Tải bản đầy đủ (.docx) (153 trang)

Tiểu luận tranh tụng tai phiên tòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.39 KB, 153 trang )

LUẬN VĂN:
Tranh tụng tại phiên tòa - một số vấn
đề lý luận và thực tiễnmở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta xảy ra nghiêm trọng, diễn
biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại
hóa đất nước. Cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã
có nhiều
cố gắng trong công tác tư pháp nên đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an
ninh -
chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, chất lượng công tác tư pháp nói chung
và công
tác xét xử nói riêng còn chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mà Đảng và
nhân dân giao
phó, còn bộc lộ nhiều yếu kém, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm
đến các
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và công dân (theo số liệu
thống kê của
Tòa án nhân dân tối cao, tuy số lượng án oan có giảm dần, nhưng vẫn còn: năm
2002 toàn
bộ ngành Tòa án có 23 trường hợp bị kết tội oan, năm 2003 chỉ còn 7 trường hợp,
năm 2004
còn 5 trường hợp), gây nhiều hậu quả đáng tiếc cho người bị kết án oan, người
thân và xã
hội. Có người vì bị kết tội oan nên đang là chủ doanh nghiệp tư nhân mà sau khi bị
kết án
phải làm thợ mộc để kiếm sống qua ngày, trường hợp khác đã ở tù một thời gian, bị
người
thân xa lánh, đầy mặc cảm với xã hội, đến khi kẻ phạm tội đích thực nhận tội mới
được trở


về; còn có người vì bị kết án oan nên không biết bao nhiêu năm, tháng miệt mài
đưa đơn
đi tìm công lý Những điều đó đã tạo nên dư luận xã hội không tốt, khiến nhân
dân thiếu
lòng tin vào tòa án và nền công lý xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ra đời vào ngày 02/01/2002 được xem
như sự mở đầu cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Nghị quyết này đề cập
nhiều
nội dung khác nhau của công tác tư pháp từ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cho
đến
việc đào tạo cán bộ tư pháp, nhưng tăng cường yếu tố tranh tụng trong quá trình
xét xử
vụ án hình sự được coi là điểm nhấn của cải cách tư pháp và là vấn đề trọng tâm
của
Nghị quyết. Theo đó, việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh
tụng tại phiên tòa, phải đảm bảo để bản án, quyết định của Tòa án là hiện thân của
công
lý, công bằng xã hội. Như vậy, một vấn đề cấp bách được đặt ra đối với các cơ
quan tư pháp là làm thế nào để đạt được những yêu cầu đó. Trong nỗ lực chung, thì
việc nghiên
cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa là cần
thiết.
Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến vấn đề
tranh tụng trong tố tụng hình sự như: "Tranh tụng trong tố tụng hình sự" của tác
giả
Nguyễn Đức Mai trong cuốn kỷ yếu: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách
của tố
tụng hình sự Việt Nam" - Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 1995; bài "Về tranh
tụng

tại phiên tòa hình sự" của tác giả Tống Anh Hào trong Tạp chí Tòa án nhân dân số
5/2003; bài "Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự" đăng trong Tạp chí
Kiểm
sát, tháng 9/2003 của tác giả Trần Đại Thắng; bài viết của nhiều tác giả trong Đặc
san
nghề luật số 5/2003 về chuyên đề mở rộng tranh tụng; cuốn chuyên khảo "Cải cách

pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" do TSKH Lê
Cảm và
TS. Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên, có nhiều bài viết của các tác giả (Nxb Đại
học
quốc gia, 2004) Nhưng những bài viết đó chỉ đề cập đến một số vấn đề nhất định
liên
quan tranh tụng và còn khá nhiều ý kiến trái ngược nhau xung quanh ý tưởng đổi
mới
hoạt động xét xử của ngành Tòa án Việt Nam theo hướng tranh tụng.
Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng trong hoạt động tố
tụng hình sự tránh bỏ lọt tội phạm làm oan người vô tội; đồng thời góp phần làm
sáng tỏ
về mặt lý luận, tác giả chọn đề tài: " Tranh tụng tại phiờn tũa - một số vấn đề lý
luận và
thực tiễn " làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý luận và
thực tiễn, bản chất, nội dung của tranh tụng tại phiên tòa, chỉ ra những bất cập còn
tồn tại
của việc tranh tụng tại phiên tòa ở nước ta hiện nay, thông qua đó đề xuất những
giải
pháp thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hướng tới xây
dựng

một phiên tòa hình sự thực sự công bằng, dân chủ góp phần thực hiện quá trình cải
cách
tư pháp.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt ra là:1-
Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa như: khái
niệm, đặc điểm, điều kiện, yêu cầu của tranh tụng tại phiên tòa; Cơ sở pháp lý quy
định
về tranh tụng tại phiên tòa; ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòa.
2- Sơ lược về lịch sử các qui định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh
tụng tại phiên tòa.
3- Phân tích, đánh giá thực trạng tranh tụng tại phiên tòa ở Việt Nam những năm
gần đây, qua đó rút ra những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế trong
hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa.
4- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng tranh tụng tại
phiên tòa luận văn nêu ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại
phiên
tòa xét xử vụ án hình sự ở nước ta trước yêu cầu cải cách tư pháp.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tranh tụng là vấn đề lớn trong hoạt động tố tụng, có nhiều nội dung thể hiện ở
các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án nên trong phạm vi của một luận văn
thạc sĩ
không thể xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề mà chỉ dừng lại nghiên cứu vấn đề
tranh
tụng tại phiên tòa.
Với phạm vi nghiên cứu này, luận văn nghiên cứu về tranh tụng tại phiên tòa dưới
góc độ lý luận, phân tích những quy định của pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa,
và chỉ ra
vướng mắc trong hoạt động thực tiễn của những chế định này, trên cơ sở khảo sát
thực

trạng xét xử từ ngày 01/01/1989 (ngày có hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng
hình sự
1988) đến hết ngày 31/6/2004 (ngày hết hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng hình
sự
1988) và chất lượng phiên tòa hình sự từ sau ngày Nghị quyết 08/NQ-TW ra đời.
Từ đó
đưa ra những quan điểm, kiến nghị góp phần thực hiện tốt Nghị quyết 08/NQ-TW,
nâng
cao chất lượng của hoạt động xét xử nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói
chung.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tàiĐể hoàn thành luận văn, tác giả đã dựa trên
cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư
tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về cải cách tư
pháp.
Đồng thời, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương
pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp lịch sử;
phương
pháp đàm thoại (trao đổi ý kiến với những chuyên gia đầu ngành, những người làm
công
tác thực tiễn lâu năm); phương pháp khảo sát thực tiễn tranh tụng tại những phiên
tòa
hình sự.
5. Những điểm mới của luận văn
Là công trình đầu tiên đề cập và giải quyết vấn đề tranh tụng tại phiên tòa, luận
văn có những điểm mới sau:
1- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tranh tụng tại phiên tòa, góp phần nâng cao nhận
thức về nội dung, bản chất của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
2- Luận văn khảo cứu các quy định pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa, đánh giá

thực trạng áp dụng các quy định đó khi xét xử và chỉ ra những hạn chế tồn tại trong
hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa hình sự, cũng như làm rõ nguyên nhân và điều kiện
của tồn
tại đó.
3- Các giải pháp về hoàn thiện pháp luật, về cơ chế tổ chức, về đội ngũ cán bộ
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự mà luận văn
đưa ra sẽ
giúp ích cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng nâng cao
hiệu
quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Tranh tụng tại phiên tòa trước yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay.
Chương 2: Thực trạng tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự.Chương 3: Các
giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa.Chương 1
tranh tụng tại phiên tòa
trước yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay
1.1. tranh tụng tại phiên tòa trong tố tụng tranh tụng
1.1.1. Đặc điểm của tố tụng tranh tụng
Trên thế giới đang tồn tại hai hệ thống tố tụng chủ yếu là: tố tụng tranh tụng và tố
tụng xét hỏi. Tố tụng xét hỏi được sử dụng phổ biến ở các nước theo hệ thống luật
CIVIL
LAW (các nước Pháp, Italia, Đức, ), còn tố tụng tranh tụng là thủ tục tố tụng được
áp
dụng rộng rãi ở các nước theo hệ thống luật án lệ COMMON LAW (các nước Anh,
Mỹ,
ấn Độ, Austraylia, New Zealand ). Theo các nhà nghiên cứu về nhà nước và pháp

luật
thì tố tụng tranh tụng đã xuất hiện rất sớm, ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, sau đó du
nhập
vào La Mã với tên gọi là thủ tục hỏi đáp liên tục (Procédure des questions
perpétuelles)
và trở nên phổ biến tại Anh và nhiều nước khác.
Trong tố tụng tranh tụng tùy theo tính chất, mức độ của từng vụ mà có những thủ
tục tố tụng tương ứng: Nếu là vi phạm nhỏ, tội ít nghiêm trọng (thông thường
những tội
có mức hình phạt cao nhất dưới 5 năm tù) sau khi phát hiện có vi phạm pháp luật
hình sự,
cảnh sát có thể trực tiếp truy tố bị cáo ra tòa chỉ có một Thẩm phán. Nếu là tội
nghiêm
trọng và bị cáo nhận tội, vụ án sẽ được chuyển cho cơ quan công tố để truy tố ra
tòa xét
xử theo thủ tục rút gọn hoặc thủ tục xét xử không có Bồi thẩm đoàn.
Trường hợp bị cáo không nhận tội và đề nghị xét xử bằng thủ tục có Bồi thẩm
đoàn, vụ án sẽ được cơ quan công tố truy tố ra tòa với một Thẩm phán và Bồi thẩm
đoàn.
Tại phiên tòa xét xử, Thẩm phán có nhiệm vụ điều hành mọi hoạt động tố tụng để
cho các
bên buộc tội (Công tố viên nhân danh Nhà nước) và gỡ tội (bị cáo, Luật sư bào
chữa cho
bị cáo) tự xét hỏi, đưa ra chứng cứ, người làm chứng, tự đối chất, phản bác nhau và
tự
bảo vệ quan điểm của mình; đồng thời cũng hướng dẫn cho Bồi thẩm đoàn những
quy tắc
tố tụng, chứng cứ và luật nội dung. Đáng chú ý, Thẩm phán có vai trò điều khiển
các bên
tham gia phiên tòa để đảm bảo những thông tin về chứng cứ đưa ra không tạo nên

định kiến (prejudice) đối với Bồi thẩm đoàn. Việc quyết định bị cáo có tội hay
không hoàn
toàn thuộc quyền hạn của Bồi thẩm đoàn. Nếu bị cáo bị tuyên có tội, lúc đó chỉ có
Thẩm
phán tiếp tục vụ án với vai trò là người quyết định hình phạt, lượng hình. Nếu bị
cáo
được tuyên vô tội, vụ án sẽ chấm dứt ngay và cơ quan công tố cũng không được
quyền
kháng nghị phúc thẩm vì nguyên tắc (Hiến pháp) không cho phép xét xử hai lần
(Double
jeopardy) đối với một bị cáo về cùng một tội. Việc phúc thẩm chỉ đặt ra đối với cả
hai
bên khi bị cáo bị tuyên có tội liên quan đến việc định tội hoặc lượng hình. Các thủ
tục tố
tụng như hỏi cung, khám nghiệm, hay các thủ tục tố tụng tại phiên tòa đều phải
được ghi
âm hoặc ghi hình và nếu có tranh chấp hay mâu thuẫn giữa các bên về tính đúng
đắn và
chính xác thì các bản ghi âm sẽ được đưa ra để Tòa án và các bên cùng xem lại
[39].
Qua nghiên cứu thì tố tụng tranh tụng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, điều tra tại phiên tòa là điều tra chính thức và chủ yếu: Tố tụng tranh
tụng là hệ thống tố tụng mà Tòa án là cơ quan xét xử và tiến hành tố tụng chính, sự
tập trung
nhất của hệ thống tố tụng. Các hoạt động khác như điều tra của cảnh sát, truy tố
của công tố
viên chỉ là những hoạt động mang tính hành chính - tư pháp không được điều chỉnh
bởi Luật
tố tụng hình sự [15, tr. 256]. Chỉ có Tòa án mới là chủ thể tiến hành tố tụng với ý
nghĩa đầy

đủ nhất theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Vì vậy, mọi điều tra của Luật
sư và của
cảnh sát có thể được tiến hành theo nhiều cách khác nhau, với những phương pháp
thu thập
chứng cứ khác nhau, nhưng đều phải được kiểm chứng tại phiên tòa và thông qua
sự xem xét
đánh giá của Hội đồng xét xử thì mới được công nhận về mặt pháp lý và được phục
vụ cho
vụ án, khi đó chứng cứ do các bên cung cấp mới có ý nghĩa đối với phán quyết của
Tòa án.
Chính vì việc điều tra tại phiên tòa là chủ yếu, thông qua việc xem xét đánh giá
chứng cứ
do các bên đưa ra nên phiên tòa theo thủ tục tố tụng tranh tụng thường rất dài và
triệu tập
nhiều nhân chứng.
Thứ hai, trong tố tụng tranh tụng hình thành hai bên với những lợi ích đối kháng
rõ rệt - bên buộc tội và bên bị buộc tội: Trong tố tụng tranh tụng, Viện công tố và
Luật sư
hoàn toàn bình đẳng nhau, họ được pháp luật trao những quyền tương ứng với
chức năng
để có thể điều tra độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho công việc của mình.
Viện
công tố dưới danh nghĩa là người đại diện cho quyền lợi của nhà nước đưa ra các
quan điểm, các lập luận, các chứng cứ để buộc tội bị cáo. Còn bên bị buộc tội là bị
cáo và
những Luật sư cũng dùng mọi lý lẽ, dùng mọi phương tiện được luật pháp cho
phép để
phản bác lại. Hai bên sẽ trực tiếp, liên tục chất vấn và trả lời chất vấn nhau công
khai tại
phiên tòa để làm rõ những vấn đề. Khác với tố tụng xét hỏi, tố tụng tranh tụng đặc

biệt coi
trọng nguyên tắc bằng miệng, công khai, tất cả các tình tiết, các chứng cứ mà Tòa
án áp
dụng để ra bản án đều phải được các bên tranh tụng tại phiên tòa. Với khoa học
công
nghệ phát triển như hiện nay các thủ tục tố tụng tại phiên tòa đều phải được ghi âm
hoặc
ghi hình, việc xét xử công khai trực tiếp có thể được tiến hành qua điện thoại hội
nghị
(Conference call) và cầu truyền hình trực tiếp. Tòa án tiến hành xét xử một vụ án ở
một nơi
có thể nghe lời khai trực tiếp của một người làm chứng ở một nơi khác [41, tr. 5-7].
Thứ ba, Thẩm phán giữ vai trò của người trọng tài: Do thủ tục tranh tụng không
có giai đoạn điều tra nên các chứng cứ đều do các bên trực tiếp đưa ra trong quá
trình
tranh tụng giữa công tố viên và bị cáo, Luật sư. Thẩm phán ở các nước theo thủ tục
này
không có trách nhiệm làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội. Đây cũng là
điểm khác
so với tố tụng xét hỏi nơi mà trước khi mở phiên tòa các chứng cứ đã được điều
tra, thu
thập đầy đủ và thể hiện trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, Thẩm phán chỉ kiểm tra
lại tính
hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ này. Vai trò của Thẩm phán trong tố
tụng
xét hỏi không phải là một bên trung lập mà là người có vai trò chính trong việc làm
sáng
tỏ nội dung vụ án tại phiên tòa, Thẩm phán có thể sẽ trực tiếp chất vấn nếu như lời
khai
của bị cáo còn có mâu thuẫn hay bị cáo chối tội. Trong tố tụng xét hỏi, mọi hành vi

của
những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đều chịu sự điều
khiển
của Chủ tọa phiên tòa, các bên muốn đặt câu hỏi cho bên kia hoặc những người
tham gia
tố tụng khác đều phải thông qua Chủ tọa phiên tòa. Trong khi đó, tại phiên tòa theo
tố
tụng tranh tụng mỗi bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho bên kia cũng như cho
những
người tham gia tố tụng khác. Trong nhiều trường hợp họ có quyền ngắt lời bên kia,
phản
đối lại các ý kiến mà bên kia vừa đưa ra.
Thứ tư, tố tụng tranh tụng có ba hệ quy tắc chi phối toàn bộ các hoạt động tố
tụng: Quy tắc tố tụng (rule of procedures), quy tắc chứng cứ (rule of evidence) và
quy tắc
về ứng xử của Luật sư (rule of counsel). Trong ba hệ quy tắc này, quy tắc về chứng
cứ có
ảnh hưởng lớn nhất vì nó kiểm soát loại chứng cứ nào có thể được đưa ra trước
những người có thẩm quyền quyết định (decision maker) hay nói cách khác, nó
quyết định
chứng cứ có được chấp thuận hay không. Ngay cả Thẩm phán cũng không được tự
do lựa
chọn chứng cứ mà họ thấy thích hợp nhất mà phải tuân theo các quy tắc chứng cứ
đã
được quy định. Quy tắc về chứng cứ được đặt ra nhằm đảm bảo sự công bằng
trong tranh
tụng qua việc cấm sử dụng những nguồn chứng cứ không đáng tin cậy, sai lệch
hoặc có
thể dẫn đến định kiến cho những người có thẩm quyền phán quyết. Nếu coi tố tụng
tranh

tụng là một cuộc đấu giữa hai bên có tranh chấp, thì nó đòi hỏi các bên tham gia tố
tụng,
nhất là cơ quan cảnh sát và công tố phải triệt để tuân thủ các quy tắc đã được luật
quy
định đó và trao thẩm quyền cho Tòa án là cơ quan phải đảm bảo yêu cầu đó trong
quá
trình xét xử.
Tố tụng tranh tụng được thực hiện trực tiếp, bằng lời nói nên nhiều tài liệu trong
tố tụng xét hỏi được xem là những chứng cứ quan trọng của vụ án thì trong tố tụng
tranh
tụng lại không được công nhận là chứng cứ. Tuy nhiên, để làm rõ các tài liệu liên
quan
đến vụ án, chủ nhân của nó sẽ được mời tham gia tố tụng và trực tiếp trình bày
trước tòa.
Thứ năm, ở tố tụng tranh tụng thường có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn: Do
vai trò của Thẩm phán trong tố tụng tranh tụng là người trọng tài nên thông thường
phải
có Bồi thẩm đoàn tham gia tố tụng. Đoàn bồi thẩm không tham gia vào quá trình
tranh
tụng nhưng họ có quyền biểu quyết bị cáo có tội hay không có tội, trên cơ sở đó
Thẩm
phán sẽ quyết định về vụ án. Đây là điểm khác biệt so với tố tụng thẩm vấn, trong
tố
tụng thẩm vấn Hội thẩm nhân dân tham gia phiên tòa và quyết định cả về việc bị
cáo có
tội hay không có tội, quyết định cả về việc lượng hình đối với bị cáo, ở thủ tục tố
tụng
thẩm vấn Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa có địa vị pháp lý ngang với Hội thẩm nhân
dân.
Thứ sáu, yếu tố thú tội và thỏa thuận thú tội (pleas of guilty and pleabargaining): ở

nhiều vụ án cơ quan cảnh sát và công tố không thể tìm ra đủ chứng cứ để
có thể "thắng" tại phiên tòa khi họ muốn truy tố một bị cáo, nên luật pháp có
những quy
định khuyến khích bị cáo nhận tội hoặc cho phép cảnh sát và cơ quan công tố thỏa
thuận
để bị cáo nhận tội, khai báo hay cung cấp thông tin về bị cáo khác. Đổi lại, bị cáo
có thể
được miễn truy tố về một hoặc một số tội hay được giảm hình phạt sau này khi Tòa
án
lượng hình (ví dụ, nếu bị cáo nhận tội trong giai đoạn đầu, mức giảm là một phần
ba mức hình phạt thông thường). Việc thỏa thuận thú tội được diễn ra giữa cơ quan
cảnh sát, viện
công tố và bị cáo cùng Luật sư của họ. Thông thường, cảnh sát và cơ quan công tố
thông
báo cho bị cáo biết đã có những bằng chứng gì về hành vi phạm tội của họ, trên cơ
sở đó
bị cáo sẽ tham khảo ý kiến Luật sư và cân nhắc có nhận tội hay tiếp tục không khai
báo
hoặc chỉ khai báo trong phạm vi nhất định để sau này ra Tòa sẽ phản bác lại việc
buộc
tội. Tòa án không tham gia vào thủ tục này vì Tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử
những vụ
án và bị cáo do cơ quan công tố hay cảnh sát đưa ra truy tố. Cơ chế này tác động
tới trình
tự tố tụng vì khi bị cáo nhận tội dù ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào, toàn bộ thủ tục
đối với
bị cáo sẽ được thay đổi theo hướng không còn "tranh tụng" nữa và lúc đó chỉ còn
là trách
nhiệm của Thẩm phán phải thẩm tra lại hồ sơ vụ án và đưa ra hình phạt thích hợp.
Tòa án

không có trách nhiệm đối với việc cơ quan Công tố bỏ lọt người hay lọt tội, không
truy tố
một tội phạm mà chỉ xét xử những tội phạm do cơ quan Công tố truy tố ra tòa [39,
tr. 26-
29]. Tất nhiên, với vai trò không những là cơ quan áp dụng pháp luật và thực thi
pháp
luật mà còn là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân
chống
lại những lạm dụng quyền lực, bất công, đảm bảo niềm tin của công chúng vào
công
bằng và bình đẳng Tòa án sẽ có trách nhiệm đối với việc đưa ra các bản án một
cách
đúng đắn chứ không chỉ đơn thuần dựa vào tài liệu trong hồ sơ trong các vụ án
không xét
xử bằng Bồi thẩm đoàn. Nhưng rõ ràng là ở những trường hợp đó, trách nhiệm của
Tòa
án trong thủ tục tố tụng tranh tụng không nặng nề bằng Tòa án ở các nước theo thủ
tục tố
tụng xét hỏi với tư cách là khâu phán quyết thẩm tra cuối cùng của giai đoạn tố
tụng, Tòa
án ở những nước này có quyền khởi tố ngay tại phiên tòa, có quyền xét xử bị cáo
theo
khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc
về một
tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố (ở Việt Nam). Và như
vậy,
Tòa án sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm cuối cùng nếu bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan
người
vô tội.
Hệ tố tụng xét hỏi nhấn mạnh phương pháp điều tra, thẩm vấn trong toàn bộ quá

trình tố tụng từ khi khởi tố đến xét xử. Hệ tranh tụng lại chú trọng vào hoạt động
đối tụng
giữa các bên trong giai đoạn xét xử với các quy tắc nghiêm ngặt về chứng cứ để
đảm bảo
rằng bị cáo được xét xử một cách công bằng. Nếu như ở hệ tố tụng tranh tụng vai
trò của
Tòa án là thụ động, quá trình thẩm vấn của Thẩm phán ngay tại phiên tòa cũng chỉ
mang tính chất gián tiếp thì Tố tụng xét hỏi luôn đề cao vai trò chủ động của Thẩm
phán trong
các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Trong hệ tố tụng tranh tụng không có sự
phân
chia thành các giai đoạn tố tụng rõ rệt như trong hệ tố tụng xét hỏi nên chứng cứ
trong tố
tụng tranh tụng phải tuân theo quy tắc chứng cứ (rule of evidence) ngay cả Thẩm
phán
cũng không được tự do lựa chọn chứng cứ mà họ thấy thích hợp nhất.
Viện công tố ở những nước theo thủ tục tố tụng tranh tụng có quyền hạn không
lớn bằng ở những nước theo thủ tục tố tụng xét hỏi nên trong quá trình giải quyết
vụ án
nghĩa vụ của các bên đặt ra ngang nhau. Phiên tòa trong tố tụng tranh tụng là một
cuộc
đấu giữa hai bên buộc tội - bên gỡ tội, Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn là trọng tài;
nhưng
phiên tòa trong tố tụng xét hỏi nhiều khi rơi vào tình trạng diễn lại những gì đã
được thực
hiện trước đó, trên cơ sở đó Hội đồng xét xử khẳng định lại các tình tiết, các chứng
cứ để
ra bản án. Các nước theo thủ tục tranh tụng gọi phiên tòa của tố tụng xét hỏi là các
phiên
họp. Vai trò của Luật sư và những người tham gia tố tụng khác đều bị chi phối

thông qua
vai trò của Thẩm phán [41, tr. 5-7]. Thẩm phán trực tiếp xét hỏi và phát triển sự
kiện theo
cách của mình còn các bên chủ yếu chỉ tranh luận để giải thích những gì liên quan
đến
các cứ liệu của vụ án.
1.1.2. Tranh tụng tại phiên tòa
1.1.2.1. Đặc điểm phiên tòa trong tố tụng tranh tụng
Tranh tụng tại phiên tòa là quá trình đấu tụng diễn ra giữa hai bên buộc tội và bên
gỡ tội xung quanh việc bảo vệ quan điểm giải quyết vụ án của mình trong quá trình
xét
xử từ khi mở phiên tòa cho đến khi kết thúc phiên tòa. Theo đó, dưới sự chủ trì của
Hội
đồng xét xử các bên đưa ra những lý lẽ và chứng cứ nhằm bảo vệ quan điểm của
mình.
Việc tranh luận được diễn ra công khai trực tiếp, liên tục và bằng miệng. Kết quả
của
việc đấu tụng đó có ý nghĩa quyết định đến việc giải quyết vụ án. Vì vậy, so với
phiên tòa
của hệ tố tụng xét hỏi thì phiên tòa trong tố tụng tranh tụng có những đặc điểm sau:
Phiên tòa là trung tâm và duy nhất của hoạt động tố tụng: Tố tụng tranh tụng
không chia thành các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà sau khi phát
hiện vi
phạm pháp luật hình sự cơ quan công tố sẽ truy tố bị cáo ra tòa với một tội danh,
nếu bị
cáo thuê Luật sư bảo vệ quyền lợi thì Luật sư sẽ tham gia tranh tụng khi xét xử.
Đây là giai đoạn duy nhất có sự tham gia đầy đủ của cả bên buộc tội, bên gỡ tội và
cơ quan xét
xử có thẩm quyền. Thông qua sự tập trung một cách công khai minh bạch, các
chứng cứ,

lý lẽ của hai bên gỡ tội và buộc tội chuẩn bị trước đó mới được Tòa án kiểm chứng

thừa nhận. Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất [15, tr. 256-257], nên mọi
hoạt
động tố tụng được tập trung nhất vào phiên tòa. Và như thế, chỉ có thể thông qua
quá
trình hỏi đáp, chất vấn, tranh luận tại phiên tòa, Tòa án mới xem xét và đánh giá bị
cáo có
tội hay không ở mức độ nào mà có phán quyết.
Hình thành lợi ích đối kháng rõ rệt giữa hai bên tại phiên tòa: Như trên đã phân
tích, tại phiên tòa các bên sẽ phải đưa ra các chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ cho luận
điểm của
mình. Bên buộc tội là Viện công tố đại diện cho Nhà nước và bên gỡ tội là bị cáo

người bảo vệ quyền lợi cho họ sẽ phải chất vấn, tranh luận với nhau để Tòa án
nhận định.
Bên nào đưa ra được những chứng cứ, lý lẽ thuyết phục hơn thì sẽ được Tòa án
chấp
nhận, đây là cuộc đấu theo đúng nghĩa của nó - không có sự nhượng bộ và như thế
quyền
lợi của hai bên tại phiên tòa là đối lập nhau.
Tại phiên tòa Thẩm phán giữ vai trò là người trọng tài: Trong cuộc đấu giữa hai
bên buộc tội và gỡ tội, Tòa án sẽ không can thiệp trừ khi việc tranh luận ra ngoài
nội
dung của vụ án. Đây là quá trình tranh luận cam go và có tính quyết định nên việc
để cho
các bên tranh luận tự do là để đảm bảo cho quyền tranh tụng của họ, đảm bảo mọi
tình
tiết của vụ án đều được đề cập đến; Tòa án trực tiếp tham gia xét hỏi sẽ bị coi là
thiên vị

một bên nào đó. Vai trò của Tòa án tại phiên tòa là trung lập, xem xét đánh giá
những
chứng cứ, lập luận của mỗi bên để có quyết định cụ thể.
Phiên tòa trong tố tụng tranh tụng thường rất dài, triệu tập nhiều nhân chứng:
Trong tố tụng tranh tụng khi đã phải mở phiên tòa có Bồi thẩm đoàn thì cũng có
nghĩa là
tính chất phức tạp của vụ án đã thấy rõ. Tại phiên tòa Bồi thẩm đoàn và Thẩm phán
mới
được biết chứng cứ, cũng như là các luận chứng mà mỗi bên đưa ra. Vừa do tính
phức
tạp, vừa do phải thẩm tra đánh giá chứng cứ một cách tỷ mỉ và công nhận từng
phần nên
phiên tòa thường kéo dài, cá biệt có trường hợp phiên tòa tới một năm. Tại phiên
tòa việc
điều tra mới chính thức được Tòa án tiến hành nên nhân chứng đã được cảnh sát
lấy lời
khai vẫn phải ra tòa làm chứng, đây là những người không thể thiếu trong phiên
tòa của tố tụng tranh tụng, khác hẳn với tố tụng xét hỏi là Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa có thể
căn cứ lời khai của người làm chứng tại cơ quan điều tra để quyết định, vì vậy tại
phiên
tòa sự tham gia của người làm chứng thường là đông, có phiên tòa triệu tập tới 600
người
[13, tr. 6].
Bồi thẩm đoàn và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có vị trí ngồi khác nhau cũng
như chức năng công việc: Trong tố tụng xét hỏi, tại phiên tòa Thẩm phán và Hội
thẩm
nhân dân ngồi cùng một bàn và họ ngang quyền với nhau khi xét xử cũng như khi
đưa ra
những phán quyết. Nhưng trong tố tụng tranh tụng, Bồi thẩm đoàn ngồi ở vị trí

khác với
Thẩm phán chủ tọa họ chỉ có quyền nghe và công nhận bị cáo có tội hay không có
tội,
còn việc định tội danh và quyết định hình phạt là của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
1.1.2.2. Điều kiện để tranh tụng tại phiên tòa
Để xác định sự thật khách quan của vụ án thì phiên tòa phải đảm bảo nguyên tắc
tranh tụng, và như thế cần phải có những cơ chế, điều kiện nhất định để thực hiện:
Trước hết, tham gia vào quá trình tranh tụng bao giờ cũng phải có ba chủ thể
của quan hệ tranh tụng. Một bên là Công tố viên nhân danh Nhà nước thực hành
quyền
công tố (bên buộc tội) và một bên là Luật sư, bị cáo (bên gỡ tội) và bên kia là thẩm
phán
và bồi thẩm đoàn. Quá trình tranh tụng phải được diễn ra và tiến hành theo đúng
những
quy định của pháp luật tố tụng hình sự cả về hình thức, nội dung cũng như về
không gian
và thời gian. Trong quá trình này từ khi bắt đầu phiên tòa đến khi kết thúc phiên
tòa, vai
trò trung tâm và quyết định luôn luôn thuộc về Hội đồng xét xử, Thẩm phán Chủ
tọa phải
đóng vai trò là người điều khiển, không can thiệp vào nội dung tranh tụng nhưng
phải
đánh giá, nhận định và xem xét để quyết định chính xác và đúng đắn. Theo tác giả,
quá
trình tranh tụng chỉ có ý nghĩa đầy đủ nhất khi có đầy đủ và đồng thời các chủ thể
của
quan hệ tranh tụng trong tố tụng hình sự và được thể hiện bằng phán quyết cuối
cùng của
Tòa án.
Thứ hai, để việc tranh tụng đạt kết quả cao thì các bên buộc tội và gỡ tội phải có

trình độ năng lực cũng như đạo đức nghề nghiệp, có sự chuẩn bị kỹ càng. Trong
quá
trình tranh tụng dân chủ tại phiên tòa, trình độ năng lực của những người tham gia
tranh
tụng có ảnh hưởng rất lớn, nếu trình độ năng lực chênh lệch giữa bên buộc tội và
bên gỡ tội thì hiển nhiên tranh tụng không mang lại hiệu quả cao. Công tố viên là
bên buộc tội vì
vậy không chỉ việc chuẩn bị chu đáo các tài liệu, nghiên cứu kỹ càng vụ án mà
trình độ tư
duy lý luận cao là đòi hỏi quan trọng. Quá trình nghiên cứu hồ sơ cũng chưa hoàn
toàn
đánh giá được hết tính chất mức độ vụ án và càng không thể căn cứ vào đó để có
lời luận
tội; chỉ có thể qua quá trình thẩm vấn, tranh luận tại phiên tòa mà Kiểm sát viên
buộc tội
một cách khách quan, thuyết phục, vì vậy đòi hỏi Kiểm sát viên phải có trình độ
cũng
như kinh nghiệm tham gia tranh tụng. Vai trò của Luật sư, người bào chữa trong
tranh
luận là hết sức quan trọng, bởi tính chất công việc của Luật sư là một bên trong quá
trình
tranh tụng, đồng thời Luật sư có được những quyền tố tụng cho phép để điều tra
thu thập
chứng cứ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo. Vì vậy, không chỉ năng lực trình
độ của
Luật sư, mà đạo đức nghề nghiệp của họ cũng có ảnh hưởng lớn đến việc tận lực
cho
công việc bào chữa, đến quá trình tranh tụng.
Nếu trong suốt quá trình trước khi mở phiên tòa xét xử cả hai bên Công tố viên
và bị cáo - Luật sư bào chữa cho bị cáo không có sự chuẩn bị kỹ, không dự trù

trước
những tình huống có thể xảy ra trong quá trình tranh tụng thì đến khi tranh luận họ
sẽ
có thể bị đuối lý và tất nhiên phán quyết của Tòa án sẽ trên cơ sở của bên thuyết
phục.
Vì vậy, tự bản thân hai phía buộc tội và gỡ tội sẽ phải có sự chuẩn bị cho quá trình
tranh tụng của mình và luật pháp cũng có những quy định để đảm bảo cho quá
trình
chuẩn bị thu thập chứng cứ của các bên, đảm bảo cho việc tranh tụng đạt kết quả
cao
nhất. Hai bên buộc tội và gỡ tội không chỉ chuẩn bị kỹ càng về lý lẽ, về chứng cứ
được
thu thập trong suốt quá trình trước khi mở phiên tòa mà còn tự đánh giá xem
những
luận điểm nào còn yếu, dự trù những tình huống có thể xảy đến trong quá trình
tranh
luận để đến khi ra tranh tụng đạt được kết quả theo mong muốn.
Thứ ba, để quá trình tranh tụng đạt kết quả tốt thì cần có một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh và các điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo. Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh
có vai
trò rất lớn trong việc tạo ra điều kiện cho quá trình tranh tụng, ở những nước áp
dụng hệ
thống tố tụng tranh tụng - theo nhiều chuyên gia - là những nước có nền văn hóa
pháp lý
cao của toàn xã hội [6, tr. 246-251]; và thực tế cũng cho thấy, để áp dụng được
tranh tụng
tại phiên tòa cần có sự đồng bộ của các ngành luật riêng lẻ, đầy đủ và chặt chẽ để
tạo ra
cơ chế cho tranh tụng.Bên cạnh đó, về cơ sở vật chất như phòng xử án phải đáp
ứng các điều kiện về

tính trang nghiêm, đảm bảo các phương tiện kỹ thuật như ánh sáng, âm thanh, đảm
bảo
phòng cách ly nhân chứng, bị cáo, thậm chí có cả Camera để đảm bảo tính công
khai dân
chủ. Quá trình chuẩn bị phiên tòa phải tốt, bởi lẽ chỉ khi triệu tập đầy đủ những
người
tham gia tố tụng đến phiên tòa thì mới có điều kiện đầy đủ để tiến hành việc tranh
tụng
được tốt. Trường hợp vắng mặt một số người tham gia tố tụng sẽ gây nên tốn kém,
làm
cho phiên tòa phải hoãn hoặc phải xử dài ngày, làm ảnh hưởng đến quá trình xét
xử.
1.1.2.3. Yêu cầu của tranh tụng tại phiên tòa
Tranh tụng tại phiên tòa phải đảm bảo tính dân chủ, công khai nhưng vẫn thể
hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Đây là yêu cầu xuyên suốt quá trình tranh
tụng, nếu
thiếu yêu cầu này thì quá trình tranh tụng không thể đưa đến việc xác định sự thật
khách
quan của vụ án. Chỉ đạt được yêu cầu về dân chủ thì mới đảm bảo sự ngang bằng
giữa
các bên tham gia đấu tụng, trong đó quyền công tố của Nhà nước được đặt ngang
với
quyền bào chữa của bị cáo - Luật sư, họ có toàn quyền tranh luận về mọi vấn đề
trong vụ
án để làm sáng tỏ những tình tiết còn chưa rõ, qua đó Hội đồng xét xử và những
người
tham gia phiên tòa sẽ xác định được sự thật khách quan của vụ án. Việc tranh tụng
đó
phải diễn ra công khai để thể hiện tính minh bạch của pháp luật, của quá trình xét
xử vụ

án. Chỉ có những trường hợp pháp luật quy định phải xử kín để đảm bảo bí mật
Nhà nước
đảm bảo quyền của công dân, còn mọi trường hợp khác đều phải xử công khai.
Tranh
tụng tại phiên tòa phải đạt yêu cầu công khai dân chủ, nhưng vẫn phải theo quy
định của
pháp luật. Đó chính là thể hiện sự nghiêm minh cần thiết của pháp luật, nếu thiếu
đi sự
nghiêm minh đó thì tranh luận giữa phiên tòa là sự tranh luận vô tổ chức mạnh ai
người
ấy nói, phiên tòa trở thành cuộc cãi nhau giữa các bên.
Mục đích của tranh tụng tại phiên tòa là làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án thông qua sự cọ xát giữa các lập luận, ý kiến. Vì vậy, yêu cầu của nó là hai bên
tranh
luận đi vào từng chi tiết của vụ án, sự đối đáp giữa hai bên phải diễn ra liên tục,
Công
tố viên, bị cáo, Luật sư, bị hại và tất cả những người tham gia tố tụng khác phải
tranh
luận từng vấn đề rõ ràng, mạch lạc, dứt khoát, không tranh luận chung chung, dàn
trải,
lạc đề. Công tố viên là bên buộc tội, Luật sư là bên gỡ tội vì vậy họ phải có sự chủ
động trong tranh luận tại phiên tòa, cần hỏi những người tham gia tố tụng nhiều
hơn bất cứ ai
để làm rõ mọi tình tiết của vụ án, đặc biệt là các vấn đề, tình tiết mà bị cáo, người
làm
chứng đưa ra tại phiên tòa có mâu thuẫn với những kết quả điều tra trước đó của
Viện
công tố để trên cơ sở đó có lời luận tội, lời bào chữa khách quan, chính xác.
Trong
tranh luận tại phiên tòa không thể có trường hợp Công tố viên chỉ phát biểu quan

điểm
là giữ nguyên quan điểm như đã truy tố mà không đưa ra lý lẽ, dẫn chứng nào khác

sức thuyết phục để bảo vệ quan điểm đó. Do vậy, đây cũng là vấn đề mà trên thực
tế đòi
hỏi Chủ tọa các phiên tòa phải định hướng để các bên tham gia tranh luận chất vấn

trả lời chất vấn những nội dung chính của vụ án, có như vậy tranh tụng mới đạt
hiệu
quả.
1.1.2.4. Nội dung của tranh tụng tại phiên tòa
Xuất phát từ bản chất, mục đích của tố tụng tranh tụng nên tại phiên tòa phải giải
quyết các nội dung sau:
Thứ nhất, dưới sự chủ trì của Chủ tọa phiên tòa các bên hỏi và trả lời câu hỏi để
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Tại phiên tòa để làm sáng tỏ sự thật vụ
án thì
tranh tụng là quá trình quan trọng, nó bao gồm việc chất vấn liên tục, tranh luận
giữa một
bên đại diện cho Nhà nước thực hành quyền công tố - bên buộc tội, còn bên kia là
bên gỡ
tội - bị cáo và Luật sư, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo. Công tố viên
nhân
danh Nhà nước sẽ là người đưa ra những chứng cứ, những lập luận để bảo vệ lời
buộc tội
(cáo trạng), và đến lượt bị cáo và người bào chữa thể hiện ngay thái độ của họ đối
với lời
buộc tội đó. Sau khi xem xét chứng cứ do bên buộc tội đưa ra, Hội đồng xét xử
xem xét
đến chứng cứ do bên gỡ tội đưa ra và những lý lẽ để bào chữa. Đây là quá trình mà
mỗi

bên đều dùng những lý lẽ, chứng cứ để chứng minh cho luận điểm của mình nên có
thể
nói những lý lẽ đó hoàn toàn trên cơ sở ý chí chủ quan của mỗi bên, và chứng cứ là
để

×