Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Phân tích những ảnh hưởng của các yếu tố môi trường kinh tế đối với hoạt động doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.6 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
Trang

1


LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới đang thay đổi từng giây, từng phút. Quản trị đã làm thay đổi cách thức
nhiều tổ chức tiến hành các hoạt động kinh doanh. Sự gia tăng các tổ chức dịch vụ đã làm
thay đổi cấu trúc của nền kinh tế. để thành công trong hôm nay các nhà quản trị phải làm
gì? Phải có năng lực quản trị cần thiết nào? Để thích ứng với yêu cầu của thời đại. mặt
khác, những biến động thường xuyên của môi trường làm xuất hiện những cơ hội và đe
dọa đến công tác quản trị. Do vậy để tồn tại và phát triển, nhà quản trị phải tìm cách
hướng hoạt động của mình thích ứng với điều kiện đó. Hiểu được tầm quan trọng của
những yếu tố bên ngồi ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp nhóm chúng tôi chọn
đề tài “môi trường kinh tế”. cụ thể là “phân tích những yếu tố mơi trường kinh tế ảnh
hưởng hoạt động doanh nghiệp. liên hệ thực tiễn môi trường kinh tế của doanh nghiệp
việt nam trong thời gian qua”.
A.
I.

Nội dung

Cơ sở lý thuyết.
1.1 Các yếu tố môi trường kinh tế ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.
Môi trường kinh tế: khía cạnh kinh tế đại diện cho tình trạng kinh tế của một quốc
gia hoặc vùng nơi mà tổ chức hoạt động. tiền lương của người lao động, lạm phát, thuế,
chi phí nguyên vật liệu sử dụng trong q trình sản xuất và giá cả hàng hóa, dịch vụ bán
ra, sự cạnh tranh tự do trên thị trường, sự tiến bộ khoa học công nghệ và lực lượng lao
động… là các yếu tố tạo nên nền kinh tế của nhiều quốc gia. Ngày nay do các tổ chức
hoạt động trong mơi trường tồn cầu, các yếu tố kinh tế ngày càng phức tạp và ít chắc


chắn hơn.

I.1.1.

Tổng sản phẩm quốc nội(GDP)
Tổng sản phẩm quốc nội là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ trong một khoảng thời gian nhất định,
thường là một năm. Khi áp dụng cho phạm vi toàn quốc gia, nó cịn được gọi là tổng sản
phẩm quốc nội. GDP là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá sự phát triển kinh tế
của một vùng lãnh thổ nào đó.

2


 Các thành phần trong GDP:

GDP có thể tính là tổng của các khoản tiêu dùng, hoặc tổng của các khoản chi tiêu,
hoặc tổng giá trị gia tăng của nền kinh tế. Về lý thuyết, dù theo cách tính nào cũng cho kết
quả tính GDP như nhau. Nhưng trong nhiều báo cáo thống kê, lại có sự chênh lệch nhỏ
giữa kết quả theo ba cách tính. Đó là vì có sai số trong thống kê.
Theo cách tính GDP là tổng tiêu dùng, các nhà kinh tế học đưa ra một công thức:
GDP = C + I + G + NX
Trong đó: * C là tiêu dùng của tất cả các cá nhân (hộ gia đình) trong nền kinh tế.
* I là đầu tư của các nhà kinh doanh vào cơ sở kinh doanh.
* G là tổng chi tiêu của chính quyền (tiêu dùng của chính quyền).
* NX là "xuất khẩu rịng" của nền kinh tế.
 Đặc điểm:
• GDP tác động đến nhu cầu của gia đình, doanh nghiệp và nhà nước

GDP tăng dẫn đến nhu cầu, sản lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tăng (về

chất lượng, thị hiếu, chủng loại)

GDP tác động đến tất cả các mặt hoạt động: hoạch định, lãnh đạo, tổ chức,
kiểm soát và ra các quyết định khác.
 Tác động

Khi tăng trưởng GDP thực tế âm, thu nhập thực tế giảm xuống, tỷ lệ thất nghiệp bắt
đầu tăng. Trong tình huống này, chúng có một sự suy thoái.
Nền kinh tế bắt đầu tăng trưởng, GDP thực tế tăng lên và thất nghiệp bắt đầu giảm
xuống.
I.1.2.

Yếu tố lạm phát.
Khái niệm:lạm phát là sự tăng lên mức giá chung liên tục của nền kinh tế trong một
giai đoạn nào đó. Trong mỗi giai đoạn có thể có giá mặt hàng này tăng, mặt hàng kia
giảm, nhưng nếu mức giá chung tăng, ta có lạm phát. Nếu mức giá chung giảm, ta có
giảm phát.



Để đo lường lạm phát, nguời ta có thể dùng hai chỉ số:
Hệ số giảm phát GDP (GDP deflator) được tính trên cơ sở so sánh giá trị GDP tính theo
giá hiện hành, và GDP tính theo giá kỳ trước. Nghĩa là đo lường mức tăng và giảm giá
trên tất cả các loại hàng hoá dịch vụ tính trong GDP.

3





Chỉ số giá tiêu dùng hay chỉ số giá cả CPI: được tính theo bình qn gia quyền của một
nhóm các hàng hố thiết yếu, ở VN nhóm hàng lương thực, giá vàng, đơ la có lẽ có trọng
số lớn. Chỉ số này khôngphản ánh sự biến động giá chung nhưng phản ánh biến động giá
cả ảnh hưởng nhiều nhất đến đời sống, tiêu dùng.
Khi nói tốc độ lạm phát, nguời ta cũng thường dùng chỉ số này Khi nền kinh tế có
lạm phát, nếu khơng do ngun nhân tác động từ nước ngoài, hay một thay đổi lớn về
cung sản phẩm, thì nó thể hiện cầu hàng hố lớn hơn cung hàng hố. Việc duy trì cầu
hàng hố lớn hơn cung hàng hoá ở một mức độ vừa phải, do đó, lạm phát ở mức vừa phải,
là cần thiết để kích thích sản xuất, giúp cho việc tiêu thụ hàng hoá tốt hơn, và tạo lợi
nhuận cần thiết cho các dn đầu tư nâng cao công nghệ, mở rộng sản xuất. Nếu nền kinh tế
sa vào giảm phát, nghĩa là sẽ bị thừa cung, thừa ứ hàng hoá, gây ra tình trạng đình đốn,
thua lỗ ở các doanh nghiệp. Đó là tác dụng của lạm phát. Tất nhiên lạm phát quá cao thì
lại là một vấn đề cập.

I.1.3.

Tỷ giá hối đoái và lãi suất.
Khái niệm:Tỷ giá hối đoái là giá chuyển đổi từ một đơn vị tiền tệ nước nay sang
thành những đơn vị tiền tệ nước khác.
Phân loại:
* Theo phương tiện chuyển hối:
- Tỷ giá điện hối: là tỷ giá mua bán ngoại tệ cũng như các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ
được chuyển bằng điện.
-Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại tệ và các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ được
chuyển bằng thư.
* Theo phương tiện thanh toán quốc tế:
- Tỷ giá séc: là tỷ giá mua bán các loại séc ghi bằng ngoại tệ.
- Tỷ giá hối phiếu là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu ghi bằng ngoại tệ.
* Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại tệ:
- Tỷ giá mở cửa là tỷ giá áp dụng cho việc mua bán bán các món ngoại tệ đầu tiên

trong ngày làm việc tại các trung tâm hối đoái.

4


- Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá áp dụng cho mua bán món ngoại tệ cuối cùng trong ngày
làm việc tại các trung tâm hối đoái.
* Theo phương thức mua bán, giao nhận ngoại tệ :
- Tỷ giá giao nhận ngay là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận chúng sẽ được
thực hiện chậm nhất sau hai ngày làm việc.
- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận chúng sẽ
được thực hiện sau một khoảng thòi gian nhất định.
* Theo chế độ quản lý ngoại hối:
- Tỷ giá hối đối chính thức: là tỷ giá hối đối do nhà nước cơng bố
- Tỷ giá tự do là tỷ giá được hình thành tự phát và diễn biến theo quan hệ cung cầu về
ngoại tệ trên thị trường.
Xác định tỷ giá hối đoái:
Do tiền của một nước được trao đổi với tiền của nước khác trên thị trường ngoại hối
nên cầu về ngoại tệ chính là cung về đồng nội tệ và cung về ngoại tệ là cầu nội tệ. Do đó
khi xác định tỷ giá giữa ngoại tệ và nội tệ ta có thể xem xét hoặc là cầu và cung về ngoại tệ
hoặc là cung và cầu về nội tệ. Để tiện phân tích ta sẽ xem xét cầu và cung về USD và tỷ giá
của USD tính theo số VND.
Cung về USD bắt nguồn từ các giao dịch quốc tế tạo ra thu nhập về đô la. Nguồn
cung quan trọng về đô la trên thị trường ngoại hối là người nước ngoài hiện tại khơng có
tiền Việt Nam nhưng muốn mua hàng hố dịch vụ của Việt Nam. Cầu về USD trên thị
trường bắt nguồn từ các giao dịch quốc tế. Ngược với cung về đô la các công dân và công
ty Việt Nam có nhu cầu mua hàng nước ngồi sẽ có cung nội tệ để chuyển đổi sang đô la.

5



Khi khơng có sự can thiệp của NHTW vào thị trường ngoại hối, tỷ giá hối đoái được
xác định bởi sự cân bằng giữa cung và cầu về đô la phát sinh từ các tài khoản vãng lai và
tài khoản vốn của cán cân thanh tốn quốc tế, chính là điểm E 0 ở đồ thị trên. Đó chính là
chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi.
Khi NHTW can thiệp bằng cách thay đổi dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá ở một mức
nhất định đã được cơng bố trước, ta có chế độ tỷ giá hối đối cố định. Muốn cố định tỷ giá
hối đoái thấp hơn mức cân bằng thị trường (điểm E 1) thì NHTW phải dùng dự trữ ngoại tệ
để bán ra thị trường, điều này làm giảm dự trữ ngoại tệ của NHTW và tăng cung ngoại tệ
trong nền kinh tế.
I.1.4.

Tiền lương và thu nhập
Khái niệm: Tiền lương là lượng tiền mà người lao động nhận được từ người sử dụng
lao động sau khi hồn thành một cơng việc nhất định hoặc sau một thời gian lao động
nhất định.
+ Tiền lương danh nghĩa: là số tiền người lao động nhận được từ quá trình lao
động,phụ thuộc vào năng suất lao động,hiệu quả cơng việc,trình độ và kinh nghiệm của
người lao động
+Tiền lương thực tế: là số lượng hàng hóa tiêu dung và các loại dịch vụ cần thiết mà
6


người lao động có thể mua từ tiền lương danh nghĩa
Như vậy,tiền lương thực tế là mục đích lao động chính của người lao động,cũng chính là
đối tượng quản lý trực tiếp trong các chính sách tiền lương,thu nhập của doanh nghiệp
- Thu nhập là tổng số tiền mà người lao động nhận được trong một thời gian nhất định,từ
các nguồn khác :tiền lương,tiền thưởng,các khoản phụ cấp,trợ cấp,từ kinh tế phụ gia
đình,từ các nguồn khác như gửi tiết kiệm,quà biếu
- Phân tích tiền lương,thu nhập của người lao động là q trình thu thập và xử lý thơng tin

nhằm phát hiện ra các nhân tố ảnh hưởng từ đó tìm ra những giải pháp nâng cao tiền
lương,thu nhập cho người lao động.
- Tiền lương là nguồn thu chủ yếu của người lao động trong các doanh nghiệp,các tổ
chức.Trên phương diện quản lý,tiền lương được ví như một địn bẩy kinh tế để kích thích
II.
II.1.

người lao động.
Phân tích những ảnh hưởng của các yếu tố môi trường kinh tế đối với hoạt động
doanh nghiệp.
Ảnh hưởng của tổng sản phẩm quốc nội.
GDP tác động đến nhu cầu của gia đình, doanh nghiệp và Nhà nước. Một quốc gia có
GDP tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về nhu cầu, về số lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ,
tăng lên về chủng loại, chất lượng, thị hiếu ... dẫn đến tăng lên quy mơ thị trường. Điều này
đến lượt nó lại đòi hỏi các doanh nghiệp phải đáp ứng trong từng thời kỳ, nghĩa là nó tác động
đến tất cả các mặt hoạt động quản trị như hoạch định, lãnh đạo, tổ chức, kiểm sốt và ra các
quyết định khơng chỉ về chiến lược và chính sách kinh doanh, mà cả về các hoạt động cụ thể
như cần phải sản xuất hàng hóa, dịch vụ gì, cho ai, bao nhiêu và vào lúc nào.
Ở nước ta từ năm 1990 đến nay, do sự tăng lên của GDP đã tác động mạnh mẽ đến
cơ cấu tiêu dùng và mở ra nhiều cơ hội cho nhà quản trị. Nhiều doanh nghiệp đã thành
công nhờ đưa ra các hàng hóa dịch vụ phù hợp với nhu cầu, thẩm mỹ, thi hiếu đang gia
tăng của người tiêu dùng. Tuy nhiên có một số doanh nghiệp khơng nhanh nhạy thích ứng
với sự thay đổi này đã dẫn tới thua lỗ, phá sản. Nguy cơ và rủi ro cho một số doanh
nghiệp không chỉ bắt nguồn từ sự thay đổi quá nhanh và mạnh mẽ mà còn cả từ sự không
7


năng động và linh hoạt của các nhà quản trị trong việc không biết cách đáp ứng nhu cầu
đã tăng lên và thay đổi nhanh chóng về các loại sản phẩm hàng hóa dịch vụ trong thời kỳ
này.

Lạm phát
Ảnh hưởng của lạm phát đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

II.2.

nghiệp
• Ảnh hưởng của lạm phát đến doanh thu
Nền kinh tế lạm phát cao giá hầu hết các loại hàng hóa đều tăng, nhưng cùng với
đó sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra cũng tăng giá. Nếu doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh mặt hàng có mức giá tăng nhanh, sản lượng bán ra ít bị ảnh hưởng cảu lạm phát có
thể làm cho doanh thu của doanh nghiệp tăng.
Tuy nhiên, nếu mặt hàng kinh doanh có mức giá tăng chậm,sản lượng bán ra chịu
ảnh hưởng nhiều của lạm phát thì doanh thu có xu hướng giảm. Như vậy, để đánh giá
được mức độ ảnh hưởng của lạm phát ta cần phải xét đến mức tăng giá sản phẩm và mức


tăng hay giảm sản lượng bán ra.
Ảnh hưởng của lạm phát đến chi phí
Lạm phát ảnh hưởng rất lớn đến chi phí đầu vào của doanh nghiệp, lạm phát tăng
cao làm tăng hầu hết các loại chi phí: chi phí nguyên vật liệu đầu vào, chi phí sản xuất,
chi phí nhân cơng, chi phí quản lý, bán hàng, th kho bãi,...điều đó làm tổng chi phí sản
xuất kinh doanh tăng lên ảnh hưởng đến các hướng đầu tư của doanh nghiệp, buộc các
doanh nghiệp phải có những điều chỉnh nhằm tối đa hóa chi phí để có thể tồn tại và cạnh
tranh trên thị trường.
Tuy nhiên, lạm phát dẫn đến tình trạng tăng giá chung của tịan nền kinh tế. Điều
đó có nghĩa là tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế đều chịu ảnh hưởng của sự tăng
giá chung.Vì vậy, nếu doanh nghiệp có các biện phất tốt để tối thiểu hóa chi phí như tìm
được những nhà cung ứng với giá thấp hơn, phân phối tốt chi phí nhân cơng,... thì việc

tăng chi phí chung trong nền kinh tế lại có thể trở thành một lợi thế của doanh nghiệp.

• Ảnh hưởng của lạm phát đến chi phí
Lạm phát khiến cho các yếu tố đầu vào tăng cao, chi phí tăng cao ảnh hưởng đến
doanh thu và chi phí của doanh nghiệp qua đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh

8


nghiệp. Lạm phát làm cho giá trị thực của các tài sản khấu hao nhiều hơn, phải nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp cao hơn khiến lợi nhuận giản sút.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, trong thời kỳ lạm phát lợi nhuận của doanh
nghiệp vẫn có thể tăng do mức tăng giá bình quân của các yếu tố đầu vào thấp hơn mức
tăng giá của sản phẩm đầu ra trong khi sản lượng sản phẩm của doanh nghiệp bán ra
không giảm sút nhiều.
• Ảnh hưởng của lạm phát đến năng suất lao động
Lạm phát xảy ra làm tiền lương thực tế của người lao động giảm xuống. Người
lao động sẽ mất động lực làm việc nếu doanh nghiệp khơng có chế độ dãi ngộ tốt đối với
nhân viên của mình. Điều đó ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong điều kiện lạm phát thì tất cả các doanh nghiệp đều chịu ảnh
hưởng.Vì vậy, doanh nghiệp đề ra cách ứng phó với lạm phát sẽ hạn chế được rủi ro, nắm
bắt tốt những cơ hội kinh doanh và duy trì ổn định việc làm cho người lao động, sẽ giữ
được người lao động ở lại với doanh nghiệp, người lao động sẽ ổn định được tâm lý và
phục vụ tốt cho cơng ty, qua đó năng suất lao động sẽ cao hơn.
• Ảnh hưởng của lạm phát đến thị phần
Khi lạm phat cao, doanh nghiệp gặp phải khó khăn trong khâu huy động vốn đẻ
mở rộng quy mơ sản xuất. Cùng với đó, khi xảy ra lạm phát nhu cầu tiêu dùng của người
tiêu dùng cũng có xu hướng giảm làm sản lượng tiêu thụ của doanh nghiệp giảm kéo theo
doanh thu cả doanh nghiệp cũng giảm. Nhiều doanh nghiệp khơng có sức cạnh tranh trên
thị trường, uy tín và thị phần suy giảm thậm chí có những doanh nghiệp bị thua lỗ trong
hoạt động kinh doanh hoặc bị các doanh nghiệp lớn thâu tóm.
Tuy nhiên, với những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính lớn, thực hiện tốt công

tác dự báo sẽ hạn chế được những ảnh hưởng bất lợi của lạm phát đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp làm thị phần và uy tín của doanh nghiệp được nâng cao
Lạm phát cũng ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định chiến lược và sách lược kinh
doanh. Nếu lạm phát gia tăng sẽ làm tăng giá cả yếu tố đầu vào dẫn đến kết quả là tăng
giá thành và giá bán. Nhưng tăng giá thành và giá bán lại khó cạnh tranh. Mặt khác, khi
có yếu tố lạm phát tăng cao thì thu nhập thực tế của người dân lại giảm đáng kể và điều
này lại dẫn đến làm giảm sức mua và nhu cầu thực tế của người tiêu dùng. Nói cách khác,
khi có yếu tố lạm phát tăng cao thì thường khó bán được hàng hóa dẫn đến thiếu hụt tài
9


chính cho sản xuất kinh doanh, việc tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh khó thực thi
được. Vì vậy việc dự đốn chính xác yếu tố lạm phát là rất quan trọng.
II.3.
Tỷ giá hối đoái và lãi suất.
 Ảnh hưởng tới các hoạt động xuất nhập khẩu
Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự
gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là
phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ
thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước
ngồi. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ
tăng lên và ngược lại.
Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì
xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ thuộc
vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mơ hình
kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định
 Lãi xuất ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư doanh nghiệp và việc tiêu dùng của người dân

Lãi suất hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng, vì nó là giá của
quyền được sử dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử dụng

phải trả cho người cho vay; là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong
một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng
tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hỗn
chi tiêu.

10


Lợi tức là một phạm trù kinh tế gắn liền với sự vận động của tín dụng và do bản chất
của tín dụng quyết định. Lợi tức tín dụng là thu nhập mà người cho vay nhận được ở
người đi vay trả cho việc sử dụng tiền vay. Thực chất, lãi suất được biểu hiện bằng quan
hệ tỷ lệ giữa lợi tức tín dụng và tổng số tiền vay trong một thời gian nhất định.
Trên tầm vi mô, lãi suất là cơ sở để cho cá nhân cũng như doanh nghiệp đưa ra các
quyết định của mình như chi tiêu hay để dành gửi tiết kiệm, đầu tư, mua sắm trang thiết bị
phục vụ sản xuất kinh doanh hay cho vay hoặc gửi tiền vào ngân hàng.
Lãi suất tăng làm giảm vay nợ. Cá nhân giảm đi vay và tăng gửi tiết kiệm, do đó
giảm tiêu dùng và tác động tiêu cực tới tổng cầu.
Doanh nghiệp giảm vay mới và do đó giảm đầu tư mới, nên tác động tiêu cực tới
tổng cầu. Mặt khác, lãi suất tăng cịn có nghĩa là giá cả các khoản vay hiện thời của doanh
nghiệp tăng, có nghĩa là giá vốn tăng hay chi phí sản xuất tăng. Điều này làm giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp, khiến doanh nghiệp có xu hướng thu hẹp sản xuất; do đó tác
động tiêu cực tới tổng cầu. Giãn thợ còn làm giảm thu nhập của người lao động. Điều này
khiến họ giảm tiêu dùng. Tổng cầu lại chịu tác động tiêu cực. Đối với hoạt động vay cầm
cố, khi lãi suất tăng người ta sẽ giảm nhu cầu vay để xây hay mua nhà, do đó đầu tư xây
nhà giảm, ảnh hưởng tiêu cực tới tổng cầu. Nó cịn khiến cho việc trả nợ các khoản vay
cầm cố hiện thời trở nên khó khăn hơn khiến người đi vay phải giảm tiêu dùng để còn trả
nợ. Tổng cầu vì thế chịu tác động tiêu cực.
Lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất ở nước ngồi sẽ khiến cho dịng
vốn từ nước ngồi tăng cường chảy vào trong nước. Điều này làm cho tỷ giá hối đoái giữa
nội tệ với ngoại tệ giảm xuống. Xuất khẩu rịng vì thế giảm đi, khiến cho tổng cầu giảm

theo.
Do vậy lãi suất cũng quan hệ chặt chẽ đến xuất khẩu, khi lãi suất tăng, động nội tệ
được định giá cao hơn, đẩy tỉ giả hối đoái lên, sẽ hạn chế xuất khẩu và tăng nhập khẩu,
xuất khẩu ròng sẽ giảm xuống.
Ngồi ra lãi suất cịn ảnh hưởng tới đầu tư và người tiêu dùng:
Tiền chỉ là phương tiện trao đổi thuận lợi. Quan hệ cung cầu thị trường tiền tệ ấn
định lãi suất cân bằng, tức lãi suất thị trường. Đến lượt nó, lãi suất lại tác động trở lại đối
với tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, nghĩa là tác động đến nhiều yếu tố của tổng cầu.Khi mức
cung tiền tăng lên,lãi suất sẽ giảm xuống, giá trái phiếu tăng lên do giá trị hiện đại của thu
11


nhập trong tương lai có giá trị hơn, gây ra hiệu ứng của cải và làm dịch chuyển hàm tiêu
dùng lên trên, tiêu dùng sẽ tăng thêm ở mỗi mức thu nhập. Trong trường hợp này, nếu có
tín dụng tiêu dùng thì mức tiêu dùng cũng lại tăng lên bởi tăng khả năng tín dụng và khả
năng trả nợ vay tín dụng.
Đầu tư, kể cả đầu tư tư bản(vốn cố định) và vốn luân chuyển( hàng tồn kho) đều có
mối quan hệ mật thiết với lãi suất. Các dự án đầu tư phải thu được lợi nhuận bù đắp được
chi phí cơ hội của vốn bỏ ra (lãi suất) . Ở mức lãi suất thấp sẽ có nhiều dự án được đầu tư
hơn ở mức lãi suất cao. Đường đầu tư có dạng dốc nghiêng đi xuống, biểu thị lợi ích cận
biên của đầu tư giảm dần.
Khi giá cả tư liệu sản xuất cần phải mua sắm cho một dự án tăng lên hoặc lợi nhuận
dự tính thu được của dự án đó giảm xuống, sẽ làm cho đường cầu đầu tư dịch chuyển
xuống dưới.Độ nhảy cảm của lãi suất quan hệ đến độ dài thời gian hoạt động của nhà máy
(dự án đầu tư), đến loại nhà máy dùng nhiều vốn hay nhiều lao động...và được thể hiện ở
II.4.

độ dốc đường cầu đầu tư.
Tiền lương và thu nhập.
Theo quan niệm của các nhà kinh tế học hiện đại: Tiền lương là giá cả của lao động,

được xác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường lao động.
Tiền lương là một bộ phận của sản phẩm xã hội biểu hiện bằng tiền được trả cho
người lao động dựa trên số lượng và chất lượng lao động của họ dùng để bù đắp lại hao
phí lao động của mọi người dùng để bù đắp lại hao phí lao động của họ và nó là một vấn
đề thiết thực đối với cán bộ công nhân viên.Tiền lương được quy định một cách đúng đắn,
là yếu tố kích thích sản xuất mạnh mẽ, nó kích thích người lao động và làm việc, nâng cao
trình độ tay nghề, cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động.
Đảm bảo tốc độ tăng năng suất lao động lớn hơn tốc độ tăng tiền lương. Đây là
nguyên tắc tạo cơ sở cho việc giảm giá thành, tăng tích luỹ bởi vì năng suất lao động
không chỉ phụ thuộc vào các nhân tố chủ quan của người lao động (trình độ tay nghề, các
biện pháp hợp lý sử dụng thời gian) mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khách quan (sử
dụng hợp lý nguyên vật liệu, áp dụng cơng nghệ mới).
Các chính sách của doanh nghiệp: các chính sách lương, phụ cấp, giá thành…được
áp dụng triệt để phù hợp sẽ thúc đẩy lao động nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả,
trực tiếp tăng thu nhập cho bản thân.
12


Khả năng tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng mạnh tới tiền lương.Với doanh
nghiệp có khối lượng vốn lớn thì khả năng chi trả tiền lương cho người lao động sẽ thuận
tiện dễ dàng. Còn ngược lại nếu khả năng tài chính khơng vững thì tiền lương của người
lao động sẽ rất bấp bênh.
Cơ cấu tổ chức hợp lý hay bất hợp lý cũng ảnh hưởng ít nhiều đến tiền lương.Việc
quản lý được thực hiện như thế nào, sắp xếp đội ngũ lao động ra sao để giám sát và đề ra
những biện pháp kích thích sự sáng tạo trong sản xuất của người lao động để tăng hiệu
quả, năng suất lao động góp phần tăng tiền lương.
Đảm bảo tiền lương thực tế tăng lên khi tăng tiền lương nghĩa là tăng sức mua của
người lao động.Vì vậy việc tăng tiền lương phải đảm bảo tăng bằng cung cấp hàng hố,
tín dụng tiền tệ. Phải đẩy mạnh sản xuất, chú trọng cơng tác quản lý thị trường, tránh đâù
cơ tích trữ, nâng giá nhằm đảm bảo lời ích của người lao động. Mặt khác tiền lương còn

là một bộ phận cấu thành nên giá trị, giá thành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và là một bộ
phận của thu nhập kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó
đảm bảo tăng tiền lương thực tế cho người lao động là việc xử lý hài hoà hai mặt của vấn
đề cải thiện đời sống cho người lao động phải đi đôi với sử dụng tiền lương như một
phương tiện quan trọng kích thích người lao động hăng hái sản xuất có hiệu quả hơn.
III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN MÔI TRƯỜNG KINH TẾ CỦA DOANH NGHIỆP Ở
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
3.1. Thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam hiện nay.
(Báo nhân dân điện tử) Những năm qua, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV)
phát triển mạnh mẽ, chiếm hơn 97% số doanh nghiệp (DN) cả nước. Các DNNVV đóng
vai trị quan trọng trong tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy động
các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa đói, giảm nghèo ở địa phương, hỗ trợ tích
cực cho sự phát triển của DN lớn, trong đó có lĩnh vực cơng nghiệp hỗ trợ.
Tuy nhiên, năm 2011, do tình hình kinh tế khó khăn, giá nguyên liệu đầu vào liên
tục tăng, sản phẩm tiêu thụ chậm, tồn kho nhiều, số DNNVV giải thể, ngừng hoạt động,
phá sản tăng nhiều. Ðiều này đặt ra cho các bộ, ngành và địa phương cần có những giải
13


pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh
để DNNVV phát triển bền vững.
Chất chưa tương xứng với lượng
Theo Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, năm 2011, cả nước có 77.548 DN đăng ký thành lập
mới, giảm 7,2% so năm 2010. Có 53.972 DN giải thể, ngừng hoạt động, tăng 24,3% so
năm trước. Riêng hai tháng đầu năm, có: 10.119 DN đăng ký thành lập mới với tổng số
vốn 55.674 tỷ đồng; có 2.759 DN giải thể, ngừng hoạt động; 2.763 DN bị thu hồi giấy
phép hoạt động. Tính đến hết năm 2011, cả nước có 623.700 DN đăng ký hoạt động, hầu
hết trong số này là DNNVV. Theo Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
(VINASME) Cao Sĩ Kiêm, hiện cả nước có gần 500 nghìn DNNVV, chiếm hơn 97% tổng
số DN. Các DNNVV tạo ra 45 đến 50% khối lượng hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu,

đóng góp 20% cho ngân sách nhà nước, thu hút 56% số lao động trong các DN. Ðây là
một trong những yếu tố đóng góp tích cực vào an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo bởi
với tính linh hoạt, các DN này có thể đi vào tận các vùng, miền.
Theo Sở Kế hoạch và Ðầu tư tỉnh Ðồng Nai, năm 2011, trên địa bàn tỉnh có hơn 230
DNNVV phá sản, tác động tiêu cực tình hình sản xuất, chiến lược kinh doanh của gần 12
nghìn DNNVV đang hoạt động tại Ðồng Nai. Ðến ngày 15-2-2012, Ðà Nẵng có 12.703
DNNVV đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký 59.939 tỷ đồng, đóng góp gần 50%
tổng thu ngân sách xã hội cho Ðà Nẵng, giải quyết hơn 80% việc làm mới. Do tác động
của lạm phát và suy giảm kinh tế, trong năm 2011 và hai tháng đầu năm 2012, Ðà Nẵng
có 34 DN ngừng sản xuất, 330 DN giải thể và 944 DN không hoạt động, bỏ trụ sở, đóng
mã số thuế... Theo Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội DNNVV Ðà Nẵng Văn Hữu
Thiết, thực tế, số DN làm ăn ổn định và có tăng trưởng khoảng 10%, khoảng 70% gặp
khó khăn, phải tạm dừng mở rộng hoặc thu hẹp sản xuất. Còn tại Vĩnh Phúc, năm 2012,
ước tính sẽ có từ 20 đến 25% số DN trên địa bàn phải ngừng hoạt động. Theo Chủ tịch
VINASME Cao Sĩ Kiêm, năm 2012 này, các DNNVV vẫn tiếp tục gặp khó khăn hơn nữa.
Nhiều DN sẽ phải đình trệ, giải thể, phá sản. Phần lớn những DN khó khăn sẽ thu hẹp sản
xuất. Ước tính chưa đầy đủ, khoảng 30% số DNNVV có khả năng giải thể, đình trệ hoặc
phá sản. VINASME chưa có kinh phí để tổ chức điều tra cụ thể thực trạng các thành viên.
14


3.2.

Sự thay của những yếu tố môi trường kinh tế có ảnh hưởng tới hoạt
động doanh nghiệp VIỆT NAM trong những năm gần đây.

Nhìn chung, mơi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình phát triển kinh
tế của doanh nghiệp tại một quốc gia. Ở Việt Nam hiện nay đã có sự cải thiện lớn về mơi
trường kinh doanh trong năm 2010, tiến 10 bậc so với năm 2009( đứng thứ 78/183 nước)
và đứng thứ 4 trong số 10 nền kinh tế cải cách nhiều nhất về mức độ thuận lợi của mơi

trường kinh doanh. Trong đó phải kể đến tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao 6,78%,
tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 25,5% so với năm 2009.
Tính đến hết năm 2010, tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập đã đạt trên
544.000 doanh nghiệp, vượt mục tiêu đề ra của Chính phủ là 500.000 doanh nghiệp.
Trong 5 năm gần đây, sự cải thiện rõ rệt của môi trường kinh doanh tại Việt Nam
đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước cũng như
nước ngồi, kích thích sự thành lập các doanh nghiệp mới và thu hút sự đầu tư của các
doanh nghiệp quốc tế. Tuy nhiên, môi trường kinh doanh ảnh hưởng dến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp theo 2 hướng, thuận lợi và hạn chế.


Những ảnh hưởng từ môi trường kinh tế:

-

Thu nhập quốc dân:

15


-

Theo tổng cục thống kê, năm 2010, tăng trưởng GDP đạt 6,78%, trong đó
tăng trưởng GDP quý I/2010 đạt 5,84%, nhưng đến quý 2 đã tăng 6,44%, quý 3 tăng
7,18% và quý 4 ước tăng 7,34%. Đáng chú ý là mức tăng GDP quý 4/2010 đạt cao nhất
kể từ quý 2/2008. GDP quý 2/2012 đạt 4.66%, cao hơn mức tăng 4% của quý 1. Như vậy,
GDP trong 6 tháng đầu năm 2012 ước tăng 4.38% so với cùng kỳ năm 2011.
Năm 2012: (I) tổng vốn đầu tư toàn xã hội cả năm dự kiến bằng 29,5% GDP, thấp
hơn 4% so với chỉ tiêu theo Nghị quyết Quốc hội và các năm trước (số thực hiện năm
2011 bằng 34,6% GDP, 2010 bằng 41,9% GDP, 2009 bằng 42,8% GDP); (II) tín dụng

tăng trưởng âm một thời gian dài và mới tăng lại trong vài tháng gần đây ở mức thấp chỉ
2,5% so với cuối năm 2011 nhưng số dư này tăng chưa bù đắp được nợ xấu gia tăng, tổng
nợ xấu của toàn hệ thống các TCTD tăng từ 3,07% cuối năm 2011 lên 4,49% hoặc 8,82%
theo báo cáo của NHNNVN vào cuối tháng 6.2012; (III) hàng hóa tồn kho cao; (IV) số
lượng doanh nghiệp giải thể, dừng hoạt động hoặc cắt giảm lao động lớn; (V) thị trường
bất động sản, chứng khoán trầm lắng; (VI) xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi (kể cả dầu thơ) đạt 52,5 tỷ đôla Mỹ, tăng tới 34,6%; trong khi đó, khu
vực kinh tế trong nước đạt 31,3 tỷ đơla Mỹ, giảm 0,6% phản ánh khả năng cạnh tranh yếu
của sản phẩm trong nước. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành liên quan đánh giá
16


tồn diện, đầy đủ thực trạng tình hình khó khăn của doanh nghiệp hiện nay, nhất là doanh
nghiệp nhỏ và vừa; đánh giá sự tác động đến tăng trưởng, việc làm trong thời gian tới,
đồng thời có các giải pháp hỗ trợ hữu hiệu.
Nhìn chung GDP ở Việt Nam đang có mức tăng khá ổn định, các số liệu này
được nhìn nhận là khả quan và có chuyển biến tích cực hơn qua thời gian. Mức tăng
trưởng này tạo điều kiện thuận lợi, là tiền đề cho sự phát triển của các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay. Doanh nghiệp có thể mở rộng thi trường, hàng hóa tiêu thụ tốt hơn. Từ đó
có những chiến lược kinh doanh phù hợp. đồng thời sẽ tạo ra nhiều việc làm cho người
lao động, công tác quản lý, tổ chức sẽ được tăng cường, chú ý hơn.
Cũng cần phải lưu ý thêm, mức tăng trưởng GDP trong 2 quý đầu năm 2012 gần
như đạt mức thấp nhất trong hơn 10 năm trở lại đây - tăng trưởng trung bình hơn 6%/năm.
-

Lạm phát.
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng trưởng
cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh tốn có số dư). Tình hình lạm phát hiện
nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối
đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của

chính phủ: làm suy vong nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời

17


sống của người dân khi giá cả leo thang.

Năm 2007 chỉ số lạm phát là 12,75% .
Năm 2008 chỉ số lạm phát là 19,87% .
Năm 2009 chỉ số lạm phát là 6,52% .
Năm 2010 chỉ số lạm phát là 11,75% .
Năm 2011 chỉ số lạm phát là 18,13%.
Lạm phát cao cũng là trở ngại cho sự phát triển của doanh nghiệp trong q trình
sản xuất. Nó trực tiếp ảnh hưởng đến tâm lý tiêu dùng của người dân, giá cả tăng, sức
18


mua sẽ giảm, kéo theo việc sản xuất của danh nghiệp bị trì trệ. Để hoạt động sản xuất có
hiệu quả, doanh nghiệp cần nắm bắt và dự đoán được mức độ lạm phát hiện thời.
Năm 2012 : (i) Nền kinh tế đang đối mặt với tình trạng lạm phát giảm, nhập siêu
giảm nhưng cho thấy những dấu hiệu lo ngại về sự trì trệ nền kinh tế; (ii) thanh khoản
toàn hệ thống ngân hàng dư thừa nhưng doanh nghiệp vẫn cịn khó khăn trong việc tiếp
cận vay vốn; (iii) tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế đã đạt sự thống nhất cao, nhưng việc
thực hiện trên thực tế đến nay chưa mang lại kết quả rõ nét. Nhiều ý kiến nhận định, việc
lạm phát hạ nhanh hơn mức dự kiến, thể hiện qua chỉ số CPI tăng thấp tháng 3 (0,16%),
tháng 4 (0,05%) và tháng 5 (0,18%), giảm trong tháng 6 (-0,26%) và tháng 7 (-0,29%),
cùng với việc nhập siêu giảm mạnh liên tục và xuất siêu trong 9 tháng cho thấy thực trạng
đáng lo ngại về năng lực hấp thụ đầu vào và tổng cầu của nền kinh tế đang suy giảm
mạnh; hai nút thắt của nền kinh tế là nợ xấu và hàng hóa tồn kho đang làm tắc nghẽn quá
trình chu chuyển nguồn lực quốc gia. Bên cạnh đó, thu ngân sách nhà nước 9 tháng chỉ

đạt 67,3% dự tốn, là năm có tiến độ thu thấp nhất trong các năm gần đây; khả năng thu
những tháng cịn lại rất khó khăn, ảnh hưởng đến thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội.
Kiểm soát lạm phát đạt mục tiêu nhưng kinh tế vĩ mơ chưa định hình các yếu tố
bền vững. Nguy cơ lạm phát cao vẫn tiềm ẩn; cán cân thương mại có sự cải thiện đáng kể
nhưng chủ yếu do nhập khẩu giảm xuất phát từ sự khó khăn của khu vực sản xuất. Sự
phối hợp trong quản lý, điều hành giá, quản lý thị trường trong một số lĩnh vực chưa thực
sự hợp lý tại một số thời điểm đã tác động không tốt đến niềm tin và tâm lý thị trường, tác
động trực tiếp đến sản xuất và đời sống, nhất là tháng 9 chỉ số giá tiêu dùng tăng đột biến
do điều chỉnh tăng giá xăng, dầu, phí dịch vụ, y tế, giáo dục. Cơ chế quản lý thị trường
vàng, kinh doanh vàng miếng chưa mang lại hiệu quả và chưa đạt được mục tiêu đưa giá
vàng trong nước sát với giá thế giới.
-

Tín dụng, lãi suất, tỷ giá hối đoái.

19


Từ năm 2007, công nghệ thông tin trong hệ thống ngân hàng đã phát triển vượt
bậc, thanh toán thẻ và thanh tốn khơng dùng tiền mặt đã tăng mạnh. Tốc độ tăng tổng tài
sản của các NHTMCP năm 2007 đã đạt trên 30%, lợi nhuận của các NHTM đạt cao hơn
nhiều năm trước đó. Năm 2010, tăng trưởng tín dụng trong toàn ngành khoảng 29,81% so
với cuối năm 2009, trong đó tín dụng VNĐ tăng 25,3%, tín dụng ngoại tệ tăng 49,3%.
Năm 2011, lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn do NHNN công bố tương ứng là
13% và 14%, lãi suất trái phiếu chính phủ là 12,3% tương đối hợp lý. NHNN đang có
nhiều nỗ lực để đưa lãi suất thị trường xuống thấp.
Tuy nhiên đồng VNĐ đang có xu hướng mất giá, sức mua của đồng tiền giảm
trong thời gian gần đây.
-


Tình trạng cơng ăn việc làm, thu nhập.
Tính đến năm 2008, tổng số lao động đang làm việc trong các loại hình doanh
nghiệp là khoảng 8,3 triệu người, trong đó lao động thuộc các doanh nghiệp Nhà nước
chiếm 20%, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) 24,4%, doanh nghiệp ngoài Nhà nước
(chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân) 56,6%.
Thu nhập bình quân tháng của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp như
sau:

(Nguồn: Báo cáo tổng hợp đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước mã số ĐT Đl
2007. G/50 của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội).
Tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức và lao động trong các cơ quan, đơn vị
khu vực nhà nước ổn định, được tăng lên theo lộ trình điều chỉnh mức lương tối thiểu của
20


Nhà nước với mức tăng bình quân 12,3%/năm. Năm 2009 mức lương tối thiểu là 640.000
đồng, năm 2010 là 730.000 đồng, năm 2011 là 830.000 đồng, đến tháng 5-2012 là
1.050.000 đồng. Các doanh nghiệp áp dụng mức lương tối thiểu theo 4 vùng từ 1,4 đến 2
triệu đồng.Vào thời điểm cuối năm 2011, lương bình qn của cơng nhân, lao động trong
doanh nghiệp nhà nước là 3,8 triệu đồng; doanh nghiệp tư nhân là 2,7 triệu đồng; doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 3,0 triệu đồng.
Do sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập của người dân có xu hướng tăng.
Nhiều doanh nghiệp mới hoạt động giải quyết đáng kể việc làm cho người lao động, tuy
nhiên tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao. Theo báo cáo của bộ Lao động – Thương binh và Xã hội,
năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp là 4,66%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn là 6,1%,
thành thị là 2,3%.
Kinh tế tăng trưởng thấp hơn dự kiến, tạo việc làm mới cả năm ước đạt 1,52 triệu
người, không đạt chỉ tiêu Nghị quyết Quốc hội, tỷ lệ giảm nghèo cả năm ước chỉ đạt
1,76% đã tạo áp lực lên mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội. Bên cạnh đó cũng phát sinh một
số vấn đề trong thực hiện chính sách xã hội cần quan tâm xử lý. Mặc dù theo số liệu cơng

bố, số người thất nghiệp có xu hướng giảm, nhưng số đăng ký thất nghiệp lại tăng cho
thấy một bộ phận người lao động nhảy việc, lợi dụng chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
Hiệu quả của chính sách xuất khẩu lao động cho các huyện nghèo chưa cao: tỷ lệ lao động
bỏ về trong thời gian đào tạo khá cao, trung bình 30% -35% số lao động, cá biệt có địa
phương con số này lên tới 60% -70%.
Tiền lương trả cho người lao động có xu hướng tăng kéo theo giá thành thuê nhân
công cũng tăng lên. Tuy nhiên cùng với áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng
suất, giá cả hàng hóa tăng nên việc tăng lên của giá thuê lao động cũng không ảnh hưởng
nhiều đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Một hệ thống tiền lương và tiền công tốt sẽ duy trì đội ngũ hiện tại và đảm bảo đối
xử cơng bằng với tất cả mọi người, có tác dụng nâng cao năng suất và chất lượng lao
21


động, giúp doanh nghiệp thu hút và duy trì được những nhân viên giỏi. vậy các lợi ích
mang lại từ quy chế tiền lương tốt là:
* Giúp thu hút và giữ lại các nhân viên cần thiết
* Không phải trả tiền lương và tiền công quá cao
* Tạo điều kiện thuận lợi cho công tác trả lương hàng ngày
* Giúp giải thích cho nhân viên về những chênh lệch tiền lương
* Tạo một cơ sở vững chắc để ước tính quỹ lương
Như vậy, các yếu tố của môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên doanh nghiệp cần biết vận dụng
những thuận lợi từ môi trường, giảm thiểu những hạn chế, biết nắm bắt thời cơ và dự báo
trước tình hình, từ đó nâng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tóm lại: Trong số 11 yếu tố được phỏng vấn thuộc môi trường kinh doanh ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất của khu vực doanh nghiệp, có 6 yếu tố cản trở lớn nhất,
trong đó Lãi suất vay vốn quá cao là yếu tố cản trở hàng đầu (chiếm 27,2%); Lạm phát
cao và biến động thất thường là yếu tố thứ hai (19,5%); Xếp vị trí thứ ba là khả năng tiếp
cận vốn khó khăn (17,4%); Tiếp đến là các yếu tố về Chi phí vận tải cao (9,7%); Điện

cung cấp khơng ổn định (7%); Chính sách điều hành kinh tế không ổn định (7%).
Những nguyên nhân trên gây ảnh hưởng cho doanh nghiệp:
Tổng số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh ước tháng 6
năm 2012 là 4110 doanh nghiệp trong đó số lượng doanh nghiệp đã giải thể là 610 doanh
nghiệp; số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh là 3500 doanh
nghiệp.
Tính chung 6 tháng, số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động sản xuất kinh
doanh là 26324 doanh nghiệp và tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó số lượng
doanh nghiệp đã giải thể là 4105 doanh nghiệp (tăng 35,4%); số lượng doanh nghiệp
ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh là 22219 doanh nghiệp (tăng 1,3%).
22


Số lượng doanh nghiệp đăng ký mới 6 tháng đầu giảm 12,5% và số lượng doanh
nghiệp giải thể, ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh tăng 5,4% trong đó số lượng doanh
nghiệp đã giải thể tăng 35,4% đã phản ánh về thực trạng khó khăn của doanh nghiệp và
được minh họa qua kết quả điều tra mẫu 9331 doanh nghiệp về thực trạng và khó khăn do
Tổng cục Thống kê tiến hành vào thời điểm 01/4/2012:
Tính từ thời điểm 01/01/2011 đến 01/4/2012 có 8,4% số doanh nghiệp tạm ngừng
SXKD, doanh nghiệp phá sản, giải thể. Tỷ lệ này khá cao trong thời điểm hiện nay, tuy
nhiên đây cũng là tình trạng chung của hầu hết các nước trên thế giới và khu vực trong
thời kỳ kinh tế khủng hoảng. Trong tổng số doanh nghiệp được hỏi có 69,6% số doanh
nghiệp phản ánh nguyên nhân chính làm cho các doanh nghiệp phá sản, giải thể là do sản
xuất kinh doanh thua lỗ; 28,2 % phản ánh do nguyên nhân thiếu vốn; 14,7% phản ánh
nguyên nhân không tiêu thụ được sản phẩm; 11,7% doanh nghiệp khó khăn về địa điểm
suất kinh doanh và 4,6% doanh nghiệp phải đóng cửa để thành lập doanh nghiệp
mới/chuyển đổi ngành nghề sản xuất kinh doanh; 4,6% doanh nghiệp đóng cửa để sáp
nhập với doanh nghiệp khác.
Năm 2011 trong số các doanh nghiệp theo quy định phải nộp thuế giá trị gia
tăng/thuế tiêu thụ đặc biệt, có tới 8% số doanh nghiệp không nộp thuế do không có khả

năng nộp. Tỷ lệ doanh nghiệp khơng có khả năng nộp thuế cao ở các ngành khai thác, xây
dựng, vận tải, kho bãi, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ở vùng Tây Nguyên.
3.2.

Liên hệ thực tiễn với công ty vinaco.
Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển du lịch Vinaconex (Vinaconex – ITC)là Công

tythành viên của Tổng Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Xây dựng Việt Nam
(VINACONEX) hoạt động theo luật doanh nghiệp với các lĩnh vực kinh doanh là đầu tư,
kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ bất động sản, kinh doanh dịch vụ du lịch,
xây dựng, quản lý dự án. Từ khi thành lập tới nay, Vinaconex - ITC tập trung vào việc
đầu tư, phát triển Dự án Khu đô thị du lịch Cái Giá – Cát Bà (Cát Bà Amatina) tại huyện
Cát Hải – Hải Phòng và phát triển mảng kinh doanh dịch vụ bất động sản. Đặc thù ngành

23


nghề và phạm vi hoạt động dẫn đến kết quả kinh doanh của VINACONEX - ITC chịu ảnh
hưởng từ các nhân tố rủi ro như sau :
Rủi ro về kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Rủi ro tăng trưởng kinh tế là rủi ro khi tốc độ tăng trưởng kinh tế thay đổi tác động
trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung, từ đó tạo điều kiện thuận lợi hay gây
khó khăn trực tiếp hoặc gián tiếp cho hoạt động của các Công ty.
Trong giai đoạn 2002 – 2007, Việt Nam luôn đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
và bền vững, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,8% và đạt 8,44% trong năm
2007, đây là giai đoạn phát triển nhanh, mạnh của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên năm
2008, nền kinh tế Việt Nam cũng như nền kinh tế của các nước trên thế giới, chịu ảnh
hưởng, tác động của khủng hoảng suy thoái, mức tăng trưởng kinh tế đạt 6,23%; năm
2009, GDP bình quân nền kinh tế Việt Nam đạt 5,32%. Sự suy giảm của nền kinh tế

trong năm 2008 và đầu năm 2009 đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động đầu tư, kinh
doanh của các tổ chức, đơn vịsản xuất kinh doanh, tác động đến hoạt động của nhiều lĩnh
vực, ngành nghề của nền kinh tế. Hoạt động đầu tư kinh doanh bất động sản nói chung và
lĩnh vực đầu tư bất động sản du lịch nói riêng cũng chịu tác động của suy thối kinh tế
thơng qua ảnh hưởng tới nguồn cung và giá cả các loại nguyên vật liệu đầu vào tăng, chi
phí kinh doanh tăng, tiến độ thực hiện các dự án đầu tư bị ảnh hưởng.
Những tháng cuối năm 2009, nền kinh tế dần phục hồi với nhiều nguồn vốn được
đầu tư và giải ngân vào các lĩnh vực kinh doanh, trong đó có kinh doanh bất động sản. Là
một công ty hoạt động trong lĩnh vực du lịch, kinh doanh bất động sản, dự án của cơng ty
đang trong q trình đầu tư xây dựng, do đó, sự hồi phục của nền kinh tế cuối năm 2009
đã tạo điều kiện thuận lợi cho dự án của công ty về vốn đầu tư, chi phí nguyên vật liệu
xây dựng và các chi phí khác,… đảm bảo tiến độ hoàn thành của dự án.
Tuy nhiên việc đầu tư nghiên cứu, đánh giá các ảnh hưởng do sự thay đổi tốc độ
tăng trưởng kinh tế được thực hiện thường xuyên và áp dụng trong việc quản lý, kiểm
sốt cơng tác thực hiện kế hoạch giúp Cơng ty tối thiểu được những rủi ro và hậu quả từ
những ảnh hưởng tiêu cực của suy giảm kinh tế và vững vàng phát triển .
Rủi ro lạm phát
24


Rủi ro lạm phát là rủi ro khi tỷ lệ lạm phát thay đổi tác động đến chi phí đầu vào của
doanh nghiệp như chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân cơng, chi phí vốn từ đó ảnh hưởng
đến kết quả kinh doanh của VINACONEX - ITC.
Theo Cục Thống kê, so với năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 tăng
8,22%. Năm 2010 được nhận định chỉ số giá tiêu dùng nhiều khả năng sẽ tăng do
hàng loạt những mặt hàng thiết yếu tăng giá trong những tháng đầu năm như: điện, xăng,
nước,….
Để giảm thiểu rủi ro từ lạm phát, VINACONEX – ITC đã thực hiện các biện pháp
tiết kiệm chi phí, đồng thời thực hiện đấu thầu xây dựng các hạng mục cơng trình của dự
án nhằm tận dụng tối đa năng lực thi công, kinh nghiệm của các nhà thầu, đôn đốc thực

hiện dự án theo tiến độ, đảm bảo chất lượng cơng trình, nâng cao hiệu quả đầu tư của dự
án.
Tuy nhiên không phải lạm phát luôn mang lại những ảnh hưởng tiêu cực. Khi lạm
phát tăng cao mà tỷ lệ lãi suất ngân hàng không đủ đảm bảo bù được tỷ lệ lạm phát thì
tâm lý người dân sẽ rút tiền tiết kiệm và chuyển sang mua sắm mặt hàng thiết yếu tránh
tăng giá, đầu tư trong những lĩnh vực đảm bảo mức lợi nhuận lớn hơn mức lạm phát. Đây
cũng là một trong những nguyên nhân thúc đẩy một sốngành hàng phát triển và thúc đẩy
đầu tư đặc biệt là đầu tư vào bất động sản – loại hình đầu tư ổn định nếu đầu tư trong lâu
dài .
Rủi ro tỷ giá ngoại tệ
Rủi ro tỷ giá là rủi ro khi tỷ giá thay đổi sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến
giá của các nguyên nhiên vật liệu sản xuất nhập khẩu như sắt thép, máymóc, thiết bị,....
hoặc chi phí vốn nếu nguồn vốn thực hiện dự án từ các nguồn vốn vay.
3.3.
Sự can thiệp của chính phủ.
Nhằm hạn chế những ảnh hưởng của yếu tố mơi trường kinh tế, chính phủ đã sử
dụng các chính sách kinh tế vĩ mơ trong việc điều tiết nền kinh tế. Chính phủ có thể sử
dụng các chính sách như tài khóa và tiền tệ để tác động đến sản lượng, việc làm và lạm
phát nhằm giảm bớt những dao động của chu kì kinh doanh. Đặc biệt gần đây, chính phủ
Việt Nam đã có một loạt các giải pháp điều chỉnh khá mạnh cả về liều lượng và độ kiên

25


×