Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua – Dự báo trong thời gian tới và đề xuất một số giải pháp.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.27 KB, 72 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lạm phát từ khi xuất hiện đến nay luôn là một trong những vấn đề được đề cập
đến rất nhiều trong mỗi nền kinh tế cũng như trong nền kinh tế toàn cầu. Là một trong
bốn đỉnh của “tứ giác mục tiêu”, việc kiềm chế lạm phát đóng vai trò quan trọng trong
chiến lược phát triển của mỗi quốc gia bởi nó tác động trực tiếp đến lợi ích của các cá
nhâ, tổ chức cũng như chính phủ.
Việt Nam sau khi thống nhất đất nước đã trải qua những thời kỳ “thăng trầm”
của lạm phát. Từ chỗ chưa được chính thức thừa nhận trong nền kinh tế những năm đầu
giải phóng đến cơn bão siêu lạm phát những năm 1986-1988 sau đó “im lặng” trong một
giai đoạn giảm phát, lạm phát lại bùng trở lại ở nước ta sau khi mở cửa nền kinh tế, gia
nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Năm 2007, một năm sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO, lạm phát
phi mã đánh dẫu sự trở lại bằng việc đưa chỉ số giá tiêu dùng lên 12,6%. Năm tháng đầu
năm 2008, chỉ số lạm phát đã vượt qua cả mục tiêu lạm phát cả năm do Quốc hội đề ra
và tỷ lệ lạm phát của cả năm ngoái. Dường như nền kinh tế đang tăng trưởng quá nóng
và không hấp thu được hết những cơ hội của nó. Bên cạnh đó là những bất cập trong hệ
thống tài chính tiền tệ cũng như sự thiếu đồng bộ trong các chính sách của Chính phủ đã
dẫn tới tình trạng lạm phát như hiện nay. Yêu cầu đặt ra là phải nghiên cứu xác định
được đúng nguyên nhân lạm phát ở nước ta để có thể “kê đơn đúng bệnh” và đưa ra
những dự đoán trong thời gian tới nhằm chuẩn bị một cách tốt nhất cho nền kinh tế
trong giai đoạn mở cửa hơn nữa.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó và qua nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này trong
quá trình học tập cũng như trong thực tế, em đã quyết định chọn đề tài: “Tình hình lạm
phát ở Việt Nam trong thời gian qua – Dự báo trong thời gian tới và đề xuất một số giải
pháp” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Khóa luận được hình thành trên cơ sở xác định:
♦ Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về lạm phát
- Nghiên cứu thực trạng và những nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam
trong thời gian gần đây. Nhìn nhận các giải pháp của chính phủ và rút ra những
1


thành công cũng như hạn chế của các giải pháp đó. Cuối cùng đưa ra những dự
đoán về xu thế của lạm phát trong thời gian tới.
- Đễ xuất một số giải pháp
♦ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài vấn đề lạm phát trong nền kinh tế
- Phạm vi nghiên cứu: tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời gian gần đây (từ
sau giải phóng đến nay)
♦ Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp sử dụng trong khóa luận này là phương pháp
tiếp cận hệ thống duy vật biện chứng, logic và lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ
thể được sử dụng là phương pháp tiếp cận thực tế các vấn đề lý luận, phân tích, tổng
hợp, so sánh, mô hình hóa và sơ đồ hóa dựa trên cơ sở các số liệu thực tế.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận được trình bày theo 3 chương:
Chương I: Tổng quan về lạm phát
Chương II: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam và các chính sách của Chính phủ
Chương III: Xu hướng lạm phát của Việt Nam và các giải pháp kiềm chế lạm phát
trong thời gian tới
Trong quá trình thực hiện khoá luận này tác giả đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt
tình của:
- Thư viện Quốc gia Hà Nội
- Thư viên trường Đại học Ngoại Thương
Và đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo cùng những chỉ bảo cặn kẽ của
Tiến sỹ Tăng Văn Nghĩa, Khoa Quản trị kinh doanh, trường Đại học Ngoại Thương Hà
Nội.
Em xin chân thành cảm ơn những giúp đỡ quý báu đó.
Ngày 3 tháng 6 năm 2008
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Hương Trà
2
CHƯƠNG I

TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
I. Khái niệm
1. Định nghĩa lạm phát
Lạm phát là một khái niệm kinh tế đã xuất hiện từ lâu, gắn liền với sự ra đời và
phát triển của tiền tệ. Quá trình phát triển tiền tệ ghi nhận nhiều sự thay đổi trong cách
định nghĩa lạm phát, từ việc giảm hàm lượng kim loại so với giá trị danh nghĩa của tiền
khi mà tiền tệ còn tồn tại chế độ bản vị kim loại, cho đến khi xuất hiện các lý thuyết về
lạm phát và mỗi lý thuyết có một cách nhìn nhận và đánh giá riêng về hiện tương kinh tế
này.
Các nhà kinh tế học theo trường phái “lạm phát tiền tệ”, đại biểu tiêu biểu là
Keynes và Friedman cho rằng “lạm phát là hiện tượng tiền giấy thừa so với nhu cầu lưu
thông hàng hoá và dịch vụ”. Tiền giấy mất giá nên giá cả tăng lên, và “lạm phát ở bất kỳ
nơi nào luôn là một hiện tượng tiền tệ với nghĩa là, nó được và có thể được tạo ra chỉ
bằng cách tăng lượng tiền nhanh hơn so với tăng sản lượng”
Trường phái “lạm phát giá cả” hay quan điểm lạm phát của nhà kinh tế học nổi
tiếng Paul A. Samuelson và William D. Nordhaus cho rằng lạm phát là việc giá cả hàng
hoá tăng lên, không kể trong dài hạn hay ngắn hạn, mang tính đột xuất hay theo chu kì
[21].
Vậy lạm phát là gì? Có nhiều quan điểm khác nhau nhưng hầu hết các nhà kinh
tế học đều đưa ra một đặc điểm chung về lạm phát đó là “hiện tượng giá cả tăng nhanh,
liên tục và kéo dài làm cho tiền tệ mất giá so với hàng hóa và dịch vụ”
Lạm phát là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền kinh tế hàng hóa tiền tệ, còn
sản xuất hàng hóa và lưu thông tiền tệ thì còn lạm phát. Vấn đề chỉ là kiềm chế lạm phát
ở mức độ nào là hợp lý, bởi lạm phát ở mức hợp lý còn có tác dụng kích thích sản xuất
và tiêu dùng.
Bên cạnh khái niệm lạm phát, ta còn thường gặp khái niệm giảm phát và thiểu
phát, vậy đâu là sự khác nhau giữa hai hiện tượng này?
Giáo sư David N. Hyman cho rằng giảm phát là sự suy giảm mức giá chung của tổng
thể các hàng hoá và dịch vụ [18]. Còn hai nhà kinh tế học nổi tiếng P.A Samuelson và
3

W.D. Nordhaus cũng có quan điểm tương tự: giảm phát là hiện tượng trái ngược với
lạm phát, giảm phát xảy ra khi mức giá chung của các hàng hoá, dịch vụ giảm.
Vậy bản chất của giảm phát là sự suy giảm liên tục của mức giá chung của
các hàng hoá, dịch vụ. Khi giảm phát xảy ra, sức mua của tiền tệ tăng.
Giảm phát là hiện tượng ít gặp đối với các nền kinh tế nên người ta dễ nhầm lẫn
khái niệm này với thiểu phát. Để phân biệt, chúng ta sẽ xem xét khái niệm thiểu phát.
Theo thuyết "lạm phát giá cả", lạm phát là sự tăng lên của giá cả nói chung còn giảm
phát là sự giảm của giá cả nói chung, như vậy khái niệm thiểu phát không tồn tại.
Thuyết "lưu thông tiền tệ" mà những đại diện tiêu biểu là Milton Friedman, J. Bodin lại
cho rằng việc đưa quá nhiều tiền vào lưu thông làm giá cả tăng gây ra lạm phát. Còn nếu
lượng tiền trong lưu thông quá ít khiến giá cả giảm gọi là thiểu phát. Khi xảy ra thiểu
phát, chỉ số giá cả giảm tức là tốc độ tăng của chỉ số giá là âm. Giảm phát là trường hợp
xảy ra ngược lại đối với lạm phát. Khi chỉ số giá các năm sau càng cao hơn năm trước
thì lạm phát xuất hiện; nếu chỉ số giá ở các thời điểm nghiên cứu đều cao hơn thời điểm
được chọn làm mốc, nhưng càng về sau chỉ số giá càng thấp hơn thời điểm trước đó và
đây là biểu hiện của giảm phát. Trongthời kì thiểu phát, chỉ số giá không những càng về
sau càng giảm mà còn thường xuyên ở mức thấp hơn so với mức giá năm gốc.
2. Quy mô lạm phát
Người ta thường chia lạm phát thành 3 loại tùy theo mức độ của tỷ lệ lạm phát:
•Lạm phát vừa phải (Moderate inflation) là loại lạm phát mà tốc độ tăng giá cả
chậm, ở mức dưới một con số (dưới 10%) mỗi năm. Khi đó, tiền tệ mất giá không nhiều
và người ta tin tưởng vào giá trị của đồng tiền. ở hầu hết các nền kinh tế thị trường, lạm
phát vừa phải luôn tồn tại. Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động đáng
kể đối với nền kinh tế.
•Lạm phát phi mã (Galloping inflation) là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng với tốc
độ 2 hoặc 3 con số (30%, 50%, 100%, 500% . . .). Khi đó, tiền mất giá trị một cách
nhanh chóng và người ta chỉ nắm giữ một lượng tiền tối thiểu để đảm bảo cho các giao
dịch hàng ngày. Loại lạm phát này khi ở đỉnh cao sẽ gây ra những hiệu quả kinh tế
nghiêm trọng.
•Siêu lạm phát (Hyper inflation) là hiện tượng tốc độ tăng mức giá hết sức nhanh

chóng, có khi tới vài trăm phần trăm một tháng hay vài nghìn phần trăm mỗi năm. Siêu
lạm phát không thể kéo dài trong quá nhiều năm do tiền gần như mất hết giá trị, các
4
doanh nghiệp không thể hoạt động được và phá sản, người dân không dùng tiền trong
các giao dịch nữa và quốc gia gặp phải tình trạng này buộc phải cải tổ chính sách kinh tế
nước mình và tìm cách chấm dứt lạm phát.
3. Đo lường lạm phát
Để đánh giá được tác động của lạm phát đến nền kinh tế, từ đó đưa ra các chính
sách phù hợp trong từng giai đoạn lạm phát, ta cần phải đưa ra được công thức đo lường
chỉ số lạm phát. Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy
mô và sự biến động của nó phản ánh quy mô và xu hướng của lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát được tính như sau:
gp =
%1001 ×









p
n
I
I
Trong đó: gp là tỷ lệ lạm phát (%)
I
n

là chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu
I
p
là chỉ số giá cả của thời kỳ gốc
Trong thực tế, tỷ lệ lạm phát thường được biểu hiện qua các chỉ số giá cả:
▪ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI- Consumer Price Index) được sử dụng rộng rãi nhất để tính
tỷ lệ lạm phát. CPI đo lường mức giá bình quân gia quyền của một nhóm hàng hoá, dịch
vụ trong một khoảng thời gian. Số lượng, chủng loại hàng hoá nào được lựa chọn lại tuỳ
theo quy định của từng nước. Để tính toán chỉ số giá tiêu dùng, người ta phải thực hiện
các bước sau:
1. Cố định giỏ hàng hóa: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định lượng hàng hóa,
dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua.
2. Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hóa tại mỗi
thời điểm.
3. Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hóa bằng cách dùng số lượng nhân với
giá cả của từng loại hàng hóa rồi cộng lại.
4. Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu dùng bằng
công thức sau:
CPI
t
= 100 x
Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ t
Chi phí để mua giỏ hàng hoá kỳ cơ sở
Trên thực tế người ta có thể xác định quyền số trong tính toán chỉ số giá tiêu
dùng bằng cách điều tra để tính toán tỷ trọng chi tiêu của từng nhóm hàng hoá, dịch vụ
5
so với tổng giá trị chi tiêu. Sau đó quyền số này được dùng để tính chỉ số giá tiêu dùng
cho các thời kỳ sau. CPI thường được tính hàng tháng và hàng năm. CPI còn được tính
toán cho từng nhóm hàng hóa hoặc một số nhóm hàng hóa tùy theo mục đích sử dụng.
Tuy nhiên, khi sử dụng chỉ số giá tiêu dùng, ta cũng gặp phải một số vấn đề. Do

sử dụng giỏ hàng hoá cố định nên khi tính toán CPI có ba vấn đề chính dẫn đến hạn chế
của CPI sau đây:
Thứ nhất, CPI không phản ánh được độ lệch thay thế vì nó sử dụng giỏ hàng hoá
cố định. Khi giá cả một mặt hàng này tăng nhanh hơn so với các mặt hàng khác thì
người tiêu dùng sẽ có xu hướng ít tiêu dùng những mặt hàng đã trở nên quá đắt đỏ mà
tiêu dùng nhiều những hàng hoá đỡ đắt đỏ hơn. Yếu tố này làm CPI đã đánh giá cao hơn
thực tế mức giá. Ví dụ khi thịt gà trở nên mắc hơn do dịch cúm thì người tiêu dung sẽ
chuyển sang ăn cá biển với mục đích là cung cấp chất đạm cho cơ thể.
Thứ hai, CPI không phản ánh được sự xuất hiện của những hàng hoá mới vì nó
sử dụng giỏ hàng hoá cố định trong khi nếu có hàng hoá mới xuất hiện thì một đơn vị
tiền tệ có thể mua được các sản phẩm đa dạng hơn. Ví dụ ở TP.HCM khi mọi người đều
có điện thoại di động, giá của mặt hàng này đang giảm theo thời gian nhưng nó lại
không nằm trong rổ hàng hóa. CPI không phản ánh được sự gia tăng sức mua này của
đồng tiền nên vì thế lại đánh giá mức giá cao hơn thực tế.
Thứ ba, CPI không phản ánh được sự thay đổi của chất lượng hàng hoá vì nếu
mức giá của một hàng hoá cụ thể nào đó tăng nhưng chất lượng cũng tăng tương ứng
thậm chí tăng hơn thì trên thực tế mức giá không tăng. Chất lượng hàng hoá dịch vụ
nhìn chung đều có xu hướng được nâng cao nên CPI cũng đã phóng đại mức giá.
Ở nước ta hiện nay, việc tính toán CPI do TCTK đảm nhiệm. Quyền số để tính
CPI được xác định năm 2000 và bắt đầu áp dụng từ tháng 7 năm 2001. Quyền số này
dựa trên kết quả của hai cuộc điều tra là Điều tra mức sống dân cư Việt nam 1997-1998
và Điều tra kinh tế hộ gia đình năm 1999. Điều đáng chú ý là quyền số của nhóm hàng
LTTP chiếm tới 47,9% trong khi Văn hoá - Thể thao - Giải trí chỉ chiếm 3,8%.
Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng được TCTK rà soát 5 năm một lần để cập
nhật theo phương pháp luận quốc tế và thực tế của nước ta. Từ 1/05/2006, TCTK đã
quyết định cập nhật phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cho giai đoạn
2006-2010 tập trung vào 2 nội dung chính, bổ sung danh mục mặt hàng, dịch vụ tiêu
6
dùng sử dụng để điều tra giá cho phù hợp với thị trường tiêu dùng của người dân trong
giai đoạn hiện nay.

Theo đó, danh mục điều tra giá tiêu dùng đã nâng từ 396 mặt hàng (giai đoạn
2000-2005) lên 496 mặt hàng. Cùng với việc bổ sung danh mục, TCTK cũng tiến hành
cập nhật quyền số tính CPI. Quyền số được sử dụng để tính CPI là số liệu về cơ cấu tiêu
dùng các nhóm mặt hàng, dịch vụ tiêu dùng cho đời sống hàng ngày của người dân (sử
dụng kết quả điều tra khảo sát mức sống hộ gia đình của TCTK). Với quyền số mới, tỷ
trọng tiêu dùng lương thực thực phẩm của người dân bình quân cả nước giảm từ 47,9 %
trong tổng chi tiêu cho đời sống hàng ngày của người dân (giai đoạn 2000-2005) xuống
còn 42,8% giai đoạn 2006-2010.
Ở Việt Nam, chỉ số giá tiêu dùng hàng tháng được tính theo 3 gốc so sánh: tháng
trước, tháng 12 năm trước và cùng tháng năm trước. TCTK đã tổ chức điều tra, tính chỉ
số giá tiêu dùng hàng tháng theo 3 gốc so sánh nói trên. Bên cạnh đó, TCTK cũng đồng
thời tính chỉ số giá tiêu dùng hàng quý và cả năm với gốc so sánh là cùng kỳ năm trước
để cung cấp theo yêu cầu của một số đối tượng sử dụng. Việc tính chỉ số giá tiêu dùng
theo các gốc so sánh nói trên đã đáp ứng được yêu cầu điều hành và quản lý của các
ngành, các cấp và của nhiều đối tượng sử dụng.
Tuy nhiên, việc xác định chỉ tiêu kế hoạch lạm phát hàng năm theo chỉ số giá tiêu
dùng của tháng 12 năm báo cáo so với tháng 12 năm trước và trên cơ sở đó công bố số
liệu thực hiện cả năm theo nội dung này là chưa phù hợp với thông lệ quốc tế (các nước
đều công bố số liệu cả năm là chỉ số giá tiêu dùng cả năm so với năm trước). Với
phương pháp tính này, chỉ số CPI bị tác động rất lớn bởi giá cả của tháng 12. Đặc biệt,
với đặc thù của Việt Nam có dịp Tết Nguyên đán, tháng 12 là tháng áp Tết, nên giá cả
luôn có xu hướng tăng cao. Do vậy, nếu so với tháng 12 hàng năm, thì tốc độ tăng của
các tháng sau đó thường là thấp, nhưng khi giá cả các tháng sau Tết hạ xuống, thì tốc độ
tăng giá của các tháng sau đó lại cao. Các nước đã không dùng phương pháp tính so với
tháng 12 hàng năm, bởi độ chính xác không cao.
▪ Chỉ số giá sản xuất hay chỉ số giá bán của người sản xuất (PPI- Producer Price
Index) phản ánh sự biến động của mức giá bán buôn hay giá cả của đầu vào (chi phí sản
xuất). Chi phí đầu vào biến đổi sẽ dẫn tới những thay đổi về xu thế giá cả trên thị
trường.
7

▪ Chỉ số giảm phát GDP, còn gọi là Chỉ số điều chỉnh GDP (D
GDP
-GDP deflator) là chỉ
số tính theo phần trăm phản ánh mức giá chung của tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ sản
xuất trong nước. Chỉ số điều chỉnh GDP cho biết một đơn vị GDP điển hình của kỳ
nghiên cứu có mức giá bằng bao nhiêu phần trăm so với mức giá của năm cơ sở. (Số
liệu thống kê của Việt nam công bố đang tính GDP theo giá của năm 1994). Người ta
tính chỉ số giảm phát GDP theo công thức sau:
Chỉ số giảm phát GDP = 100 x
GDP danh nghĩa
GDP thực tế
Khác với CPI, D
GDP
được tính trên giỏ hàng hoá thay đổi do vậy nó phản ánh
được sự thay thế giữa các hàng hoá, dịch vụ với nhau. Mặc dù vậy nó lại không phản
ánh được sự giảm sút phúc lợi của người tiêu dùng trong trường hợp phải tiêu dùng ít
hơn một loại hàng nào đó. Ví dụ: do sau dịch cúm gà, giá gà trở nên quá đắt so với giá
thịt lợn nên người tiêu dùng sẽ mua ít thịt gà hơn và mua nhiều thịt lợn hơn. Phúc lợi
của người tiêu dùng đã giảm xuống do họ phải tiêu dùng thịt gà ít hơn nhưng D
GDP
không phản ánh được điều này cho dù nó phản ánh được sự thay thế giữa thịt gà và thịt
lợn.CPI chỉ phản ánh mức giá của hàng tiêu dùng còn D
GDP
phản ánh giá của cả hàng
hoá do doanh nghiệp, chính phủ mua. Vì thế D
GDP
được coi là phản ánh đúng hơn mức
giá chung.D
GDP
chỉ phản ánh mức giá của những hàng hoá sản xuất trong nước (vì GDP

chỉ tính sản phẩm trong nước) còn CPI phản ánh mức giá của cả hàng hoá nhập khẩu. Ví
dụ: khi giá một chiếc xe ô tô Toyota nhập khẩu tăng thì nó được phản ánh ở CPI nhưng
không được phản ánh ở D
GDP
.Tuy nhiên, trên thực tế, số liệu thống kê cho thấy sự khác
biệt giữa CPI và D
GDP
không lớn.
II Nguyên nhân của lạm phát
1. Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát cầu kéo (Demand - pull inflation) xảy ra khi tổng cầu tăng nhanh hơn
so với sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, kéo theo sự tăng lên của mức giá ở điểm
cân bằng giữa tổng cung và tổng cầu. Có 3 nguyên nhân làm cho tổng cầu tăng là: sự gia
tăng cung tiền, tăng chi tiêu chính phủ và xuất khẩu tăng. Bản chất của lạm phát cầu kéo
là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hàng hóa hạn chế trong điều kiện nền
8
kinh tế đã đạt cân bằng trên thị trường lao động. Có thể thấy rõ hơn cơ chế lạm phát cầu
kéo qua mô hình dưới đây.
Hình 1: Lạm phát cầu kéo
Trong ngắn hạn, đường tổng cung AS (Aggregate supply) mới đầu nằm ngang và
sẽ dốc ngược lên khi vượt quá mức sản lượng tiềm năng Q*. Điều này là do khi chưa
đạt mức sản lượng tiềm năng, một sự thay đổi nhỏ về giá cả của đầu ra (hàng hoá, dịch
vụ) cũng khuyến khích được các hãng tăng nhanh sản lượng sản xuất ra để đáp ứng sự
tăng lên của nhu cầu, thu nhiều lợi nhuận hơn. Khi sản lượng của nền kinh tế là Q’ >
Q*, chi phí đầu vào đã kịp thời điều chỉnh tăng lên, các hãng không còn động lực để
tăng cao sản lượng nữa, do đó dù giá có tăng nhiều nhưng sản lượng vẫn không tăng
đáng kể hay đường AS có độ dốc lớn. Lúc đó, cầu tăng mạnh, đường AD
0
dịch chuyển
lên trên đến vị trí mới là AD

1
và mức giá tăng nhanh từ P
0
đến P
1
. Tổng cầu tăng liên tục
làm cho đường tổng cầu liên tiếp dịch chuyển về phía bên phải và mức giá không ngừng
tăng lên, tức là xảy ra lạm phát cầu kéo.
Khi đường cầu dịch chuyển đến AD
1
, nền kinh tế ở trạng thái vượt quá trạng sản
lượng tiềm năng và toàn dụng nhân công, người lao động gây áp lực tăng lương làm cho
tổng cung giảm, đường tổng cung AS
0
dịch chuyển về bên trái tới vị trí AS
1
. Mức giá
tăng tiếp từ P
1
đến P
2
, nền kinh tế lại chuyển về trạng thái đạt mức sản lượng tiềm năng
và toàn dụng nhân công. Cứ như thế, sau khi đường tổng cầu dịch chuyển về bên phải
thì đường tổng cung lại dịch chuyển về bên trái kéo theo mức giá tăng liên tục.
9
Q
*
Q
,
AD

0
AD
1
AD
2
AS
0
AS
1
AS
2
P
0
P
1
P
2
P
3
Q
(Sản lượng)
P
(Mức giá)
2. Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy (Cost-push inflation) bắt nguồn từ sự gia tăng chi phí do
các nguyên nhân chủ yếu như chi phí tiền lương tăng, giá nguyên vật liệu tăng, chính
sách thuế và các khoản phải nộp khác tăng; công nghệ sản xuất lạc hậu, cơ chế quản lý
kém hiệu quả đẩy chi phí sản xuất tăng lên. Mô hình dưới đây cho ta thấy quá trình diễn
ra lạm phát chi phí đẩy.
Hình 2: Lạm phát chi phí đẩy

Ban đầu đường tổng cầu là AD
0
, đường tổng cung là AS
0
. Khi chi phí đầu vào
tăng (ví dụ giá dầu lửa tăng), các hãng giảm mức cung hàng hoá, dịch vụ và đường tổng
cung dịch chuyển sang tới vị trí AS
1
, sản lượng giảm xuống còn Q’, đẩy mức giá tăng từ
P
0
lên P
1
. Hiện tượng mức giá tăng liên tục, đồng thời sản lượng (hay GDP thực tế) suy
giảm được gọi tình trạng lạm phát đình trệ hay đình lạm (stagflation); kèm theo đó là
thất nghiệp gia tăng.
3. Lạm phát dự kiến (Anticipated inflation)
Trong nền kinh tế tiền tệ, trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa
phải có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả trong trường hợp này tăng đều
đều với một tỷ lệ tương đối ổn định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ
(inertial inflation) và vì mọi người đã có thế dự tính trước mức độ của nó nên gọi là lạm
phát dự kiến.
Mọi hoạt động kinh tế sẽ trông đợi và ngắm vào nó để tính toán điều chỉnh (ví dụ
điều chỉnh lãi suất danh nghĩa, tiền lương danh nghĩa, giá cả trong các hợp đồng kinh tế,
các khoản chi, tiêu ngân sách…)
10
P
(Mức giá)
Q
(Sản lượng)

AS
0
AS
1
AS
2
AD
0
AD
1
P
1
P
2
P
0
Q
*
Q
,
P
P
2
P
1
P
0

P



P

AS
2
AS
1
AD
2
AD
1
AD
0
Y
**
Y
Mô hình dưới đây cho ta thấy lạm phát dự kiến xảy ra như thế nào. Đó là đường
AD và AS dịch chuyển lên trên cùng một tốc độ. Vì lạm phát đã được dự kiến nên chi
phí sản xuất (kể cả tiền lương) và cả nhu cầu chi tiêu cũng được điều chỉnh cho phù hợp
với tốc độ lạm phát. Như vậy sản lượng vẫn giữ nguyên nhưng giá cả đã tăng lên theo
dự kiến.
Hình 3: Lạm phát dự kiến

E
2

E
1
AS
0

E
0
Tỷ lệ lạm phát dự kiến một khi đã hình thành thì trở nên ổn định và tự duy trì
trong một thời gian. Những cú sốc mới trong nền kinh tế (có thể từ trong nước hoặc từ
nước ngoài) sẽ đẩy lạm phát khỏi trạng thái ỳ.
4. Lạm phát do xuất nhập khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được
huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm
khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất
cân bằng.
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập
khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định
tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong
nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
Bên cạnh đó còn có một số loại lạm phát như:
- Lạm phát do cơ cấu: ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa
cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không
tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi
nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát
nảy sinh vì điều đó.
11
- Lạm phát tiền tệ: Loại lạm phát này xảy ra khi tốc độ tăng trưởng cung tiền vượt
quá tốc độ tăng trưởng thực sự của nền kinh tế. Đơn giản hơn là tiền trong lưu
thông tăng nhanh hơn số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền
kinh tế. Ví dụ như tốc độ tăng trưởng cung tiền là 10% nhưng tốc độ tăng trưởng
thực của nền kinh tế 7% thì lạm phát tiền tệ là 3%. Loại lạm phát này thường xảy
ra tại các nước đang phát triển khi các nước này theo đuổi cơ chế áp chế tài chính
(Financial repression) hoặc trong trường hợp quốc gia đang theo đuổi chính sách
tiền tệ mở rộng. Áp chế tài chính là tình trạng ngân hàng trung ương tài trợ cho
thâm hụt ngân sách chính phủ bằng cách in tiền, quá nhiều tiền trong lưu thông

vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sẽ dẫn đến lạm phát. Chính sách tiền tệ mở
rộng sẽ kích thích tổng cầu hang hóa dịch vụ trong nền kinh tế, khi tốc độ tăng
trưởng tổng cầu cao hơn tốc độ tăng trưởng tổng cung, thì cũng dẫn đến lạm
phát.
- Lạm phát đẻ ra lạm phát: khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý
sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại.
Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
III. Mối quan hệ giữa lạm phát với tiền tệ, lãi suất và thất nghiệp
1. Mối quan hệ giữa lạm phát và tiền tệ
Khi nghiên cứu về lý thuyết tiền tệ, ta đã biết dạng thức MS = Md (i, Y) khi thị
trường tiền tệ cân bằng. Xét trong dài hạn, lãi suất thực tế (i) sản lượng thực tế (Y) đạt
mức cân bằng nghĩa là ổn định (Y đạt tiềm năng), cầu tiền thực tế là không đổi và do
vậy MS cũng sẽ không thay đổi. Điều đó có nghĩa là nếu lượng cung tiền danh nghĩa
(M) tăng lên thì giá cả (P) cũng tăng với tỷ lệ tương ứng, nói cách khác tỷ lệ lạm phát sẽ
bằng tỷ lệ tăng tiền. Như vậy, lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Điều này xảy ra trong
thực tế khi nền kinh tế gặp phải cơn sốc (ví dụ giá đầu vào tăng lên) làm cho lượng tiền
thực tế nhất thời giảm xuống. Chính phủ cần phải tăng mức cung tiền danh nghĩa để
đảm bảo nhu cầu thực tế. Nhưng vì sản lượng và việc làm không đổi, lãi suất thực tế
cũng không đổi, chỉ có mức cung tiền danh nghĩa, giá cả cũng như tiền lương danh
nghĩa tăng lên. Lý thuyết này dựa trên giả định mức cầu tiền thực tế không đổi, một giả
định chưa có cơ sở chắc chắn và chưa phù hợp với thực tế. Kết quả nghiên cứu trong
thời kỳ dài hạn (30 năm) ở các nước phát triển đã chỉ ra rằng sự thay đổi của lãi suất và
thu nhập đã dẫn đến cầu tiền thực tế thay đổi. Vì vậy tốc độ tăng tiền danh nghĩa và tốc
12
độ lạm phát rất khác nhau giữa các nước. Tốc độ tăng tiền ở Mỹ là thấp nhất trong các
nước phát triển nhưng tốc độ lạm phát còn cao hơn một số nước. Tốc độ tăng tiền của
Nhật Bản gấp đôi của Pháp nhưng tốc độ lạm phát lại thấp hơn của Pháp.
Tuy nhiên lịch sử lạm phát cũng chỉ ra rằng không có cuộc lạm phát cao nào mà
không có sự tăng trưởng mạnh mẽ về tiền tệ. Lượng tiền tăng càng nhanh thì lạm phát
càng cao và bất kỳ một chính sách vĩ mô nào giảm được tốc độ tăng tiền cũng dẫn đến

giảm tỷ lệ lạm phát và điều này đặc biệt phù hợp với thời kỳ ngắn hạn.
Khi ngân sách thâm hụt lớn hơn các chính phủ có thể in thêm tiền để trang trải ,
lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Và một khi giá cả
đã tăng lên thì sự thâm hụt mới lại nảy sinh đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và
lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra trong thời kỳ siêu
lạm phát. Tuy nhiên các chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay dân qua bán tín
phiếu. Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không có nguy cơ lạm phát, nhưng
nếu thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn lãi) sẽ lớn đến mức
cần phải in thêm tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là điều chắc chắn.
2. Mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất
Lãi suất thực tế thường ít thay đổi và ở mức mà cả người cho vay và người đi
vay đều có thể chấp nhận được. Nếu khác đi sẽ tạo ra mức dư cầu hoặc mức dư cung và
sẽ đẩy lãi suất này về mức ổn định. Nhưng lãi suất danh nghĩa lại biến đổi theo lạm
phát. Khi lạm phát thay đổi, lãi suất danh nghĩa sẽ thay đổi để duy trì lãi suất thực tế ở
mức ổn định. Vậy lã suất thực tế = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát. Khi tỷ lệ lạm
phát tăng lên, lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng
giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này đặc biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất
giá càng nhanh, tăng mức độ gửi tiền vào ngân hàng, gửi quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị
trường để mua về mọi hàng hóa có thể dự trữ gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị
trường hàng hóa và tiếp tục đẩy giá lên cao.
3. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
Ngày nay, khi đề cập đến mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp, người ta
thường sử dụng đường cong Phillip, tên nhà kinh tế học người New Zealand, người đặt
nền móng cho việc nghiên cứu mối quan hệ này từ năm 1958. Tuy nhiên, đường cong
Phillip hiện đại khác với đường Phillip ban đầu ở chỗ: đường Phillip hiện đại phản ánh
quan hệ giữa lạm phát giá cả và thất nghiệp chứ không phải giữa lạm phát tiền lương và
13
thất nghiệp; đường Phillip hiện đại có tính đến tỷ lệ lạm phát dự kiến cũng như cú sốc
cung. Trong phân tích sau đây, chúng ta sẽ sử dụng đường cong Phillip hiện đại cho phù
hợp với thực tiễn kinh tế các nước.

3.1. Trong ngắn hạn
Đường cong Phillip trong ngắn hạn cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát và thất
nghiệp khi tỷ lệ lạm phát dự kiến của nền kinh tế ở một mức nhất định. Đến đây, cần
nói qua về khái niệm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Đó là tỷ lệ thất nghiệp khi thị trường lao
động ở trạng thái cân bằng. Số người thất nghiệp lúc đó bằng tổng số người thất nghiệp
tự nguyện. Trong ngắn hạn, quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp là tỷ lệ nghịch, tức là
có thể đánh đổi lạm phát cao để lấy thất nghiệp thấp. Nếu lạm phát tăng cao hơn tỷ lệ
lạm phát dự kiến (ei) thì thất nghiệp sẽ giảm xuống thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
(U
N
) và ngược lại. Đường Phillip ngắn hạn sẽ dịch chuyển khi một trong hai yếu tố tỷ lệ
lạm phát dự kiến hoặc tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên thay đổi. Khi tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
tăng từ U
N
đến U
N1
thì đường Phillip mới là là đường (P
1
). Trong trường hợp tỷ lệ lạm
phát dự kiến giảm xuống ei’, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên không đổi thì đường Phillip dịch
chuyển sang (P') (xem hình 4).
Đường Phillip ngắn hạn chỉ thể hiện sự đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát khi
có các cơn sốt cầu (cầu tăng dẫn đến giá tăng cao, sản xuất tăng và thất nghiệp giảm);
còn khi xuất hiện các cơn sốt cung, chi phí sản xuất tăng, sản xuất bị thu hẹp làm cho
giá cả tăng và thất nghiệp cũng tăng.
14
Tỷ lệ lạm phát
Hình 4: Đường Phillip ngắn hạn và dài hạn
U
N

U
N1
Tỷ lệ thất nghiệp
ei'
ei
(P)
(P
1
)
Đường Phillip dài hạn
(P')
Đường Phillip ngắn hạn
Dựa vào đường Phillip ngắn hạn, các nhà hoạch định chính sách có thể lựa chọn chính
sách kinh tế vĩ mô (nhất là chính sách tài chính, tiền tệ). Chẳng hạn, khi nền kinh tế gặp
phải lạm phát cao, chính phủ theo đuổi mục tiêu giảm lạm phát sẽ thắt chặt chính sách
tiền tệ (tăng lãi suất, giảm chi tiêu chính phủ...) và thất nghiệp sẽ gia tăng. Ngược lại,
nếu nền kinh tế rơi vào suy thoái, thất nghiệp gia tăng thì chính phủ lại kích cầu đầu tư
và tiêu dùng để giảm thất nghiệp nhưng phải chấp nhận lạm phát cao.
3.2. Trong dài hạn
Đường Phillip dài hạn là một đường thẳng song song với trục biểu diễn tỷ lệ lạm
phát và cắt trục hoành tại điểm có tỷ lệ lạm phát tự nhiên (U
N
). Về lâu dài, tỷ lệ thất
nghiệp thực tế bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên do tác động của các chính sách tài khóa,
tiền tệ, dù tỷ lệ lạm phát thay đổi ra sao. Như vậy, không tồn tại mối quan hệ giữa lạm
phát và thất nghiệp trong dài hạn.
IV. Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế
1. Tác động đối với sản lượng
Đi đôi với tăng giá, sản lượng quốc dân cũng thay đổi theo, nó có thể tăng, giảm
hoặc cũng có khi không đổi.

Lạm phát do cầu: thì sản lượng có thể tăng nhưng tăng bao nhiêu, tăng nhiều ít
như thế nào lại còn phụ thuộc vào độ dốc của đường tổng cung. Khi sản lượng cân bằng
ở dưới mức sản lượng tiềm năng, dịch chuyển của đường tổng cầu sẽ làm cho sản lượng
gia tăng lên. Nhưng khi mức sản lượng cân bằng cao hơn mức sản lượng tiềm năng thì
sự gia tăng tổng cầu sẽ tạo ra sự tăng lên nhanh chóng của mức giá chung, lạm phát tăng
nhanh.
Lạm phát do cung: thì sản lượng giảm giá cả tăng cao, nền kinh tế rơi vào thời kỳ
đình trệ-lạm phát. Sụt giảm sản lượng như thế nào còn phụ thuộc vào độ dốc của đường
tổng cầu
2. Tác động đối với phân phối lại thu nhập và của cải
Nói chung lạm phát tác động đối với phân phối thu nhập ở mức đô nào còn phải
phụ thuộc ở nhiều yếu tố và nhiều nhóm tác nhân kinh tế. Khóa luận xin nêu đưa ra 1 số
hướng tác động như sau:
* Tác động tới người cho vay và người đi vay:
15
Khi nền kinh tế có lạm phát thì mối quan hệ giữa người vay và người cho vay được xem
xét theo lãi suất thực. Thu nhập được chuyển từ người đi vay sang người cho vay khi
lạm phát trong thực tế khác với mức lạm phát dự kiến và ngược lại.Chênh lệch giữa lạm
phát thực tế và lạm phát dự kiến càng cao thì mức độ phân phối càng nhiều.
Muốn tránh được sự phân phối lại này thì quá trình cho vay phải được xác định theo lãi
suất thả nổi, mức lãi suất này phải luôn luôn được xác định theo công thức:
Lãi suất thả nổi= Lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
* Tác động giữa người hưởng lương và ông chủ:
Nói chung tốc độ tăng tiền công hầu như chậm hơn so với tốc độ tăng của giá. Vì vậy
những người lao động hưởng lương bao giờ cũng bị thiệt thòi và người được lợi là các
ông chủ. Quá trình phân phối này chỉ không diễn ra khi tốc độ tăng của tiền công bằng
với tốc độ tăng của giá.
* Tác động giữa người mua và người bán tài sản tài chính
Đa số các loại tài sản tài chính có mức lãi suất danh nghĩa cố định. Như vậy khi có lạm
phát xảy ra người nắm trong tay lượng trái phiếu sẽ bị thiệt và người lợi sẽ là người phát

hành trái phiếu.
* Tác động giữa người mua và người bán tài sản thực
Những người bán tài sản thực để lấy tài sản tài chính hoặc tiền mặt trước khi lạm phát
xảy ra thì khi có lạm phát những người bán sẽ bị thiệt thòi và người được lợi là người
mua. Nếu lạm phát xảy ra thì người bán hàng trả góp cũng rất thiệt thòi… nói chung thì
phần thiệt của người bán được chuyển sang cho người mua.
* Tác động giữa các doanh nghiệp với nhau
Do tỷ lệ tăng giá hàng hóa trong khi lạm phát không giống nhau, vì vây những doanh
nghiệp nào mà sản xuất và tồn kho những mặt hàng có tỷ lệ tăng giá chậm sẽ bị thiệt
thòi.
* Giữa chính phủ và công chúng
Đa phần thì khi xảy ra lạm phát thu nhập của công chúng sẽ chuyển sang tay chính phủ.
Vì 3 lý do sau : (1) chính phủ nợ dân chủ yếu là dưới dạng tài sản tài chính và món nợ
này lại không nhỏ; (2) các khoản chi trả lương, trợ cấp… thường cố định trong một thời
gian dài, kể cả có thay đổi thì cũng không kịp tốc độ thay đổi của giá; (3) các hoạt động
thuế lũy tiến như thuế thu nhập, sẽ tăng lên nhanh chóng, vì lạm phát đẩy thu nhập của
dân chúng tăng lên và chịu ở mức thuế suất cao hơn.
16
Tác động chính của về phân phối lại của lạm phát xảy ra thông qua ảnh hưởng
của nó đối với giá trị thực trên của cải của mọi người. Nhìn chung “ lạm phát không dự
kiến được thường có xu hướng chuyển của cải từ tay người chủ nợ sang tay con nợ,
giúp người đi vay và làm thiệt người cho vay. Trong trường hợp lạm phát giảm xuống
không lường trước được thì sẽ có ảnh hưởng ngược lại. Tuy nhiên lạm phát chỉ làm xáo
trộn thu nhập và tài sản, phân phối lại thu nhập giữa các nhóm dân cư một cách ngẫu
nhiên với ảnh hưởng hầu như không đáng kế đối với bất kỳ một nhóm riêng lẻ nào”
3. Tác động đến cơ cấu kinh tế
Ngay cả trong thời kỳ lạm phát giá của các hàng hóa không thay đổi theo cùng
một tỷ lệ. Vì vậy những ngành có giá tăng nhanh sẽ nâng tỷ trọng của ngành trong sản
lượng, thay đổi vị thế kinh doanh của ngành mình. Khi lạm phát tăng nhanh chóng cùng
với sự thay đổi mạnh mẽ của giá cả tương đối, có những doanh nghiệp ngành nghề phất

lên được, nhưng cũng có những doanh nghiệp ngành nghề lại suy sụp, phá sản, thậm chí
còn chuyển hướng kinh doanh khác, dẫn đến thay đổi cơ cấu kinh tế.
4. Những tác động đến tính hiểu quả kinh tế
Lạm phát có thể tác động làm kém hiệu quả của việc sử dụng nguồn nhân lực
như:
* Lạm phát làm biến dạng cơ cấu đầu tư
Khi xảy ra lạm phát, các doanh nghiệp không muốn đầu tư và những dự án có khoảng
thời gian thu hồi vốn dài. Tác động này có thể làm giảm hiệu quả sử dụng các nguồn
nhân lực của nền kinh tế trong dài hạn. Sự giảm sút của năng lực sản xuất có thể làm
cho đường tổng cung AS dịch chuyển sang trái cùng với mức giảm của sản lượng tiềm
năng.
* Lạm phát làm suy yếu thị trường vốn
Nếu lãi suất thực là số âm thì khả năng huy động vốn của các tổ chức tín dụng sẽ rất khó
khăn. Giảm sút của tiết kiệm sẽ làm sụt giảm đầu tư thực tế, sản lượng giảm theo cấp số
nhân, công ăn việc làm ít đi, thất nghiệp tăng lên.
* Lạm phát làm sai lệch tín hiệu của giá
Giá là tín hiệu quan trọng để giúp cho người mua và người bán có được quyết định tối
ưu nhất. Trong thời kỳ lạm phát cao, giá cả tăng nhanh làm cho mọi người không kịp
nhận biết được mốc giá tương đối giữa các hàng hóa thay đổi ra sao, do đó làm giảm
tính hiệu quả khi ra các quyết định mua bán.
17
* Lạm phát làm phát sinh chi phí điều chỉnh giá
Các hang kinh doanh phải tốn thêm chi phí về điều chính giá như chi phí sửa chữa báo
giá, sửa lại giá trên máy tính tiền, sửa thực đơn… Các công ty kinh doanh còn tốn kém
cả chi phí cho các cuộc hội họp về điều chỉnh giá.
* Lạm phát làm lãng phí thời gian cho việc đối phó với tình trạng mất giá của
tiền tệ
Khi lạm phát xảy ra mọi người sẽ giữ ít tiền hơn, các công ty phải tốn kém cho việc xây
dựng kế hoạch quản lý tiền cẩn thận hơn, mọi người tiêu phí thời gian nhiều hơn cho
việc đến ngân hàng rút tiền, nhiều người tính toán phương án để giữ cho tài sản của

mình không bị mất đi. Nói chung tất cả những vấn đề đó chỉ nhằm vào mục đích đối với
với tình trạng mất giá của đồng tiền.
* Lạm phát làm giảm sức cạnh tranh với nước ngoài
Giá hàng trong nước tăng lên sẽ kích thích nhập khẩu, đồng thời kìm hãm xuất khẩu.
Hàng nước ngoài tràn vào trong nước, điều này làm cho nhiều doanh nghiệp trong nước
phải tạm thời đóng cửa sản xuất và nhiều khi còn phá sản.
* Lạm phát kích thích người nước ngoài rút vốn về nước
Lạm phát làm cho đồng nội tệ bị mất giá, lúc này để đảm bảo thu nhập của mình , nhiều
người nước ngoài có khuynh hướng chuyển tiền kinh doanh của mình về nước, điều này
càng làm cho thị trường vốn thêm suy yếu.
18
CHƯƠNG II
QUÁ TRÌNH LẠM PHÁT VÀ CÁC BIỆN PHÁP CỦA NHÀ
NƯỚC NHẰM GIẢM THIỂU LẠM PHÁT
Ở VIỆT NAM
Sau hơn 20 năm, với chính sách đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu
to lớn về kinh tế. Từ một nề kinh tế tập trung, với việc gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới vào thánh 11 năm 2006, nền kinh tế Việt Nam đã có một bước chuyển đổi cơ bản
sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong 25
năm liên tục là một trong những thành tựu đáng kinh ngạc của một đất nước mới chỉ
cách đây 30 năm còn bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Trong các thành tựu đã đạt được,
không thể không nhắc tới những nỗ lực và thành công của chính phủ trong việc kiềm
chế và khắc phục những hậu quả của lạm phát, một vấn đề cố hữu của bất kỳ nền kinh
tế nào. Trải qua những thăng trầm, lạm phát hiện nay vẫn là một trong những vấn đề
được đề cập đến nhiều trong các chính sách vĩ mô của chính phủ cũng như trong đời
sống nhân dân. Và có thế nói trong thời điểm hiện tại, đây là mối quan tâm hàng đầu
của cả những người đứng đầu nhà nước lẫn mỗi cá nhân trong xã hội. Để có thể hiểu rõ
hơn về tình hình và đặc điểm lạm phát của đất nược, khóa luận sẽ nghiên cứu lạm phát
Việt Nam qua 4 giai đoạn: giai đoạn từ sau giải phóng đất nước đến năm 1990; giai
đoạn từ 1991-1998; giai đoạn từ 1999-2003; giai đoạn từ 2004 đến nay.

I. Giai đoạn từ sau khi giải phóng đất nước đến năm 1990
Sau ngày thống nhất đất nước, Việt Nam đứng trước một cơ hội mới để xây dựng
và phát triển kinh tế vì tiềm năng kinh tế của 2 miền sẽ bổ sung cho nhau và có thuận lợi
cơ bản là có hoà bình. Mặc dù vậy, thời kỳ 1975 – 1990, nền kinh tế phát triển không
theo đúng ý đồ của các nhà lãnh đạo đất nước và lòng mong đợi của nhân dân.
Từ năm 1976 đến 1985, thu nhập quốc dân tăng rất thấp, có năm còn bị giảm,
bình quân thời kỳ 1977-1985 chỉ tăng 3,7%/ năm [35]. Trong khi dân số từ 49,16 triệu
người năm 1976 tăng lên 66,01 triệu người năm 1990, thì do kinh tế tăng trưởng chậm,
nên “cả nước làm không đủ ăn”, thu nhập quốc dân trong nước không đủ cung ứng cho
tiêu dùng. Tình trạng đó đã dẫn đến bội chi ngân sách ngày càng tăng, buộc nhà nước
19
phải phát hành thêm tiền mặt, đẩy giá cả lên cao, vòng xoáy lạm phát ngày càng trở nên
nghiêm trọng.
Xuyên suốt thời kỳ này, lạm phát phi mã diễn ra với mức tăng bình quân của giá
cả là 52%/ năm.
Bảng 1: Chỉ số tăng giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng từ 1976 đến 1985
Năm 1975 1976 1977 1978 1979 1980 1981 1982 1983 1984 1985
Tốc độ
cả năm
100 121,9 118,6 120,9 119,4 125,2 169,6 195,4 149,5 164,9 191,6
Lạm phát thời kỳ này có đặc điểm là tăng liên tục và tốc độ lạm phát ở cao nhất
vào năm 1986. Lạm phát chưa được chính thức thừa nhận mà lại quy vào xử lý ở các
mặt "giá - lương - tiền" thông qua việc bù giá vào lương, đổi tiền vào năm 1985. Chính
quan điểm này đã kéo theo một đặc điểm khác là lạm phát trong giai đoạn này ở dạng
tiềm ẩn. Trong nền kinh tế, người ta không chính thức thừa nhận lạm phát để có biện
pháp ứng phó cho đến tận tháng 6/1980. Phần lớn khoảng thời gian 1976 - 1986 lạm
phát vẫn âm ỷ, như chờ cơ hội để bùng phát vào thời kỳ sau (1986 - 1988).
Và quả thực, trong ba năm từ 1986 đến 1988, siêu lạm phát đã hoành hành ở
nước ta với tốc độ tăng lên mức ba con số. Giá bình quân năm 1986 bằng 570% so với
năm 1985 [14]. Cho đến nay, ít ai có thể hình dung được nước ta đã trải qua thời kỳ lạm

phát kỷ lục đó, tỷ lệ lạm phát của các năm thời kỳ này lần lượt là: 1986 lên tới 774,7%,
1987 là 223,1%, năm 1988 là 349,4%.
Có thể chỉ ra bốn nguyên nhân cụ thể cũng là bốn nguyên nhân cơ bản dẫn tới
việc nền kinh tế bị tàn phá nặng nề bởi lạm phát:
Thứ nhất, nền kinh tế dựa chủ yếu vào khu vực quốc doanh làm ăn thua lỗ, kém
hiệu quả. Kinh tế nhà nước chiếm gần 90% vốn cố định, 95% lượng lao động lành nghề
nhưng chỉ tạo ra gần 40% tổng sản phẩm xã hội [14]. Nhà nước thực hiện bao cấp vốn
qua các kênh phân phối theo ngành dọc, không gắn với trách nhiệm sử dụng vốn nên
tình trạng móc nối tham nhũng dẫn đến làm ăn thua lỗ rất phổ biến trong các doanh
nghiệp quốc doanh. Vốn ngân sách cấp ra thì nhiều, thu về thì ít nên Nhà nước luôn phải
bù lỗ. Có năm, 1/3 ngân sách là dùng vào bù giá và bù lỗ. Số bù lỗ từ ngân sách trong
hai năm 1987, 1988 lên tới 100 tỷ đồng [12]. Để tài trợ cho bội chi ngân sách, Nhà nước
buộc phải phát hành tiền và lạm phát cao xảy ra. Nền kinh tế rơi vào vòng xoáy: thâm
hụt - phát hành tiền - lạm phát.
20
Thứ hai, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, cơ cấu đầu tư bất cập góp
phần làm cho lạm phát tăng cao. Trong những năm 1976 - 1980, thu từ vay nợ và viện
trợ của nước ngoài chiếm 38,2% tổng thu ngân sách và bằng 61,9% tổng số thu trong
nước, tương ứng thời kỳ 1981 - 1985 là 22,4% và 28,9%. Tính đến năm 1985, nợ nước
ngoài lên đến 8,5 tỷ Rúp và 1,9 tỷ USD [35]. Sản xuất tăng chậm và thực chất không có
phát triển. Nhà nước ưu tiên phát triển công nghiệp nặng mà việc thu hồi vốn của các dự
án đầu tư như vậy rất chậm chạp, hoặc Nhà nước rót vốn vào nông nghiệp - ngành cho
hiệu quả không cao. Kết quả là, ngân sách thâm hụt trầm trọng (mức bội chi ngân sách
năm 1981 bằng 1757,02% so với năm 1976; và con số này vào năm 1985 là 181,64% so
với năm 1981) [12], và biện pháp phát hành tiền dường như là lựa chọn duy nhất. Đồng
tiền mất giá nhiều; nền kinh tế rơi vào lạm phát phi mã.
Thứ ba, các chính sách kinh tế sai lầm làm cho lạm phát ngày càng trầm trọng.
Nhà nước đã hợp nhất các xí nghiệp trong mỗi ngành thành liên hiệp hay tổ chức độc
quyền làm cho giá cả tăng cao. Việc tiến hành bao cấp hàng hoá, không tính đến nhu
cầu, thị hiếu của người tiêu dùng dẫn tới sự khan hiếm hàng hoá, dịch vụ. Đặc biệt nền

kinh tế lúc đó có tới hai hệ thống giá (giá chính thức do Nhà nước quy định và giá trên
thị trường tự do) với nỗ lực ổn định và phấn đấu hạ giá hàng hoá khiến cho giá cả - một
đòn bẩy kinh tế quan trọng - bị "đông cứng".
Tuy tư duy kinh tế ở nước ta lúc đó đã có sự đổi mới, được đánh dấu bằng sự ra
đời của Nghị quyết 26 (23/6/1980) về giải quyết vấn đề phân phối lưu thông (trọng tâm
là điều chỉnh giá cả) nhưng ngay trong chủ trương này cũng chứa đựng những mâu
thuẫn. Cuộc tổng điều chỉnh giá lần thứ hai được tiến hành với sự ra đời Nghị quyết 8
của Ban chấp hành Trung ương Đảng (năm 1985) về cải cách giá - lương - tiền. Song,
sai lầm lớn nhất của cả hai cuộc tổng điều chỉnh giá là Nhà nước đã không có chính
sách chống lạm phát thông qua khống chế bội chi ngân sách và kiểm soát hệ thống tiền
tệ tín dụng. Chính cải cách giá đã đẩy lạm phát tăng vọt trong thời kì 1986 - 1988.
Tháng 9/1985, Nhà nước nâng giá trị danh nghĩa của tiền lên 10 lần bằng cách thu hồi
tiền cũ, phát hành tiền mới. Trong vòng ba năm (từ tháng 1/1986 đến tháng 12/1988),
lượng tiền giấy tăng lên 96,07 lần, chỉ số giá tiêu dùng tăng hơn 100 lần, giá cả tăng liên
tục [6]. Sự leo thang của giá cả làm cho tình trạng đầu cơ tích trữ hàng hóa càng phổ
biến, hàng hóa rất khan hiếm trên thị trường, cung càng thiếu hụt vì tiền thu được từ
việc bán các sản phẩm đầu ra không đủ để mua đầu vào tiếp theo do giá tăng quá nhanh.
21
Vào tháng 6/1987, Nhà nước công bố giá kinh doanh thương nghiệp ổn định trong từng
khoảng thời gian và là mức giá giới hạn cho các mặt hàng quan trọng lưu thông trong cả
nước. Đây là giá cả "phi thị trường" gây kìm hãm sản xuất.
Thứ tư, việc tăng cung tiền trong nền kinh tế là một tác nhân quan trọng gây ra
lạm phát. Giai doạn 1986-1988, chúng ta đã phát hành tiền vào lưu thông với một số
lượng lớn: năm 1985 phát hành 12.300 triệu đồng; 1986 phát hành 55.400 triệu đồng và
năm 1988 phát hành ttiền đạt tới 83,3 tỷ đồng, so với năm 1985 đã tăng lên gấp 13,4 lần
[8]. Công tác tín dụng trong giai đoạn này trở nên phức tạp hơn do tác động của lạm
phát cao. Dư nợ tín dụng tăng nhanh theo đà trượt giá. Hơn nữa, việc đổi tiền đã được
tiến hành trên cơ sở mười đồng cũ đổi một đồng mới có giới hạn, số tiền vượt quá giới
hạn được giữ lại ở Ngân hàng nhà nước trong một thời gian dài. Mặc dù biện pháp này
cắt giảm ghê gớm sự tích lũy tiền mặt hiện thời nhưng tác dụng của việc kiểm soát vốn

lưu động của tư nhân còn hạn chế vì nhiều gia đình giữ vàng và tiền có giá trị như USD.
Việc đổi tiền này đã thực sự triệt tiêu nguồn tiền mặt của các xí nghiệp quốc doanh, gây
nên tình trạng thiếu tiền mặt, buộc chính phủ phải phát hành thêm tiền để duy trì hoạt
động của các xí nghiệp.
Qua số liệu về tăng trưởng tín dụng trong gia đoạn 1976-1990 cho thấy tốc độ
tăng tín dụng rất mạnh mẽ. So với năm 1976, năm 1980 tín dụng tăng 36,6%, năm 1986
tăng 1897,4%. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng năm 1990 so với các năm như sau: tăng gấp
1.291,82 lần so với năm 1976, tăng gấp 945,86 lần so với năm 1980, tăng gấp 275,36
lần so với năm 1985, tăng gấp 64,67 lần so với năm 1986, tăng gấp 18,72 lần so với
năm 1987, tăng gấp 3,78 lần so với năm 1988 và tăng gấp 1,48 lần so với năm 1989 [8].
Xem xét ở góc độ tổng phương tiện thanh toán thì các giai đoạn 1986-1990 cũng
nói lên một điều là tổng cung tiền tệ quá mức tổng cầu tiền tệ. Cụ thể là năm 1987 so
với năm 1986, tổng phương tiện thanh toán tăng 324,6%, năm 1988 so với năm 1987
tăng 446,1%, năm 1989 so với năm 1988 tăng 233,75% và năm 1990 so với năm 1989
tăng 32,4% [8].
Nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng khiến cho nhà nước và chính phủ
phải có cách nhìn nhận lại về bản chất và hậu quả của lạm phát ở nước ta. Quyết tâm
không để siêu lạm phát tiếp tục hoành hành, chính phủ đã tiến hành công cuộc đổi mới
mới gần như toàn bộ cơ chế kinh tế, chuyển mạnh và khá đồng bộ sang cơ chế thị
trường, bao gồm một loạt các biện pháp bước đầu mang tính đồng bộ và tuân theo quy
22
luật thị trường. Nếu như trước đây người ta không quan tâm đến lạm phát khi tiến hành
cải cách giá thì nay chống lạm phát cao và kiềm chế lạm phát trở thành mục tiêu của cải
cách giá. Hơn thế nữa, các chính sách để đưa lạm phát vào tầm kiểm soát là phương tiện
để cải cách giá đạt được thành công. Như vậy bắt đầu từ năm 1989, lạm phát đã chính
thức được thừa nhận ở nước ta.
Nhờ công cuộc đổi mới trên, chúng ta bước đầu được chứng kiến những thành
quả trong sự nghiệp đấu tranh chống lạm phát. Nếu như tỷ lệ lạm phát ở mức đỉnh điểm
774,7% vào năm 1986 thì đến năm 1990 đã giảm xuống còn 67,4%. Kinh tế bắt đầu
tăng trưởng khá với tốc độ tăng GDP năm 1988, 1989, 1990 lần lượt là 6,0%, 4,7% và

5,1% [11]. Tuy không thể nói đây là mức tăng trưởng lý tưởng nhưng nếu xét đến
những khó khăn gặp phải do hậu quả của thời kỳ siêu lạm phát để lại thì có thể coi đây
là một thành công lớn của Đảng và nhà nước ta lúc bấy giờ.
Một chính sách tài chính quốc gia tiến bộ hơn hẳn so với giai đoạn trước để điều
tiết cầu với liều lượng mạnh chính là một biện pháp góp phần quan trọng làm giảm hẳn
lạm phát. Lãi suất tiết kiệm được nâng lên cao hơn tỷ lên trượt giá (hay lãi suất thực
dương). Tỷ lệ lạm phát bình quân trong năm 1989 là 2,45%/tháng trong khi lãi suất gửi
tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng là 10%/ tháng [12] nên lượng tiền gửi vào ngân hàng tăng
mạnh làm giảm cầu trên thị trường. Nhờ đó, nhà nước hạn chế được việc phát hành
thêm tiền giấy mà vẫn có thể khắc phục tình trạng bội chi ngân sách. Lượng tiền mà
ngân hàng thu về được dùng để đầu tư vào sản xuất, như vậy nhà nước cũng không cần
phát hành thêm tiền để đảm bảo hoạt động của các xí nghiệp, góp phần làm cung cầu về
tiền trên thị trường trở nên cân bằng hơn. Từ đây, các doanh nghiệp không thể vay vốn
vì những mục đích trục lợi riêng tư, mà phải có kế hoạch bảo tồn và phát triển nó sao
cho trả được khoản vay khi đến hạn. Do đó, hiệu quả sử dụng vốn được nâng lên rõ rệt.
Chính sách lớn thứ hai được sử dụng để kiềm chế lạm phát là nhấn mạnh sản
xuất nhập khẩu nhằm làm tăng cung hàng hóa cho xã hội. Để đạt mục tiêu đó, nhà nước
đã khuyến khích sự phát triển của kinh tế tư nhân, giao quyền sử dụng vốn và gắn trách
nhiệm bảo toàn, phát triển vốn cho các doanh nghiệp quốc doanh. Thế độc quyền của
khu vực kinh tế nhà nước từng bước bị phá vỡ, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng
hơn, thúc đẩy tất cả các thành phần kinh tế tham gia một cách hiệu quả vào sản xuất,
kinh doanh, tạo ra nhiều hàng hoá, dịch vụ. Nhà nước còn đẩy mạnh hoạt động xuất
23
nhập khẩu, nhất là nhập khẩu các hàng tiêu dùng, máy móc, vật tư khan hiếm phục vụ
cho sản xuất.
Ngoài các biện pháp trên, điểm tiến bộ rõ rệt trong chính sách giá cả là chuyển
giá nhà nước quy định sang giá cả thị trường. Chính phủ chỉ điều tiết gián tiếp giá cả
của một số mặt hàng thiết yếu như gạo, vàng bằng cách khi cần thiết thì mua vào và bán
ra nhằm điều tiết cung cầu thị trường. Một động thái nữa thực hiện nhận thức đúng đắn
hơn về vai trò của quy luật giá trị là việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái cho sát hơn với tỷ

giá của thị trường tự do. Nhà nước đã chọn mức giá và tỷ giá giữa đồng Việt Nam và
hai loại ngoại tệ tiêu biểu cho hai khu vực thị trường thế giới là đồng Rúp mậu dịch và
USD để xác định giá trị còn lại của tài sản cố định trong các doanh nghiệp quốc doanh.
Những cải cách toàn diện nền kinh tế theo hướng thị trường, chính sách phát
triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách mở cửa nền kinh tế như chúng ta vừa xét
cùng với chính sách khoán đến hộ nông dân đã làm giảm chi phí sản xuất, tăng năng
suất lao động, tạo ra nhiều hàng hoá cho xã hội, khắc phục dần sự mất cân đối cung -
cầu, tiền - hàng. Sau 18 tháng duy trì được tốc độ lạm phát tương đối thấp (trên
2%/tháng), đến cuối năm 1990, đầu năm 1991, lạm phát có xu hướng tăng trở lại. Từ
đây, công cuộc chống lạm phát ở nước ta lại bước vào một giai đoạn mới.
II. Giai đoạn chống lạm phát được đưa lên hàng đầu (1991-1998)
1. Thực trạng và nguyên nhân
Những biện pháp mạnh tay của chính phủ đã đem lại kết quả trong công tác kiềm
chế lạm phát. Có thể khẳng định siêu lạm phát đã được đẩy lùi khi năm 1989, tỷ lện lạm
phát giảm xuống còn 34,7%. Tuy nhiên tỷ lệ lạm phát lại có chiều hướng bắt đầu tăng từ
năm 1991 sau đó biến đổi không ổn định trong suốt giai đoạn này. Để có một cái nhìn rõ
ràng hơn, chúng ta cùng xem xét biểu đồ lạm phát sau:
Hình 5: Tình hình lạm phát từ năm 1991 đến năm 1998
24
6.0%
8.6%
8.1%
8.8%
9.5%
9.3%
8.8%
4.5%
67..50%
17.50%
5.20%

9.30%
16..80%
5.60%
3.20%
9.20%
0.0%
10.0%
20.0%
30.0%
40.0%
50.0%
60.0%
70.0%
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
GDP
tỷ lê lạm phát
(Nguồn: [22], [11])
Năm 1991, lạm phát phi mã lên tới 67,5%. Trong thời gian này nước ta còn phải
trải qua hai năm lạm phát phi mã nữa đó là năm 1992: 17,5% và năm 1995: 16,8%. Tuy
nhiên có những năm lạm phát lại đạt tới những con số rất đáng “yên tâm”, năm 1993 và
1996, lạm phát chỉ dừng lại ở con số trên 5%, đặc biệt, năm 1997 còn xuống tới mức
3,2%. Các năm còn lại lạm phát chủ yếu xoay quanh con số trên dưới 9%. Có thể thấy
giai đoạn này, lạm phát biến động không ổn định, vậy đâu là nguyên nhân của tình trạng
này?
Năm 1991-1998 là giai đoạn chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường, việc
kích thích cả nhà nước lẫn tư nhân đầu tư để đáp ứng nhu cầu lớn của thị trường sau
thời kỳ bao cấp đầy khó khăn, thiếu thốn đã làm cho đầu tư ở nước ta thời kỳ này bùng
phát. Đầu tư tăng khiến cho cầu về các nguyên vật liệu, bán thành phẩm, các máy móc,
trang thiết bị ở mức cao dẫn đến giá thành tăng nhanh.
Hình 6: Đầu tư và tiết kiệm so với GDP vẫn thấp

25
15
17.64
24.91
25.48
27.14
27.89
16
10.1
13.8
14.5
17.1
19
0
5
10
15
20
25
30
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Đ?u tư
Ti?t ki?m

×