Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

phân tích tác động của chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát và việc sử dụng chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát ở việt nam trong thời gian qua.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.36 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH

TIỂU LUẬN
MÔN HỌC : CHÍNH SÁCH KINH TẾ TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA
Đề tài : Phân tích tác động của chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát và việc
sử dụng chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua.
Giảng viên : Tiến sỹ Lương Minh Việt
Phụ trách Khoa QLNN về Kinh tế - Học viện Hành chính
Người thực hiện : Vũ Ngọc Sang
Lớp : Cao học Quản lý công - K17C Nam Định
Tháng 5 năm 2013
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
2
LỜI NÓI ĐẦU
Có thể nói, trong chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước thì chính sách tiền
tệ của Ngân hàng Nhà nước ( hay Ngân hàng trung ương - NHTW) đóng vai trò
rất quan trọng. Do nắm trong tay các công cụ để điều tiết khối lượng tiền tệ trong
lưu thông mà qua đó có thể tác động đến hầu hết mọi hoạt động kinh tế xã hội và
ảnh hưởng trực tiếp tới sự cân bằng ngân sách nhà nước (NSNN), cán cân thanh
toán quốc tế và sự ổn định của nền kinh tế quốc gia.
Trong nền kinh tế phát triển nhanh của nước ta hiện nay luôn tiềm ẩn nguy
cơ lạm phát cao, do đó một công cụ điều tiết vĩ mô hiệu nghiệm như chính sách
tiền tệ được tận dụng trước tiên với hiệu suất cao cũng là điều tất yếu.
Việc sử dụng chính sách tiền tệ như thế nào và hướng mục tiêu của chính
sách tiền tệ ra sao là một trong những vấn đề rất quan trọng mà Ngân hàng Nhà
nước cần hướng tới.
Trong phạm vi bài tiểu luận này xin phân tích những tác động của chính
sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát, đồng thời phân tích những hành động mà
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã sử dụng trong thời gian qua nhằm vực dậy nền


kinh tế Việt Nam sau thời kỳ suy giảm kinh tế.
NỘI DUNG CHÍNH
I. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ LẠM PHÁT
1. Những vấn đề lý luận về lạm phát.
1.1. Khái niệm:
Vậy lạm phát là gì ? đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát và
mỗi quan điểm đều có sự chắc chắn về luận điểm và những lý luận của mình.
Theo L.V.chandeler, D.C cliner với trường phái lạm phát giá cả thì khẳng định:
lạm phát là sự tăng giá hàng bất kể dài hạn hay ngắn hạn, chu kỳ hay đột xuất.
G.G. Mtrukhin lại cho rằng : Trong đời sống, tổng mức giá cả tăng trước
hết thông qua việc tăng giá không đồng đều ở từng nhóm hàng hoá và rút cuộc
dẫn tới việc tăng giá cả nói chung. Với ý nghĩa như vậy có thể xem sự mất giá
của đồng tiền là lạm phát. Ông cũng chỉ rõ: lạm phát, đó là hình thức tràn trề tư
bản một cách tiềm tàng (tự phát hoặc có dụng ý) là sự phân phối lại sản phẩm xã
hội và thu nhập quốc dân thông qua giá cả giữa các khu vực của quá trình tái sản
xuất xã hội, các ngành kinh tế và các giai cấp, các nhóm dân cư xã hội.
Ở mức bao quát hơn P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn “Kinh
tế học” đã được dịch ra tiếng Việt, xuất bản năm 1989 cho rằng lạm phát xảy ra
khi mức chung của giá cả chi phí tăng lên.
Với luận thuyết “Lạm phát lưu thông tiền tệ “ J.Bondin và M. Friendman
lại cho rằng lạm phát là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả tăng
lên. M.Friedman nói “lạm phát ở mọi lúc mọi nơi đều là hiện tượng của lưu thông
tiền tệ. Lạm phát xuất hiện và chỉ có thể xuất hiện khi nào số lượng tiền trong lưu
thông tăng lên nhanh hơn so với sản xuất”
Như vậy, tất cả những quan điểm về lạm phát đã nêu trên đều đưa ra những
biểu hiện ở một mặt nào đó của lạm phát. Nói chung, các quan điểm đều chưa
hoàn chỉnh, nhưng đã nêu ra được một số mặt của hai thuộc tính cơ bản của lạm
phát. Bàn về làm phát là một vấn đề rộng, để định nghĩa về nó đòi hỏi phải có sự
đầu tư sâu và kỹ càng. Chính vì thế bản thân cũng chỉ mạnh dạn nêu ra các quan
điểm và suy nghĩ của mình về lạm phát một cách đơn giản chứ không đầy đủ về

vấn đề lạm phát.
Chúng ta có thể dễ chấp nhận quan điểm của trường phái giá cả. Sở dĩ như
vậy vì gần đây lạm phát hầu như diễn ra ở đại đa số các nước mà sự tăng giá là
dấu hiệu nhạy bén và dễ thấy nhất của lạm phát. Như vậy, chúng ta sẽ hiểu đơn
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
2
giản là “lạm phát là sự tăng giá kéo dài, là sự thừa của đồng tiền trong lưu thông,
là việc nhà nước phát hành thêm tiền để bù đắp bội chi ngân sách”. Nói chung,
lạm phát là một hiện tượng của các nền kinh tế thị trường, định nghĩa lạm phát
còn rất nhiều để chúng ta có thể nghiên cứu sâu hơn, nhưng khi xảy ra lạm phát
thì tác động của nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế, xã hội.
1.2. Tác động của lạm phát
1.2.1. Các hiệu ứng tích cực :
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ
tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu
bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm
cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi.
Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo
thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
1.2.2. Các hiệu ứng tiêu cực:
Đối với lạm phát dự kiến được: Trong trường hợp lạm phát có thể được dự
kiến trước thì các thực thể tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với
nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội.
• Chi phí da giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền
và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát
làm cho người ta giữ ít tiền hơn hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải
thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ
"chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời
gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.

• Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh
nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
• Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường
hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí
thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi
phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối
so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa
trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc
độ vi mô.
• Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý
muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm
phát.
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
3
Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi
nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập
trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
• Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm
thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co
giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
Đối với lạm phát không dự kiến được :
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải
giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường
được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được
hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người
cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến
thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực
của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là

không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức
vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc
phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do
vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.
Nhìn chung, khi lạm phát ở mức cao sẽ có ảnh hưởng xấu tới xã hội. Do
đó, Chính phủ phải có giải pháp khắc phục, kiềm chế và kiểm soát lạm phát. Có
nhiều giải pháp để kiểm soát lạm phát nhưng ở tiểu luận này tôi chỉ xin phân tích
giải pháp sử dụng chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát.
2. Chính sách tiền tệ:
2.1. Khái niệm :
Chính sách tiền tệ (CSTT) là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính
phủ hay ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt- như kiềm
chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay
tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại
lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị
trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
2.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ :
2.2.1 Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung
ương đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng
thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở
cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
4
2.2.2 Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần
vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toan
(cho vay) của các Ngân hàng thương mại.
2.2.3 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung
ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu
về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng

thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng
thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
2.2.4 Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong
thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng
thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm
hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là
tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung
ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ
nhất định.
2.2.5 Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính
hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín
dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân
hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín
dụng cho nền kinh tế.
2.2.6 Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội
tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên
quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung
cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh
trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất,
xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế,
thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ
của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông.
Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ
giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
3. Chính sách tiền tệ với kiểm soát lạm phát.
Chính sách tiền tệ thắt chặt là việc chủ động giảm cung đầu tư và cắt giảm
cầu tiêu dùng được tài trợ bởi tín dụng cá nhân. Xét trên tương quan tài sản và tiêu
dùng, các cá nhân sẽ giảm chi tiêu và tăng tỷ lệ tiết kiệm để dành cho tiêu dùng
tương lai. Do vậy, trong ngắn hạn thắt chặt tiền tệ ảnh hưởng về phía cầu của thị
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa

Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
5
trường và làm suy giảm sản lượng và giá cả. Do chi phí vốn tăng cao, nhà sản xuất
sẽ cắt giảm vốn đầu tư và tín dụng lưu động để giảm sản lượng tương ứng.
Trong trường hợp thắt chặt tiền tệ cần thực hiện từng bước để đảm bảo
rằng thị trường tiền tệ không bị sốc, đảm bảo sự ổn định hệ thống tài chính và
kiểm tra mức độ chịu đựng của thị trường tiền tệ.
Do chính sách tiền tệ có độ trễ nhất định từ các chính sách (khoảng hai
quý), nên hiệu quả chống lạm phát của chính sách thắt chặt tiền tệ chúng ta chưa
hy vọng có một kết quả ngay.
Thắt chặt tiền tệ không có nghĩa rằng lạm phát gia tăng do chi phí vốn tăng
cao, đẩy giá hàng hóa tăng. Trên thực tế tổng chi phí vốn sẽ giảm do doanh
nghiệp sẽ cắt giảm vốn lưu động và nhân sự và chi phí nói chung để đáp ứng mức
cầu mới yếu hơn.
Điều này có nghĩa rằng, các nhà sản xuất sẽ phải chấp nhận mức tăng giá
cân bằng thấp hơn mức tăng giá trước đây. Điều này hoàn toàn ngược lại với
quan điểm cho rằng lãi suất cao sẽ dẫn tới chi phí vốn doanh nghiệp cao. Một
điều hoàn toàn bình thường là với mức lãi suất cao, doanh nghiệp sẽ ngừng và
giảm vay tiền, tức là điều chỉnh hành vi, chứ không phải là chấp nhận mức chi
phí cao và tiếp tục sản xuất.
Câu hỏi đặt ra là mức thắt chặt như thế nào là đủ?
Không thể có một câu trả lời chính xác, nó tùy thuộc vào niềm tin của thị
trường với hiệu quả của chính sách tiền tệ. Nhiều người cho rằng, thị trường chưa
tin chính sách kiểm soát lạm phát với bằng chứng giá cả tăng ngay sau khi tỷ giá
và giá xăng tăng, phớt lờ tuyên bố kiềm chế lạm phát của Chính phủ và Ngân
hàng Nhà nước.
Tuy nhiên, đó chỉ là bề nổi và thực tế cho thấy đây là một phản ứng bình
thường của thị trường với một số hàng thiết yếu chứ không phải với nhiều mặt
hàng khác. Đồng thời chính sách tiền tệ có độ trễ và cần sự kiểm chứng trong
thời gian tới. Như vậy, việc giá tăng do tỷ giá và giá xăng không phản ánh được

tính hiệu quả của chính sách tiền tệ.
II. VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI KIỂM SOÁT LẠM
PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY.
Theo lý thuyết tài chính tiền tệ thì mục tiêu tăng trưởng kinh tế và kiểm soát
lạm phát có sự “mâu thuẫn” nhau. CSTT tác động đến lạm phát trong dài hạn
nhưng lại tác động đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Việc thực thi CSTT
“thắt chặt” trong dài hạn để kiềm chế lạm phát sẽ gây ra tình trạng thất nghiệp tăng
vì tăng trưởng kinh tế bị chậm lại do nhu cầu đầu tư và tiêu dùng giảm. Nếu thực
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
6
hiện “nới lỏng” CSTT để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong dài hạn sẽ “phản tác
dụng” vì không làm tăng trưởng kinh tế mà sẽ kéo nền kinh tế vào tình trạng lạm
phát cao. Chính vì vậy, việc xây dựng và thực thi CSTT sao cho phù hợp với “sức
khoẻ” của nền kinh tế, lựa chọn mục tiêu “ưu tiên” trở thành một trong những
nhiệm vụ quan trọng nhất của CSTT mà NHTW phải hướng tới.
Sơ đồ hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô của NHTW
Thực tế sử dụng CSTT tại Việt Nam trong thời gian qua của NHNN.
Có thể nói trong khoảng thời gian 2007 đến nay, chúng ta đã trải qua nhiều
cảm xúc khác nhau của nền kinh tế, từ sự lo lắng, nhiều khi đến “sợ hãi” khi nền
kinh tế đạt mức lạm phát cao kỷ lục trong vòng gần 20 năm trở lại đây tới sự suy
giảm kinh tế trầm trọng bởi khủng hoảng tài chính tại Mỹ và Châu Âu bởi “cho
vay dưới chuẩn”. Khủng hoảng cho vay dưới chuẩn đã đẩy các quốc gia phát
triển rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng nhất từ sau cuộc “đại suy thoái”
1929-1933, hầu hết các nền kinh tế phát triển (Mỹ, Nhật, Euro zone đều tăng
trưởng âm). Thậm chí có một số quốc gia còn rơi vào bờ vực phá sản như
Iceland, Ukraina, Pakistan, Hi Lạp
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
Công cụ

CSTT
của
NHTW
thay đổi
Cung ứng
tiền
M1
M2
M3
L
Lãi
suất,
dự
trữ,
tỷ giá
GDP,
việc làm,
lạm phát
Làm thay
đổi
Làm
thay
đổi
Tác
động
Mục tiêu điều tiết
Mục tiêu trung gianHoạt động điều tiết
7
Nguồn: imf. org
Với những yếu tố bất lợi đó đã làm cho Việt Nam cũng không thoát khỏi

vòng xoáy của sự suy giảm kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam suy
giảm mạnh, từ mức 8,48% năm 2007 xuống còn 6,52% năm 2008 và chỉ còn
5,32% năm 2009
(1)
. Đây là mức suy thoái tồi tệ nhất của Việt Nam trong hơn 10
năm trở lại đây
Nguồn: Tổng cục thống kê
Trước tình huống đó, NHNN đã có hàng loạt các biện pháp quyết liệt và
đúng đắn để ngăn ngừa suy thoái kinh tế và dần lấy lại đà phục hồi cho nền kinh
tế Việt Nam. Nhìn chung, trong khoảng thời gian 3 năm 2007-2009, NHNN đã có
những biện pháp khá linh hoạt trong điều hành CSTT từ “thắt chặt” trong khoảng
thời gian 2007-2008 và “nới lỏng” từ đầu năm 2009-2010.
Giai đoạn “thắt chặt” chính sách tiền tệ:
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
8
Năm 2007-2008 đánh dấu thời điểm lạm phát “phi mã” sau nhiều năm tốc
độ lạm phát ở mức “vừa phải”. Nguyên nhân của lạm phát có thể do cầu kéo (do
tổng cầu của nền kinh tế gia tăng), chi phí đẩy (do các yếu tố chi phí đầu vào
tăng), thiếu hụt cung (khi nền kinh tế đạt tới hoặc vượt quá mức sản lượng tiềm
năng), cung tiền tăng quá mức (việc tăng tổng phương tiện thanh toán - M2) và
yếu tố tâm lý (lạm phát kỳ vọng). Phân tích lạm phát ở nước ta các năm gần đây,
có đủ các nguyên nhân, vừa là lạm phát chi phí đẩy – do chi phí đầu vào (nguyên
vật liệu, vận tải, kho bãi, năng lượng, tiền lương ) tăng, đẩy giá bán ở đầu ra lên
cao; vừa là lạm phát cầu kéo – do nhu cầu của người tiêu dùng, doanh nghiệp và
Chính phủ tăng cao, kéo theo tăng giá bán của các loại hàng hoá, dịch vụ; vừa là
lạm phát kỳ vọng – phát sinh từ các yếu tố tâm lý và đầu cơ. Tuy nhiên, năm
2008 nước ta được coi là “nhập khẩu lạm phát” tức là nguyên nhân gây ra lạm
phát năm 2008 chủ yếu là lạm phát do chi phí đẩy. Ngoài việc giá các yếu chi phí
đầu vào trên thị trường thế giới tăng cao kỷ lục (dầu thô vượt ngưỡng hơn 147

USD/ thùng, giá phôi thép, thép 830 USD/tấn, gạo hơn 1.000 USD/tấn, phân bón,
vải sợi đều tăng cao) còn do yếu tố nội sinh của nền kinh tế nước ta. Đó là mức
tăng trưởng tín dụng cũng bị đẩy lên mức cao, giá điện sinh hoạt và sản xuất
tăng, chính phủ tiến hành cải cách tiền lương làm thu nhập dân cư tăng và chi phí
của doanh nghiệp tăng cao đã càng làm trầm trọng thêm áp lực lạm phát. Trong
điều hành CSTT, việc sử dụng công cụ thị trường mở và tỷ giá hối đoái đôi khi
có những sai lầm không đáng có, làm cho mức độ lạm phát lại có xu hướng tăng.
Đặc biệt là trong năm 2008, do tỷ giá giữa USD/VND xuống thấp kỷ lục bởi
đồng USD giảm giá do ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế ở Mỹ và việc FED cắt
giảm lãi suất cơ bản đồng USD xuống mức thấp nhất trong nhiều năm qua (có lúc
xuống 0,25%) khiến cho việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam gặp nhiều khó
khăn.
Diến biến tỷ giá VND/USD từ 2007-2009
Để khuyến khích xuất khẩu, NHNN đã quyết định mua vào hơn 7 tỷ USD,
tương đương với việc “bơm” thêm hơn 112.000 tỷ VND vào nền kinh tế làm cho
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
9
lạm phát càng thêm trầm trọng. Biện pháp mua vào 7 tỷ USD có mặt tích cực đó
là gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia (còn đang ở mức rất thấp so với các nước
trong khu vực), đồng thời nâng giá trị đồng USD nhằm khuyến khích nền kinh tế
xuất khẩu qua đó tạo điều kiện phát triển sản xuất trong nước, điều chỉnh giảm
bội chi cán cân thương mại. Mặc dù sau đó, NHNN đã thực hiện nghiệp vụ thị
trường mở (Open Market) để “hút” tiền trở lại nhưng chỉ thu hồi được hơn
82.000 tỷ. Tuy nhiên, việc làm này vẫn làm gia tăng áp lực lớn về lạm phát vì với
một khối lượng tiền quá lớn đã được NHNN cung vào nền kinh tế. Thời kỳ này,
NHNN đã áp dụng hàng loại các biện pháp quyết liệt cùng Chính phủ sử dụng
CSTK nhằm kiềm chế lạm phát. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã thể
hiện quyết tâm của Chính phủ trong chống lạm phát bằng câu nói nổi tiếng “hy
sinh tăng trưởng để kiềm chế lạm phát”. NHNN đã sử dụng đồng bộ các công cụ

của CSTT như: lãi suất cơ bản (LSCB) VND được tăng lên mức cao nhất trong
nhiều năm qua (14%/năm), dự trữ bắt buộc (DTBB) là 11%, giảm hạn mức cho
vay đầu tư bất động sản và chứng khoán ở mức không quá 20% vốn điều lệ hoặc
không vượt quá 3% tổng dư nợ tín dụng, bắt buộc các TCTD mua 20.300 tỷ tín
phiếu bắt buộc có kỳ hạn 12 tháng với lãi suất chỉ có 7,58%/năm và không được
sử dụng để tái chiết khấu tại NHNN, thực hiện các phiên giao dịch thị trường mở
(OM-Open market) để “hút” tiền về.
Biểu đồ lãi suất cơ bản VND (%/năm)
Nguồn: NHNN Việt Nam
Biến động tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi VNĐ ngắn hạn (%)
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
10
Nguồn: NHNN Việt Nam
Đồng thời Chính phủ cũng thực hiện CSTK “thắt lưng buộc bụng” nhằm
hạn chế lượng tiền trong lưu thông như tạm hoãn, giãn tiến độ các dự án đầu tư
xây dựng cơ bản kém hiệu quả (tiết kiệm hơn 40.000 tỷ VND). Dồn vốn cho các
dự án đầu tư mang lại hiệu quả tức thời cho nền kinh tế như các dự án nhà máy
lọc dầu, nhà máy điện, xi măng Chính phủ còn giao các đơn vị hành chính sự
nghiệp và doanh nghiệp nhà nước phải tiết kiệm chi thường xuyên 10%, tăng
cường chống thất thu thuế và nuôi dưỡng nguồn thu, cơ cấu lại các khoản nợ và
rà soát lại các khoản vay của các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức đánh giá hiệu
quả hoạt động đầu tư của các tập đoàn, tổng công ty thuộc sở hữa nhà nước
Giai đoạn “nới lỏng” CSTT từ cuối năm 2008 tới đầu 2011.
CSTT bao giờ cũng có độ trễ thời gian nhất định. Việc “thắt chặt” tiền tệ
mạnh tay của Chính phủ đã có tác dụng làm giảm lạm phát nhanh nhưng cũng
làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại vì luồng tiền dành cho nhu cầu đầu
tư, tiêu dùng giảm, lãi suất vay vốn quá cao làm cho các doanh nghiệp không thể
tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng, hàng loạt doanh nghiệp vừa và nhỏ rơi
vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản. Cùng với việc nền kinh tế thế giới rơi

vào khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ do “cho vay dưới chuẩn” trong lĩnh
vực bất động sản gây ra. Mỹ, Nhật, EU và nhiều quốc gia khác rơi vào suy thoái
khiến cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá giảm, chu chuyển vốn đầu tư FDI, FII
giảm gây khó khăn cho việc xuất khẩu và nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam đã
càng làm cho kinh tế nước ta rơi vào suy thoái trầm trọng hơn. Vì vậy, cuối năm
2008 khi lạm phát có xu hướng “hãm phanh” thì cũng là lúc NHNN quay lại thực
hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Việc thực hiện “thắt chặt” tiền tệ đòi hỏi kết
hợp chặt chẽ giữa CSTT và CSTK mới đem lại hiệu quả tốt nhất thì việc “nới
lỏng” tiền tệ cũng đòi hỏi việc làm tương tự. Điều đó thể hiện ở việc Chính phủ
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
11
tiến hành thực hiện 5 nhóm giải pháp cấp bách nhằm “ngăn chặn đà suy giảm
kinh tế, duy trì tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội”. Trong đó kích cầu nền
kinh tế là một trong những giải pháp trọng tâm. Chính phủ đã dùng 9 tỷ USD cho
gói kích cầu kinh tế (đứng thứ 3 thế giới về tỷ trọng gói kích cầu/tổng GDP, chỉ
sau Trung Quốc và Malaixia) trong đó dành riêng 1 tỷ đô la (tương đương hơn 17
ngàn tỷ đồng) từ dự trữ ngoại hối quốc gia để hỗ trợ giảm 4% lãi suất vay vốn lưu
động ngắn hạn cho doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân để sản xuất, kinh doanh
nhằm giảm giá thành hàng hoá và tạo việc làm. Đây là cách làm khá độc đáo và
sáng tạo, “rất Việt Nam” nhưng mang lại hiệu quả khá cao. Sau đó, vào ngày
04/04/2009, Chính phủ tiếp tục hỗ trợ 4% lãi suất và kéo dài thời hạn hỗ trợ đến
hết năm 2011 cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân vay vốn trung dài hạn để
đầu tư mới cho sản xuất kinh doanh. Bằng việc hỗ trợ lãi suất, Chính phủ đã
khuyến khích tăng nhanh chóng nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp vốn đang
rất thiếu vốn sản xuất đồng thời mở đầu ra cho các NHTM vốn đang trong tình
trạng dư thừa vốn. Tính đến 12/11/2009, theo NHNN, tổng dự nợ trong chương
trình hỗ trợ lãi suất đã lên tới trên 414.460,21 tỷ đồng trong đó DNNN vay
62.605,20 tỷ đồng, DN ngoài quốc doanh 285.290,27 tỷ đồng, hộ sản xuất
66.565,02 tỷ đồng. Chính phủ cũng quyết định giảm thuế cho các doanh nghiệp

vừa và nhỏ 30% số TNDN của quý IV/2008 và cả năm 2009. Đối với 70% số
thuế còn lại của năm 2009, các doanh nghiệp được giãn thời hạn nộp trong 9
tháng. Các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản, dệt may, da giày,
linh kiện điện tử được áp dụng thời hạn giãn thuế tương tự. Để thúc đẩy xuất
khẩu, Chính phủ cũng đã quyết định giảm 50% thuế suất thuế GTGT từ
01/02/2009 đến 31/12/2009 đối với một số hàng hóa, dịch vụ; tạm hoàn 90% thuế
giá trị gia tăng đối với hàng hóa thực xuất và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ
thanh toán.
CSTT “nới lỏng”của NHNN kết hợp CSTK của Chính phủ.
Từ tháng 10/2008, NHNN đã chuyển hướng điều hành chính sách tiền tệ từ
”thắt chặt” sang ”nới lỏng” một cách thận trọng bằng các biện pháp:
- Điều chỉnh giảm các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản giảm từ
13%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 14%/năm xuống 7%/năm,
lãi suất tái chiết khấu giảm từ 12%/năm xuống 5%/năm).
Diễn biến lãi suất huy động, cho vay bằng VND và lạm phát từ 2008-2009
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
12
Nguồn: NHNN Việt Nam
- Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND từ 11% xuống 3%;
điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ thanh
khoản cho NHTM; điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 10%/năm
xuống 1,2%/năm.
- Điều hành linh hoạt tỷ giá USD/VND (điều chỉnh tăng tỷ giá giao dịch
USD/VND bình quân thị trường liên ngân hàng, tăng biên độ tỷ giá giữa VND
với USD từ +3% lên +5% đối với giao dịch mua bán của các NHTM); can thiệp
mua bán ngoại tệ và thực hiện các biện pháp chống đầu cơ ngoại tệ.
- Cho phép các TCTD được xin chiết khấu, tái chiết khấu và thanh toán
trước hạn 20.300 tỷ tín phiếu bắt buộc đã mua trước hạn. Thực hiện các phiên
giao dịch thị trường mở mua vào các GTCG nhằm cung thêm vốn cho nền kinh tế

thông qua các TCTD. NHNN tiến hành nghiệp vụ bán ngoại tệ làm giảm tỷ giá để
hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống, điều
hoà cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
CSTT chặt chẽ, thận trọng năm 2011 nhằm kiểm soát lạm phát.
Trong bối cảnh kinh tế đất nước đầu năm 2011, nói đến kinh tế vĩ mô là
chúng ta nói đến lạm phát, tăng trưởng, thâm hụt ngân sách, thâm hụt cán cân
thương mại, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán tổng thế, tỷ lệ giữa đầu tư và
tích lũy, tỷ lệ thất nghiệp, biến động của tỷ giá và dự trữ ngoại hối nhà nước, tỷ lệ
nợ quốc gia, tỷ lệ nợ công…. Các chỉ số và tỷ lệ trong các lĩnh vực nêu trên phụ
thuộc lẫn nhau, tác động qua lại và đan xen lẫn nhau, và trong nhiều trường hợp
lại có tính triệt tiêu lẫn nhau (được chỉ tiêu này lại mất chỉ tiêu kia). Do vậy, tùy
theo tình hình, đặc điểm của mỗi nước trong từng giai đoạn mà người ta quyết
định chỉ tiêu nào là chỉ tiêu tiên quyết phải đạt được, các chỉ tiêu khác là các chỉ
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
13
tiêu thỏa hiệp, sẵn sàng nhân nhượng, hay nói một cách khác là sẵn sàng điều
chỉnh để nhằm đạt được các chỉ tiêu tiên quyết.
Phân tích đặc điểm kinh tế của đất nước ta đầu năm 2011 cho thấy lạm
phát tăng cao trong nhiều năm và có biểu hiện tiếp tục tăng cao hơn trong năm
2011; nền kinh tế nước ta đã có độ mở và hội nhập rất lớn (kim ngạch xuất, nhập
khẩu đã trên 154% GDP). Trong bối cảnh đó, theo phân tích, đánh giá của nhiều
chuyên gia trong và ngoài nước, các tổ chức tài chính phát triển quốc tế, Việt
Nam nên chọn mục tiêu kiềm chế lạm phát; cải thiện và tăng dự trữ quốc gia là
hai mục tiêu tiên quyết cho giai đoạn phát triển hiện nay; các mục tiêu khác phải
là các mục tiêu thỏa hiệp, sẽ điều chỉnh một cách thích hợp nhằm đạt được hai
mục tiêu tiên quyết nói trên. Điều này có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong
giai đoạn hiện nay, tạo ra một sự nhất quán trong các chính sách và giải pháp của
Chính phủ và khi đạt được các mục tiêu tiên quyết này sẽ củng cố và nâng cao
được vị thế đối nội và vị thế đối ngoại của nền kinh tế đất nước.

Kết luận 02-KL/TW của Bộ Chính trị cũng như Nghị quyết 11/NQ-CP của
Chính phủ đã chỉ rõ những chủ trương, chính sách, giải pháp đồng bộ cho các
cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô.
Với Nghị quyết 11/NQ-CP Chính phủ chủ trương thực hiện chính sách tiền
tệ chặt chẽ, thận trọng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các
Bộ, cơ quan, địa phương:
a) Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa
chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; điều hành và kiểm
soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương
tiện thanh toán khoảng 15 - 16%; tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát
triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ
trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu
vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán.
b) Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ,
nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát.
c) Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến
thị trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để
các tổ chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán
ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo
đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản
xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối.
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
14
d) Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong quý II năm 2011
trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo
hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng
miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua
biên giới.

đ) Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Công Thương, Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan chức năng kiểm tra,
giám sát việc tuân thủ các quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng. Ban
hành quy định và chế tài xử lý vi phạm, kể cả việc đình chỉ, rút giấy phép hoạt
động, thu tài sản; quy định khen, thưởng đối với việc phát hiện các hành vi vi
phạm hoạt động thu đổi, mua bán ngoại tệ, vàng. Xử lý nghiêm theo pháp luật đối
với hành vi cố tình vi phạm.
Từ những giải pháp mà Nghị quyết 11/NĐ-CP đưa ra ta thấy rằng không
có một giải pháp đơn lẻ nào có thể giải quyết được mọi vấn đề. Các giải pháp có
mối liên kết, tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung nhau, có nhóm giải pháp là tiền đề,
điều kiện để thực hiện các nhóm giải pháp khác, và đến lượt mình, các nhóm giải
pháp này lại là cơ sở để củng cố và tạo điều kiện cho các giải pháp kia phát huy
tác dụng. Do vậy, nguyên tắc cơ bản là tính đồng bộ và quyết liệt của các giải
pháp, sự phối hợp nhịp nhàng, linh hoạt của các Bộ, ngành, chính quyền địa
phương các cấp.
Trong ngắn hạn nhóm giải pháp về chính sách tiền tệ có hiệu ứng nhanh
nhất. Tuy nhiên, những kết quả mà chính sách này mang lại sẽ không bền vững
nếu nhóm các giải pháp khác như chính sách tài khóa, chính sách đầu tư, chuyển
đổi cơ cấu kinh tế … không kịp thời được triển khai đồng bộ.
Một số điều kiện để CSTT kiềm chế lạm phát
Từ những phân tích trên ta có thể thấy rằng Việt Nam sẽ thành công với
chính sách tiền tệ kiềm chế lạm phát với một số điều kiện.
Thứ nhất, chính sách tiền tệ phải nhất quán. Hiệu quả của chính sách tiền
tệ phụ thuộc rất lớn vào niềm tin của thị trường, thể hiện ngay từ lúc tạo lập kế
hoạch kinh doanh của doanh nghiệp cho một kỳ kinh doanh phía trước, bao gồm
cả kế hoạch về giá. Nếu thị trường tin tưởng vào khả năng kiểm soát lạm phát của
cơ quan chính sách, các kỳ vọng lạm phát đã được hình thành ngay từ giai đoạn
đầu của một kỳ kinh tế.
Tuy nhiên, để có được sự tin tưởng của thị trường, cơ quan chính sách phải
tạo lập được niềm tin thông qua tính nhất quán, cương quyết của chính sách tiền tệ.

Việt Nam đã có những bài học rất rõ ràng về vấn đề này trong kiểm soát lạm phát
thời gian qua dẫn tới việc thị trường không tin rằng chính sách tiền tệ có thể làm
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
15
giảm lạm phát được. Khôi phục lại niềm tin này cần thời gian và vì vậy Ngân hàng
Nhà nước cần kiên định mục tiêu giảm dự nợ tín dụng trong thời gian đủ dài.
Thứ hai, chính sách tiền tệ cần sự hỗ trợ từ chính sách tài khóa. Do cấu
trúc thể chế trong thực thi chính sách tài chính và tiền tệ, việc thực hiện chính
sách kiểm soát lạm phát ở Việt Nam không thể thành công nếu không có sự cam
kết chi tiêu từ chính sách tài khóa. Việc này cho thấy tăng trưởng mức cầu từ chi
tiêu của Chính phủ phải hợp lý và rõ ràng.
Trong một nghiên cứu gần đây, có một kênh gián tiếp xảy ra: khi chi tiêu
Chính phủ tăng thì nguồn tài trợ sẽ gián tiếp chảy từ Ngân hàng nhà nước thông
qua vòng chu chuyển của trái phiếu Chính phủ qua các ngân hàng thương mại.
Điều này cho thấy chính sách tiền tệ có thể sẽ bị động do chính sách tài khóa mở
rộng và việc này làm giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ. Do vậy, cắt giảm chi
tiêu công và tập trung chi tiêu vào các hạng mục đầu tư có hiệu quả và các hạng
mục mang lại lợi ích xã hội cao hơn là cố gắng chi tiêu để tăng trưởng kinh tế
nhờ vào sức cầu của chi tiêu chính phủ. Đây chính là điều mà các chính sách thắt
chặt đầu tư công đang thể hiện hiện nay
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước thực hiện kiểm soát ngoại hối kiên định.
Việc này là quan trọng giúp cho quá trình điều hành chính sách tỷ giá được chủ
động, minh bạch và có cơ sở để điều hành chính sách tỷ giá nhịp nhàng.
Chẳng hạn việc điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng tăng 9% trong quý 1/2011
có thể phản ánh đúng xu hướng của tỷ giá thực giữa VND và USD. Tuy nhiên
mức độ điều chỉnh lớn đã gây ra một cú sốc với hàng hóa và nguyên liệu nhập
khẩu và từ đó tạo tâm lý không tốt cho thị trường. Có lẽ, điều chỉnh tỷ giá linh
hoạt làm nhiều lần với biên độ nhỏ và có định hướng rõ ràng sẽ thuận lợi hơn cho
điều hành chính sách tiền tệ nói chung và tạo tâm lý tốt hơn cho thị trường.

Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
16
Mặc dù năm trong khoảng thời gian 2007-2011 có những biến động rất lớn
của tình hình kinh tế, chính trị thế giới ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam nhưng
Chính phủ, NHNN và các TCTD đã có những biện pháp kịp thời, sáng tạo đưa
Việt Nam trở thành một trong những nước có tốc độ tăng trưởng khá trong khu
vực và thế giới. Có được thành công trên là do NHNN đã sử dụng rất kịp thời,
đúng đắn, quyết liệt các công cụ CSTT phù hợp với từng điều kiện của nền kinh
tế trong từng thời kỳ. ‘‘Thắt chặt” khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát cao
giai đoạn 2007-2008, đầu 2011 và “nới lỏng” khi nền kinh tế rơi vào tình trạng
suy thoái bởi khủng hoảng tài chính toàn cầu. Qua đây, chúng ta cũng thấy được
tầm quan trọng của việc xây dựng và thực thi CSTT đối với sự phát triển kinh tế
của quốc gia. Cũng qua thực tế nêu trên khẳng định thêm về mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và lạm phát, cũng như việc kết hợp CSTT với CSTK hợp lý
sẽ tạo được hiệu quả lan toả tốt hơn cho nền kinh tế.
Nguồn: Tổng cục thống kê
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu chính sách tiền tệ quốc gia, chúng ta thấy rõ
được vai trò và ý nghĩa của nó trong nền kinh tế bởi chính sách tiền tệ là công cụ
điều tiết nền kinh tế vĩ mô của nhà nước. Nên vị trí của chính sách tiền tệ hết sức
quan trọng.
Hoạch định một chính sách tiền tệ đòi hỏi cả một quá trình, sự linh hoạt và
sự thống nhất trong sự áp dụng trên thực tiễn trước bối cảnh kinh tế quốc tế hiện
nay.
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
17
Bằng sự nổ lực hiện tại và trong tương lai, sự kế thừa và phát huy những
thành tựu của chính sách tiền tệ, chắc chắn chính sách tiền tệ Việt Nam sẽ đóng

góp vai trò quan trọng trong việc xây dựng một đất nước giầu mạnh, ổn định và
phát triển sánh vai với các bạn bè quốc tế.
Tiểu luận môn : Chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
Vũ Ngọc Sang – Lớp Quản lý công K17c Nam Định
18

×