh lý mà phạm vi lựa chọn công việc của phụ nữ vô
hình trung đã bị thu hẹp so với nam giới.
Mặt khác, về phương diện giới, phụ nữ có thiên chức mang thai, sinh
con và nuôi con. Người phụ nữ mất ít nhất hai năm để tập trung cho quá trình
mang thai, sinh và nuôi con nhỏ. Nếu sinh hai con, người phụ nữ mất đi ít
nhất là 4 năm so với nam giới. Ở giai đoạn phụ nữ sinh và nuôi con, nam giới
tiếp tục học tập và phát triển, vì vậy, sau thời gian này nhìn chung phụ nữ
“tụt hậu” hơn so với nam giới. Ngoài sự mất mát về thời gian, sức khoẻ của
phụ nữ cũng bị suy yếu. Trong xã hội hiện đại, người phụ nữ vừa phải làm
kinh tế vừa phải cáng đáng công việc chăm sóc cho gia đình, ít có thời gian để
học tập, giải trí, nâng cao sức khỏe và trí tuệ để tham gia vào quá trình lao
động. Trong điều kiện kinh tế thị trường, vấn đề thai sản luôn được coi là
"hạn chế của phụ nữ" với tư cách người đi tìm việc. Thực tế, do nhiều vấn đề
phức tạp khác chi phối, làm cho các chủ sử dụng lao động phải cân nhắc, lựa
chọn, và nếu không quán triệt quan điểm bình đẳng giới thì một bộ phận
không nhỏ các chủ sử dụng lao động chỉ muốn tuyển chọn lao động nam.
1.2.3. Trình độ được đào tạo
Quá trình hình thành thị trường lao động và lao động trở thành hàng hóa
hiện nay đang làm bộc lộ những yếu kém, thiếu hụt về trình độ văn hoá và
chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động Việt Nam, đặc biệt là lao động
nữ. Vì phụ nữ phải đảm nhiệm chính vai trò tái sản xuất sức lao động, phải
sinh đẻ, chăm sóc con cái và các thành viên khác trong gia đình nên họ phải hi
sinh thời gian học tập. Những bất lợi này không chỉ ảnh hưởng tới người phụ
nữ trong ngắn hạn mà học vấn ít hơn, kinh nghiệm ít hơn, số lần rời công việc
nhiều hơn… đồng nghĩa với việc giảm khả năng cạnh tranh của họ trên thị
trường lao động trong dài hạn. Mức độ ảnh hưởng của những điểm bất lợi này
đối với những tầng lớp phụ nữ khác nhau là khác nhau.
Chẳng hạn như, mức độ ảnh hưởng sẽ trầm trọng nhất và sâu sắc nhất là
đối với những bé gái phải bỏ học hay đi làm sớm do gia đình quá nghèo, do
đông anh chị em, hay do quan niệm con gái không cần học nhiều… Trong
tương lai, các em sẽ phải chịu những rủi ro thất nghiệp cao hoặc phải làm
những công việc đem lại thu nhập thấp, không ổn định, hoặc những công việc
gây tổn hại cho bản thân như mại dâm. Những phụ nữ đã có gia đình, những
phụ nữ ở nông thôn, trong những hộ gia đình nghèo là những người chịu
nhiều thiệt thòi hơn trước những điểm bất lợi này.
Khi việc nâng cao trình độ cho nữ giới còn chưa được quan tâm đúng
mức thì tỷ lệ lao động nữ đã qua đào tạo so với nam sẽ còn cách biệt. Theo số
liệu điều tra lao động – việc làm của Tổng cục Thống kê giai đoạn 2000-
2010, tỷ lệ lao động nữ đã qua đào tạo ở nước ta đã có những cải thiện đáng
kể, song vẫn còn thấp so với lao động nam, nhất là ở khu vực nông thôn (xem
Bảng 1.2).
Bảng 1.2: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh
tế đã qua đào tạo phân theo giới tính, thành thị và nông thôn.
Đơn vị: %
Năm Tổng số Phân theo giới tính Phân theo khu vực
Nam Nữ Thành thị Nông thôn
2000 10.3 11.8 8.6 24.2 5.3
2001 10.7 12.3 9.0 24.9 5.9
2002 11.1 12.9 9.5 25.6 6.4
2003 11.5 13.2 9.7 26.0 7.0
2004 12.0 13.8 10.2 26.5 7.3
2005 12.5 14.3 10.6 27.2 7.6
2006 13.1 14.9 11.2 28.4 8.1
2007 13.6 15.6 11.6 29.7 8.3
2008 14.3 16.3 12.2 31.5 8.3
2009 14.8 16.7 12.8 32.0 8.7
Sơ bộ 2010 14.6 16.2 12.8 30.6 8.5
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2000 – 2010).
Trình độ chuyên môn kỹ thuật là một trong những tiêu chí quan trọng để
đánh giá chất lượng của lực lượng lao động. Lao động có chuyên môn kỹ
thuật tức là những lao động đã qua đào tạo ở các cơ sở, trung tâm, lớp học để
học nghề, và những người học đại học hoặc cao đẳng. Lao động không có
chuyên môn kỹ thuật là những người chưa qua đào tạo tại các cơ sở, trung
tâm, lớp học hay còn gọi là lao động phổ thông. Theo Báo cáo điều tra lao
động – việc làm 6 tháng đầu năm 2011 của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ lao động
nữ không có chuyên môn kỹ thuật và nữ công nhân kỹ thuật không bằng
chiếm 86.5%, trong khi tỷ lệ này ở lao động nam chỉ ở mức 82.9%. Báo cáo
cũng cho thấy tỷ lệ lao động nữ đã qua sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng
nghề và đại học thấp hơn hẳn so với nam. Sự hạn chế về trình độ chuyên môn
kỹ thuật đã và đang là những tác nhân quan trọng kìm hãm việc phát huy vai
trò và tiềm năng của lao động nữ (xem Bảng 1.3).
Bảng 1.3: Lực lượng lao động phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
và giới tính 2011.
Đơn vị: %
Không có
CMKT và
CNKT
không bằng
Sơ
cấp
nghề
Trung
cấp
nghề
Trung
cấp
chuyên
nghiệp
Cao
đẳng
nghề
Cao
đẳng
Đại
học
trở
lên
Tổng
Chung 84.6 2.0 1.6 3.7 0.3 1.7 6.0 100.0
Nam 82.9 3.0 2.5 3.3 0.4 1.2 6.7 100.0
Nữ 86.5 0.9 0.7 4.1 0.2 2.3 5.4 100.0
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Báo cáo điều tra lao động - việc làm 6 tháng
đầu năm 2011.
Do trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của nữ thấp hơn nam giới nên
họ thường phải đảm nhận những công việc, vị trí kém cạnh tranh hơn. Theo
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, ở khu vực kinh tế chính thức, phụ nữ
chỉ chiếm 40% số việc làm được trả lương và chiếm tỷ lệ thấp trong nhóm
ngành nghề bậc cao (quản lý, chuyên môn kỹ thuật…) đồng thời chiếm tỷ lệ
cao ở nhóm nghề bậc trung, nghề có kỹ năng thấp (trong nhóm người làm
công việc không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật, trên 50% là nữ).
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VẤN ĐỀ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI
LAO ĐỘNG NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.3.1. Điều kiện tự nhiên và tư liệu sản xuất
Điều kiện tự nhiên là điều kiện đầu tiên, quan trọng, có khả năng tạo
thuận lợi hoặc gây khó khăn cho hoạt động sản xuất. Chẳng hạn, độ mầu mỡ
tự nhiên của đất đai, diện tích canh tác bình quân đầu người, điều kiện khí
hậu, thủy văn thuận lợi hoặc bất lợi cho phát triển các loại cây trồng và con
vật nuôi; trữ lượng của hầm mỏ, tài nguyên rừng và biển Nhưng thực tế, sự
giàu có về tài nguyên không tỷ lệ thuận với khả năng phát triển ổn định của
đất nước, dự trữ kinh tế của quốc gia cũng như sự phát triển ở mức cao trên
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị. Trong thực tế, có những nước rất
nghèo tài nguyên thiên nhiên như Nhật Bản, Singapore, nhưng với công nghệ
hiện đại, máy móc tiên tiến, và phương pháp quản lý khoa học đã tạo ra được
nhiều việc làm cho xã hội, trong đó có lao động nữ. Vì vậy, điều kiện tự nhiên
của mỗi nước chỉ là cơ sở quan trọng ban đầu cho phát triển sản xuất. Việc
tiếp theo của mỗi nước là phát huy mặt thuận, hạn chế mặt không thuận của
điều kiện tự nhiên chi phối nền sản xuất, trên cơ sở đó hoạch định chính sách
phát triển đúng đắn, bền vững nhằm mục tiêu quan trọng là phát triển con
người - chủ thể và động lực chủ yếu của nền sản xuất và mọi hoạt động xã
hội.
Ở nước ta hiện nay, nếu thuộc vùng đồng bằng, trung du thì hầu hết đều
trong tình trạng “đất chật, người đông”, diện tích đất canh tác tính theo đầu
người rất thấp. Còn vùng miền núi thì điều kiện giao thông khó khăn, đất đai
khô cằn, độ dốc cao, thiếu nước cho sản xuất Với điều kiện tự nhiên như
vậy, cộng thêm khả năng cung về vốn, tư liệu sản xuất còn dưới mức thỏa
mãn của nhu cầu kết hợp với sức lao động, khó tránh khỏi tình trạng lao động
không đủ việc làm. Vấn đề tạo việc làm cho người lao động nói chung và cho
lao động nữ nói riêng đã và đang bị cản trở bởi tốc độ tăng dân số còn cao,
mức tăng trưởng kinh tế còn hạn chế.
So với phụ nữ khu vực thành thị, phụ nữ nông thôn chưa có việc làm ổn
định chiếm số lượng khá lớn, đời sống chủ yếu phụ thuộc vào nghề nông.
Thời gian chờ thu hoạch vụ mùa thường kéo dài, không có thu nhập đáng kể,
nhiều chị em lâm vào cảnh khốn khó. Những chị em không có hoặc có ít đất
canh tác càng khó khăn hơn. Những chị em còn trẻ thì có thể rời quê tìm được
công việc ở các công ty, xí nghiệp, các khu công nghiệp. Còn số lượng lớn chị
em có gia đình, con cái, hoặc độ tuổi trung niên trở lên khó bỏ gia đình để xa
quê tìm việc làm. Hơn nữa, nhu cầu tuyển dụng lao động đa số chỉ ưu tiên lao
động trẻ, chưa lập gia đình, trong khi ở nông thôn hiện nay còn số lượng khá
lớn chị em độ tuổi trung niên thiếu việc làm. Các cấp Hội phụ nữ đã đưa ra