Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

tranh tụng tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.57 KB, 76 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc cải cách tư pháp, TA có vị trí trung tâm và xét xử tại
phiên tòa được xem là hoạt động quan trọng nhất. Bởi vì, thông qua phiên tòa,
các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là buộc tội và bào chữa được thực hiện
một cách công khai, dân chủ, bình đẳng. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho
HĐXX thực hiện chức năng xét xử của mình bằng việc đưa ra những quyết định
khách quan, đúng pháp luật, hợp tình, hợp lý.
Xác định được tầm quan trọng của việc tranh tụng tại phiên tòa với việc ra
các phán quyết của TA, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh: “Việc phán quyết của
TA phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Tiếp đó, trong
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2205 một lần nữa yêu cầu: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan
tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt
động đột phá của các cơ quan tư pháp…”
Tuy nhiên, thời gian qua, việc thực hiện chủ trương này còn nhiều hạn
chế. Những quy định của BLTTHS 2003 cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết dẫn tới
bất cập và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
Đó là tình trạng phân định các chức năng tố tụng không rõ ràng, chồng
chéo dẫn tới việc HĐXX lấn sân, làm thay chức năng của VKS như: HĐXX xét
hỏi là chủ yếu, đặt những câu hỏi mang tính áp đặt buộc bị cáo khai đúng với
những lời khai trước đó; Là tính thiếu chủ động của KSV tại phiên tòa khi thực
hiện chức năng buộc tội.
1
Bên cạnh đó, tranh tụng tại phiên tòa cũng bị hạn chế bởi tình trạng vi
phạm các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS như nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước TA, nguyên tắc về suy đoán vô tội và nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa vẫn xảy ra Thể hiện qua việc một số Thẩm phán còn hạn chế thời gian
trình bày lời bào chữa của bị cáo hoặc người bào chữa; không yêu cầu KSV đáp
lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người


tham gia tố tụng khác; mặc định về việc bị cáo là người có tội và chỉ chú ý tới
chứng cứ buộc tội do VKS đưa ra
Thực tế cho thấy, khi quyền bào chữa không được đảm bảo thì rõ ràng là
đã có sự mất cân đối, mất đi đối trọng cần thiết giữa hai chức năng “buộc tội” và
“gỡ tội” – yếu tố quan trọng góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án.
Bên cạnh những đảm bảo pháp lý khác thì đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa chính
là một biện pháp hữu hiệu để quyền bào chữa của bị can, bị cáo được thực thi,
góp phần cho HĐXX ra được những bản án khách quan, đúng pháp luật, góp
phần giảm bớt án oan, sai.
Để làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng tranh tụng tại phiên tòa của nước ta,
hướng tới việc tăng cường và nâng cao chất lượng của hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tranh tụng tại phiên tòa theo pháp luật
TTHS Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong tiến trình cải cách tư pháp, vấn đề xây dựng một mô hình tố tụng
thống nhất là tố tụng tranh tụng hay tố tụng xét hỏi hoặc là sự pha trộn giữa các
mô hình tố tụng đã và đang gây ra nhiều tranh cãi. Hơn thế, với những ưu điểm
như dân chủ, công khai, minh bạch và đặc biệt vai trò của luật sư được đề cao,
thể hiện tính chủ động của họ trong việc chứng minh, bảo vệ quyền lợi của cho
2
thân chủ, từ đó giúp TA ra được phán quyết đúng đắn nên tố tụng tranh tụng đã
thu hút được nhiều sự quan tâm, bàn luận. Thời gian qua đã có một số công trình
nghiên cứu về vấn đề này:
Luận văn thạc sỹ luật học của ThS. Lưu Bình Dương về “Tranh tụng tại
phiên toà sơ thẩm hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (năm 2003);
Trong luận văn tác giả đã nêu một số vấn đề lý luận chung về tranh tụng, phân
biệt giữa tranh tụng và tranh luận, kiến nghị sửa đổi đối với BLTTHS 1988 theo
hướng đảm bảo tranh tụng. Tuy nhiên, luận văn được hoàn thành khi BLTTHS
2003 mới được thông qua và chưa được thực tiễn kiểm nghiệm. Do vậy, việc
nghiên cứu, luận giải những ưu, nhược điểm về tranh tụng tại phiên tòa theo Bộ

luật hiện hành cũng như đưa ra những giải pháp cho vấn đề này vẫn rất cần thiết.
Luận án Tiến sỹ luật học của TS. Nguyễn Đức Mai về “Vấn đề tranh
tụng trong TTHS” (năm 2004); Luận án đã nghiên cứu sâu về mặt lý luận và
thực tiễn khái niệm tranh tụng; phạm vi và nội dung của nó; các quy định pháp
luật Việt Nam về tranh tụng cũng như các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng tranh tụng của các chủ thể tại các phiên toà, trên cơ sở đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng có ý nghĩa quan trọng cả về phương
diện lý luận và thực tiễn. Song BLTTHS 2003 được ban hành với khá nhiều quy
định mới về tranh tụng vẫn cần có sự nghiên cứu, bàn luận để đưa ra những giải
pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự, góp
phần giảm bớt án oan, sai.
Đề tài “Tranh tụng tại phiên tòa - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
(năm 2003) của Học viện Tư pháp do PGS. TS Nguyễn Văn Huyên làm chủ
nhiệm; Đề tài “Những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa
của KSV” (năm 2003) do TS. Lê Hữu Thể làm chủ nhiệm đã đề cập đến nhiều
3
nội dung của tranh tụng. Tuy nhiên, vì là đề tài của ngành nên công trình chỉ đi
sâu và tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về tranh tụng cũng như
phạm vi, kỹ năng tranh tụng của KSV mà không đề cập đến các bên tham gia
tranh tụng khác cũng như vai trò trọng tài của HĐXX.
Ngoài ra, còn có một số bài báo và tạp chí có đề cập đến nội dung nghiên
cứu trên nhưng ở những góc độ nhỏ, lẻ khác nhau như: “Một số vấn đề tranh
tụng trong TTHS” (Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2003) và “Tìm hiểu các kiểu
(hình thức) TTHS” (Tạp chí Khoa học pháp lý số 8/2002) của tác giả Lê Tiến
Châu; “Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa”-Tác giả Trần Văn Độ (Tạp chí
Khoa học pháp lý số 4/2004); “Đổi mới thủ tục xét xử nhằm nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên toà hình sự”-Tác giả Từ Văn Nhũ (Tạp chí TAND số
10/2002); “Vai trò của HĐXX trong việc tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình
sự” - Tác giả Đinh Văn Quế (Tạp chí TAND số 1/2004); “Bảo đảm quyền của bị
can, bị cáo trong phiên tòa mở rộng tranh tụng” (Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số

8/2003) của PGS. TS Nguyễn Văn Huyên;
Với các công trình trên, khi nghiên cứu đề tài “Tranh tụng tại phiên tòa
theo pháp luật TTHS Việt Nam”, tác giả có thuận lợi là được tham khảo khá
nhiều nguồn tài liệu, khá nhiều quan điểm về tranh tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên,
qua tình hình nghiên cứu ở trên cho thấy vấn đề này chủ yếu được các tác giả tập
trung nghiên cứu khi BLTTHS 2003 chưa đi vào áp dụng. Qua hơn năm năm thi
hành Bộ luật, thực tiễn cho thấy còn nhiều bất cập, hạn chế trong việc thực hiện
tranh tụng tại phiên tòa. Do đó, việc nghiên cứu vấn đề này vẫn rất cần thiết để
hoàn thiện pháp luật TTHS và kiến nghị những giải pháp nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa, góp phần đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
4
3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và những quy
định của pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa cũng như thực tiễn áp dụng và
những bất cập làm cơ sở cho việc kiến nghị sửa đổi.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra đối với luận văn là:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về tranh
tụng tại phiên tòa theo pháp luật TTHS Việt Nam;
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tranh tụng tại
phiên tòa hình sự, chỉ ra nguyên nhân của những vướng mắc trong thực tế.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
tranh tụng tại phiên tòa hình sự và các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa hình sự.
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của Bộ luật TTHS 2003 về tranh tụng
tại phiên tòa hình sự cũng như thực tiễn áp dụng.
4. Phạm vi nghiên cứu

Hoạt động tranh tụng trong lĩnh vực tố tụng được BLTTHS 2003 quy định
ở các giai đoạn tố tụng bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố bị can hoặc quyết
định áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ.
Tuy nhiên, trong khả năng và điều kiện nghiên cứu của một luận văn cao
học, thống nhất với quan điểm coi khâu trọng tâm của cải cách tư pháp là nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, tác giả tập trung nghiên cứu vấn đề tranh
tụng tại phiên tòa HSST.
5
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật trong việc nghiên cứu. Bên cạnh đó, luận
văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu truyền thống như sau:
Phương pháp phân tích nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
tranh tụng tại phiên tòa hình sự.
Phương pháp so sánh, để đối chiếu, so sánh với quy định của BLTTHS
một số nước trên thế giới nhằm tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm khi đưa ra đề
xuất, kiến nghị.
Phương pháp tổng hợp để tổng hợp các vấn đề đã được nghiên cứu nhằm
đưa ra những nhận định và kết luận chung.
Phương pháp thống kê để thống kê số liệu trong thực tiễn xét xử liên quan
đến việc tranh tụng tại phiên tòa làm cơ sở cho việc đưa ra nhận xét, kết luận và
kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài có thể đạt được những kết quả mới như:
- Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và một số quy định của BLTTHS 2003 về
tranh tụng tại phiên tòa hình sự.
- Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của BLTTHS 2003, nghiên cứu việc
thực thi tranh tụng tại phiên tòa, luận văn chỉ ra những điểm bất cập của pháp
luật, những vướng mắc trong quá trình áp dụng.
- Luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật

về vấn đề tranh tụng tại phiên tòa; một số giải pháp khác về đào tạo con người,
nâng cao ý thức pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện các quy
định của pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm 3 chương và phần kết luận.
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm
1.1.1. Tranh tụng trong TTHS
Theo Đại từ điển Tiếng Việt năm 1998 thì “tranh tụng” có nghĩa là “kiện
tụng”; Theo Hán - Việt tự điển thì “tranh tụng” có nghĩa là “cãi lẽ, cãi nhau để
tranh lấy phải”. Trong tiếng Anh, tranh tụng là “Adversarial”, có nghĩa là đối
kháng, đương đầu. Tranh tụng diễn ra trong nhiều lĩnh vực khác nhau như tranh
tụng trong tố tụng dân sự, tranh tụng trong tố tụng hành chính, kinh doanh
thương mại, lao động Trong phạm vi luận văn này tác giả chỉ đề cập đến tranh
tụng trong TTHS.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng tranh tụng là nguyên tắc đặc trưng cho
TTHS tư sản. Trong khi đó, hệ thống tư pháp nước ta lại được tổ chức và hoạt
động theo truyền thống luật Châu Âu lục địa. Tức là hệ thống luật sử dụng mô
hình tố tụng xét hỏi. Do đó, trước năm 2002 thuật ngữ “tranh tụng” chưa từng
được sử dụng trong các văn bản pháp luật của nước ta. Sau khi BLTTHS 1988
ra đời, vấn đề tranh tụng đã được đề cập đến trong các bài viết đăng trên các tạp
chí chuyên ngành. Đặc biệt, Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ
chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định
rằng: “Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào
quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung; nghiên cứu hồ sơ vụ án; tranh luận dân chủ
tại phiên tòa…Nâng cao chất lượng công tố của KSV tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố

tụng khác… Khi xét xử TA phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước
Pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và HTND độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật; việc xét xử của TA phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh
7
tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của
KSV, của người bào chữa, bị cáo…”. Do đó, vấn đề tranh tụng càng được đưa ra
bàn luận sôi nổi và nghiên cứu chuyên sâu hơn.
Cho đến nay, tranh tụng trong TTHS không còn là vấn đề mới. Song đây
vẫn là vấn đề gây ra nhiều tranh cãi với nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau.
Trong đó, đa phần để làm sáng tỏ khái niệm này, các nhà nghiên cứu thường đề
cập đến các vấn đề về mô hình tố tụng tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng, quá
trình tranh tụng tức là giải thích tranh tụng dưới các góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khái quát có thể thấy rằng các nội dung
này không tách rời mà đan xen, liên hệ chặt chẽ với nhau. Với mô hình tranh
tụng, các chức năng buộc tội và bào chữa tham gia vào quá trình tranh tụng với
sự tuân thủ và áp dụng nguyên tắc tranh tụng để góp phần làm sáng tỏ sự thật
khách quan của vụ án.
Quá trình tranh tụng trong TTHS bắt đầu khi xuất hiện sự buộc tội của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền đối với một cá nhân cụ thể hoặc một số người xác
định (thể hiện bằng việc ra quyết định khởi tố bị can, quyết định áp dụng biện
pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ). Kể từ thời điểm này ở phía người bị buộc tội (bị
can, người bị tạm giữ) xuất hiện sự bào chữa để chống lại sự buộc tội đó, bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hay nói một cách khác, tranh tụng chỉ
có thể bắt đầu khi xuất hiện hai đối trọng là bên buộc tội và bên bào chữa với hai
chức năng tương ứng là chức năng buộc tội và chức năng bào chữa.
Quá trình tranh tụng được xem là kết thúc khi bản án hay quyết định của
TA về vụ án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị phúc
thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm của các chủ thể có các quyền đó.
Sự tồn tại của tranh tụng trong TTHS là một thực tế khách quan. Bởi vì
hoạt động TTHS là hoạt động gắn kết chặt chẽ của ba chức năng: buộc tội, bào

chữa và xét xử. Các chức năng này tồn tại, vận động trong sự tồn tại và vận động
của chức năng kia. Bào chữa chỉ xuất hiện khi có sự buộc tội và bào chữa được
8
thực hiện để góp phần cho công tác xét xử đưa ra được một phán quyết khách
quan, chính xác, đúng pháp luật. Có buộc tội thì có xét xử và ngược lại chỉ xét
xử khi có sự cáo buộc. Trong TTHS nếu có buộc tội mà không có bào chữa thì
hoạt động tố tụng sẽ mang tính áp đặt, một chiều, thiếu tính thuyết phục, thiếu
tính dân chủ. Sự tồn tại khách quan của tranh tụng đòi hỏi được thừa nhận trên
thực tế và được ghi nhận trong Luật. Khi chính thức được ghi nhận thì tranh tụng
sẽ là nguyên tắc cơ bản của TTHS. Nguyên tắc này đòi hỏi sự bình đẳng giữa các
chức năng buộc tội và gỡ tội.
Chức năng buộc tội còn gọi là “chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự,
là một dạng hoạt động tố tụng nhằm phát hiện kẻ phạm tội, chứng minh lỗi của
người đó, bảo đảm phán xử và hình phạt đối với người đó”[26, tr22]. Chức năng
này không chỉ thuộc về VKS mà trước hết nó còn thuộc về cơ quan điều tra,
người bị hại (trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại)
và đại diện hợp pháp cũng như người bảo về quyền lợi của họ.
Về nội dung, chức năng buộc tội bao gồm tổng thể những hoạt động của
các chủ thể thuộc bên buộc tội. Đầu tiên là khởi tố bị can, tiếp theo là hoạt động
điều tra, truy tố bị can bằng bản Cáo trạng và cuối cùng là chứng minh Cáo trạng
đó đúng trước TA. Có thể chia buộc tội thành hai phần là buộc tội về nội dung và
buộc tội về tố tụng. Buộc tội về nội dung (đối tượng chứng minh) là việc đưa ra
những cáo buộc đối với cá nhân cụ thể về tội phạm gì và hành vi của người bị
buộc tội có dấu hiệu của tội phạm đó. Buộc tội về tố tụng là tổng hợp các hành vi
tố tụng cụ thể nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để chứng minh sự
đúng đắn của buộc tội về nội dung đã đưa ra đối với người bị buộc tội. Buộc tội
về nội dung là cơ sở định hướng cho buộc tội về tố tụng và ngược lại, buộc tội về
tố tụng giúp cho buộc tội về nội dung có đủ căn cứ pháp lý và thực tiễn.
Về tính chất, chức năng buộc tội có thể được thực hiện dưới các hình thức:
tư tố, tư công tố và công tố. Theo pháp luật Việt Nam, chức năng buộc tội có thể

9
được thực hiện dưới một trong ba hình thức nêu trên hoặc ba hình thức đồng thời
được thực hiện.
Về thời điểm bắt đầu và kết thúc thì chức năng buộc tội xuất hiện từ khi có
cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can (buộc tội chính thức). Có
một số trường hợp đặc biệt thì chức năng buộc tội xuất hiện sớm hơn khi cơ
quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ người bị tình nghi (buộc tội không
chính thức) thuộc trường hợp bắt khẩn cấp, bắt quả tang hoặc bắt người đang bị
truy nã (Điều 81, 82, 86 BLTTHS năm 2003). Khi kết thúc thủ tục tranh luận tại
phiên tòa sơ thẩm thì chức năng buộc tội cũng kết thúc. Trong một số trường hợp
ngoại lệ, chức năng buộc tội kết thúc sớm hơn khi những căn cứ của việc buộc
tội không còn và dẫn đến hệ quả là cơ quan điều tra đình chỉ điều tra hoặc VKS
hay TA đình chỉ vụ án.
Về vai trò, chức năng buộc tội là một trong những chức năng cơ bản của
TTHS, là nhân tố làm phát sinh quá trình tranh tụng, đối trọng với chức năng bào
chữa và là tiền đề cần thiết cho chức năng xét xử. Không có buộc tội thì sẽ
không có hoạt động tố tụng và hoạt động tố tụng đó sẽ không có định hướng.
“Chức năng bào chữa là một dạng hoạt động tranh tụng được pháp luật
đảm bảo cho người bị buộc tội khả năng bằng cách tự mình hoặc nhờ người
khác đưa ra các chứng cứ và lập luận nhằm không chỉ bác bỏ sự buộc tội, làm
giảm trách nhiệm cho mình mà còn đưa ra những gì có lợi cho người bị buộc tội
trong quá trình tố tụng” [41, tr15]. Khái niệm về chức năng bào chữa này đã
khái quát hóa được chủ thể, phạm vi, cách thức thực hiện cũng như nội dung của
chức năng bào chữa.
Về nội dung, chức năng bào chữa là tất cả các hoạt động của người bị
buộc tội và người bào chữa từ khi bị buộc tội đến khi có bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của TA không bị kháng cáo, kháng nghị. Thông qua các hành
vi cụ thể, họ sử dụng các quyền theo qui định của pháp luật để làm sáng tỏ
những tình tiết về sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như
10

những tình tiết khác có lợi cho người bị buộc tội. Nội dung của chức năng bào
chữa giới hạn trong phạm vi nội dung của chức năng buộc tội và phụ thuộc vào
nội dung của chức năng buộc tội.
Về tính chất, chức năng bào chữa chỉ được thực hiện dưới hình thức cá
nhân, nhân danh và bảo vệ lợi ích cá nhân người bị buộc tội.
Chức năng bào chữa xuất hiện từ khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
khởi tố bị can hoặc quyết định tạm giữ. Chức năng bào chữa kết thúc khi thủ tục
tranh luận tại phiên tòa HSST chấm dứt. Khi những căn cứ của việc buộc tội
không còn thuộc các trường hợp cơ quan điều tra đình chỉ hoặc VKS hay TA
đình chỉ vụ án thì chức năng bào chữa sẽ kết thúc sớm hơn.
Về vai trò, chức năng bào chữa là một trong những chức năng cơ bản của
TTHS, có vai trò đối trọng với chức năng buộc tội. Chính sự đối trọng này đảm
bảo cho TTHS được dân chủ, khách quan. Chúng tôi đồng tình với quan điểm
cho rằng “Có buộc tội mà không có bào chữa thì hoạt động tố tụng sẽ mang tính
chất một chiều và kết buộc chứ không phải là tranh tụng. TTHS không thể được
thừa nhận là dân chủ khi chức năng buộc tội không có đối trọng là chức năng
bào chữa ” [24].
Vì các lẽ đó, tranh tụng trong TTHS có thể được hiểu như sau:
Tranh tụng trong TTHS là hoạt động do các chủ thể có chức năng đối
trọng nhau (buộc tội và bào chữa) thực hiện; dựa trên nguyên tắc bình đẳng
trong việc đưa ra, bảo vệ chứng cứ, lập luận của mình và phản bác chứng cứ,
lập luận của đối phương, nhằm góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án; được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố bị can và kết thúc khi bản án,
quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị.
1.1.2. Tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Quá trình thực hiện tranh tụng trong TTHS bắt đầu từ khi có quyết định
khởi tố bị can. Các hoạt động tranh tụng trước khi đưa ra xét xử tại phiên tòa có
thể được các chủ thể thực hiện “ngấm ngầm” hoặc “công khai” bằng nhiều hình
11
thức khác nhau. Tuy nhiên, chỉ tại phiên tòa hình sự thì việc thực hiện tranh tụng

mới thể hiện một cách toàn diện và đầy đủ nhất, là tổng hợp kết quả của các hoạt
động tranh tụng đã diễn ra trước đó.
Phiên tòa hình sự có sự tham gia của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên
gỡ tội cùng các chủ thể khác dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa và sự giám
sát của HĐXX. Tại phiên tòa sơ thẩm nội dung và phạm vi tranh tụng không bị
bất kỳ giới hạn nào. Trong khi đó, ở phiên tòa phúc thẩm thành phần tham gia
cũng hạn chế hơn ở chỗ: chỉ yêu cầu người kháng cáo hoặc bị kháng cáo, kháng
nghị là bắt buộc phải có mặt; còn các chủ thể khác như bị cáo không kháng cáo
hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị, người bị hại, người làm chứng thì tùy
thuộc vào sự xem xét của TA có cần thiết hay không mới triệu tập. Ngoài ra, nội
dung và phạm vi tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm cũng bị thu hẹp phụ thuộc
vào nội dung của kháng cáo, kháng nghị và ý chí chủ quan của HĐXX.
Phiên tòa HSST và phúc thẩm hội tụ đầy đủ ba chức năng cơ bản của
TTHS, đó là chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử. Các chức năng này có mối
liên hệ mật thiết, hữu cơ với nhau. Mỗi chức năng tồn tại và vận động trong
chừng mực tồn tại và vận động của chức năng kia. Hai chức năng buộc tội và
bào chữa đồng thời được thực hiện công khai, cạnh tranh quyết liệt hướng tới
việc thuyết phục HĐXX chấp nhận lập luận, chứng cứ chứng minh và các đề
xuất của mình, góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án.
Tại phiên tòa hình sự, chức năng buộc tội trực tiếp do KSV, người bị hại
và nguyên đơn dân sự (nếu có) thực hiện. KSV buộc tội thông qua bản Cáo
trạng, qua việc xét hỏi và đưa ra các lý lẽ để tranh luận với bên bào chữa nhằm
bảo vệ ý kiến của mình về vụ án. Người bị hại và nguyên đơn dân sự được quyền
trình bày sự việc, đưa ra các chứng cứ và các lý lẽ bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình.
Chức năng bào chữa tại phiên tòa do bị cáo, người bào chữa; bị đơn dân
sự, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ thực hiện. Người
12
bào chữa tại phiên tòa bao gồm: Luật sư, người đại diện hợp pháp của bị cáo và
bào chữa viên nhân dân.

Tại phiên tòa, HĐXX giữ vai trò trọng tài sẽ xem xét, đánh giá các tài liệu,
chứng cứ của vụ án và kết quả cuộc tranh tụng công khai của hai bên buộc tội và
bào chữa để đưa ra những nhận định đúng đắn về nội dung vụ án, tìm ra sự thật
khách quan của vụ án. Từ đó, đưa ra phán quyết về tội danh và hình phạt đối với
người phạm tội cũng như giải quyết những vấn đề có liên quan khác.
Ngoài bản án của TA, không có văn bản buộc tội của chủ thể nào giữ chức
năng buộc tội được coi là sự buộc tội chính thức, xác định một chủ thể nào đó có
hành vi phạm tội mà Luật hình sự quy định. Một số văn bản như quyết định bắt
giữ, khởi tố, tạm giam, cáo trạng không được xem là sự buộc tội chính thức mà
chỉ là các giả thiết của các chủ thể giữ chức năng buộc tội được Nhà nước trao
quyền điều tra, thu thập, tiến hành các thủ tục tố tụng khác làm tiền đề cho giai
đoạn xét xử mà tập trung nhất là tại phiên tòa hình sự. Một người chỉ bị coi là có
tội khi có quyết định hoặc bản án kết tội của TAcó hiệu lực pháp luật, do đó, các
quyết định đó về nguyên tắc chưa được coi là sự buộc tội chính thức. Bản án (có
hiệu lực pháp luật và không bị kháng cáo, kháng nghị) chấm dứt cuộc tranh luận
của hai bên buộc tội và bào chữa, xác định sự thật khách quan của vụ án.
Về hình thức, tranh tụng tại phiên tòa chính là cách thức tổ chức phiên tòa
qua các thủ tục khác nhau như: bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận và quá trình
tranh tụng được coi là kết thúc khi phần tranh luận kết thúc.
Về nội dung, việc tranh tụng tại phiên tòa thể hiện ngay ở phần thủ tục bắt
đầu phiên tòa bằng việc các bên có thể đưa ra yêu cầu triệu tập thêm người làm
chứng hoặc đưa ra vật chứng, tài liệu mới để HĐXX xem xét. Những yêu cầu
này chính là những đảm bảo cho việc xét hỏi và tranh luận ở phần tiếp theo của
phiên tòa.
Tiếp theo, ở phần xét hỏi, HĐXX, KSV và những người khác theo quy
định của BLTTHS phải kiểm tra các chứng cứ, tài liệu của vụ án một cách công
13
khai bằng cách trực tiếp xét hỏi bị cáo, người bị hại, người làm chứng và những
người tham gia tố tụng khác; tiến hành các công việc khác như nghe nhận xét,
kết luận của người giám định, xem xét vật chứng, công bố lời khai, xem xét tại

chỗ nhằm “tái hiện, củng cố và khẳng định những tình tiết, sự kiện của vụ án
một cách đầy đủ nhất và toàn diện nhất. Trên cơ sở đó hình thành những thông
tin chính xác giúp cho việc tranh luận, nghị án và tuyên án” [40].
Phần tranh luận thể hiện đậm nét nhất nội dung tranh tụng tại phiên tòa
hình sự cũng như toàn bộ quá trình tranh tụng trong TTHS. Các chủ thể buộc tội
và bào chữa dựa vào kết quả thẩm vấn để đưa ra quan điểm của mình về sự tồn
tại hay không tồn tại mối liên hệ logic giữa các sự kiện, tình tiết đã kết luận ở
giai đoạn điều tra và được làm sáng tỏ, công khai tại phần xét hỏi của phiên tòa.
Từ đó, các chủ thể viện dẫn căn cứ pháp luật, lập luận để đưa ra kết luận khẳng
định hoặc bác bỏ nội dung buộc tội của chủ thể buộc tội hoặc nội dung bào chữa
của chủ thể bào chữa. HĐXX là trọng tài, lắng nghe các bên tranh luận, đối đáp.
Nếu qua tranh luận mà HĐXX thấy có chứng cứ chưa được kiểm tra đầy đủ tại
giai đoạn xét hỏi hoặc có chứng cứ mới xuất hiện trong quá trình tranh luận thì
HĐXX quyết định quay lại thủ tục xét hỏi nhằm làm sáng tỏ các nội dung cần
thiết. Qua tranh luận giữa hai bên buộc tội và bào chữa, HĐXX sẽ có những
nhận định xác thực về vụ án, làm cơ sở cho việc nghị án và đưa ra những phán
quyết phù hợp, giải quyết vụ án một cách đúng đắn.
Như vậy, có thể hiểu:
Tranh tụng tại phiên tòa là hoạt động của các chủ thể có chức năng đối
trọng nhau là buộc tội và bào chữa thực hiện, dựa trên nguyên tắc bình đẳng
trong việc đưa ra, làm sáng tỏ, bảo vệ chứng cứ, lập luận của mình và phản bác
chứng cứ, lập luận của đối phương, nhằm thuyết phục HĐXX chấp nhận đề xuất
của mình, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án; được bắt đầu
cùng với thủ tục bắt đầu phiên tòa và kết thúc khi kết thúc phần tranh luận.
14
1.2. Quy định hiện hành của pháp luật TTHS Việt Nam về tranh tụng
tại phiên tòa
BLTTHS năm 2003 (sau đây gọi tắt là BLTTHS) có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/7/2004 đã đánh dấu một bước mới, quan trọng trong lịch sử lập pháp
TTHS của Việt Nam.

Về cơ bản, BLTTHS được ban hành trên nền các nguyên tắc tố tụng và
quy định về các giai đoạn TTHS của BLTTHS năm 1988. Để đạt mục tiêu nâng
cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, đáp ứng yêu cầu đấu tranh,
chống và phòng ngừa tội phạm trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các quy định của BLTTHS được sửa đổi
một cách khá toàn diện, tinh thần tranh tụng đặc biệt đã thể hiện khá đậm nét
không chỉ tại phiên tòa mà suốt cả quá trình tố tụng.
Tìm hiểu các quy định hiện hành của pháp luật TTHS nước ta về tranh
tụng tại phiên tòa có thể tập trung vào các nội dung lớn sau đây:
1.2.1. Về các nguyên tắc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa
Để hoạt động tranh tụng được thực thi trong thực tế theo quy định của
pháp luật, BLTTHS tiếp tục ghi nhận một số nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt
Nam vốn được xem là những nguyên tắc tiến bộ của mô hình tranh tụng. Đó là:
- Nguyên tắc “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của TA
đã có hiệu lực pháp luật”(Điều 9). Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền và lợi
ích của người dân, tránh định kiến, suy diễn trong quá trình xác định sự thật
khách quan của vụ án. Nguyên tắc này đòi hỏi và yêu cầu bên buộc tội phải tham
gia tranh tụng nhằm đưa ra những lý lẽ, chứng cứ để chứng minh sự buộc tội của
mình là có căn cứ. Nguyên tắc này cũng xác định vai trò “trọng tài” của Tòa án,
khẳng định chỉ có Tòa án mới có quyền đưa ra phán quyết bằng bản án xác định
có tội hay không có tội và áp dụng hình phạt thích hợp.
- Nguyên tắc “Xét xử công khai” (Điều 18): Việc xét xử của TA được tiến
hành công khai chính là một đảm bảo cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa
15
được đảm bảo thực hiện. Giữ vai trò đại diện cho VKS, trước sự chứng kiến của
công chúng, KSV sẽ thực hiện tốt hơn trọng trách của mình trong việc bảo vệ
cáo trạng. Cuộc tranh luận chính thức và công khai cũng là động lực để các chức
năng buộc tội và gỡ tội được thực hiện một cách tích cực nhất.
- Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”
(Điều 11): Thực hiện nguyên tắc này cũng chính là bảo đảm cho việc thực hiện

chức năng bào chữa - đối trọng với chức năng buộc tội trong TTHS. Hai chức
năng này không chỉ tồn tại song song mà nó còn đối lập và chế ước nhau tạo ra
một cơ chế tranh tụng có hiệu quả nhất trong hoạt động tố tụng nhằm giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự. Để bảo đảm quyền bào chữa tại phiên tòa được thực
hiện một cách tối đa, TA chỉ được xét xử vắng mặt bị cáo trong một số trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 187 BLTTHS
- Nguyên tắc “Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia” (Điều 15);
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 16): Sự
độc lập của thẩm phán là điều kiện cơ bản để bảo đảm quyền được xét xử công
bằng của người dân. Nguyên tắc này là căn cứ để Thẩm phán, Hội thẩm thực
hiện quyền tự do xét xử theo lương tâm và pháp luật, từ chối mọi sự can thiệp
bên ngoài vào công việc xét xử. Đồng thời, nó cũng thể hiện địa vị pháp lý độc
lập của cơ quan tài phán giữa hai chức năng buộc tội và bào chữa trong TTHS.
- Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bình đẳng trước TA” (Điều 19): Sự thật của
vụ án chỉ có thể được xác định khách quan, toàn diện và đầy đủ khi thẩm phán,
hội thẩm coi trọng mọi loại nguồn chứng cứ, mọi lập luận về các tình tiết của vụ
án cũng như mọi lập luận về dẫn chiếu quy định của pháp luật. Do đó, nguyên
tắc này chính là cơ sở pháp lý để các bên buộc tội và gỡ tội tranh tụng bình đẳng,
dân chủ tại phiên tòa. Đồng thời, buộc TA phải tôn trọng, tạo điều kiện để các
bên thực hiện quyền bình đẳng.
16
1.2.2. Về các chủ thể thực hiện tranh tụng
Để thực hiện tranh tụng tại phiên tòa, các chủ thể thuộc bên buộc tội và
bên bào chữa tiếp tục được BLTTHS năm 2003 quy định những quyền và nghĩa
vụ pháp lý nhất định.
Điều 50 BLTTHS quy định bị cáo có các quyền: được nhận quyết định
đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của TA; các quyết định tố
tụng khác theo quy định của Bộ luật này; quyền được tham gia phiên toà; được
giải thích về quyền và nghĩa vụ So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm

2003 đã mở rộng hơn các quyền của bị cáo. Đặc biệt, quyền “trình bày ý kiến,
tranh luận tại phiên tòa” của bị cáo được nhấn mạnh tại điểm g, khoản 2, Điều 50
Bộ luật này.
Thể chế hoá nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, Điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa có quyền
tham gia tố tụng ngay từ khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người
theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này. Bên cạnh việc tiếp tục ghi
nhận các quyền cơ bản của người bào chữa, BLTTHS 2003 đã quy định khá
nhiều các quyền mới cho người bào chữa như: có mặt khi lấy lời khai của người
bị tạm giữ; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và
các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; đề nghị Cơ quan
điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi
cung bị can; sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa;
được khiếu nại hành vi tố tụng của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Ngoài các quyền trên, BLTTHS 2003 cũng quy định người bào chữa có
nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình
tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; Người bào chữa không được từ chối bào
17
chữa cho bị cáo mà mình đã đảm nhận, nếu không có lý do chính đáng; không
được tiết lộ bí mật mà mình biết được trong khi làm nhiệm vụ
Quyền và nghĩa vụ của bị đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ
được quy định tại Điều 53 BLTTHS nhằm bảo đảm cho họ có thể bảo vệ được
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. BLTTHS năm 2003 đã chú trọng tới
mở rộng tranh tụng tại phiên tòa với quy định bị đơn dân sự hoặc người đại diện
hợp pháp của họ có quyền “trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn” tại điểm đ, khoản 2, Điều 53.
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thuộc bên bào chữa còn được quy định
tại một số điều luật khác của BLTTHS như: Điều 10, Điều 24, Điều 62, Điều
201, Điều 207, Điều 212, Điều 215, Điều 247

Đối với các chủ thể của chức năng buộc tội tại phiên tòa như VKS (KSV),
người bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ, BLTTHS
cũng quy định những quyền, nghĩa vụ pháp lý cụ thể.
Theo quy định của BLTTHS thì VKS có các quyền và nghĩa vụ sau: có
trách nhiệm chứng minh tội phạm (Điều 10); áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để
xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; làm rõ
những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội; những tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; bảo đảm cho bị can, bị
cáo thực hiện quyền bào chữa (Điều 11); giải thích và bảo đảm cho những người
tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ (Điều 62); thu thập, xem xét và
đánh giá chứng cứ (các Điều 65 và 66);
Ngoài ra, BLTTTHS năm 2003 đã dành riêng một Điều luật để quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn của KSV được phân công thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng. Điều 37 của Bộ luật đã
quy định cụ thể về các hoạt động của KSV tại phiên tòa: “đọc cáo trạng, quyết
định của VKS liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực
hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với
18
những người tham gia tố tụng tại phiên tòa”. Song hành với quyền công tố, KSV
tham gia phiên tòa còn có quyền “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của TA, của những người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản án,
quyết định của TA”.
Người bị hại, nguyên đơn dân sự tham gia tố tụng để thực hiện chức năng
buộc tội ở một mức độ nhất định. Để các chủ thể này có thể thực hiện chức năng
của mình trong TTHS, pháp luật giành cho họ những quyền và nghĩa vụ tố tụng
nhất định được quy định tại các Điều: 51, 52 và một số điều khác của BLTTHS.
Các điều luật nhấn mạnh đến quyền “trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp”; quyền “khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” của các chủ thể này. Bộ
luật cũng quy định rõ nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan đến vụ án là “trình bày trung thực những tình tiết trực tiếp
liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình”.
1.2.3. Về trình tự, thủ tục tranh tụng
Dù còn nhiều quan điểm khác nhau về thời điểm bắt đầu của hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa nhưng phần lớn các quan điểm đều xác định hoạt động
này được khởi động ngay từ phần thủ tục bắt đầu phiên tòa. Bởi vì, theo quy
định tại Điều 179 BLTTHS thì “Chủ toạ phiên toà phải hỏi KSV và những người
tham gia tố tụng xem có ai đề nghị triệu tập thêm người làm chứng hoặc đề nghị
đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét hay không. Nếu có người tham gia tố
tụng vắng mặt thì chủ toạ phiên toà cũng phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên
toà hay không. Nếu có người yêu cầu thì HĐXX xem xét và quyết định”
Việc các bên đưa ra yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa ra
vật chứng, tài liệu mới để HĐXX xem xét chính là những đảm bảo cho việc xét
hỏi và là cơ sở tranh luận ở phần tiếp theo của phiên tòa. Do đó, về lý thuyết, cần
phải xem quá trình tranh tụng tại phiên tòa đã được bắt đầu ngay phần thủ tục.
19
Trên thực tế, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa bắt đầu rõ nét nhất bằng
việc KSV đọc cáo trạng và bổ sung những ý kiến nếu có, làm cơ sở cho việc giới
hạn quan điểm đã truy tố và HĐXX nhằm vào để thẩm vấn. Thủ tục xét hỏi được
quy định gồm 11 Điều, tại Chương XX của Bộ luật với trình tự xét hỏi như sau:
Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm,
sau đó đến KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên
tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được
hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định. (khoản 2, Điều
207).
Xét hỏi có thể được xem là nền tảng của tranh tụng tại phiên tòa. Bởi vì,
thông qua xét hỏi mới có cơ sở để xác định đầy đủ các tình tiết có ý nghĩa quan
trọng của vụ án. Xét hỏi đúng trọng tâm, cụ thể và chi tiết bao nhiêu càng củng
cố cho lập luận của các chủ thể vững chắc bấy nhiêu. Quan điểm của chủ thể

tranh luận chỉ có sức thuyết phục khi nó được đặt nền móng bởi các chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án được xét hỏi, thẩm định tại phiên tòa. Sẽ là sáo rỗng khi quan
điểm đưa ra tranh luận không dựa vào kết quả xét hỏi tại phiên tòa. Sẽ thiếu tính
thuyết phục nếu chứng cứ đưa ra chỉ là “án tại hồ sơ” mà không được thẩm định
công khai tại phiên tòa. Do đó, phần tranh luận có thành công hay không phụ
thuộc rất lớn vào việc xét hỏi công khai tại phiên tòa.
Thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm được kế tiếp ngay sau thủ tục xét
hỏi, được BLTTHS quy định tại 5 điều từ Điều 217 đến Điều 221. Đây có thể
xem là giai đoạn trung tâm của quá trình tranh tụng. Bởi vì, lần đầu tiên hai bên
buộc tội và gỡ tội, trước sự chứng kiến của HĐXX, công khai thực hiện chức
năng của mình bằng việc đưa ra các lý lẽ và lập luận.
20
Mở đầu cuộc tranh luận, KSV trình bày lời luận tội. Điều 217 BLTTHS
quy định:“Luận tội của KSV phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được
kiểm tra tại phiên toà và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền
lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà”. Như vậy,
căn cứ vào kết quả xét hỏi tại phiên tòa, KSV sẽ đánh giá chứng cứ để quyết
định theo ba hướng: hoặc là bảo vệ toàn bộ cáo trạng đã truy tố; hoặc là bảo vệ
một phần cáo trạng đã truy tố; hoặc không bảo vệ được cáo trạng đã truy tố. Để
luận tội của KSV bảo đảm đúng đắn, chính xác và có sức thuyết phục, VKS phải
tổng hợp phân tích, đánh giá chứng cứ một cách logic các tài liệu chứng cứ có
trong hồ sơ đã được thẩm tra tại tòa. Trên cơ sở BLTTHS và BLHS, luận tội của
KSV phải xác định được đâu được xem là chứng cứ, đâu không được xem là
chứng cứ và xác định bốn yếu tố của cấu thành tội phạm. Ngoài ra, kết quả xét
hỏi chính là lập luận để làm rõ vai trò của bị cáo trong vụ án, tính chất, mức độ
và hậu quả của vụ án cũng như tính chất, mức độ của hành vi của bị cáo. Để việc
đề xuất mức án cho tội danh của bị cáo được chính xác, luận tội của KSV còn
phải làm rõ cả tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của bị cáo.
Tiếp theo lời buộc tội của vị đại diện VKS là những lập luận bên bào chữa
để gỡ tội. Trước tiên, người bào chữa cho bị cáo trình bày lời bào chữa và tập

trung vào lập luận truy tố của KSV đã đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
chưa? Nếu chưa thì ý kiến của người bào chữa là gì? Bào chữa cho bị cáo còn
phải xét đến các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo đã được đề cập đủ chưa, nếu còn
sót về các tình tiết giảm nhẹ nào được quy định tại Khoản 1, Điều 46 BLHS thì
phải bổ sung. Người bào chữa của bị cáo có quyền kiến nghị với HĐXX những
đặc điểm nhân thân hoặc những tình tiết khác có lợi cho mình làm tình tiết giảm
nhẹ theo quy định tại Khoản 2 Điều 46 BLHS.
21
Tiếp đó, bị cáo có quyền bổ sung cho lời bào chữa của người bào chữa.
Nếu người bào chữa đã trình bày đầy đủ các chứng cứ và ý kiến bảo vệ cho bị
cáo thì bị cáo không bổ sung ý kiến bào chữa. Ngược lại, nếu lời bào chữa hời
hợt, bỏ sót các chứng cứ và tình tiết có lợi cho bị cáo thì bị cáo sẽ trình bày ý
kiến bổ sung cho lời bào chữa nhiều hơn.
Cuộc tranh luận tiếp diễn với sự tham gia của người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc
người đại diện hợp pháp hoặc người bảo vệ quyền lợi cho họ được trình bày ý
kiến của họ về cách giải quyết vụ án: bổ sung mức đề nghị của KSV hoặc bác bỏ
đề xuất của KSV về các phần giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi của họ.
Đối đáp giữa những người tham gia tranh luận được quy định tại Điều 218
BLTTHS năm 2003. So với quy định tại Điều 192 BLTTHS năm 1988 thì quy
định về đối đáp trong BLTTHS mới đã có những tiến bộ rõ rệt.
Điều 192 BLTTHS năm 1988 quy định rất chung chung về quyền mà
không nhấn mạnh đến nghĩa vụ đối đáp của các bên tham gia tranh tụng, đặc biệt
là đối với bên buộc tội. Những quan điểm, đề xuất của VKS cho tới lúc này vẫn
chỉ là giả thiết. Do vậy, để bảo vệ nó trước những lập luận phản bác của bên bào
chữa, KSV cần và phải có nghĩa vụ đối đáp để chứng minh cho quan điểm của
mình là đúng đắn, có cơ sở.
Điều 218 quy định: “Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của KSV và đưa ra đề nghị của
mình; KSV phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến”. Quy định

mới này đã xác định rất rõ trách nhiệm đối đáp lại, tranh luận lại với bên bào
chữa của KSV tại phiên tòa. Theo tinh thần của Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành TW Đảng thì “kết quả tranh tụng”
22
chính là cơ sở để HĐXX ra phán quyết. Do vậy, việc quy định trách nhiệm đối
đáp của KSV chính là nhằm nâng cao tính tranh tụng tại phiên tòa.
Điều luật cũng quy định rõ: “Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị KSV
phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được KSV tranh luận”.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, trong trường hợp dù được đề nghị, KSV vẫn không
tham gia tranh luận thì hậu quả pháp lý là gì? chế tài áp dụng như thế nào? Có
thể và cần phải xem việc không tham gia tranh luận, không đáp lại được lập luận
của bên tham gia tranh tụng chính là sự thừa nhận, đồng tình với lập luận của họ.
Điều 192 BLTTHS năm 1988 quy định “Người tham gia tranh luận có
quyền đáp lại ý kiến của người khác nhưng chỉ được phát biểu một lần đối với
mỗi ý kiến mà mình không đồng ý”. Tranh luận nhằm hướng tới việc xác định sự
thật khách quan của vụ án. Chân lý, sự thật khách quan của vụ án không thể làm
sáng tỏ chỉ bằng một câu nói, một ý kiến mà có thể phải qua rất nhiều bước,
nhiều tầng bậc mới có thể làm sáng tỏ. Quy định này của Điều luật đã hạn chế sự
cọ sát các quan điểm, lập luận - vốn là phương pháp được sử dụng công khai và
hữu hiệu nhất tại phiên tòa hình sự - giữa các bên tranh tụng.
BLTTHS năm 2003 đã có sự sửa đổi phù hợp: “Người tham gia tranh
luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn
chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận
trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ
án”.
Với những sửa đổi trong quy định về đối đáp tại phiên tòa, BLTTHS năm
2003 đã chứng minh xu hướng tăng cường tranh tụng tại phiên tòa theo đường
lối của Đảng, nhà nước.
23

Tranh luận tại phiên tòa kết thúc khi bị cáo nói lời sau cùng, quy định tại
Điều 220 BLTTHS năm 2003. Quyền được nói lời sau cùng trước khi nghị án là
một trong những bảo đảm pháp lý quan trọng để bị cáo thực hiện quyền bào chữa
của mình, là quyền đặc thù mà pháp luật chỉ giành riêng cho bị cáo. Khi nói lời
sau cùng, HĐXX không được đặt câu hỏi đối với bị cáo nhưng có quyền yêu cầu
bị cáo không được trình bày những điểm không liên quan đến vụ án. HĐXX
không được hạn chế thời gian nói lời sau cùng đối với bị cáo. Tuy nhiên HĐXX
cũng cần phải nhắc bị cáo phát biểu ngắn, gọn và không lặp lại dài dòng những ý
kiến đã được tranh luận. Qua phát biểu của bị cáo, HĐXX có thêm niềm tin nội
tâm để cân nhắc đối với việc giải quyết vụ án.
Tại phần nghị án và tuyên án, Điều 222 BLTTHS đã chỉ rõ: “các phán
quyết của HĐXX phải dựa trên cơ sở các chứng cứ và tài liệu đã được kiểm tra
tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của
KSV, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên
tòa”. Hay nói cách khác, phán quyết của HĐXX phải dựa trên kết quả tranh luận
bình đẳng giữa KSV, bị cáo với người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác có mặt tại phiên tòa.
Qua việc phân tích một số quy định của BLTTHS năm 2003 có thể thấy
TTHS nước ta là tố tụng thẩm vấn nhưng đã đan xen các yếu tố tranh tụng trong
quá trình tố tụng, nổi bật là tranh tụng tại phiên tòa. Mặc dù vậy, theo quy định
của Bộ luật, tranh tụng vẫn chưa được quy định là một trong những nguyên tắc
cơ bản của TTHS Việt Nam.
24
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA
THEO QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM
BLTTHS năm 2003 được ban hành có nhiệm vụ phòng ngừa, ngăn chặn
tội phạm, phát hiện chính xác, xử lý công minh mọi hành vi phạm tội, không để
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội nhằm góp phần bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,

tổ chức, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật.
Qua hơn 6 năm thi hành BLTTHS 2003, thực tiễn đã phản ánh những mặt
đạt được cùng các mặt hạn chế của pháp luật TTHS nước ta trong tranh tụng tại
phiên tòa, cụ thể là:
2.1. Những kết quả đạt được từ thực hiện tranh tụng tại phiên tòa
2.1.1. Nâng cao vị trí, vai trò của LS
Với việc ban hành BLTTHS năm 2003 và Luật LS năm 2006, vị thế của
LS đã được nâng lên một tầm cao mới. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã phần
lớn chú ý tới việc tạo điều kiện thuận lợi cho LS tham gia bào chữa, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị can, bị cáo. Hoạt động tham gia tố tụng của
LS đã có những bước phát triển cả về lượng và chất.
Theo thống kê, đến tháng 10 năm 2008, trong cả nước đã thành lập 61
đoàn LS trên tổng số 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với gần 4.600 LS
và 2.000 người tập sự hành nghề LS hoạt động trong gần 1.500 tổ chức hành
nghề luật sư [13].
Báo cáo của Đoàn LS thành phố Hà Nội cho biết từ 10/2002 đến 3/2004
các LS của Đoàn đã tham gia tố tụng 2.898 vụ việc, trong đó có 1.527 vụ án hình
sự (60 văn phòng). Riêng trong lĩnh vực hình sự có 208 vụ chỉ định (27 văn
25

×