Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

lựa chọn giới tính khi sinh ở việt nam – nhìn nhận vấn đề trong 20 năm tới dưới góc độ xã hội học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.3 KB, 15 trang )

Đề bài :
Hãy chọn một vấn đề trong lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học gia đình để phân
tích tập trung 3 điểm:
- Tính bức xúc của vấn đề ( 2 điểm)
- Giải thích trên cơ sở lý thuyết, dữ liệu, kết quả, nguyên nhân của vấn đề (3 đ)
- Phân tích, biện luận có tính thuyết phục về xu hướng của vấn đề trong tương lai
Bài Làm :
“Lựa chọn giới tính khi sinh ở Việt Nam – Nhìn nhận vấn đề trong 20 năm
tới dưới góc độ xã hội học”.
Đặt vấn đề:
Quy mô, chất lượng dân số có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của quốc gia
trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế cũng như văn hóa xã hội. Ổn định quy mô, nâng
cao chất lượng dân số là mục tiêu hàng đầu của nhiều nước, đặc biệt là những nước
đang phát triển và chịu nhiều tác động của việc tăng nhanh dân số như nước ta hiện
nay. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra cho nhiều nước trên thế giới và Việt Nam là tình
trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, bất bình đẳng giới…Đó là những hệ quả của
việc sử dụng khoa học kĩ thuật tiên tiến để xác định, lựa chọn giới tính thai nhi trước
khi sinh của các cặp vợ chồng hiện nay.
Ở Việt Nam hiện nay dưới sự cố gắng, nổ lực của Đảng và nhà nước, công tác
dân số - kế hoạch hóa gia đình ở nước ta thời gian qua đã đạt những kết quả quan
trọng, đặc biệt tỷ lệ tăng dân số tự nhiên liên tục giảm, từ 2,1% (giai đoạn 1979 –
1989) xuống 1,21% năm 2010. Đây là cố gắng lớn của cả nước nói chung, của ngành
dân số nói riêng. Tuy nhiên, mức sinh ở nước ta vẫn giảm chưa vững chắc. Một trong
những nguyên nhân của việc tăng nhanh dân số là do tư tưởng “trọng nam khinh nữ”
vẫn còn ăn sâu, bám rể trong suy nghĩ nhiều người Việt Nam. Điều đó khiến cho nhiều
cặp vợ chồng đã lựa chọn sự can thiệp của các phương tiện kĩ thuật để biết giới tính
của thai nhi trước khi sinh. [11]
Lựa chọn giới tính thai nhi đang là vấn đề được các nhà nghiên cứu và các
chuyên gia trong lĩnh vực dân số đặc biệt quan tâm. Việc lựa chọn giới tính thai nhi đã
dẫn đến một loạt vấn đề dân số nổi lên đó là tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh,
hiện tượng nạo phá thai gia tăng và sự bất bình đẳng giới nghiêm trọng đang xảy ra ở


nước ta hiện nay. Đây là bài toán đau đầu đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách,
1
các ban, ngành và toàn xã hội trong việc chung tay, góp sức nhằm giảm thiểu tình
trạng trên.
Các nghiên cứu thực tế cho thấy, xuất phát điểm đầu tiên của việc lựa chọn giới
tính thai nhi là việc biết trước giới tính của thai nhi. Kết quả điều tra biến động dân số
2007 cho thấy tỷ lệ phụ nữ biết giới tính của thai nhi trước khi sinh chiếm 63,5%. Tỷ
lệ này biến đổi qua các năm, năm 2003-2004 tỷ lệ phụ nữ biết giới tính của con mình
trước khi sinh là 61%, đến năm 2005-2006 tỷ lệ này tăng lên đến 66%. Trong số
những người biết trước giới tính thai nhi có 98% biết qua phương pháp siêu âm, tỷ lệ
số người biết giới tính của con trong thời gian sau 16 tuần mang thai là 80%. Tỷ lệ các
ca phá thai lựa chọn giới tính chiếm khoảng 8% là phụ nữ chưa có con trai. Báo cáo
này cũng nhận định rằng nếu thừa nhận tỷ lệ phụ nữ chưa có con trai biết giới tính thai
nhi trước sinh là 63,5% thì tỷ lệ phá thai lựa chọn sẽ vào khoảng 13%. (Thạc sĩ Vũ Thị
Cúc. Viện gia đình và Giới Việt Nam. Dẫn theo UNFPA- Quỹ Dân số Liên hợp quốc
tại VN, 2009).
Việc biết trước giới tính thai nhi cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ
học vấn, nghề nghiệp, nhóm tuổi, khu vực sinh sống Tỷ lệ phụ nữ thuộc nhóm tuổi
từ 25 đến 39 biết giới tính thai nhi cao nhất chiếm khoảng 66%. Các bà mẹ trẻ có xu
hướng ít quan tâm đến giới tính thai nhi hơn so với các bà mẹ ở nhóm tuổi trên 25 - 35
tuổi. Tỷ lệ phụ nữ có trình độ học vấn cao biết trước giới tính thai nhi cao hơn so vớ
nhóm phụ nữ trình độ học vấn thấp (chỉ có gần 28% phụ nữ mù chữ biết trước giới
tính của thai nhi). Nhóm phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa nơi kỹ thuật xác định giới tính
trước sinh còn hạn chế phần lớn đều không biết về giới tính thai nhi (17,5% phụ nữ
sinh con do bà đỡ hoặc người nhà, 23,5% phụ nữ không sinh con tại các cơ sở y tế
không biết về giới tính thai nhi trước sinh). [12].
Hệ quả đầu tiên của việc lựa chọn giới tính khi sinh mà chúng ta phải nói đến là
tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh :
Mất cân bằng giới tính khi sinh là số trẻ trai sinh ra còn sống cao hơn hoặc thấp
hơn ngưỡng bình thường so với 100 trẻ gái. Mất cân bằng giới tính khi sinh xảy ra khi

tỷ số giới tính nam khi sinh lớn hơn 108 hoặc nhỏ hơn 103 so với 100 trẻ nữ.
Tỷ lệ nam và nữ là nhân tố quan trọng của dân số bởi nam và nữ khác nhau ở cả
góc độ tự nhiên lẫn góc độ xã hội. Những điểm khác biệt này giúp chúng ta phân công
2
lao động hợp lý cũng như xây dựng mối quan hệ bình đẳng về giới. Theo quy luật tự
nhiên, khi sinh ra thì tỷ lệ nam và tỷ lệ nữ khá cân bằng. Để đánh giá mức độ cân bằng
giữa nam và nữ, người ta dùng chỉ tiêu “Tỷ số giới tính”, tức là số nam tương ứng với
100 nữ. Bình thường, tỷ số giới tính khi sinh ở mức 104 - 107 nam/100 nữ. Do tỷ lệ tử
vong ở trẻ em trai cao hơn trẻ em gái nên đến tuổi trưởng thành, tỷ lệ nam, nữ sẽ trở
nên cân bằng. (Tỉ số giới tính khi sinh ở Việt Nam-các bằng chứng mới về thực trạng,
xu hướng và những khác biệt. UNFPA.2010)
Trên thế giới, đặc biệt ở một số nước châu Á theo báo cáo thống kê của tổ
chức UNFPA-Quỹ dân số Liên Hợp Quốc tại VN, mất cân bằng giới tính khi sinh
đang diễn ra theo chiều hướng tiêu cực. Dưới đây là bảng tỉ số giới tính khi sinh ở một
số quốc gia và vùng lãnh thổ giai đoạn 2004-2009.
Quốc gia Tỉ số giới tính khi sinh Thời kì
Albania 111,5 2008
Armenica 115,8 2008
Ajecbaijan 117,2 2007
Trung Quốc 120,6 2008
Georgia 111,9 2006
Ấn độ 110,6 2006-2008
Pakistan 108,9 2003-2007
Hàn Quốc 106,4 2008
Nguồn: Văn phòng thống kê UNFPA.2010
Có thể thấy, phần lớn các quốc gia có mức dao động từ 104-106 trẻ nam/100 trẻ
nữ. Cao nhất là Trung Quốc và thấp nhất là Hàn Quốc. Theo các nhà nghiên cứu của
UNFPA, nguyên nhân chính là do có sự lựa chọn giới tính khi sinh của các cặp vợ
chồng.
Đặc biệt, trong báo cáo về “Tỉ số giới tính khi sinh ở VN- các bằng chứng mới

về thực trạng, xu hướng và những khác biệt” nhấn mạnh, ở các quốc gia và vùng lãnh
thổ mất cân bằng giới tính như Trung Quốc, Hàn Quốc đã phải “nhập khẩu” cô dâu.
3
Và phần lớn số phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài đã trở thành cô dâu ở
các nước nói trên.
Ở Việt Nam, những năm gần đây tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS-SRB) lại
tiếp tục tăng. Năm 2000, TSGTKS của Việt Nam ở mức 106 nam/100 nữ. Kết quả
Tổng điều tra dân số năm 2009 cho thấy, TSGTKS đã tăng đến ngưỡng là 110,5
nam/100 nữ. Như vậy hiện tượng mất cân bằng giới tính ở nước ta hiện nay đã đến
mức đáng báo động. Nếu sự gia tăng này không được can thiệp thì SRB của Việt Nam
sẽ vượt qua mức 115/100 trong vòng 3 năm tới. (Báo cáo tình hình TSGTKS VN
UNFPA, 2007-2010).
Dựa trên phân tích những số liệu từ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, nghiên cứu của UNFPA (Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại VN) đã cho thấy ảnh
hưởng dân số học của TSGTKS trong tương lai những kịch bản khác nhau có thể xảy
ra. Với kịch bản thứ nhất “Không can thiệp”, TSGTKS toàn quốc sẽ lên đến 115 vào
năm 2015 và chắc chắn không dừng lại ở đó. Theo kịch bản này, tỷ số giới tính với
nhóm dân số ở độ tuổi trưởng thành (15 – 49 tuổi) sẽ ở mức 113/100 vào năm 2049,
dẫn tới sẽ dư thừa 12% nam giới trong giai đoạn 2009 – 2049. Kịch bản thứ hai giả
định có các chương trình, chính sách can thiệp mạnh mẽ để giải quyết sự mất cân bằng
TSGTKS, thì TSGTKS sẽ tăng chậm hơn và ở mức 115 vào năm 2020 sau đó quay
dần lại mức cân bằng sinh học là 105 vào năm 2030.
Mặc dù SRB của Việt Nam hiện nay thấp hơn so với Trung Quốc và một số
bang của Ấn Độ như Punjab, Gujarat hay Haryana song chứng tỏ sự tồn tại không thể
phủ nhận của việc lựa chọn giới tính thai nhi của các bậc cha mẹ”. (Dẫn theo Adrian
C. Hayes, Nguyễn Đình Cử, Vũ Mạnh Lợi. UNFPA. 2009).
Hệ quả thứ 2 của việc lựa chọn giới tính khi sinh là tình trạng nạo phá thai đang
ngày càng gia tăng. Điều này không những ảnh hưởng đến sức khỏe về thể chất mà
còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần của người phụ nữ (có thể kéo dài
đến suốt cuộc đời), do cảm thấy tội lỗi với đứa con bị bỏ.

Bác sĩ Nguyễn Thị Hồng Minh - Giám đốc Trung tâm Tư vấn sức khỏe sinh
sản, BV Phụ sản Trung ương khẳng định: Trong năm 2012 số phụ nữ đến bệnh viện
này đề nghị phá thai gái đang ở mức 'đáng báo động' với 3 nhóm người đến xin phá
thai với lý do lựa chọn giới tính: Thứ nhất là nhóm phụ nữ có trình độ, Thứ hai là
4
nhóm "thật thà”(chỉ rõ lí do phá) và trường hợp thứ ba là nhóm người lần đầu đã
không được bác sĩ nhận phá thai vì tiết lộ mục đích thật, vài tuần sau quay lại viện các
lý do khác. Trong số các nguyên nhân dẫn tới nạo phá thai (do sức khỏe bà mẹ, do dư
luận xã hội…) thì nguyên nhân nạo phá thai do biết trước giới tính chỉ chiếm khoảng
13 % nhưng đang ngày càng tăng.[13]
Theo Dominique Haughton and Jonathan Haughton, trong một nghiên cứu định
lượng về sở thích có con trai ở Việt Nam, đã nhận xét: nhiều bậc cha mẹ thích có ít
nhất một con trai. Điều quan trọng nhất là một số gia đình muốn lợi dụng các kĩ thuật
hiện đại để lựa chọn giới tính của con họ khi sinh ra. Chính việc này đã làm gia tăng
sự chệnh lệch lớn giữa tỉ số giới tính của nam và nữ, và trong vòng một thế hệ thì Việt
Nam phải giải quyết vấn đề mất cân bằng GT trong nền kinh tế. ( Xã hội học gia đình.
Lê Băng Tâm. Hà Nội.2012.Tr 110)
Hệ quả thứ 3 là tình trạng bất bình đẳng giới ngày càng cao. Nguyên nhân các
cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp kĩ thuật như siêu âm, chọc ối… để biết giới tính
xuất phát từ những định kiến, quan niệm truyền thống từ lâu đã có sẵn về nam, nữ.
Tuy nhiên, việc làm này lại làm cho sự bất bình đẳng này càng trở nên nghiêm trọng
hơn. Nam giới đang ngày càng được coi trọng hơn nữ giới. Qua một cuộc khảo sát về
quan niệm sinh con trai, con gái trên gần 2.900 nam giới, có đến 46% cho biết mong
muốn của họ là có ít nhất một cậu ấm; trong khi thích con gái chỉ là 3,5%. (Khảo sát
về quan niệm con trai, con gái. Báo mới.vn.Truy cập ngày 28/12/2012). Mặc dù trong
những năm gần đây, Nhà Nước ta đang có những chính sách, biện pháp để nhằm nâng
cao vai trò và địa vị của người phụ nữ như các giải thưởng Nữ Doanh nhân xuất sắc-
cúp Bông hồng vàng, phụ nữ tham gia chính trị…nhưng dường như việc lựa chọn giới
tính của các bậc làm cha làm mẹ đã vô hình chung nối dãn khoảng cách bất bình đẳng
nam-nữ ngày càng ra xa hơn.

Có thể thấy, những vấn đề này đã nhận được nhiều sự quan tâm của các chuyên
gia và báo chí. Trong lĩnh vực xã hội học, đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về hệ quả
mất cân bằng giới tính khi sinh và bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
Nghiên cứu của Nguyễn Đức Vinh : “ Tỉ số giới tính khi sinh ở Việt Nam hiện
nay: mức độ và các yếu tố tác động” đăng trên tạp chí xã hội học số 3/2009 đã nêu lên
5
một số các yếu tố tác động và mức độ ảnh hưởng (hậu quả) của việc mất cân bằng giới
tính khi sinh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài "Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ số giới tính khi sinh ở một số
địa phương và đề xuất các giải pháp kiểm soát mất cân bằng giới tính" của TS. Đoàn
Minh Lộc, Nguyên Phó viện trưởng Viện CL&CSYT cũng chỉ ra lí do dẫn đến thực
trạng này là việc lựa chọn giới tính của các cặp vợ chồng…(Thư viện Đại học khoa
học xã hội và nhân văn Hà Nội)
Đề tài: “ Bất bình đẳng giới đối với phụ nữ trong gia đình ở xã Tân Lập-sông
Lô-Vĩnh Phúc. Luận văn ngành công tác xã hội. Đại học sư phạm Hà Nội”.
Đề tài “Vấn đề giới trong lănh đạo và ra quyết định ở ViệtNam: hiện trạng và
giải pháp”. Kỷ yếu Hội thảo Hội nghị cán bộ khoa học nữ Đại học Quốc gia Hà Nội
lần thứ 8, tr. 534 -541 của Nguyễn Thị Tuyết…(vv)
Như vậy, có thể thấy, lựa chọn giới tính khi sinh ở Việt Nam hiện nay là một
vấn đề quan trọng và cần được nghiên cứu, đặc biệt là những nhà xã hội học, khi mà
những hệ lụy của nó đang ngày càng trở nên tiêu cực. Mất cân bằng Giới tính có thể
gây ra nhiều vấn đề xã hội không mong đợi. Cụ thể, theo các nhà nghiên cứu, tỉ lệ li
hôn, trầm cảm, bạo lực, buôn bán phụ nữ, tội phạm tình dục sẻ gia tăng khi có nhiều
nam giới không thể kết hôn do thiếu phụ nữ. Có nhiều người nói vui rằng, trong vòng
20 năm nữa nhiều đàn ông Việt Nam sẻ không lấy được vợ và phải sang Châu Phi để
tìm kiếm bạn đời cho mình; Bất bình đẳng giới sẽ ngày càng gia tăng kéo theo đó, tỉ lệ
tội phạm liên quan đến tình dục sẽ ngày càng cao hơn và trong một chừng mực nào đó,
người con gái dễ trở thành món hàng bị buôn bán. Tỉ lệ kết hôn của phụ nữ sẽ sớm
hơn, sự tranh giành giữa những người đàn ông để có được người phụ nữ và tỉ lệ phụ
nữ tái hôn sẽ cao hơn

Vì những lý do đó, tôi đã lựa chọn vấn đề này để tìm hiểu, từ đó, đưa ra quan
điểm riêng của mình về xu hướng phát triển của vấn đề trong hơn 20 năm nữa.
Giải thích vấn đề:
Có thể thấy, việc lựa chọn giới tính trước khi sinh của các cặp vợ chồng
xuất phát từ những nhu cầu, quan niệm và hành động duy lý của họ. Dưới góc độ xã
hội học, trong bài viết này, tôi lựa chọn lý thuyết trao đổi xã hội - hành vi lựa chọn
hợp lý của Homans để giải thích vấn đề.
6
Theo G.Homans, nhà xã hội học người Mỹ thì các cá nhân hành động tuân theo
nguyên tắc trao đổi các giá trị vật chất và tinh thần như sự ủng hộ, tán thưởng hay
danh dự…Homans đưa ra 4 nguyên tắc tương tác giữa các cá nhân như sau:
- Định đề phần thưởng: Nếu 1 dạng hành vi được thưởng hay có lợi thì hành vi
đó có xu hướng lặp lại.
- Định đề kích thích: Hành vi được thưởng, được lợi trong hoàn cảnh nào thì cá
nhân sẽ có xu hướng lặp lại hành vi đó trong hoàn cảnh tương tự
- Định đề duy lý: Cá nhân sẽ lựa chọn hành động nào mà giá trị của kết quả hành
động đó và khả năng đạt được là lớn nhất.
- Định đề giá trị: Kết quả của hành động càng có giá trị cao với chủ thể bao
nhiêu thì chủ thể càng có xu hướng thực hiện hành động đó bấy nhiêu.
Tiêu điểm của thuyết lựa chọn hợp lý là các chủ thể (Actor). Các chủ thể
(Actor) được xem là có mục đích hay mục tieu về cái mà hành động của họ hướng tới.
Các chủ thể ( Actor) cũng được xem là có các sở thích ( như các giá trị, các tiện ích).
Thuyết lựa chọn hợp lý không quan tâm đến tính chất các sở thích này cũng như các
nguồn của chúng. Cái quan trọng là hành động được thực hiện để đạt được các đối
tượng phù hợp với hệ thống sở thích của chủ thể ( Actor). Về nguyên tắc, lý thuyết này
cho rằng mỗi cá nhân đều xuất phát từ động cơ duy lý là lựa chọn hành động nào đem
lại lợi ích lớn nhất, có sự hiểu biết đầy đủ nhất với nguy cơ chi phí và thiệt hại nhỏ
nhất.
Đối với vấn đề này, tôi lựa chọn định đề phần thưởng và định đề kích thích –
hai trong bốn định đề quan trọng của lý thuyết trao đổi xã hội – hành vi lựa chọn hợp

lý để giải thích nguyên nhân của sự lựa chọn giới tính thai nhi trước khi sinh của các
cặp vợ chồng hiện nay.
Định đề phần thưởng cho rằng, trong quá trình hành động, con người có xu
hướng thực hiện những hành động mà anh ta nhận thức đầy đủ về nó nhất và đạt lợi
ích cao nhất và chi phí bỏ ra thấp nhất. Nếu xét theo quan niệm truyền thống, thì
nguyên nhân đầu tiên khiến các cặp vợ chồng quyết định các hình thức lựa chọn giới
tính như siêu âm, chọc ối… phải kể đến là do tư tưởng “trọng nam khinh nữ”( nguyên
nhân chủ quan)
7
Từ xa xưa quan niệm phải có con trai để nối dõi tông đường đã hằn sâu vào tâm
thức của những người dân nên việc có những gia đình có tới bảy, tám con là gái vẫn
phải quyết tâm sinh bằng được con trai. Mong ước sinh được con trai để có người
"chống gậy", phòng "mất giống" là một trong những nguyên nhân gây tăng sinh song
có một nguyên nhân sâu xa nữa dù người trong cuộc không nói nhưng ai cũng hiểu:
Một gia đình có con trai thì sẽ được coi trọng hơn. Chính vì thế nên dù đã có đủ số con
song nhiều gia đình vẫn cố sinh bằng được con trai.
Tác giả Mara Hvistendahl đã có bài viết trên tạp chí Foreign Policy của Mỹ. Có
khá nhiều lý do bố mẹ muốn có con trai: Con trai ở nhà và chăm sóc bố mẹ khi về già,
hoặc họ thực hiện những nghi thức tang lễ và thờ cúng tổ tiên ở một số nền văn hoá.
Hoặc con gái là một gánh nặng và hồi môn tốn kém .
Nghiên cứu về “giới, nam tính và sự ưa thích con trai ở Việt Nam” của Viện
Nghiên cứu phát triển xã hội tại hai tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh cao đại diện cho hai
vùng, miền là Hưng Yên và Cần Thơ cho thấy: 82,7% ý kiến được hỏi cho rằng, con
trai rất quan trọng để nối dõi tông đường; 58,6% cho rằng, phải có con trai để chăm
sóc cha mẹ khi về già, ốm đau, và 49,1% cho rằng sinh được con trai chứng tỏ người
chồng là người đàn ông đích thực Nghiên cứu cũng chỉ ra suy nghĩ của người dân về
giá trị của con gái: Cặp vợ chồng nào chỉ có con gái là những người bất hạnh (11,1%)
và “có con gái là gánh nặng kinh tế” (12,9%) Đặc biệt, nhiều người cho rằng, hậu
quả của việc không đẻ được con trai đã khiến người chồng có lý do bỏ vợ, ly dị vợ
Cũng chính vì điều này nên rất ít phụ nữ mong muốn mình sẽ sinh con gái

(khoảng11%), còn số phụ nữ mong muốn sinh con trai cao gấp ba lần số phụ nữ mong
muốn sinh con gái 31% ( Báo cáo tình hình Tỉ số giới tính khi sinh của một số nước
Châu Á và VN. UNFPA.2010)
Để có được con trai nhiều cặp vợ chồng đã chọn các biện pháp đông tây y kết
hợp song biện pháp được chọn lựa nhiều nhất que thử trứng rụng và siêu âm xác định
giới tính thai nhi khi thai mới được 12 tuần tuổi. Đặc điểm văn hóa với nhiều phong
tục tập quán thấm đậm tư tưởng Nho giáo ở các nước châu Á trong đó có Việt Nam
làm cho suy nghĩ: “trọng nam khinh nữ”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “con
trai mới là con của mình, còn con gái là con người ta”, mong có con trai để “nối dõi
tông đường”, để “đảm trách công việc thờ cúng tổ tiên ông bà”, vẫn còn tiềm ẩn trong
8
nhận thức của một số gia đình mặc dầu những năm gần đây, cái nhìn về “con gái”
trong xã hội đã cởi mở hơn.
Như vậy, khi các cặp vợ chồng sử dụng sự can thiệp của các phương tiện kĩ
thuật để xác định giới tính, từ đó quyết định “bỏ” hay “giữ” cái thai thì họ đã nhận
thức được cái được, cái mất của mình và dĩ nhiên cái được bao giờ cũng nhiều hơn cái
mất. Nếu sinh con trai họ sẻ có người nối dõi, có chỗ dựa vững chắc sau này, đặc biệt
là giúp đỡ nhiều trong công việc hơn là con gái. Bản chất “chân yếu tay mềm”, “liễu
yếu đào tơ” của con gái theo họ không thể làm được những công việc nặng nhọc, đặc
thù như con trai. Tại một số tỉnh miền núi và miền biển, vẫn còn nhiều gia đình mong
sinh con trai để đảm đang những công việc nặng nhọc của gia đình mà con gái không
làm được như đi biển, chài lưới, khuân vác …
Lợi ích từ việc sinh con trai đối với các cặp vợ chồng dường như nhiều hơn
việc sinh con gái. Hơn thế nữa, chi phí cho việc siêu âm hoặc các biện pháp khác để
biết được giới tính thai nhi thấp, hầu hết các cặp vợ chồng dù ở hoàn cảnh nào cũng có
thể đủ tiền để làm được việc này… Chi phí rẻ, đáp ứng nhu cầu, lại nhận được sự trợ
giúp đắc lực bởi chính một số người làm công tác y tế, đặc biệt là những bác sĩ sản
khoa ở khắp các bệnh viện và phòng khám công lẫn tư đã tạo điều kiện dễ dàng, thuận
lợi cho việc lựa chọn giới tính thai nhi của các bậc làm cha làm mẹ.
Hiện nay, ở nước ta mặc dù Luật bình đẳng giới đã được thông qua, và một số

quy định nghiêm cấm việc lựa chọn giới tính khi sinh nhưng lại chưa phát huy được
hết tác dụng của mình.
Định đề kích thích cho rằng: Nếu một nhóm kích thích nào trước đây đã từng
khiến cho một hành động nào đấy được khen thưởng thì một nhóm kích thích mới
càng có khả năng lặp lại hành động của nhóm kích thích ban đầu. Xét theo áp lực từ dư
luận xã hội, ở đây muốn nói tới áp lực từ phía dòng họ, gia đình là nguyên nhân khách
quan đã khiến cho nhiều cặp vợ chồng phải xem xét kĩ lưỡng giới tính của thai nhi
trước khi sinh.
Có thể thấy, áp lực từ phía dòng họ, gia đình người chồng đối với người phụ nữ
mới về làm dâu khiến họ cảm thấy trách nhiệm của mình là rất lớn. Ở nhiều địa
phương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nông thôn, mặc dù đã có 6,7 đứa con nhưng
chưa được con trai thì người phụ nữ cũng phải sinh tiếp khi nào có con trai thì thôi.
9
Hơn thế nữa, xã hội truyền thống Việt Nam từ bao đời nay, nếu con đầu là con trai,
niềm vui của cha mẹ được nhân lên gấp bội do tầm quan trọng của con trai trong gia
đình. Đối với người chồng, hôn nhân đánh dấu sự gia nhập địa vị người lớn nhưng
chưa hoàn toàn trọn vẹn; chỉ khi sinh con trai, anh ta mới hoàn thành nhiệm vụ, địa vị
mới trọn vẹn. Đối với người vợ, khi sinh con trai, họ đã tiến một bước dài, từ địa vị
“người ngoài”, hòa nhập hoàn toàn với gia đình, được an toàn trong gia đình chồng vì
đã tạo ra được phương tiện tiếp nối gia đình. Nếu không có con trai, họ phải một mình
chịu hoàn toàn trách nhiệm, số phận của họ trở nên bấp bênh, bất kể họ có thực hiện
tốt các vai trò khác trong gia đình chồng như thế nào. (Mai Huy Bích. Xã hội học gia
đình. Sđd Tr 88)
Nhiều người còn bị bố mẹ chồng “chì chiết” và địa vị của họ trong gia đình sẻ
không được nâng cao nếu như chưa sinh được quý tử. Ngược lại, những người sinh mà
sinh được con trai thì được họ hàng coi trọng, bố mẹ chồng khen ngợi và địa vị đựơc
củng cố. Điều này dẫn tới tâm lý chung của những người phụ nữ là phải sinh con trai
để cảm thấy được “nở mày nở mặt” với thiên hạ, dòng tộc. Họ ý thức được những
người đi trước đã được “khen thưởng” như thế nào khi sinh được con trai, do đó, khi
quyết định mang thai, họ cũng cố gắng để lặp lại hành vi trước đó. Và họ cũng truyền

tai nhau về những biện pháp với chi phí rẻ nhất để có thể xác định được giới tính của
thai nhi.
Bên cạnh áp lực từ phía gia đình, giống như ở các quốc gia khác trong khu vực,
tư nhân hóa và thương mại hóa hệ thống chăm sóc y tế đã dẫn đến việc sử dụng quá
mức các thiết bị công nghệ để sàng lọc giới tính. Việc này, kết hợp với thực tế rằng
việc phá ba tháng giữa là hợp pháp, đã tạo ra áp lực cho phụ nữ phải đạt được đầu ra
“đúng” cho việc mang thai của mình là có con trai. (Báo cáo tỉ lệ giới tính khi sinh ở
các nước châu Á và VN. UNFPA.2010). Sự sẵn có của dịch vụ cộng với những áp lực
từ gia đình, xã hội đã khiến các cặp vợ chồng phải sinh được con trai, và họ cũng đã
tính toán một cách duy lý những phần thưởng mà họ có thể đạt được giống như những
người đi trước đã từng làm.
Như vậy, có hai nguyên nhân dẫn tới việc lựa chọn giới tính khi sinh của các
cặp vợ chồng hiện nay là do tư tưởng trọng nam khinh nữ (nguyên nhân chủ quan) và
do áp lực từ phía gia đình, dòng họ, dư luận (nguyên nhân khách quan). Mỗi nguyên
10
nhân đều xuất phát từ quan điểm và những suy tính về lợi ích, sự duy lý lựa chọn trong
việc sinh nở để sao cho có thể đạt được phần thưởng lớn nhất và chi phí bỏ ra nhỏ nhất
của các cặp vợ chồng. Việc làm này đã và đang để lại những hậu quả cho xã hội Việt
Nam nói chung và ngành dân số nói riêng. Nếu cứ kéo dài tình trạng này, trong tương
lai đàn ông Việt Nam sẻ đứng trước nguy cơ “ế vợ” cao và Việt Nam cũng giống như
các nước láng giềng bây giờ là phải nhập khẩu cô dâu. Tuy nhiên, đến lúc đó,Việt
Nam còn gặp nhiều khó khăn hơn các nước bây giờ gấp nhiều lần. Chính vì lẽ đó mà
cần phải có những biện pháp mạnh tay hơn nữa của Nhà Nước để ngăn chặn tình trạng
lựa chọn giới tính của các cặp vợ chồng và tỉ số giới tính khi sinh của Việt Nam có thể
trở lại trạng thái cân bằng.
Xu hướng phát triển của vấn đề
Để nói về xu hướng phát triển của vấn đề này trong tương lai, tôi lựa chọn cách
tiếp cận phát triển.
Paul Glick và Evenlyn Duvall là những người đầu tiên đề xuất cách tiếp cận
này ở Mỹ. Một đóng góp then chốt của cách tiếp cận phát triển là đưa ra một khung

phân tích lịch đại hay dài hạn để nghiên cứu gia đình. Thêm nữa, cách tiếp cận này
khảo sát diễn biến, sự phát triển và thay đổi của các gia đình trong bối cảnh kinh tế xã
hội cụ thể, nó đặc biệt bổ ích cho việc nghiên cứu các hiện tượng và và quan hệ giữa
chúng với xã hội.( Mai Huy Bích. Xã hội học gia đình. Tr 145)
Như vậy, trong vòng 20 năm tới, liệu rằng xu hướng lựa chọn giới tính thai nhi
trước khi sinh của các cặp vợ chồng sẻ theo chiều hướng nào, có gì khác so với bây
giờ? Quan niệm về con trai, con gái của họ sẻ thay đổi theo sự phát triển của xã hội
hay không? Đàn ông Việt Nam liệu có ế vợ như nhiều người dự đoán?…
Có thể thấy rằng, hiện nay việc lựa chọn giới tính khi sinh đang ngày càng tăng,
tuy nhiên theo ý kiến của tôi, trong vòng hơn 20 năm nữa xu hướng lựa chọn giới tính
thai nhi các cặp vợ chồng sẻ giảm. Tôi xin đưa ra bốn lí do cho sự “phán đoán” của
mình.
Thứ nhất, trong tương lai, nền kinh tế Việt Nam sẻ ngày càng phát triển, đặc
biệt vào năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước Công nghiệp. Đời sống con
người ngày càng được cải thiện, tư tưởng, lối sống truyền thống lạc hậu, những quan
niệm cổ hũ có thể sẻ được giảm bớt, thay vào đó là lối sống hiện đại trong cách suy
11
nghĩ. Quan niệm sinh con trai hay con gái không còn quan trọng với họ nữa, tư tưởng
trọng nam khinh nữ dần bị mất đi. Do đó, Tỉ lệ các cặp vợ chồng thực hiện lựa chọn
giới tính thai nhi trước khi sinh sẻ giảm đi đáng kể. Cũng giống như hiện tại bây giờ,
các quan niệm lạc hậu như phụ nữ “ăn cơm trước kẻng” sẻ bị “cạo đầu bôi vôi” thời
xưa đã thay đổi, thay vào đó là cách nhìn tích cực hơn về vấn đề quan hệ tình dục
trước hôn nhân…
Thứ hai, nền kinh tế phát triển, tỉ lệ lao động làm nông nghiệp giảm, thay vào
đó là sự gia tăng lao động trong các hoạt động dịch vụ và công nghiệp. Kinh tế phát
triển, gia đình đầu tư cho phát triển giáo dục nhiều hơn, trẻ em đến trường nhiều hơn.
Dần dần, đội ngũ tri thức nhiều hơn đội ngũ lao động chân tay. Lúc đó, con người đầu
tư nhiều hơn cho các mối quan hệ bên ngoài, đặc biệt, do tính chất công việc mà họ
không có nhiều thời gian để chăm sóc cho con cái, sinh nở cho nên xu hướng sinh ít
con phổ biến hơn. Mặt khác, vì họ có tri thức nên họ không coi trọng con trai hay con

gái ai tốt hơn.
Thứ ba, theo quy luật của sự cân bằng, khi tình trạng mất cân bằng giới tính
diễn ra ngày càng trầm trọng, đến mức báo động thì đến một lúc nào đó, nó sẻ phải
dừng lại. Giống như quy luật bình thông nhau, khi một chiếc bình chứa đầy nước thì
nó sẻ tự động rút bớt sang bình bên cạnh để 2 bình có dung tích bằng nhau.
Nhiều nhà nghiên cứu cho thấy: Việt Nam và một số nước trên thế giới như
Trung Quốc sẻ “khan hiếm phụ nữ” nếu tình trạng này cứ kéo dài. Một khi người dân
đã ý thức được hậu quả nghiêm trọng của vấn đề (tình trạng buôn bán phụ nữ, tội
phạm tình dục gia tăng, nhiều nam giới ế vợ ) họ “giật mình” và suy nghĩ lại việc làm
của mình. Lựa chọn giới tính thai nhi có phải là một biện pháp tối ưu lúc này?
Thứ tư, có thể khẳng định rằng lựa chọn giới tính thai nhi là một hành vi bị
pháp luật Việt Nam nghiêm cấm. Đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã phê chuẩn và triển
khai hàng loạt các qui định và chính sách nhằm hạn chế hiện tượng nạo phá thai, lựa
chọn giới tính khi sinh nhằm nâng cao khả năng sống của trẻ em gái, nâng cao vị thế
của phụ nữ và tăng cường bình đẳng giới.
Nhà nước ta đã ban hành nhiều biện pháp để giảm thiểu tình trạng này. Ví dụ,
Năm 2003, Pháp lệnh Dân số đã qui định rõ tại khoản 2, Điều 7 "Nghiêm cấm các
12
hành vi lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức (tư vấn, chẩn đoán giới tính của
thai nhi, phá thai )".
Tiếp đó, Quy định Nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi
được Chính phủ đưa ra ngày 16/09/2003 trong Nghị định số 104/NĐ-CP hướng dẫn thi
hành một số điều của Pháp lệnh Dân số. Theo đó, mọi hành vi như phổ biến các biện
pháp tạo giới tính, chẩn đoán giới tính thai nhi bằng xét nghiệm máu, siêu âm, hoặc
loại bỏ thai nhi vì lý do giới tính đều bị coi là vi phạm pháp luật và bị xử lý.
Ngày 3/10/2006 Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã ký Nghị định số 114/2006/NĐ-CP Qui định xử phạt vi phạm hành chính về dân số
và trẻ em. Tại Điều 1 của Nghị định qui định rõ "Lựa chọn giới tính thai nhi là hành vi
vi phạm pháp luật về dân số và trẻ em và sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy
định tại Nghị định này".

Nghi định 55/2009/NĐ-CP ngày 10/06/2009 của chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính về bình đẳng giới.
Bộ Y tế cũng đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo và triển khai các giải
pháp, hoạt động nhằm giảm thiểu tình trạng lựa chọn giới tính thai nhi như Công văn
số 3698/ BYT-SKSS ngày 17/5/2006 về thực hiện Pháp lệnh Dân số nghiêm cấm lựa
chọn giới tính thai nhi; công văn số 5476/BYT-TCDS ngày 7/8/2008 về theo dõi, kiểm
tra về giới tính khi sinh….
Hiện nay, tất cả những biện pháp trên vẩn chưa thực sự đạt hiệu quả. Tuy nhiên,
trong tương lai, có thể Nhà Nước sẻ cân nhắc trong việc đưa vấn đề Lựa chọn giới tính
thành một tội danh trong Bộ luật Hình sự như một số quốc gia Ấn Độ, Trung Quốc,
Hàn Quốc đã làm. Biện pháp răn đe mạnh, quản lý chặt chẽ hơn sẻ làm cho người
dần dần thay đổi nhận thức, lâu dần họ sẻ ý thức được hành vi của mình.
Kết luận:
Như vậy, lựa chọn giới tính khi sinh là một vấn đề đang “nóng” hiện nay, khi
mà những hệ quả của nó đang ngày càng trở nên khó giải quyết. Muốn giảm thiểu tình
trạng mất cân bằng giới tính, hãy để cho quá trình sinh đẻ diễn ra tự nhiên và tuyệt đối
không có sự can thiệp của y học và khoa học.
Bên cạnh việc đưa ra các chế tài pháp luật, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
nâng cao nhận thức cho người dân về vấn đề giới nhằm thay đổi quan niệm trọng nam
13
khinh nữ, tăng cường vị thế của phụ nữ. Việc tuyên truyền cần thực hiện song song 2
nhóm đối tượng đó là các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ và các “nhà cung cấp
dịch vụ y tế”. Các chuyên gia của Tổ chức Y tế Thế giới, Phụ nữ LHQ, Quỹ Nhi đồng
LHQ, Quỹ Dân số và Nhân quyền LHQ đã khẳng định: “Nơi nào không có tư
tưởng“trọng nam khinh nữ” thì dù ở đó sẵn có các công nghệ tiên tiến để phát hiện
giới tính thai nhi cũng sẽ không ai sử dụng. Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh
cũng không xảy ra”. Để thực hiện được điều đó, cần phải có sự chung tay, góp sức của
cộng đồng và sự vào cuộc của chính phủ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Huy Bích. 2009. Giáo trình xã hội học gia đình. Nhà Xuất bản Đại

Học Quốc gia HN.
2. Vũ Thị Cúc.Viện gia đình và Giới Việt Nam. 2009. Dẫn theo UNFPA-
Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại VN).
3. Lê Băng Tâm. 2012. Tập bài giảng xã hội học gia đình. Đại học khoa
học xã hội nhân văn HN
4. Adrian C. Hayes, Nguyễn Đình Cử, Vũ Mạnh Lợi. UNFPA. 2009
5. Nguyễn Thị Tuyết. 2010 “Vấn đề giới trong lănh đạo và ra quyết định ở
ViệtNam: hiện trạng và giải phỏp”. Kỷ yếu Hội thảo Hội nghị cán bộ
khoa học nữ Đại học Quốc gia Hà Nội lần thứ 8, tr. 534 -541.
6. Nguyễn Đức Vinh : “ Tỉ số giới tính khi sinh ở Việt Nam hiện nay: mức
độ và các yếu tố tác động” đăng trên tạp chí xã hội học số 3/2009.
7. Đoàn Minh Lộc, Nguyên Phó viện trưởng Viện CL&CSYT. "Nghiên
cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ số giới tính khi sinh ở một số địa
phương và đề xuất các giải pháp kiểm soát mất cân bằng giới tính".
8. Tỉ số giới tính khi sinh ở Việt Nam-các bằng chứng mới về thực trạng,
xu hướng và những khác biệt. UNFPA.2010
9. Báo cáo tổng kết về nghiên cứu tỉ số giới tính khi sinh ở một số quốc gia
châu Á và Việt Nam. 2010. UNFPA.
14
10.
11.
tinh-o-muc-bao-dong/201212/171770.vnplus
12.
%E1%BB%83u-m%E1%BA%A5t-can-b%E1%BA%B1ng-gi
%E1%BB%9Bi-tinh-khi-sinh/
13.
39-bao-dong 39 aspx
14. www.baomoi.com.vn . Khảo sát về quan niệm con trai, con gái. Truy cập
ngày 28/12/2012
15

×