Tải bản đầy đủ (.doc) (201 trang)

giao thoa nghệ thuật giữa hai khuynh hướng văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực thời kì 1932 - 1945_luận án tiến sĩ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.19 KB, 201 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI


THÀNH ĐỨC BẢO THẮNG

GIAO THOA NGHỆ THUẬT GIỮA HAI KHUYNH HƯỚNG
VĂN XUÔI LÃNG MẠN VÀ VĂN XUÔI HIỆN THỰC
THỜI Kì 1932-1945

Chuyên ngành:Văn học Việt Nam
Mã số:62.22.34.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2013

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI



THÀNH ĐỨC BẢO THẮNG

GIAO THOA NGHỆ THUẬT GIỮA HAI KHUYNH HƯỚNG
VĂN XUÔI LÃNG MẠN VÀ VĂN XUÔI HIỆN THỰC
THỜI Kì 1932-1945
Chuyên ngành:Văn học Việt Nam
Mã số:62.22.34.01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
1- PGS.TS. LÊ THỊ DỤC TÚ
2- PGS.TS. LÊ QUANG HƯNG

HÀ NỘI - 2013

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận án
THÀNH ĐỨC BẢO THẮNG
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN iii
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Nhiệm vụ và giới hạn của đề tài 2
2.1. Nhiệm vụ của đề tài 2
2.2. Giới hạn của đề tài 3
3. Phương pháp nghiên cứu 3
3.1. Phương pháp lịch sử 3
3.2. Phương pháp tiếp cận hệ thống 3
3.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp 3
3.4. Phương pháp so sánh 3
4. Đóng góp của luận án 4
4.1. Về phương diện lí luận 4
4.2. Về phương diện thực tiễn 4
5. Cấu trúc của luận án 4

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 5
1.1. Những ý kiến liên quan đến vấn đề nghiên cứu ở giai đoạn trước 1975 5
1.2. Những ý kiến liên quan đến vấn đề nghiên cứu ở giai đoạn sau 1975 10
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ XÃ HỘI, VĂN HÓA CỦA SỰ GIAO THOA VĂN HỌC
17
2.1. Khái niệm giao thoa, giao thoa văn học 17
2.1.1. Khái niệm giao thoa 17
2.1.2. Khái niệm giao thoa văn học 17
2.2. Kết cấu xã hội và những tư tưởng tình cảm mới 18
2.2.1. Kết cấu xã hội mới 18
2.2.2. Sự nảy nở những tư tưởng, tình cảm mới 23
2.3. Sự tiếp nhận văn hóa, văn học phương Tây 26
2.3.1. Sự bừng tỉnh ý thức cá nhân 27
2.3.2. Sự thay đổi quan điểm thẩm mĩ 30
2.3.3. Tiếp nhận tinh thần dân chủ, tư tưởng khoa học 33
2.4. Sự tác động của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh
giai cấp 37
2.5. Sự vận động nhanh chóng của nền văn học theo tiến trình hiện đại hóa
41
CHƯƠNG 3 GIAO THOA VỀ TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT 45
3.1. Giao thoa trong cảm quan hiện thực và nội dung phản ánh 45
3.1.1. Giao thoa trong cảm quan hiện thực hướng tới con người 45
3.1.2. Giao thoa trong cảm quan hiện thực nhân đạo, tiến bộ 56
3.2. Giao thoa trong quan niệm nghệ thuật về con người 71
3.2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người cá nhân 72
3.2.2. Con người gắn với hoàn cảnh, chịu sự chi phối của hoàn cảnh 79
CHƯƠNG 4 GIAO THOA VỀ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT 85
4.1. Giao thoa trong kết cấu hiện đại và tình huống nghệ thuật 85
4.1.1. Kết cấu truyện mang tính hiện đại 85
4.1.2. Giao thoa trong nghệ thuật tạo dựng tình huống 97

4.2. Giao thoa trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật 107
4.2.1. Miêu tả tâm lí nhân vật qua ngoại hiện 108
4.2.2. Miêu tả tâm lí nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại, độc thoại nội tâm 118
KẾT LUẬN 146
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO 150
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX phát triển sôi động, phong phú và
vận động ngày càng nhanh chóng theo tiến trình hiện đại hóa. Đây là thời kì đánh
dấu bước chuyển mình của văn học dân tộc từ hình thái, tính chất của văn học trung
đại sang hình thái và tính chất của văn học hiện đại. Nghiên cứu thời kì văn học này,
các nhà nghiên cứu chia ra các chặng, các bộ phận, khuynh hướng, trào lưu nhằm
mục đích khái quát, chỉ ra các đặc điểm, đặc trưng và quá trình vận động, phát triển
mang tính quy luật của nó. Văn học thời kì này được chia thành hai bộ phận dựa vào
thái độ chính trị của người cầm bút đối với chính quyền thực dân: bộ phận văn học
công khai (hợp pháp) và bộ phận văn học bí mật (bất hợp pháp). Gắn với bộ phận
văn học công khai, nổi bật là hai khuynh hướng lãng mạn và hiện thực. Sự phân chia
như trên rất cần thiết trong nghiên cứu lý luận văn học. Song, trong thực tiễn đời
sống văn học thời kỳ này, theo quan sát của chúng tôi, giữa các khuynh hướng văn
học không có ranh giới tuyệt đối và luôn có sự giao thoa, ảnh hưởng qua lại, đan xen
lẫn nhau ở nhiều cấp độ, từ cái nhìn hiện thực tới phương thức phản ánh. Sự giao
thoa này đã ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng nội dung và hình thức thể hiện của các
khuynh hướng văn học.
1.2. Nhìn nhận, phân tích, đánh giá sự giao thoa này là cần thiết, đặc biệt ở
lĩnh vực văn xuôi. Một mặt, chúng ta có thể thấy rõ hơn thực tế sinh động của văn
xuôi nói riêng cũng như văn học nói chung. Tác phẩm văn học không chỉ bó hẹp
trong các khuynh hướng, trào lưu mà luôn vận động trong sự gặp gỡ, tác động qua lại
lẫn nhau, có sự kế thừa, phát triển trong nội dung tư tưởng và hình thức thể hiện. Mặt
khác, tránh được cái nhìn cơ giới hóa vẫn còn tồn tại rải rác trong một số giáo trình

bằng việc cắt nghĩa, lý giải sự phong phú, đa dạng, phức tạp, từ đó đưa ra các đánh
giá, nhận định một cách khách quan, khoa học về tác giả cũng như tác phẩm văn học.
1.3. Đây là thời kì văn học phát triển triển rực rỡ với những thành tựu phong
phú, những vấn đề mang ý nghĩa sâu sắc đối với đời sống xã hội, đánh dấu bước tiến
quan trọng trong tiến trình vận động, phát triển của lịch sử văn học. Tìm hiểu sự giao
thoa về tư tưởng và nghệ thuật giữa hai khuynh hướng này cũng chính là tìm hiểu sự
gặp gỡ, kế thừa giữa các tác giả của hai khuynh hướng, giữa truyền thống và hiện
đại, giữa Đông và Tây, thấy rõ hơn được những giá trị bất biến, những giá trị mới
trong quá trình vận động hòa nhập với văn học hiện đại thế giới.
1.4. Trong thực tế, quá trình nghiên cứu và giảng dạy văn học thời kỳ này
trước 1986, các nhà nghiên cứu với nhiều lý do thường chỉ tập trung chú ý tới
khuynh hướng văn học hiện thực. Sau 1986, vị trí, giá trị của văn học lãng mạn (đặc
biệt là văn xuôi khuynh hướng lãng mạn) được chú ý nghiên cứu trên tinh thần khách
quan, khoa học và các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những đóng góp nổi bật của khuynh
hướng này trong tiến trình vận động, phát triển của văn xuôi nói riêng, văn học dân
tộc nói chung. Đồng thời, thấy rõ hơn tính phức tạp nhiều mặt, sự ảnh hưởng qua lại
của khuynh hướng lãng mạn với khuynh hướng hiện thực về tư tưởng và nghệ thuật.
Song chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu giao thoa giữa hai khuynh
hướng một cách hệ thống mà chỉ là những ý kiến, nhận định riêng trong các bài viết,
các giáo trình.
1.5. Xuất phát từ thực tế giảng dạy trong nhà trường, văn xuôi thời kỳ 1932 -
1945 chiếm một dung lượng lớn, là một trong những nội dung cơ bản tạo nên giá trị
đặc sắc, góp phần hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam. Tiếp đó là sự xuất hiện của nhiều
tác giả lớn với những kiệt tác và hình tượng nghệ thuật bất hủ, độc đáo. Do đó, tìm
hiểu sự giao thoa về tư tưởng và nghệ thuật gữa hai khuynh hướng văn xuôi trên là
rất cần thiết, có giá trị thực tiễn cao đối với quá trình giảng dạy. Tìm hiểu, nghiên
cứu theo hướng này giúp cho người giáo viên hiểu thấu đáo hơn về diện mạo, tính
chất của giai đoạn văn học. Từ đó, hiểu sâu sắc hơn về tác giả, tác phẩm tiêu biểu của
họ.
Với những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn đặt vấn đề nghiên cứu đề tài: Giao

thoa nghệ thuật giữa hai khuynh hướng văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực
thời kì 1932 - 1945.
2. Nhiệm vụ và giới hạn của đề tài
1. Nhiệm vụ của đề tài
Luận án hướng tới tìm hiểu và phân tích những yếu tố giao thoa, những biểu
hiện gần gũi, tương đồng giữa khuynh hướng lãng mạn và khuynh hướng hiện thực
trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 ở các cấp độ:
− Giao thoa về tư tưởng nghệ thuật.
− Giao thoa về hình thức nghệ thuật.
2. Giới hạn của đề tài
Đề tài tập trung tìm hiểu sự giao thoa giữa hai khuynh hướng lãng mạn và
hiện thực trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945, khảo sát qua một số cây bút
tiêu biểu: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Trần Tiêu, Hồ Dzếnh,
Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam
Cao, Nguyên Hồng.
3. Phương pháp nghiên cứu
3. Phương pháp lịch sử
Khuynh hướng lãng mạn và khuynh hướng hiện thực trong văn học Việt Nam
ra đời và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa cụ thể - thời kì 1932 -
1945 Vận dụng phương pháp lịch sử để nghiên cứu sự giao thoa giữa văn xuôi lãng
mạn và hiện thực sẽ giúp chúng tôi thấy được những nguyên nhân tất yếu tạo nên
hiện tượng độc đáo này. Qua đó khẳng định được những yếu tố tích cực cũng như
những đóng góp của văn xuôi thuộc hai khuynh hướng này đối với lịch sử văn học.
4. Phương pháp tiếp cận hệ thống
Chúng tôi quan niệm khuynh hướng văn học là một hệ thống hoàn chỉnh, có
mở đầu, kết thúc cũng như quá trình vận động và phát triển với những đặc trưng, đặc
điểm riêng trong một thời điểm lịch sử cụ thể. Phương pháp tiếp cận hệ thống giúp
chúng tôi tìm hiểu, phân tích yếu tố giao thoa trong văn xuôi giữa hai khuynh hướng
lãng mạn và hiện thực trên từng cấp độ cụ thể, từ giao thoa về tư tưởng nghệ thuật,
giao thoa về hình thức nghệ thuật tới các cấp độ tác phẩm, hình tượng nghệ thuật…

5. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp phân tích, tổng hợp được vận dụng trong việc phân tích nội
dung tác phẩm, hình tượng nghệ thuật, các biện pháp nghệ thuật để thấy được các
yếu tố giao thoa giữa hai khuynh hướng văn xuôi lãng mạn và hiện thực. Qua so
sánh, đối chiếu, khẳng định những yếu tố gặp gỡ, tương đồng người viết sẽ tổng hợp
và đưa ra nhận xét, đánh giá.
6. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp được vận dụng nhiều trong luận án.
Phương pháp này được chúng tôi vận dụng so sánh tư tưởng nghệ thuật cũng như các
yếu tố thuộc hình thức nghệ thuật giữa các tác giả, tác phẩm văn xuôi của hai khuynh
hướng lãng mạn và hiện thực để tìm được sự giao thoa.
4. Đóng góp của luận án
7. Về phương diện lí luận
Luận án là công trình chuyên biệt đầu tiên đi sâu tìm hiểu sự giao thoa nghệ
thuật giữa hai khuynh hướng văn học lãng mạn và hiện thực trong văn xuôi thời kì
1932 – 1945. Qua đó, góp phần khẳng định thêm về lí thuyết về sự cộng hưởng, tác
động lẫn nhau giữa các khuynh hướng, các hiện tượng văn học.
8. Về phương diện thực tiễn
− Từ việc tìm hiểu này, luận án chỉ ra những đặc trưng lịch sử của văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX, những đặc trưng này có ý nghĩa chi phối tiến trình phát
triển của một giai đoạn văn học dân tộc nhất định.
− Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho học sinh, sinh viên về văn văn
xuôi thời kỳ 1932 - 1945 nói riêng và văn học thời kì này nói chung.
5. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận án gồm có bốn chương:
− Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
− Chương 2: Những tiền đề văn hóa xã hội - cơ sở của sự giao thoa văn học
− Chương 3: Giao thoa về tư tưởng nghệ thuật
− Chương 4: Giao thoa về hình thức nghệ thuật
1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trong quá trình tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của hai khuynh
hướng văn xuôi lãng mạn và hiện thực trước cách mạng, đã có một số ý kiến của các
nhà khoa học bàn về những yếu tố gặp gỡ, tương đồng giữa các tác giả, giữa hai
khuynh hướng sáng tác trên. Mặc dù số lượng không nhiều, các ý kiến đưa ra ở góc
độ gợi mở song đều dựa trên cơ sở khoa học có được từ cái nhìn khách quan, từ sự
phân tích, lý giải về diện mạo và thực tiễn văn xuôi thời kì này. Theo dòng thời gian,
cùng với sự vận động của xã hội và văn học, các nhà nghiên cứu đã chú ý nhiều hơn
tới vấn đề này.
1. Những ý kiến liên quan đến vấn đề nghiên cứu ở giai đoạn trước 1975
− Ngay từ 1939, trong Dưới mắt tôi, nhà phê bình Trương Chính đã đề cao giá trị
hiện thực khi phân tích một số tác phẩm tiêu biểu của Nhất Linh và Khái Hưng.
Khi phân tích Đoạn tuyệt, Lạnh lùng và tập truyện ngắn Tối tăm của Nhất
Linh, nhà phê bình Trương Chính chú ý nhiều và đề cao giá trị xã hội, giá trị hiện
thực và “giá trị tâm lý” trong mỗi tác phẩm. Ông đề cao Đoạn tuyệt của Nhất Linh
khi khẳng định: Đoạn tuyệt là một kiệt tác trong văn học Việt Nam hiện đại vì
“Đoạn tuyệt không chỉ có một giá trị xã hội” mà “còn có một giá trị tâm lý không ai
chối cãi được”[74; tr 629]. Khi bàn về tác phẩm Lạnh lùng, ông cho rằng đó là “mũi
tên độc thứ hai” mà Nhất Linh bắn vào Khổng giáo vì: “Trong Lạnh lùng, nạn nhân
của chế độ cũ cũng đáng thương như Loan. Nhung một người đàn bà trẻ tuổi, góa
bụa, nhưng không đi lấy chồng, hay không thể, không dám đi lấy chồng vì Luân lý,
vì Đạo đức, vì Danh dự.
Tác giả sẽ cho ta hiểu rằng Luân lý ấy là luân lý áp bức, đạo đức ấy là đạo đức
giả dối, danh dự ấy là danh dự hão huyền…”[74; tr 630]
Giá trị tố cáo, kết án xã hội được ông khẳng định khi kết luận về nội dung của
tiểu thuyết Lạnh lùng: “Đọc Lạnh lùng, ta cũng thấy cần đạp đổ những chế độ cũ
nặng nề, eo hẹp, trong đó Nhung mà có lẽ cả ta nữa đương rẫy rụa, đương ngắc
ngoải… Đến trang cuối cùng, ta có một cảm giác rùng rợn, khủng khiếp. Cảm giác
ấy là cảm giác của Nhung khi nàng nghĩ đến tương lai của nàng, một tương lai hắc
ám, ghê sợ.”[74; tr 633].

Nhận định về các tác phẩm Nửa chừng xuân và Gia đình của Khái Hưng,
Trương Chính cũng đặc biệt chú ý tới hiện thực về chế độ đại gia đình đang hiện hữu
trong xã hội như một thứ ung nhọt, cần phải xóa bỏ. Với ông, “Nửa chừng xuân là
một cuốn truyện ghi sự phấn đấu giữa cá nhân và chế độ ấy”, chế độ đại gia đình
luôn “đặt luân thường lên trên nhân đạo, đặt lễ nghi lên trên tự do cá nhân.” - một
chế độ vô nghĩa vì “vô nhân đạo”[74; tr 641,642]. Lời kết án chế độ đại gia đình của
Trương Chính mạnh mẽ hơn khi phân tích tác phẩm Gia đình của Khái Hưng. Từ
việc chỉ ra rằng: chế độ đại gia đình không chỉ làm “lung lay” hạnh phúc của những
cặp vợ chồng trẻ và khỏe mạnh mà còn biến họ thành nạn nhân và đẩy họ vào cuộc
sống dục vọng thấp hèn với những thói đố kị, hiềm khích và ghen tị hay lối sống phó
mặc, chán chường, liều lĩnh… Trương Chính khẳng định giá trị tố cáo mạnh mẽ của
tác phẩm: “Gia đình là nhát búa cuối cùng vào bức tượng khổng lồ nhưng đã mục nát
của thế hệ trước: chế độ đại gia đình.”[74; tr 655]
Những ý kiến, nhận định của nhà phê bình Trương Chính trong Dưới mắt tôi
không trực tiếp đề cập tới những yếu tố giao thoa trong văn xuôi giữa hai khuynh
hướng lãng mạn và hiện thực, song đặc biệt chú ý tới giá trị hiện thực trong sáng tác
của các cây bút lãng mạn tiêu biểu - Nhất Linh và Khái Hưng: phê phán, tố cáo mạnh
mẽ chế độ đại gia đình mục ruỗng, thối nát đang tồn tại trong xã hội. Trương Chính
đã ghi nhận công lao của Nhất Linh khi phơi bày sự áp bức, giả dối, hão huyền đang
núp sau những luân lí, danh dự, đạo đức của lễ giáo phong kiến lạc hậu, lỗi thời.
− Trong Nhà văn hiện đại, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan dựa vào tiêu chí riêng của
mình đã xếp Nhất Linh vào mục Tiểu thuyết luận đề, Khái Hưng vào mục Tiểu
thuyết phong tục và Thạch Lam trong hệ thống các cây bút Tiểu thuyết xã hội.
Ông xếp cuốn Nửa chừng xuân vào các “tiểu thuyết lí tưởng” và còn có “khuynh
hướng về phong tục” khi cho rằng: “Vai bà Án cho người ta được thấy quyền
hành của một người mẹ trong một gia đình Việt Nam quý phái và cả những cái
hay cái dở của quyền hành ghê gớm ấy; vai Hàn Thanh cho người ta biết sơ qua
những thủ đoạn tàn ác của bọn cường hào ở các nơi thôn quê Việt Nam ”[110; tập
2; tr 220]. Theo Vũ Ngọc Phan: “người ta thấy ông (Khái Hưng) mới đầu chú
trọng vào lý tưởng, rồi dần dần ông lưu tâm đến thực tế và viết rặt những tiểu

thuyết tả thực về phong tục, lấy sự chân xác làm điều cốt yếu…”[110; tập 2; tr
244]. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã chú ý tới một mảng hiện thực xã hội đang
tồn tại - những phong tục lỗi thời đã tạo nên giá trị trong nội dung các tiểu thuyết
phong tục của Khái Hưng. Về tác giả Nhất Linh, Vũ Ngọc Phan xếp vào mục
Tiểu thuyết luận đề và cũng đề chú ý tới yếu tố phong tục trong nội dung phản
ánh trên tinh thần cải cách rõ rệt: “Ông là một tiểu thuyết gia muốn trừ bỏ những
cái xấu xa trong gia đình và trong xã hội, mà bất kỳ ở giai cấp nào chứ không
phải chỉ ở hạng thợ thuyền và dân quê; ông là một nhà văn viết về những tục xấu
của người Việt Nam và có cái tư tưởng khuyến khích người ta sửa đổi.”[110; tập
2; tr 300].
Khi bàn về truyện ngắn Thạch Lam, Vũ Ngọc Phan đặc biệt đề cao biệt tài
miêu tả cảm giác vừa tỉ mỉ vừa tinh tế của ông. Bên cạnh đó, nhà phê bình cũng phát
hiện trong Gió đầu mùa, bên cạnh những cảm giác thiết tha, nhẹ nhàng, có duyên
còn là các cảm giác “chua chát và cảm động như Một cơn giận”, “thê thảm và nhạo
đời như Đói”, “bi thương và chán ngán như Người lính cũ, lầm than và thảm thương
như Hai lần chết”[110; tập 2; tr 573]. Nhận định về Tối ba mươi - một trong những
truyện “vào hạng những đoản thiên tiểu thuyết đáng kể là hay nhất trong văn chương
Việt Nam”, Vũ Ngọc Phan đặc biệt tán dương tài năng của Thạch Lam: “Tả cái phút
cay đắng của bọn gái giang hồ đến như thế thì khéo tuyệt. Cái cốc, vài lời nói kín
đáo, vài cử chỉ nhẹ nhàng, đủ phô bày hết cả cái cảnh thối tha…” và cái gật đầu của
Liên “thảm hơn cả tiếng khóc, đau xót hơn cả những tiếng thở dài”[110; tập 2; tr
579]. Phải chăng, đây là nguyên nhân khiến Vũ Ngọc Phan xếp Thạch Lam vào mục
Tiểu thuyết xã hội.
Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan khi nghiên cứu về các cây bút tiêu biểu của Tự
lực văn đoàn cũng đã gặp gỡ với nhà phê bình Trương Chính khi chú ý tới một mảng
hiện thực trong tiểu thuyết của họ. Đó là hiện thực cuộc sống nghèo nàn, tù túng với
những số phận bất hạnh, những hủ tục đang tồn tại trong xã hội như một căn bệnh
cần phải xóa bỏ. Trong cái nhìn của hai nhà phê bình có tiếng đương thời, hiện thực
xã hội cũng là nội dung quan trọng trong tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng và
Thạch Lam. Dù chưa phải là hiện thực nóng bỏng với những mâu thuẫn cơ bản, song

yếu tố hiện thực về cuộc sống của con người gắn với lễ giáo, hủ tục phong kiến cũng
được đề cập và ghi nhận và tạo dấu ấn trong tác phẩm của các cây bút Tự lực văn
đoàn.
− Vào thập niên 60 của thế kỉ XX, tình hình nghiên cứu văn học thời kì 1932 - 1945
vẫn tiếp tục diễn ra trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt (đất nước bị chia cắt) và đã
thu được kết quả nhất định.
Năm 1960, ở miền Nam, nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ đã trình bày công
trình nghiên cứu công phu, đầy đặn về Tự lực văn đoàn cũng như các cây bút nổi bật
của tổ chức văn học này trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, Văn
học hiện đại 1862-1945. Trong mục Tổng luận về Tự lực văn đoàn, ông khẳng định
thành công to lớn của tổ chức văn học này ở thể loại tiểu thuyết khi nhận định: “Có
thể nói chỉ với Tự lực văn đoàn chúng ta mới bắt đầu có tiểu thuyết Việt Nam”. Và
cho rằng những nhân vật như “Mai và Lộc, Lan và Ngọc, Minh và Liên, Loan và
Dũng xuất hiện trên đường phố Hà Nội… hay trên những đồi chè Phú Thọ đã cho
người đọc 1932 cảm tưởng là những người bạn rất gần, những mảnh đời rất quen
thuộc.”[74; tr 29]. Trong cái nhìn khái quát của nhà nghiên cứu, nhân vật của tiểu
thuyết của Tự lực văn đoàn cũng có những yếu tố chân thực chứ không hoàn toàn xa
lạ, dù họ là những thanh niên thuộc tầng lớp trên trong xã hội.
Khi bàn về hai cuốn Đoạn tuyệt và Lạnh lùng của Nhất Linh, Phạm Thế Ngũ
chú ý tới thái độ mạnh mẽ, quyết liệt đến dữ dội khi phê phán lễ giáo phong kiến:
“Nhất Linh đả kích dữ dội gia đình cũ, luân lý cũ”[74; tr 177]. Và theo ông, đây cũng
là nguyên nhân “gây ra nhiều xôn xao cho dư luận” khi hai cuốn tiểu thuyết này liên
tiếp xuất hiện trên hai tờ Phong Hóa rồi Ngày Nay.
Phạm Thế Ngũ xếp các cuốn tiểu thuyết Gia đình, Thừa tự, Thoát ly của Khái
Hưng vào nhóm những tiểu thuyết về gia đình Việt Nam, “chuyên chú mô tả những
khía cạnh phong tục của gia đình cũ Việt Nam.”. Qua phân tích, ông chỉ ra đầy đủ
những bi hài trong những tiểu thuyết trên của Khái Hưng. Gia đình là bản “cáo trạng
dữ dội phanh phui tất cả bề trong nhơ nhớp” trong “cái gia đình Việt Nam mà trước
1932 phái cựu học ca tụng như một nền tảng xã hội, nơi nảy nở những đức tính tốt
đẹp của nước Nam xưa”[74; tr 342]. Đó là thói háo danh, lòng ghen tuông đố kị đã

biến ruột thịt thành cừu thù, là “cái óc gia đình” - “một người làm quan cả họ được
nhờ” đã đẩy con người tới cái ác, sự tàn nhẫn vô liêm sỉ với lối sống kèn cựa, luồn
cúi, chơi bời trụy lạc.
Viết về Thạch Lam, Phạm Thế Ngũ gặp gỡ Vũ Ngọc Phan khi cho rằng:
Thạch Lam là nhà văn có khuynh hướng xã hội. Về nhân vật, Thạch Lam hướng ngòi
bút về “những người tầm thường trong xã hội” và không dừng ở bên ngoài “xem xét
thương hại, mơ tưởng những công trình cứu giúp to tát, như trường hợp của Nhất
Linh hay Hoàng Đạo. Ông đi ngay vào cuộc sống của họ, dùng giọng thân mật vạch
vẽ những nỗi khốn khổ eo hẹp của họ”[74; tr 467]. Về ý này, Phạm Thế Ngũ đưa ra
kết luận rất tinh tế và chính xác về nét riêng khi hướng tới phản ánh hiện thực của
Thạch Lam: “Ta thấy tác giả không có ý bi thảm hóa bức tranh xã hội mà muốn giữ
một ngòi bút chừng mực và trung thực, làm một thứ nghệ thuật “hiện thực nhân
bản””[74; tr 467].
Nhà phê bình Phạm Thế Ngũ rất chú ý tới giá trị hiện thực trong nội dung
phản ánh của các cây bút tiêu biểu cho khuynh hướng lãng mạn Tự lực văn đoàn, đặc
biệt là các tiểu thuyết hướng tới tố cáo, đả kích lễ giáo phong kiến.
− Năm 1961, ở miền Bắc, văn học lãng mạn và văn học hiện thực được nghiên cứu
có hệ thống hơn và được đưa vào giáo trình bậc đại học: Văn học Việt Nam 1930-
1945 [30]. Nhà nghiên cứu Bạch Năng Thi đã chú ý tới sự đan xen giữa những
yếu tố lãng mạn và hiện thực trong văn xuôi của Tự lực văn đoàn. Theo ông, sức
hấp dẫn của các nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn có được vì đó là
những nhân vật “tiêu biểu cho một vài tầng lớp “tồn tại thực sự” trong xã hội Việt
Nam khi ấy”[74; tr 594]. Theo quan điểm “trong văn học, cái gì lâu quên là cái
chẳng những có nghệ thuật mà còn phải có cơ sở hiện thực”, nhà nghiên cứu
Bạch Năng Thi có ý thức gạn đục khơi trong - “tước bỏ cái cốt duy tâm đi, cái vỏ
mĩ miều đi để lấy cái hiện thực nằm trong đó”, từ đó khẳng định giá trị tích cực
của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn[74; tr 371]. Phân tích tiểu thuyết Nửa chừng
xuân (Khái Hưng), ông làm rõ, bên cạnh nội dung về một mối tình lí tưởng là nội
dung hiện thực và chính xác khi cho rằng: “Những cái hiện thực mà tác phẩm
phản ánh còn mạnh hơn ý muốn của tác giả” và “Được như thế, không phải tại

tác giả đã nhìn thấu suốt nhân vật phong kiến, đã lột trần được cái bản chất phong
kiến của bà Án đâu. Chính là nhờ ý nghĩa của một số chi tiết hiện thực”[74; tr
607]. Nhận xét về nhân vật phụ Hàn Thanh, ông cũng cho rằng đây là nhân vật
“tiêu biểu cho cường hào gian ác, một tai nạn ở thôn quê trước cải cách ruộng
đất.”[74; tr 609]. Trên tinh thần ấy, ông mạnh mẽ khẳng định: “Giá trị tiểu thuyết
Gia đình chính là ở chỗ nó miêu tả những sự thật xấu xa của đại gia đình phong
kiến và của quan trường Pháp thuộc.
Nó còn nói lên được rằng trong xã hội thực dân phong kiến, người thanh niên
trí thức như An thường là nạn nhân của sự tha hóa trầm trọng”[74; tr 618].
Chú ý tới yếu tố hiện thực trong truyện ngắn Thạch Lam, Bạch Năng Thi
muốn nhấn mạnh: phản ánh hiện thực trở thành nhiệm vụ của văn học trong quan
niệm và ý thức của Thạch Lam khi nhắc tới Lời nói đầu trong tập truyện ngắn Gió
đầu mùa. Và khi so sánh với các cây bút lãng mạn khác, ông thấy rằng: “Gió đầu
mùa có yếu tố hiện thực hơn nhiều tác phẩm lãng mạn, và Thạch Lam có xu hướng
“bình dân” thành thực hơn nhiều nhà văn lãng mạn khác”.[74; tr 618]
Có thể thấy rằng, trong những công trình nghiên cứu trước 1975 về văn xuôi
lãng mạn, các nhà phê bình không chỉ nhấn mạnh tới những nội dung lãng mạn, “lí
tưởng” mà còn khẳng định được nội dung hiện thực là nội dung làm nên giá trị của
tác phẩm. Có nhà nghiên cứu đã nêu lên những nguyên nhân tạo nên giá trị hiện thực
trong tác phẩm của các cây bút lãng mạn như:
“Do nhu cầu đấu tranh chống giáo lí và tập quán phong kiến khiến tác giả phải
lấy tài liệu trong những môi trường và những con người phong kiến để phục vụ cho
cái chủ đề sáng tác…”.
Hay do “Phong trào bình dân, cái thị hiếu của độc giả có đổi thay, sự tấn công
của văn phái hiện thực chủ nghĩa và của những người tiến bộ…và đả kích chủ nghĩa
lãng mạn”.
Hoặc “Có phần nào hiện thực là hiện thực vì yêu cầu của nghệ thuật, chứ
không phải là vì xu hướng hiện thực chủ nghĩa”[74; tr 370].
Các nguyên nhân trên không phải không chính xác, song nhà phê bình mới chỉ
chú ý tới những yếu tố tác động từ bên ngoài tới văn xuôi lãng mạn mà chưa chú ý

tới những yếu tố bên trong như: thái độ bất hòa của các cây bút lãng mạn đối với
hiện thực xã hội thối nát, tinh thần dân tộc, thái độ cảm thông, tình cảm chân thành
đối với những người lao động nghèo.
2. Những ý kiến liên quan đến vấn đề nghiên cứu ở giai đoạn sau 1975
Từ 1975 đến nay, tình hình nghiên cứu về văn học thời kì 1932 - 1945 ngày
càng toàn diện, khách quan. Mỗi một vấn đề được tìm hiểu, phân tích, soi chiếu từ
nhiều góc độ và đã có được những thành tựu đáng kể. Từ các giáo trình đến các bài
viết về văn học thời kì này đã chú ý tới lịch sử, quá trình hình thành cũng như sự ảnh
hưởng tác động qua lại lẫn nhau giữa các khuynh hướng để từ đó khẳng định những
giá trị nhiều mặt của các khuynh hướng, trào lưu cũng như các tác giả, tác phẩm tiêu
biểu ở từng thể loại. Trong đó, chúng tôi đặc biệt chú ý tới những ý kiến, nhận định
liên quan tới nội dung của đề tài nghiên cứu.
Năm 1978, trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam (tập V, 1930-1945,
phần I), tác giả Nguyễn Trác đã chú ý tới sự tác động qua lại giữa dòng văn học lãng
mạn và dòng văn học hiện thực phê phán: “Ở nước ta, văn học hiện thực phê phán
phát triển song song với văn học lãng mạn và có sự tác động qua lại giữa hai dòng
văn học”[94; tr 184].
Năm 1981, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã chú ý tới những yếu tố khó
phân định rạch ròi khi xếp một số nhà văn vào các khuynh hướng sáng tác: “Trong
thực tế, có những cây bút không thuộc hẳn một “dòng” nào một cách rõ ràng và nhất
quán. Thạch Lam, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân, Trần Tiêu, và cả Xuân Diệu…tuy có
nhiều nét khác nhau, đều có thể xem như thuộc vào số những cây bút “trung gian”
như thế.”[96].
Năm 1988, nhóm tác giả Phan Cự Đệ, Hà Văn Đức, Nguyễn Hoành Khung
trong Lịch sử Văn học Việt Nam cho rằng: “Không nhất thiết, các nhà văn chỉ sử
dụng một phương pháp sáng tác. Hơn thế nữa, các khuynh hướng văn học lại không
thuần nhất và xuất hiện gần như đồng thời nên có những ảnh hưởng qua lại rất phức
tạp”.[32; tr 66].
Khi nhận định về văn học hiện thực phê phán, các tác giả đã chỉ ra sự pha
trộn, không thuần nhất trong tư tưởng: “Nhìn chung, văn học hiện thực phê phán

Việt Nam là một hiện tượng không thuần nhất. Trong quá trình phát triển, đôi khi nó
bị pha trộn bởi những khuynh hướng lãng mạn và tự nhiên chủ nghĩa”. Và “Do có sự
tác động qua lại giữa các dòng văn học nên trong văn xuôi hiện thực phê phán cũng
có những yếu tố lãng mạn cách mạng (Những mầm sống, Những giọt sữa của
Nguyên Hồng, đôi khi là những yếu tố lãng mạn tiến bộ, Lá ngọc cành vàng của
Nguyễn Công Hoan), thậm chí có lúc lại rơi rớt những quan điểm bảo thủ hoặc cải
lương phong kiến của chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực (Lấy nhau vì tình của Vũ Trọng
Phụng, Cô giáo Minh của Nguyễn Công Hoan)”.[32; tr 96, 97].
Nhận định về công thức “ba dòng” trong các sách văn học sử và các sách giáo
khoa Việt Nam trước 1989, nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung nhấn mạnh: “Văn
học lãng mạn và văn học hiện thực phê phán tuy có chỗ khác nhau về chất, có khi
chống đối nhau gay gắt, song vẫn có những cơ sở thống nhất chung, nên thường có
mối liên hệ qua lại, chịu ảnh hưởng của nhau, thâm nhập lẫn nhau tới mức khó phân
ranh giới giữa chúng.”[86; tr 9). Ông cũng đưa ra dẫn chứng: Thời kỳ đầu văn học
lãng mạn có sự phân biệt với khuynh hướng “tả chân”, song “văn học ngày càng phát
triển phức tạp, các dòng đều có sự phân hóa và chúng giao lưu, thâm nhập vào nhau,
có lúc rất khó phân biệt. Rõ nhất là trong những năm cao trào Mặt trận Dân chủ ”.
Nhiều nhà văn lãng mạn đã “hơn một lần” vượt qua ranh giới của dòng lãng mạn để
“nhập vào văn học hiện thực phê phán (Lan Khai, Thạch Lam, Trần Tiêu, Nguyễn
Tuân)”. Theo ông, điều đó không xảy ra một cách ngẫu nhiên, cá biệt bởi: “Nhân tố
hiện thực, nhân đạo vẫn có cơ sở trong chiều sâu tư tưởng nghệ thuật của nhiều nhà
văn, nhà thơ lãng mạn”[86; tr 9].
Khi nhận định, đánh giá về sự giao thoa, tương đồng giữa hai khuynh hướng,
đã có sự thống nhất của các nhà nghiên cứu Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Nguyễn
Đăng Mạnh. Từ sự khẳng định ranh giới khó phân định giữa hai khuynh hướng, họ
cho rằng: không có sự đối lập tuyệt đối và không nên đối lập một cách cực đoan giữa
hai khuynh hướng văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực. Nhà nghiên cứu Hà
Minh Đức đã chỉ ra các hiện tượng phát triển xen kẽ giữa hai phương pháp, hai cảm
hứng sáng tác hiện thực và lãng mạn trong cùng một tác giả, thậm chí cùng một tác
phẩm trong văn học Việt Nam thời kỳ 1930-1945: “Không ai gọi Vũ Trọng Phụng,

Nguyễn Công Hoan là nhà văn lãng mạn nhưng rõ ràng “Dứt tình” của Vũ Trọng
Phụng, “Tắt lửa lòng” của Nguyễn Công Hoan lại thiên về tác phẩm lãng mạn. Ở
Thạch Lam cũng khó phân biệt qua một số truyện, đâu là hiện thực, đâu là lãng mạn.
Ranh giới giữa hai phạm vi này không phải lúc nào cũng rõ rệt, và càng không nên
đối lập một cách cực đoan.”[40].
Chú ý tới sự khác nhau trong cách giải quyết mâu thuẫn đời thường qua tác
phẩm của một số tác giả trong văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực, nhà nghiên
cứu Phan Cự Đệ cho rằng: “Trong sáng tạo nghệ thuật, không có một sự đối lập tuyệt
đối giữa chủ nghĩa lãng mạn tiến bộ và chủ nghĩa hiện thực… Nửa chừng xuân,
Đoạn tuyệt, Đôi bạn… có những cảnh gia đình, những bức tranh xã hội, những chân
dung được quan sát chính xác đến từng chi tiết mà các nhà tiểu thuyết hiện thực cũng
khó lòng vượt qua được”. Khi hướng tới phê phán bọn quan lại, trọc phú ở nông thôn
và lễ giáo đại gia đình thì tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn “cũng có những nhân vật
được xây dựng bằng bút pháp hiện thực (bà Án, Hàn Thanh trong Nửa chừng xuân,
bà Ba, sư cụ trong Thừa tự, bà Tuần trong Gia đình, bà Phán trong Thoát ly)”. Không
chỉ dừng lại ở đó, ông khẳng định: Những yếu tố hiện thực có chiều hướng tăng lên
trong một số tác phẩm trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ mà tiêu biểu là Thạch Lam,
Trần Tiêu. Truyện ngắn và tiểu thuyết của họ “đánh dấu sự giao lưu giữa văn học
lãng mạn và văn học hiện thực phê phán.”[35; tr 550, 551].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Giáo trình Lịch sử văn học
Việt Nam 1930-1945 đưa ra ý kiến: “Không nên đối lập và phân cách quá tách bạch,
dứt khoát chủ nghĩa hiện thực với chủ nghĩa lãng mạn trong văn học” và đó chỉ là
“hai khuynh hướng thẩm mỹ khác nhau mà thôi”, mà có thể cả hai khuynh hướng đó
tồn tại trong một tác giả, một tác phẩm.[99; tr 180].
Trần Đình Hượu trong bài viết: Tự lực văn đoàn, nhìn từ góc độ tính liên tục
của lịch sử, qua bước ngoặt hiện đại hóa trong lịch sử văn học phương Đông cũng
đã đề cập tới những yếu tố hiện thực trong cách đặt vấn đề và ý thức nhất quán trong
sáng tác của Tự lực văn đoàn: “TLVĐ lúc đầu cũng nói đến một tình yêu ảo mộng và
cao thượng (Hồn bướm mơ tiên, Gánh hàng hoa, và cả Nửa chừng xuân nữa) nhưng
từ Nửa chừng xuân, Lạnh lùng, Đoạn tuyệt vấn đề xung đột giữa tự do yêu đương, tự

do kết hôn với lễ giáo gia đình nổi lên ngày càng gay gắt. TLVĐ có ý thức rất nhất
quán trong việc tố cáo việc ràng buộc của gia đình và họ hàng. Nếu chỉ nhìn việc chế
riễu Bang Bạnh, Lý Toét, Xã Xệ trên báo Phong Hóa, trao giải thưởng TLVĐ cho
Con trâu, Làm lẽ, Nằm vạ (?) và cách nói đến cảnh tối tăm của những người dân quê
thì thế không phải là họ chỉ nói chuyện yêu đương “chàng” và “nàng” mà đặt ra cả
những vấn đề của thực tế xã hội khá tiêu biểu. Chắc chắn họ không am hiểu việc làng
bằng Ngô Tất Tố, không am hiểu phố huyện bằng Nguyễn Công Hoan, nhưng những
vấn đề họ đặt ra không phải vô can, vô bổ, không phải xa thực tế.”[74; tr 48].
Không chỉ dừng lại ở những nhận định chung về những yếu tố giao thoa giữa
hai khuynh hướng, khi nghiên cứu về các tác giả cụ thể, các nhà nghiên cứu cũng chỉ
ra những yếu tố giao thoa về tư tưởng và nghệ thuật.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng Mạnh gặp gỡ nhau
trong những ý kiến bàn về Thạch Lam.
Nguyễn Hoành Khung cho rằng: “Cho đến nay, việc xếp Thạch Lam vào dòng
văn học lãng mạn hay hiện thực phê phán vẫn còn làm phân vân các nhà văn học sử”.
Ông cũng chỉ ra nguyên nhân của sự “phân vân” đó: Viết về xã hội nghèo khổ,
những sáng tác của Thạch Lam “vừa là hiện thực phê phán, vừa man mác ý nghĩa
nhân bản.”. Và “trong thế giới nghệ thuật của Thạch Lam còn có những bức tranh
buồn thảm về số phận khốn khổ của người lao động nghèo… Thạch Lam đặc biệt
quan tâm, cảm thông và xót thương đối với cuộc đời vất vả mòn mỏi của người phụ
nữ nghèo.”[86; tr34].
Nguyễn Đăng Mạnh xếp Thạch Lam vào những cây bút “trung gian”, đứng
giữa ranh giới của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn: “Thạch Lam là tác giả
để lại nhiều tác phẩm xuất sắc ở hai khuynh hướng lãng mạn và hiện thực. Khuynh
hướng nổi trội hơn của nhà văn này là lãng mạn, nhưng những truyện: Nhà mẹ Lê,
Một đời người, Đói, Một cơn giận lại là những tác phẩm hiện thực - một chủ nghĩa
hiện thực trữ tình”[99; tr 63].
Nhận định về tiểu thuyết của Khái Hưng, nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành
Khung khẳng định: Khi tuyên chiến mạnh mẽ với lễ giáo phong tục phong kiến chà
đạp tình yêu, hạnh phúc cá nhân, tác phẩm phản ánh mối xung đột “mới - cũ” đang

trở nên gay gắt, lan rộng trong đời sống thành thị khi đó. Ở mảng tiểu thuyết đi vào
sinh hoạt phong tục gia đình phong kiến (Gia đình, Thừa tự, Thoát ly), “ngòi bút
quan sát tinh tế, sắc sảo, vốn sống tự nhiên phong phú… được phát huy để lại những
chương sách giàu chất hiện thực, có giá trị như những thước phim tư liệu cần thiết về
lối sống của những gia đình Việt Nam hủ lậu trước kia.”. Về một số nhân vật phản
diện tiêu biểu, ông nhấn mạnh: Khái Hưng “đặc biệt thành công trong các nhân vật
phụ nữ, chẳng những ở những nhân vật “gái mới”… mà cả những nhân vật phụ nữ
phái cũ, tiêu biểu cho tâm lý, lối sống gia đình cũ, với vai trò chi phối gia đình của
họ. Những bà Án (Nửa chừng xuân), Nga (Gia đình), bà Ba (Thừa tự), bà phán Trinh
(Thoát ly) đều rất thật, rất sống. Đó là những hình tượng của chủ nghĩa hiện
thực.”[86; tr 28,29,30].
Nhận định về những sáng tác “lạc dòng” của Nguyễn Công Hoan - kiện tướng
của trào lưu hiện thực phê phán, nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung cũng chỉ ra
sự giao thoa giữa hai yếu tố lãng mạn và hiện thực: Tiểu thuyết Tắt lửa lòng của
Nguyễn Công Hoan “là một truyện tình lãng mạn lâm ly đầm nước mắt, song Tắt lửa
lòng còn có khuynh hướng phê phán xã hội rõ rệt”[86; tr 44].
Nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền với công trình Chủ nghĩa hiện thực trong
văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, đã có những kết luận xác đáng, khẳng định
những thành tựu nổi bật và đóng góp quan trọng của các nhà văn hiện thực trong quá
trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Chúng tôi đặc biệt chú ý tới các nhận định chính
xác, tinh tế về Nam Cao – cây bút xuất sắc nhất trào lưu hiện thực phê phán ở chặng
cuối (1940-1945). Ông nêu bật những cách tân về nội dung và nghệ thuật phản ánh
cuộc sống trong tiểu thuyết Sống mòn: Chú ý tới tính cách và thân phận những trí
thức nghèo trong xã hội cũ, cốt truyện nới lỏng, kết cấu độc đáo (kết hợp linh hoạt
nhiều kiểu kết cấu: kết cấu lắp ghép, kết cấu đa tuyến, kết cấu mở, trong đó kiểu kết
cấu dựa trên cơ sở quá trình phát triển tâm lí nhân vật giữ vai trò chủ đạo). Chú ý tới
yếu tố nghệ thuật nổi bật của Nam Cao, ông cho rằng: “Phân tích tâm lý là một trong
những phương diện quan trọng của phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa”. Từ
đó đưa ra kết luận quan trọng: “Nam Cao, một mặt, có thể là đã thừa kế được thành
tựu của nghệ thuật miêu tả tâm lý của Nguyễn Du qua Truyện Kiều, của các nhà văn

lãng mạn như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam… qua những tiểu thuyết và truyện
ngắn với những trang phân tích tâm lý tinh tế, hấp dẫn. Mặt khác, hiển nhiên là ông
cũng tiếp thu được những thành tựu nghệ thuật miêu tả tâm lý của các nhà văn lớn
trên thế giới.”[123; tr 480]. Ở cấp độ khác, ông khẳng định: “Theo dõi quá trình hiện
đại hóa của tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam, thì trào lưu văn học lãng mạn cũng
có những tiểu thuyết và truyện ngắn, trong đó, nghệ thuật miêu tả tâm lý đạt đến một
trình độ cao. Tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn với những Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng
xuân,… của Khái Hưng một thời làm say đắm lòng người bởi những trang phân tích,
diễn tả tinh tế và tài hoa những cảm xúc yêu đương, những cảm giác bâng khuâng,
thoáng vui, thoáng buồn trong tâm hồn nhân vật. Bướm trắng của Nhất Linh được
coi là cuốn tiểu thuyết rất hiện đại trong cách thể hiện tâm lý con người. Tác giả đã
lấy tâm lý nhân vật làm đối tượng trực tiếp của sự miêu tả, đã diễn tả và phân tích
những diễn biến phức tạp của những mảnh tâm trạng cá nhân. Thế giới nội tâm của
con người cá nhân hiện lên khá phong phú và phức tạp.”[123; tr 481]. Theo Trần
Đăng Suyền: “Với Sống mòn, Nam Cao đã hoàn thiện qua trình hiện đại hóa của tiểu
thuyết hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945. Đến đây, về phương diện nghệ thuật,
có sự gặp gỡ giữa tiểu thuyết hiện thực phê phán với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn.
Tiểu thuyết Bướm trắng của Nhất Linh, Đẹp của Khái Hưng cùng với tiểu thuyết Cai
của Vũ Bằng”[123; tr 283, 284].
Nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền cho rằng, ngòi bút Nam Cao vừa phát huy
được thế mạnh của chủ nghĩa hiện thực vừa đặc biệt nhạy cảm với vấn đề con người
- miêu tả và phân tích tinh tế, sâu sắc thế giới nội tâm của nhân vật, cái vốn là ưu thế,
là “sở trường của các cây bút lãng mạn chủ nghĩa”. Nam Cao là nhà văn đã “kết tinh
được những thành tựu và thế mạnh của cả chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực
trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX”[123; tr 482].
Sự chuyển hướng trong cảm quan hiện thực đã được nhà nghiên cứu Lê Thị
Dục Tú phát hiện khi chú ý tới truyện ngắn của Khái Hưng trong những năm 1939-
1940: “Bên cạnh tình yêu, đề tài về người bình dân cũng là một mảng đề tài chính
trong truyện ngắn Khái Hưng. Phần lớn các truyện ngắn viết về đề tài này ra đời
trong thời kì cao trào đấu tranh Mặt trận Dân chủ diễn ra sôi nổi. Quần chúng lao

động dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đứng lên đòi quyền tự do dân chủ, đòi cơm áo.
Người lao động đã bước lên vũ đài chính trị một cách công khai. Vai trò, vị trí của
người lao động trở nên quan trọng trong xã hội. Vì thế vấn đề người lao động, người
bình dân, được nhiều nhà văn chú ý. Chân dung “người lao động, người nhà quê"
xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học và báo chí thời kỳ này Chịu sự tác
động (trực tiếp hoặc gián tiếp) của phong trào, Tự lực văn đoàn phân hoá theo hướng
tiến bộ. Báo Ngày Nay của Tự lực văn đoàn mở mục Bùn lầy nước đọng đăng một số
phóng sự điều tra về nông thôn, sau đó đăng một số truyện ngắn về nông thôn và
người nông dân như Con trâu, Sau lũy tre. Các cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn
chuyển từ lãng mạn sang hiện thực. Khái Hưng viết một loạt truyện mang đậm chất
hiện thực: Cái Ve, Anh phải sống, Người vợ mù, Dưới ánh trăng, Đào mơ, Hòn Gay,
Biến đổi, Cô hàng nước đều đề cập đến số phận của những người dân nghèo”.
[135].
Gần đây, một số nhà nghiên cứu hải ngoại cũng chú ý tới sự giao thoa giữa
các khuynh hướng văn học. Đáng lưu ý là những ý kiến của Nguyễn Hưng Quốc khi
nhìn nhận sự xâm nhập của các khuynh hướng là một thực tế trong đời sống văn học.
Với cách nhìn ấy, giao thoa giữa các khuynh hướng nghệ thuật như một hiện tượng
“xâm lấn”, “tràn bờ” và giao thoa như một ý thức nghệ thuật tự giác.
Tiểu kết chương 1

×